Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

chính sách hình sự - Đào Trí Úc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.03 KB, 18 trang )

CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC SỬA ĐỔI BỘ LUẬT HÌNH SỰ

GS. TSKH. Đào Trí Úc
Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội

1. Chính sách hình sự và những đặc trưng cơ bản của chính sách hình sự
Chính sách hình sự là một bộ phận của chính sách pháp luật, bởi vì đó là
những định hướng, những chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình sự vào lĩnh
vực đấu tranh chống tội phạm và phịng ngừa tội phạm.
Với tính cách là một bộ phận của chính sách pháp luật, chính sách hình sự
được hiểu với những nội dung như sau:
a/ Xác định hành vi nào là tội phạm-tương ứng với nội dung thứ nhất của
chính sách pháp luật là xác định các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật;
b/ Xác định tính chất và mức độ (dung lượng) của việc tác động bằng các
hình thức trách nhiệm hình sự, tức là xác định các loại hình phạt, mức độ các chế
tài-tương ứng với nội dung thứ hai của chính sách pháp luật là xác định phương
thức điều chỉnh pháp luật;
c/ Xác định con đường hình thành ý thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp
luật cho công dân thông qua việc sử dụng luật hình sự.
Với tính cách là những định hướng, chủ trương sử dụng pháp luật hình sự
trong việc đấu tranh phịng chống tội phạm, chính sách hình sự có thể được hiểu ở
những cấp độ như sau:
a/ Chính sách hình sự xác định tính chất và nội dung những biện pháp trực
tiếp đấu tranh chống tội phạm và phịng ngừa tội phạm.
b/ Chính sách hình sự xác định nhiệm vụ cơ cấu tổ chức và hình thức hoạt
động của các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự.
c/ Chính sách hình sự xác định tính chất, mức độ, đặc điểm của hệ thống các
văn bản pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật về thi hành án hình

1




sự, cũng như tất của các văn bản pháp luật khác có liên quan đến việc đấu tranh
phịng và chống tội phạm, trong đó có các văn bản của các cơ quan tư pháp hình sự
như Tịa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Cơng an.
d/ Chính sách hình sự xác định các khả năng và hình thức thu hút sự tham
gia của cơng dân, của các tổ chức, đoàn thể quần chúng vào việc đấu tranh phịng,
chống tội phạm và duy trì trật tự, an tồn xã hội.
Như vậy, chính sách hình sự, một mặt, đó là chính sách nhằm thể hiện phản
ứng của Nhà nước, của xã hội đối với các hành vi tội phạm và người phạm tội, mặt
khác đó là chính sách, đường hướng cho việc tổ chức đấu tranh phịng và chống tội
phạm. Nói cách khác, chính sách hình sự là chính sách về tội phạm và về tổ chức
đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Đó trước hết là chính sách trong việc cân nhắc, đánh giá về mặt pháp luật và
các hành vi nguy hiểm xảy ra một cách khách quan trong xã hội.
C.Mác đã từng chỉ rõ: “Hình phạt khơng là gì khác ngồi phương tiện của xã
hội để tự bảo vệ mình chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó” 1, và: “Nhà
làm luật… không làm ra luật, không sáng chế ra chúng, mà chỉ hình thức hóa, ghi
nhận một cách có chủ định trong các đạo luật thực định những quy luật nội tại của
các quan hệ tinh thần”2.
Tội phạm tồn tại và có quy luật của một hiện tượng xã hội, có ngun nhân
xã hội. Vì vậy, xác nhận hành vi nào là tội phạm phụ thuộc trước hết vào đặc điểm,
tính chất của các hành vi đã xảy ra để, như cách nói của C.Mác vừa trích dẫn ở
trên, “đưa vào trong các đạo luật” những đặc điểm và tính chất đó của các loại
hành vi.
Nhưng vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để chuyển hóa được nhận thức đó thành
những cơng thức, quy phạm, chế định pháp luật cụ thể? Có ít nhất là ba vấn đề sau
đây cần được giải quyết.
1. Khi coi một hành vi có phải là tội phạm hay khơng thì những yếu tố xã hội
nào, các quá trình phát triển hoặc thay đổi nào trong xã hội cần được xem xét?


1
2

C.Mác và Ph. Angghen. T8, Sđd, tr.513
C.Mác và Ph. Angghen. T8, Sđd, tr.162

2


2. Mức độ tăng nặng hay giảm bớt các hình phạt cần phải như thế nào thì vừa
và đủ và muốn như vậy thì những yếu tố nào trong xã hội sẽ phải được tính đến?
3. Những loại hậu quả như thế nào có thể xảy ra khi những quy định mới đó
về tội phạm và hình phạt sẽ được áp dụng.
Để có được những câu trả lời thỏa đáng cần có những chủ trương, giải pháp
đúng đắn, tương ứng. Và đó chính là chính sách về vấn đề tội phạm. Khơng có những
chủ trương, chính sách đúng đắn sẽ khơng thể có được giải pháp đúng đắn. Việc xác
định đường lối đối với vấn đề tội phạm bằng cách đó được gọi là tội phạm hóa.
Xuất phát từ những yêu cầu kể trên, tội phạm hóa vừa là một quá trình lập
pháp, vừa là kết quả của quá trình đó.
Một chính sách tội phạm hóa đúng đắn cho phép xác định được những gì cịn
thiếu, những gì là thừa trong pháp luật hình sự và từ đó có được một sự điều chỉnh
(quy định về tội phạm) vừa và đủ.
Làm thế nào để biết được, thế nào là chính sách hình sự “vừa và đủ”? Liều lượng
đó phải được thể hiện trong các quy định của pháp luật hình sự. Đến lượt nó, pháp
luật hình sự phải là kết quả của sự cân nhắc cùng một lúc ba yếu tố đã nêu ở trên.
Chúng ta đều biết rằng, tội phạm, các vi phạm pháp luật đều cùng có những
tính chất nguy hại cho xã hội, nhưng khác nhau về mức độ nguy hại đó. Tính thống
nhất về mặt xã hội ấy là cơ sở cho sự áp dụng thống nhất các biện pháp trách nhiệm
pháp luật: về hành chính, về dân sự, về hình sự. Do vậy, một vấn đề được đặt ra là:

