Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NHỮNG ĐÓNG góp của HUỲNH THÚC KHÁNG (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.83 KB, 14 trang )

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HUỲNH THÚC KHÁNG
TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
1. Tóm tắt tiểu sử Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), làng Thanh Bình nay là xã Tiên Cảnh, huyện
Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Cụ Huỳnh có tên là Thước, trước gọi là Hanh, sau đổi là
Thúc Kháng, tự Giới Sanh, hiệu Minh Viên. Cụ xuất thân trong một gia đình Nho học,
sống với nghề nơng. Được học hành khi còn nhỏ tuổi, biết làm văn từ năm 13 tuổi, năm
16 tuổi tham dự kỳ thi Hương và nổi danh là một trong 3 người hay chữ nhất kinh đô
Huế (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Phạm Liệu). Cụ sớm tiếp thu các tư tưởng
canh tân đất nước mong muốn xây dựng một đất nước tự cường. Thông qua các tác
phẩm: “Thời vụ sách”, “Thiên Hạ đại thế luận” của Nguyễn Lộ Trạch, “Lưu cầu huyết
lệ” của Phan Bội Châu (1904) “Tân thư” của Khang hy – Lương Khải Siêu từ Trung
Quốc.
Năm 29 tuổi (1904), Huỳnh Thúc Kháng thi đỗ Tiến sĩ nhưng lại không chịu ra làm
quan với triều đình Huế. Cụ hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh khởi
xướng, cùng với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp (3 nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân)
thực hiện chuyến “nam du” vào Bình Định để tìm hiểu tình hình. Lúc này phong trào
Duy Tân khơng ngừng lớn mạnh, gây tiếng vang lớn trong xã hội với chủ thuyết “Dân
quyền”, nhằm mục tiêu: “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh” của cụ Phan ngày
càng đi sâu vào lòng dân và cuộc sống xã hội nước nhà.
Năm 1908, phong trào chống thuế ở Quảng Nam nổ ra và lan rộng đến các tỉnh
miền Trung, thực dân Pháp khủng bố, đàn áp phong trào, bắt bớ giam cầm, đày ải những
nhà yêu nước ra Côn Đảo, Cụ Huỳnh bị đày ra Côn Đảo với tội danh “mưu bạn vị hành”
tức là mưu làm giặc mà chưa làm.
Đến năm 1921 (46 tuổi) cụ được ra tù, khi ra tù được ít lâu, thực dân Pháp mời Cụ
ra cộng tác nhưng Cụ Huỳnh từ chối, giữ thái độ bất hợp tác. Đến giữ năm 1926, Cụ
ứng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ và được bầu làm Viện trưởng.
Năm 1946, Cụ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tham gia “Chính phủ
liên hiệp kháng chiến” làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ rồi Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Chủ tịch Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt. Năm 1947, Cụ
đi kinh lý Quảng Nam, Quảng Ngãi. Trên đường đi công tác, Cụ lâm bệnh và qua đời


ngày 21/4/1947, hưởng thọ 71 tuổi.
1


2.1.

2. Những đóng góp của Huỳnh Thúc Kháng trong lịch sử Việt Nam
Những đóng góp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Cuộc đời sự nghiệp Cụ Huỳnh Thúc Kháng nổi lên mấy hoạt động tiêu biểu, khẳng
định tài năng, đức độ và nhân cách cao quý của Cụ Huỳnh – Một chí sỹ yêu nước, vị
lãnh đạo nhà nước mẫu mực đã cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc trong nửa đầu thế kỷ XX.
* Đóng góp của Huỳnh Thúc Kháng trong phong trào Duy Tân
Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đầy biến động.
Chủ quyền dân tộc đã rơi vào tay thực dân Pháp, chế độ phong kiến Việt Nam cùng hệ
tư tưởng Nho giáo ngày càng đi vào con đường suy tàn. Phong trào Cần Vương do vua
Hàm Nghi lãnh đạo cho đến phong trào yêu nước của các văn thân, sĩ phu dù nổi, mãnh
liệt những cũng bị đàn áp trong biển máu. Trong lúc các nhà trí thức, yêu nước Việt
Nam cịn đang bế tắc trong việc tìm kế sách đưa nước nhà thốt khỏi họa mất nước thì
Nhật Bản, Trung Quốc – hai quốc gia lân cận đã thực hiện thành công công cuộc Duy
Tân theo hướng tiếp thu văn minh phương Tây làm cho đất nước được giàu mạnh thoát
khỏi sự thống trị của bọn thực dân đế quốc. Nhiều sách báo tiến bộ (Tân thư) được bí
mật từ Trung Quốc sang, bao gồm các tác phẩm của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi
và các sách của Nhật, của Pháp được dịch ra tiếng Hán. Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng
như nhiều tri thức nho học lúc bấy giờ đang chăn trở tìm bằng được một con đường cứu
nước đưa dân tộc Việt Nam thốt khỏi kiếp nơ lệ lầm than dưới ách thống trị của thực
dân. Những tác phẩm Tân thư này đã trở thành nguồn tri thức mới lạ, mở mang tầm
nhìn khai trí, khai tâm hướng tới mục tiêu tự cường dân tộc cho Cụ Huỳnh Thúc Kháng
và cả những trí thức nho học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất hiện, trên vũ đài chính trị Việt Nam đầu thế kỷ XX