ranh giới thực tế giữa các loại vi phạm đó và tội phạm phải ở chỗ nào?
Tùy thuộc vào kết quả của sự xử lý ba loại vấn đề kể trên, sẽ có những mức
độ “nặng-nhẹ” khác nhau của pháp luật hình sự.
Khả năng thứ nhất, đó là trường hợp pháp luật hình sự quy định một diện
rộng các mức độ của hành vi bị coi là tội phạm, và do đó, mức độ xử lý (hình phạt)
cũng bao gồm nhiều gam, màu nặng nhẹ khác nhau. Trong trường hợp này tội
phạm sẽ có nhiều mức: có mức độ khi hành vi được coi là tội phạm, nhưng là tội ít
nghiêm trọng; loại hành vi này, về nhiều mặt, không khác mấy so với các vi phạm
hành chính. Đồng thời, có mức độ, khi hành vi đó là tội nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng.

3


Khả năng thứ hai, đó là khi pháp luật hình sự chỉ coi hành vi là tội phạm khi
nó ở mức là tội nghiêm trọng trở lên.
Chính sách hình sự về vấn đề tội phạm gắn liền với chính sách hình sự về
trách nhiệm hình sự và hình phạt, hay cịn gọi là “chính sách về hình phạt”. Bộ luật
Hình sự Việt Nam ở điều 3 dùng khái niệm “nguyên tắc xử lý” cũng có ý nghĩa như
vậy. Nói đúng hơn, chính sách này là hệ quả của chính sách về vấn đề tội phạm:
đánh giá như thế nào về tội phạm, có mức độ tội phạm hóa như thế nào thì sẽ có
mức độ xử lý trách nhiệm hình sự như vậy.
Quy định hình phạt cũng vừa là một q trình, vừa là kết quả của q trình
đó. Nó thể hiện việc xác lập (quy định), bãi bỏ hoặc thay đổi (tăng nặng hoặc giảm
nhẹ) các hình thức của trách nhiệm hình sự. Trong khoa học hình sự, quá trình này
được gọi là hình sự hóa.
Để thực hiện chính sách hình sự có phân biệt và phân hóa trên đây, phải xử
lý đúng đắn các mối tương quan như:
- Tương quan giữa các mức độ nặng-nhẹ của hành vi phạm tội;
- Tương quan giữa yếu tố hành vi phạm tội với yếu tố nhân thân người phạm tội;

- Tương quan giữa các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự;
- Tương quan về lứa tuổi của người phạm tội;
- Tương quan giữa các yếu tố bắt buộc áp dụng với các yếu tố tùy nghi áp
dụng (đối với các cơ quan áp dụng pháp luật);
- Tương quan giữa yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự và khả năng điều tra,
phát hiện tội phạm;
- Tương quan giữa trách nhiệm của cá nhân người phạm tội với trách nhiệm
của xã hội, của Nhà nước.
Có thể nói rằng, tồn bộ chính sách hình sự của Nhà nước ta, qua quy định
của pháp luật cũng như trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, trong chính sách
đường lối xử lý chung cũng như trong từng vụ án cụ thể, đều phải giải quyết đúng
đắn những mối tương quan đó.

4


Nếu như chính sách hình sự, trong phần về tội phạm, là điểm xuất phát, thì
chính sách hình sự trong phần về tổ chức sẽ là sự nối tiếp, là bảo đảm để thực hiện
bộ phận thứ nhất của chính sách đó. Vì vậy, bộ phận chính sách này cần phải được
nghiên cứu thỏa đáng, xác định đúng đắn những nội dung và địi hỏi của nó.
Chính sách hình sự trong tổ chức đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa
tội phạm có hai bộ phận chính. Đó là chính sách tổ chức để phịng ngừa và chính
sách tổ chức đấu tranh trực tiếp chống các tội phạm đã xảy ra, bao gồm các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Chính sách phịng
ngừa tội phạm có những nội dung cơ bản sau đây.
- Nghiên cứu toàn diện về tội phạm, bản chất, nguyên nhân và điều kiện của
tội phạm nhằm bảo đảm cơ sở khoa học của việc phòng ngừa tội phạm và chống tội
phạm;
- Nắm vững thực trạng của tình hình tội phạm, bao gồm cơ cấu, tính chất, xu

hướng, động thái của tội phạm nói chung và của từng loại tội phạm nói riêng nhằm
bảo đảm tính chính xác và tính khách quan của việc phịng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm;
- Tổ chức tốt hệ thống thống kê hình sự;
- Đánh giá thực trạng hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm và đấu
tranh chống tội phạm, nhìn thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, những cái còn
thiếu trong hệ thống các khâu tổ chức phòng ngừa;
- Có chính sách hợp tác quốc tế, mở rộng trao đổi kinh nghiệm đấu tranh
chống tội phạm với các nước;
- Có chính sách nâng cao khả năng chun mơn nghiệp vụ, sử dụng các phương
tiện kỹ thuật, khoa học và cơng nghệ trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm.
Có ba mức độ của chính sách phịng ngừa tội phạm.
Mức độ thứ nhất, triển khai các biện pháp trên bình diện vĩ mơ nhằm giải
quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm trong các lĩnh vực triển khai các giải
pháp lớn về kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng. Các yếu tố vĩ mơ đó có vai trị quyết
định trong việc hình thành nhân cách người phạm tội, động cơ của hành vi phạm
tội. Do đó, tác động đến các yếu tố này là giải quyết một cách gốc rễ và cơ bản
những yếu tố thuộc về nguyên nhân sâu xa và khách quan của tội phạm.

5


Mức độ thứ hai, đó là mức độ của các chính sách và giải pháp cho các nhóm xã
hội, tức là chủ trương, phương hướng tác động vào các tiểu mơi trường xã hội, nơi có
sự đan xen giữa lợi ích, nhu cầu chung của xã hội, của cá nhân và của tập thể.
Mức độ thứ ba, bao gồm chủ trương, chính sách cần áp dụng cho việc phịng
ngừa cụ thể, đối với từng cá nhân có liên quan. Đó là các chính sách, giải pháp
nhằm tạo điều kiện tốt cho quá trình hình thành nhân cách, loại trừ các biểu hiện có
ảnh hưởng xấu đến q trình đó. Do đó, đây phải là một hệ thống các biện pháp
nằm trong các chủ trương, kế hoạch của những cấp có thẩm quyền đối với việc tạo

việc làm, giúp đỡ vượt khó, thay đổi mơi trường, cắt đứt những quan hệ tiêu cực
trong những trường hợp cần thiết, thay đổi lối sống, giáo dục nhằm thay đổi nhận
thức, tư duy sai lầm. Rõ ràng, để làm được những việc đó, các cấp có thẩm quyền
cần có những chủ trương, giải pháp lâu dài và nhất qn. Đó khơng thể chỉ là
những giải pháp tình thế, chắp vá hay là các chiến dịch, các đợt phát động không
được triển khai tới cùng.
Đấu tranh trực diện chống tội phạm là hoạt động chuyên mơn của hệ thống
các cơ quan tư pháp hình sự bao gồm các khâu điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục,
cải tạo những người phạm tội. Tương ứng với các khâu hoạt động đó là một hệ
thống pháp luật về mặt tổ chức, về mặt thủ tục. Như vậy, chính sách hình sự ở phần
này là chính sách sử dụng các yếu tố tổ chức pháp lý và các thủ tục pháp lý nhằm
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội. Do đó, chính sách hình sự
ở phần này là những chủ trương chính sách và hệ các giải pháp về tổ chức các cơ
quan tư pháp hình sự về thủ tục tố tụng hình sự.

2. Chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự.
Hoạt động tư pháp, theo nghĩa là xét xử và phán quyết, là một loại hoạt động
và một quá trình bao gồm các khâu hợp thành các thủ tục. Các thủ tục đó là kết quả
và tiền đề của nhau nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là phán quyết theo pháp luật.
Dù với tính chất là một hệ thống kiểm tra xã hội hay là một quá trình tố tụng
thì hệ thống tư pháp nói chung và hệ thống tư pháp hình sự nói riêng cũng có
những mối liên hệ bên trong và bên ngồi của nó.

6


Các mối liên hệ bên ngồi thể hiện tính xã hội của hệ thống đó, nhưng có hai
mức độ khác nhau. Mức độ thứ nhất là mối liên hệ phụ thuộc của hệ thống tư pháp
so với các yếu tố kinh tế - xã hội hay nói cách khác, đó là tính được quy định bởi các

điều kiện xã hội của hệ thống tư pháp. Mức dộ thứ hai của mối liên hệ bên ngoài bao
gồm những mối liên hệ tương tác giữa hệ thống tư pháp với các yếu tố khác.
Hệ thống tư pháp có mối liên hệ với các quá trình, các yếu tố kinh tế-xã hội.
Sự phát triển và đổi mới trong cơ cấu và cơ chế kinh tế, q trình dân chủ hóa mọi
mặt đời sống của xã hội và phát triển các chế định chính trị, những thành tựu về
chính trị dẫn đến sự tất yếu phải đổi mới hệ thống tư pháp. Phương thức quản lý
kinh tế mới, cơ chế mới và chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đặt ra nhiệm vụ
đổi mới tổ chức và hoạt động các cơ quan bảo vệ pháp luật, của pháp luật hình sự.
Hệ thống tư pháp có quan hệ mật thiết với các cơ quan và tổ chức của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức quần chúng.
Thực tiễn đang đặt ra cho quá trình đổi mới phương thức hoạt động của
Đảng và của các cơ quan tư pháp những vấn đề như: Đảng lãnh đạo các cơ quan
bảo vệ pháp luật như thế nào? Mối quan hệ giữa các cơ quan đại diện cho quyền
lực Nhà nước, cơ quan quản lý hành chính với cơ quan tư pháp phải như thế nào?
Hệ thống tư pháp có mối liên hệ với chính đối tượng của nó là các vi phạm, tội
phạm và các tệ nạn xã hội. Đây chính là lý do vì sao vấn đề hệ thống tư pháp hình sự
lại được nghiên cứu trong khuôn khổ của vấn đề về tội phạm và Luật hình sự.
Mối liên hệ này có hai mức độ thể hiện. Một mặt, tồn bộ mơi trường xã hội
có tác động đến tình hình của tội phạm. Nói cách khác, tội phạm chịu sự tác động
chủ yếu từ các điều kiện xã hội, môi trường xã hội. Do đó, sự thay đổi trong các
điều kiện xã hội, tác động gián tiếp đến hệ thống tư pháp thông qua ảnh hưởng của
các điều kiện đó đối với tình hình phạm tội. Những sự thay đổi của tình hình tội
phạm về số lượng và tính chất, về cơ cấu và động thái địi hỏi phải có sự thay đổi
của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của hệ thống tư pháp hình sự.
3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự.
Nội hàm hoạt động tư pháp chính là q trình áp dụng và thực thi chính sách
pháp luật và các quy định của pháp luật. Nếu như pháp luật chỉ mới là việc đặt ra
các đặc trưng mẫu cho các quan hệ pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

7



thì hoạt động tư pháp, bao gồm hoạt động của cơ quan tư pháp hông qua văn bản áp
dụng pháp luật và thông qua việc thực hiện cá quy định pháp luật của các chủ thể
khác, có mục đích cụ thể hóa, hiện thực hóa pháp luật trong những hồn cảnh cụ
thể. Yêu cầu chung của hoạt động tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49
của Bộ Chính trị nói rõ: “Hồn thiện các thủ tục tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ,
dân chủ, cơng khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; tổ chức các
cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại…; xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp… theo hướng đề cao quyền hạn, trách
nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đặc điểm,
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”
v.v..
Từ những đặc điểm, nội dung và đòi hỏi đối với các hoạt động tư pháp và thủ
tục tư pháp như vừa nêu ở trên, có thể thấy rõ ở năm điểm cần được đánh giá đối
với hoạt động tư pháp trong thực tiễn.
a. Đánh giá đúng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp.
b. Đánh giá đúng các điều kiện khách quan có khả năng tác động đến quá
trình áp dụng pháp luật, thi hành pháp luật của các chủ thể hoạt động tư
pháp;
c. Đánh giá được các yếu tố chủ quan và toàn bộ cơ chế tâm lý xã hội có khả
năng tác động (tích cực và tiêu cực) đến quá trình áp dụng pháp luật, thực
thi các thẩm quyenf và trách nhiệm của các cơ quan tư pháp.
d. Nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học những hành vi tố tụng, quyết định
tố tụng cụ thể của các chủ thể hoạt động tư pháp để hiểu được những gì đã
xảy ra trên thực tế.
e. Đánh giá tính pháp lý, tính đúng đắn của các quyết định tố tụng (quyết
định, bản án, kháng nghị v.v)
Đối với việc đánh giá về đội ngũ cán bộ (tư pháp, bổ trợ tư pháp) những phẩm
chất sau đây có thể là đối tượng của đánh giá:

- Tính chuyên nghiệp (chuyên mơn, nghiệp vụ):
Tính chun nghiệp là khái niệm bao hàm trình độ chun mơn, bao gồm
chun mơn pháp lý, năng lực và tố chất bảo đảm để người có chức danh tư pháp,

8


bổ trợ tư pháp có thể thực hiện được chức trách, nhiệm vụ trong quá trình áp dụng,
thực thi pháp luật. Trong số những tố chất này, có thể kể đến những tố chất như ý
thức (và thói quen) tơn trọng pháp luật, tơn trọng quyền con người có tinh thần
khoan dung, độ lượng, trọng lẽ pháp, biết bảo vệ cái đúng v.v. Đó là những phẩm
chất khơng thể thiếu được mà có hay thiếu những phẩm chất ấy thì khó có thể có
được những quyết định phù hợp với yêu cầu của một nền tư pháp vì nhân dân,
phụng sự nhân dân.
- Ý thức trách nhiệm đối với công việc.
Ý thức trách nhiệm là biểu hiện của sự nhận thức của cán bộ tư pháp về vai trò
và ý nghĩa của những thẩm quyền, nhiệm vụ được giao, từ đó đem hiểu biết, năng
lực của mình để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó, tránh được những nóng
vội, chủ quan, không thờ ơ, vô cảm trước sự bức xúc của những người có quyền và
lợi ích đang được xem xét, giải quyết.
- Mức độ yêu nghề, đam mê công việc.
Đây là phẩm chất giúp người cán bộ tư pháp thể hiện hết mình với cơng việc liên
quan đến lợi ích của dân, chống thói làm việc bị “cơng chức hóa” của cán bộ tư pháp.
- Có tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý.
Đây là phẩm chất trung tâm của cán bộ tư pháp bởi yêu cầu của chính các hoạt
động này là đưa ra được các quyết định có tính pháp lý cao, với nội dung là sự đánh
giá pháp lý, mang tính quyền lực đối với các vấn đề của quá trình tố tụng. Khơng
thể có một quyết định pháp lý như vậy được đưa ra bởi một người không đặt pháp
luật và những giá trị công bằng của pháp luật lên trên hết và trước hết! Làm ngược
lại, đó chính là sự nghiêng ngả của cán cân công lý!

Nhu cầu đánh giá những phẩm chất vừa nêu trên (tính chuyên nghiệp, ý thức
trách nhiệm, tinh thần thượng tôn pháp luật và bảo vệ công lý) của cán bộ tư pháp
gắn liền với nhu cầu đánh giá những giải pháp đã và đang thực hiện để bảo đảm
những phẩm chất ấy. Có thể nêu những giải pháp cần được đánh giá đó, gồm:
+ Tiêu chuẩn và quy trình bổ nhiệm cán bộ (quy trình lựa chọn, bầu, bố trí, đề
bạt, khen thưởng, kỷ luật v.v).
+ Q trình đào tạo chuyen mơn, bồi dưỡng nhiệm vụ cho cán bộ.
+ Tính hợp lý của việc bố trí cơng tác, nhân sự; phân cơng, phân nhiệm.

9


+ Cơ chế phối hợp công tác
+ Những bảo đảm cần thiết khác cho việc hồn thành cơng việc, cho việc thực
hiện các yêu cầu, thể hiện các phẩm chất các hệ tư pháp.
Đối với việc đánh giá các điều kiện khách quan tác động đến hiệu quả của
hoạt động tư pháp: đó là việc xác định một cách đầy đủ những điều kiện như địa
bàn hoạt động (vùng đồng bằng, vùng cao, hải đảo, đô thị đông dân cư, khu vực đa
sắc tộc, tôn giáo v.v.). Đối tượng đánh giá còn bao gồm các điều kiện vật chất cho
các hoạt động tư pháp như trụ sở, phương tiện, mức thu nhập, v.v. Nói khác đi, đây
là việc đánh giá đúng thực trạng của môi trường cho các hoạt động tư pháp.
- Khi nói về việc đánh giá các hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng tư pháp
thì trọng tâm là đánh giá các yếu tố tâm lý nội tại của quá trình thực hiện các hành
vi liên quan đến nhiệm vụ, thẩm quyền và các quyết định tố tụng. Đó là những yếu
tố như động cơ (chẳng hạn: yếu tố thành tích, bị tác động từ phía nào đó, theo đuổi
vụ lợi cá nhân, tham nhũng làm liều, quan hệ gia đình, bạn bè v.v); tư duy, thói
quen (chẳng hạn, tư duy bảo thủ, nóng vội, thói quen theo khuynh hướng buộc tội
v.v.)
Đối với các cơ quan tư pháp, mà trọng tâm là Tòa án, vấn đề cần được ưu tiên
đánh giá khi nói về yếu tố tâm lý của q trình ra quyết định. Đó là vấn đề oan, sai

và nguyên nhân của oan, sai.
Oan, sai là kết quả của nhiều nguyên nhân, nhưng nếu xét từ các yếu tố tâm lý
nội tại dẫn đến oan, sai thì yếu tố cơ bản là sức ép tâm lý. Có mấy loại (hướng) sức
ép cần được đánh giá, mổ xẻ đầy đủ:
+ Sức ép từ phía các cơ quan, cá nhân trong bộ máy lãnh đạo, quyền lực.
+ Sức ép của dư luận xã hội (báo chí, đơn thư khiếu nại, tố cáo, thấm chí cả
các trường hợp xuống đường, bao vây trụ sở, nhà riêng, v.v.)
+ Sức ép từ phía các bên có liên quan trong vụ án, vụ việc đang điều tra, xét
xử giải quyết, trong đó khơng loại trừ các băng, nhóm và tổ chức tội phạm.
+ Sức ép của các điều kiện kinh tế - xã hội.
Nếu nhìn từ thực tiễn của hoạt động TTHS trong những năm qua có thể chỉ ra
những xu hướng và hiện tượng sau đây:
- Thứ nhất, tỷ lệ phát hiện và xử lý tội phạm tăng qua các năm

10


Mục tiêu đầu tiên của TTHS là phát hiện tội phạm và áp dụng trách nhiệm
hình sự với người phạm tội. Chính vì mục tiêu này mà TTHS ra đời và các cơ quan
tố tụng được thiết lập. Như đã đề cập ở Chương II, mọi mơ hình TTHS đều hướng
đến mục tiêu này và sự khác nhau giữa các mơ hình TTHS chỉ là cách thức đạt đến
mục tiêu. Cũng chính từ sự khác nhau về cách thức đạt đến mục tiêu mà tỷ lệ phát
hiện tội phạm giữa các mơ hình TTHS cũng rất khác nhau. Mơ hình TTHS nước ta
với đặc điểm nổi bật là huy động tối đa sự tham gia của các cơ quan tố tụng chun
nghiệp (kể cả Tịa án) vào q trình đi tìm sự thật vụ án, chứng minh tội phạm, đặc
biệt, những năm qua, thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, chất lượng công tác phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có những chuyển biến tích cực, do
vậy tỷ lệ phát hiện và xử lý tội phạm tăng qua các năm.
- Thứ hai, quyền con người, quyền công dân trong các hoạt động tố tụng
từng bước được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ

Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, quyền con người, quyền công dân là yêu cầu
quan trọng của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mơ hình TTHS Việt Nam hiện
hành với những sửa đổi, bổ sung BLTTHS vào năm 2003 đã đặt ra yêu cầu cao hơn
với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đồng thời tạo các điều kiện để
những người tham gia tố tụng bảo vệ tốt hơn quyền của mình.
Việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được tiến hành thận
trọng, khắc phục một bước quan trọng việc lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giam không
cần thiết, tỷ lệ bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự đạt tỷ lệ cao. Đồng thời, với việc
ràng buộc Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố bị can thuộc thẩm quyền phê chuẩn của mình đã góp
phần làm cho việc áp dụng các biện pháp này đúng với ý nghĩa là các biện pháp
ngăn chặn, khắc phục một bước việc sử dụng các biện pháp này thay thế cho biện
pháp điều tra như trước đây.
Việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng
được chú trọng; bảo đảm quyền có người bào chữa của những đối tượng thuộc diện
được trợ giúp pháp lý. Theo đó, đới với các vụ án bắt buộc phải có người bào chữa
quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng đã đảm bảo
100% các vụ án này đều có Luật sư chỉ định (hoặc luật sư mời) tham gia tố tụng.

11


Công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp có chuyển
biến tích cực. Việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư và kiểm sát việc giải quyết đơn
thư về cơ bản bảo đảm chặt chẽ, đúng thời hạn, thẩm quyền; hạn chế tình trạng
khiếu nại, tố cáo kéo dài, bức xúc hoặc khiếu kiện vượt cấp.
- Thứ ba, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng được đề cao hơn
Sửa đổi BLTTHS vào năm 2003 với việc phân định tương đối rành mạch thẩm

quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan khắc phục tình trạng hữu khuynh hoặc đùn
đẩy trách nhiệm; quy định tương đối rành mạch thẩm quyền của thủ trưởng các cơ
quan tiến hành tố tụng với những người trực tiếp tiến hành tố tụng; quy định rành
mạch, chặt chẽ chế độ trách nhiệm bồi thường oan, sai trong hoạt động TTHS đã
tạo cơ sở cho việc tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng.
- Thứ tư, thời hạn giải quyết vụ án được đẩy nhanh hơn
Giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm là một trong những tiêu chí
đánh giá tính hiệu quả của một nền tư pháp. Sửa đổi BLTTHS vào năm 2003 với
việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về thời hạn, bổ sung chế định thủ tục rút gọn
và sửa đổi, bổ sung một số thiết chế khác đã góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết
vụ án hình sự. Tổng kết thực tiễn cho thấy, cơ bản các vụ án bảo đảm đúng thời hạn
quy định, hạn chế tối đa số vụ án quá thời hạn; tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm
giam được khắc phục; tình trạng tồn đọng án trong các giai đoạn tố tụng về cơ bản
đã được giải quyết.
- Thứ năm, tranh tụng tại các phiên tịa được chú trọng một bước, tạo khơng
khí dân chủ trong hoạt động tố tụng tư pháp, đội ngũ luật sư có sự phát triển về số
lượng và chất lượng
Tăng cường tranh tụng được xem là tư tưởng có tính đột phá, xuyên suốt nội
dung đổi mới và hoàn thiện mơ hình TTHS Việt Nam, được xác định là một trong
những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp. Chủ trương nâng cao chất lượng
tranh tụng bắt đầu được đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, được thể chế
hóa bước đầu trong BLTTHS năm 2003 và tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

12


pháp đến năm 2020. Quá trình triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải

cách tư pháp và thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy, yêu cầu nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tịa hình sự đã từng bước được chú trọng, tạo khơng
khí dân chủ tại các phiên tịa xét xử, đồng thời có tác động lan tỏa tới các các giai
đoạn tố tụng trước đó (khởi tố, điều tra, truy tố), đặt yêu cầu đối với Viện kiểm sát
phải tăng cường hơn trách nhiệm trong hoạt động điều tra, theo sát hơn hoạt động
điều tra để có đủ chứng cứ bảo vệ sự buộc tội và tranh tụng tại phiên tòa.
Chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đã tác động quan
trọng tới sự lớn mạnh của đội ngũ luật sư nước nhà. Sau hơn 10 năm thực hiện chủ
trương cải cách tư pháp, số lượng luật sư tăng mạnh. Tổng số tổ chức hành nghề
luật sư là trên 3.000 tổ chức, trong đó có 2.200 văn phịng luật sư hơn 800 công ty
luật và 100 luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, 56 tổ chức hành nghề luật sư
nước ngoài được cấp phép thành lập tại Việt Nam với hơn 200 luật sư nước ngoài
hoạt động hành nghề tại Việt Nam3.
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng cũng như tính chuyên nghiệp
của đội ngũ luật sư cũng được tăng cường một bước; số lượng vụ việc, khách hàng
của luật sư nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày
càng được mở rộng, tỷ lệ khách hàng ở nước ngoài có xu hướng tăng mạnh. Theo
số liệu thống kê, trong 6 năm (2005-2010), đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 85.000
vụ án hình sự, 53.000 vụ việc dân sự, 3.500 vụ việc kinh tế, 1.500 vụ việc lao động,
2.800 vụ việc hành chính4.
- Thứ sáu, các thiết chế giám sát đối với các hoạt động tư pháp hình sự ngày
càng phát huy hiệu quả, góp phần vào mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh
Giám sát các hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và hoạt động
tư pháp nói riêng là hết sức cần thiết, mang tính tất yếu, khách quan, nhất là trong
điều kiện đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Thiếu
giám sát đối với hoạt động tư pháp sẽ xuất hiện sự lạm dụng quyền lực nhà nước và
nguy hiểm hơn là sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong trường hợp này sẽ gây
mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của con người (quyền sống,
quyền tự do…), ảnh hưởng đến công lý và công bằng xã hội. Sửa đổi BLTTHS vào

3

Báo cáo số 04/BC-LĐLSVN ngày 15/7/2012 về tổ chức và hoạt động của Liên doàn luật sư Việt Nam sau 3 năm
thành lập
4
Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020

13


năm 2003 đã kiện toàn một bước các cơ chế giám sát đối với hoạt động tư pháp
hình sự, hoạt động tư pháp hình sự chịu sự giám sát cả từ phía Nhà nước và từ phía
xã hội. Với sự bổ sung, kiện toàn này, tổng kết thực tiễn vận hành mơ hình TTHS
thời gian qua cho thấy, các thiết chế giám sát hoạt động rất tích cực, hiệu quả, phát
hiện nhiều vi phạm trong hoạt động tư pháp, góp phần đáng kể vào thực hiện mục
tiêu xây dựng nền tư pháp sạch.
Sự chủ động, tích cực của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên trong giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng đã góp phần bảo đảm việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
BLTTHS, hạn chế xảy ra oan, sai, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
các cấp đã giám sát đối với cơ quan tiến hành tố tụng 15.567 lượt; giám sát đối với
người tiến hành tố tụng 254 lượt; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 32.207
lượt5.
Giám sát của các cơ quan dân cử, nhất là hoạt động tích cực của cơ quan giám
sát chuyên trách thuộc Quốc hội (Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) thời gian qua đã
góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp hình sự.
Tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự, Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội đã tiến hành giám sát theo chuyên đề đối với việc thực
hiện Nghị quyết của Quốc hội về tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án cấp huyện

theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003; giám sát việc chấp hành pháp luật
trong cơng tác thi hành án hình sự; thẩm tra báo cáo công tác tư pháp hàng năm của
các cơ quan tư pháp; tiếp nhận, nghiên cứu, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực tư pháp; tổ chức 22 cuộc họp với lãnh đạo các cơ quan tư pháp để trao đổi việc
giải quyết 51 vụ án phát hiện có sai sót, vi phạm. Thơng qua cơng tác giám sát, đã
góp phần chấn chỉnh và bảo đảm tính đúng đắn, tuân thủ pháp luật trong hoạt động
của các cơ quan tư pháp, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, cơng chức trong
các cơ quan tư pháp, góp phần quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.6
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tiễn hoạt động TTHS còn
tồn tại những bất cập và hạn chế sau đây
5

Báo cáo số 324/BC-MTTW-BTT ngày 25/9/2012 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng kết
thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003.
6
Báo cáo số 4745/BC-UBTP12 ngày 15-3-2011 của Uỷ ban Tư pháp tổng kết công tác của Uỷ ban Tư pháp nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XIII (2007-2011)

14


- Thứ nhất, các trường hợp bỏ lọt tội phạm vẫn còn tồn tại đáng kể
Năm 2013 là năm đầu tiên Quốc hội ban hành Nghị quyết riêng về công tác
tư pháp7. Liên quan đến vấn đề phát hiện, kiểm sốt tội phạm, Nghị quyết chỉ rõ
thực trạng cơng tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm hiệu quả chưa
cao, hiệu lực răn đe, phòng ngừa thấp. Thực tế trên có nhiều nguyên nhân, có
nguyên nhân xuất phát từ diễn biến của tình hình tội phạm ngày một tinh vi, phức
tạp, bọn tội phạm sử dụng thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, nhất là công
nghệ thông tin vào việc phạm tội do vậy đặt thách thức với các cơ quan bảo vệ

pháp luật trong khám phá, phát hiện tội phạm; có nguyên nhân từ năng lực, trách
nhiệm, phẩm chất của đội ngũ cán bộ tư pháp; có nguyên nhân từ cơ chế TTHS
hiện hành nước ta hiện nay chưa có cơ quan nào được giao làm đầu mối quản lý
thông tin về tội phạm nên việc kiểm soát xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của các
cơ quan còn hạn chế.
- Thứ hai, tình hình vi phạm quyền con người, quyền cơng dân; oan, sai
trong hoạt động tư pháp hình sự vẫn còn tiếp diễn
Mặc dù yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong q trình
giải quyết vụ án hình sự đã được đặt ra và quan tâm bảo đảm thực hiện song trên
thực tế giải quyết vụ án hình sự vẫn tồn tại vi phạm quyền con người, quyền cơng
dân, thậm chí có những trường hợp vi phạm rất nghiêm trọng.
Thực tiễn tư pháp hình sự vẫn chứng kiến hiện tượng bức cung, dùng nhục
hình trong hoạt động điều tra. Trong nhận thức và hành động của một bộ phận điều
tra viên vẫn có xu hướng sử dụng biện pháp tạm giam thay cho biện pháp điều tra.
Tại nhiều phiên tòa, bị cáo khai đã bị bức cung, dùng nhục hình và thực tiễn những
vụ án oan thời gian qua cho thấy ở mức độ nhất định họ đều bị bức cung, dùng
nhục hình trong giai đoạn điều tra.
- Thứ ba, mâu thuẫn trong việc tổ chức thực hiện các chức năng cơ bản của
TTHS đang là nguyên nhân dẫn đến chất lượng thấp của việc thực hiện các hoạt
động TTHS
Trong việc thực hiện chức năng công tố, buộc tội, cải cách tư pháp hình sự ở
nước ta hơn 10 năm qua triển khai theo hướng xây dựng nền cơng tố mạnh, trong
đó, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra, quyết định hầu hết
7

Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về cơng tác phịng, chống vi phạm pháp luật về tội
phạm, công tác của VKSND, TAND và công tác thi hành án năm 2013

15



các nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn điều tra (thông qua thẩm quyền phê chuẩn
các lệnh, quyết định của CQĐT), chịu trách nhiệm bồi thường về những oan, sai
thuộc phạm vi phê chuẩn của mình, phải theo sát hoạt động điều tra, tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng
đắn, nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đồng thời, tạo cơ sở
để Viện kiểm sát có chứng cứ vững chắc tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, do
BLTTHS chưa xử lý phù hợp mối quan hệ giữa các chủ thể được giao thực hiện
chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát) nên nhiều trường hợp ảnh
hưởng đến mục tiêu của TTHS, bỏ lọt tội phạm hoặc Viện kiểm sát khơng có đủ
chứng cứ để tranh tụng tốt tại phiên tòa.
Trong việc thực hiện chức năng bào chữa, quy định không chặt chẽ và triệt
để của BLTTHS hiện hành đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm
quyền bào chữa, nhất là quyền nhờ người bào chữa của bên bị buộc tội. Cơ quan
tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra có xu hướng ngại sự có mặt của người
bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án. Việc cấp giấy chứng nhận người bào
chữa phần lớn không bảo đảm trong thời hạn 3 ngày. Việc người bào chữa gặp mặt
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Thời gian người
bào chữa được tiếp xúc với người bị tạm giữ chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ như quy
định tại Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ đã hạn chế
việc thực hiện quyền bào chữa. Trong nhiều trường hợp, cơ quan tố tụng không
thông báo cho người bào chữa biết về các quyết định tố tụng, thậm chí có trường
hợp quyết định tố tụng cịn đóng dấu “mật”, ảnh hưởng đến quá trình tham gia của
người bào chữa.
Trong việc thực hiện chức năng xét xử, với quy định của BLTTHS hiện hành
về vai trị q tích cực, chủ động của Tịa án trong tồn bộ giai đoạn xét xử, đồng
thời Tịa án lại được quy định có trách nhiệm chứng minh tội phạm đang làm ảnh
hưởng đến tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án. Trên thực tế, Tịa án
khơng chỉ thực hiện chức năng xét xử mà trong một chừng mực nhất định cịn đóng
vai trị của bên buộc tội, làm thay chức năng của Viện kiểm sát.

Tại phiên tịa, thay vì trách nhiệm của bên buộc tội phải hỏi để chứng minh
trước Tòa lý lẽ buộc tội của mình thì pháp luật TTHS nước ta lại chuyển trách
nhiệm chứng minh sang Hội đồng xét xử; Hội đồng xét xử hỏi đầu tiên và hỏi về
toàn bộ vụ án, sau khi kết thúc phần hỏi của Hội đồng xét xử thì mới đến Kiểm sát

16


viên và bên bào chữa hỏi đã dẫn đến một thực tế là tại nhiều phiên tòa Kiểm sát
viên hỏi rất ít vì mọi vấn đề đã được Hội đồng xét xử hỏi, làm rõ.
- Thứ tư, hoạt động tranh tụng nhìn chung vẫn cịn ở mức độ của chủ
trương, vị trí tố tụng của người bào chữa chưa được đề cao.
Hơn 10 năm thực hiện cải cách tư pháp, mặc dù có những phiên tịa theo tinh
thần cải cách tư pháp được tổ chức ở các tỉnh, thành phố nhằm tạo sự lan tỏa về
yêu cầu bảo đảm tranh tụng, song với sự không thay đổi nhiều trong BLTTHS năm
2003 về vai trò của các chủ thể trong thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS,
cũng như trình tự, thủ tục tố tụng nói chung và tại phiên tịa nói riêng do vậy “tranh
tụng” trong TTHS Việt Nam vẫn chủ yếu tồn tại trên phương diện là các chủ
trương và mong muốn của xã hội. TTHS cơ bản vẫn được tiến hành theo lối cũ, các
cơ quan tố tụng của Nhà nước (kể cả Tòa án) được huy động vào quá trình chứng
minh tội phạm. Phương pháp điều tra, thẩm vấn được sử dụng tối đa trong các giai
đoạn tố tụng (thậm chí cả tại phiên tịa). Cơng tác công tố, luận tội của kiểm sát
viên tại một số vụ án hình sự cịn một số hạn chế như chất lượng luận tội trong
nhiều vụ án còn chủ yếu nhắc lại nội dung cáo trạng, chưa căn cứ vào diễn biến tại
phiên tòa; việc đối đáp của kiểm sát viên nhiều khi còn chung chung, thiếu lập luận
chặt chẽ, chưa tập trung vào việc tranh luận, bác bỏ những luận điểm không đúng
của người bào chữa và bị cáo. Sự tham gia của người bào chữa vào quá trình giải
quyết vụ án tiếp tục gặp nhiều khó khăn; ý kiến tranh luận, tranh tụng của luật sư ở
một số phiên tòa chưa thực sự được coi trọng đang là một trong những nguyên
nhân dẫn đến số lượng bản án bị hủy, sửa hiện nay. Số lượng các vụ án đưa ra xét

xử có sự tham gia của người bào chữa rất ít, chủ yếu là luật sư chỉ định (chỉ có
21,44% vụ án có sự tham gia của người bào chữa), khoảng 78% vụ án hình sự cịn
lại khơng có sự tham gia của người bào chữa đã không tạo điều kiện cho tranh tụng
được thực hiện đầy đủ. Những vụ án bắt buộc có sự tham gia của người bào chữa
(luật sư do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định) thì việc tham gia của các luật sư kém
trách nhiệm, nhiệt tình.
Mặc dù trong thời gian qua, số lượng luật sư có sự phát triển nhưng tỷ lệ luật
sư trên số dân mới ở mức trung bình là 1 luật sư/14.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ
này ở Thái Lan là 1/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4546, Pháp là
1/1.000, Mỹ là 1/250. Số lượng luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như
thành phố Hà Nội (1.754 luật sư) và thành phố Hồ Chí Minh (3.075 luật sư), trong

17


khi đó, một số địa phương có số lượng luật sư rất ít như Kon Tum (05 luật sư), Hà
Giang, Bắc Cạn, Hà Nam (06 luật sư), Sơn La, Hậu Giang (07 luật sư). Thậm chí có
địa phương chưa có đủ 03 luật sư để thành lập Đoàn luật sư như tỉnh Lai Châu.
Những hạn chế, yếu kèm về năng lực, trình độ, phẩm chất của đội ngũ luật sư cũng
được chỉ rõ trong Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Luật Luật sư. Trên 2.000 luật sư
theo Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 không được đào tạo một cách bài bản về
kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư; nhiều luật sư trẻ
tuy được đào tạo bài bản nhưng còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề; số
lượng luật sư thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật quốc tế, đủ khả năng tham
gia đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp quốc tế cịn ít. Chất lượng
tham gia tố tụng của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà
theo tinh thần cải cách tư pháp; các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc
thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa
ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư cịn có thái độ ứng xử nghề
nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư
nói chung. Việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của
luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối
với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống. Trên thực tế, vẫn còn
một số luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thậm chí có luật sư vi phạm pháp luật
nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự (thoả hiệp với một số cán bộ
thối hố, biến chất trong các cơ quan tiến hành tố tụng để làm sai lệch vụ án hoặc
chạy án).

18



×