với tư cách là một trong ba nhà lãnh đạo của phong trào Duy Tân. Cùng với Phan Chu
Trinh, Trần Quý Cáp. Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã cùng với những người bạn của mình
triển khai các hoạt động Duy Tân ra khắp các tỉnh Quảng Nam và nhiều địa phương lân
cận với nhiều việc làm tích cực: “Tơi cùng các bằng hữu đề xướng chung vốn lập
thương cục tại phố (Faifoo – Hội An), cùng lập trường học, hội nông trồng quế... tùy
theo phong khí biến đổi trong nước nào ăn mặc theo Âu Tây, cúp tóc... Tơi lại cùng các
thân sĩ trong huyện lập một thư xã tại nhà túc thất của văn miếu mới (tại làng Chiêm
Đàn) mua nhiều sách báo mới, ngày rằm mỗi tháng họp diễn thuyết một lần người đến
2


nghe rất đông, lại cùng đệ tử trong làng mở nhà học, rước thày về dạy chữ Tây và chữ
quốc ngữ cho con em... Nhiều làng trong hương thơn có trường quốc ngữ... phong khí
đổi khác...”.
Từ phong trào Duy Tân, các nông hội, công hội, hội buôn, xưởng dệt, trường học
theo lối mới ra đời ngày càng nhiều. Đồng bào đua nhau cắt tóc ngắn, bỏ rượu chè, bài
trừ hủ tục, dị đoan, cổ động dùng hàng nội hóa... những hoạt động này đã tạo nên sự
chuyển biến sâu sắc trong xã hội Việt Nam đương thời. Trên đà thắng lợi ở Quảng Nam
và dọc theo các tỉnh miền Trung đã phát triển cao hơn thành một cuộc biểu tình chống
Thuế ở Trung Kỳ năm 1908, huy động tới hàng vạn người đấu tranh trực diện chống
thực dân Pháp và bè lũ phong kiến tay sai tạo thành một cao trào mãnh liệt khiến thực
dân Pháp run sợ. Chúng đã thẳng tay đàn áp, bắt giam các lãnh tụ Duy Tân đầy đi Lao
Bảo, Côn Lôn. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một trong những người đầu tiên tại Quảng
Nam bị thực dân Pháp bắt đi. Các trường học tân học bị đóng cửa, các giáo viên bị đánh
đập giam cầm.
Khi nói đến phong trào Duy Tân, người ta chỉ nghĩ đến tư tưởng dân chủ của Phan
Chu Trinh “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, nhưng ít ai biết rằng để hình
thành nên tư tưởng và triển khai vào thực tế có sự đóng góp khơng nhỏ của Huỳnh Thúc
Kháng, đặc biệt trên phương diện giáo dục.
Tuy là một nhà Nho, đỗ đạt cao nhưng Cụ đã sớm nhận ra những hạn chế của nền

giáo dục Nho học. Cụ kịch liệt phản đối phương pháp học “tầm chương, trích cú”, học
chỉ vì danh lợi của các nho sĩ đương thời. Cụ đã có một quan điểm học tập hết sức táo
bạo đó là chủ trương học thực dụng, học để phục vụ yêu cầu xã hội: “Giáo dục phải
trọng mặt lơi dụng (thực dụng). Trong nước người nào cũng phải biết đến, một cái nghề,
kỹ nghệ là nghề, khảo cứu cũng là nghề, trước thuật cũng là nghề...”. Bên cạnh đó theo
Cụ Huỳnh học phải đi đơi với hành, chú trọng thực hành hơn lý thuyết, giáo dục phải
gắn liền với nhu cầu xã hội. Mục đích của việc học là học cho có nghề nghiệp, để mở
mang trí tuệ và có kiến thức, có thực tài chứ không phải để đi thi kiếm chức, kiếm tiền.
Những tư tưởng giáo dục của Cụ Huỳnh đã góp phần quan trọng đưa đến sự ra đời của
nhiều trường tân học ở khắp cả nước, đã tạo lên một điểm son ấn tượng cho phong trào
Duy Tân.
* Đóng góp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng với nền sử học Việt Nam đầu thế kỷ
XX
3


Lịch sử còn ghi tên Cụ Huỳnh Thúc Kháng với tư cách là một nhà viết sử, không
chỉ là “sử gia của phong trào Duy Tân” như một số nhà nghiên cứu từng nói mà là sử
gia của tiến trình lịch sử Việt Nam cận đại. Cụ cịn có nhiều cống hiến đối với sử học
nửa đầu thế kỉ XX.
Là người hoạt động tích cực trong phong trào Duy Tân từ khi khởi đầu cho đến kết
thúc nên Cụ Huỳnh rất am hiểu về phong trào Duy Tân. Với ý thức của người làm sử,
Cụ Huỳnh đã ghi chép cẩn thận và đầy đủ các sự kiện lịch sử đã diễn ra. Cụ cũng tái
hiện chân dung những nhân vật cùng thời một cách sống động và chân thực với đầy đủ
những cá tính, nhân cách và tư tưởng thơ văn của họ, nhờ vậy mà chúng ta đã hiểu rõ
hơn về phong trào Duy Tân, khâm phục những tưu tưởng mới mẻ sáng tạo của các bậc
tiền bối và cũng hiểu rõ hơn các nhân vật lịch sử đã có nhiều đóng góp hy sinh cho dân
tộc. Nhờ những trang sử do Cụ Huỳnh viết mà phong trào Duy Tân đã sống mãi và lưu
truyền với thời gian.
Không chỉ là sử gia của phong trào Duy Tân, Cụ Huỳnh cịn để lại nhiều tác phẩm

lịch sử và có nội dung lịch sử giá trị phản ảnh lịch sử dân tộc từ khi bị Pháp xâm lược,
thống trị đến cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm 1939-1945
gắn liền với các sự kiện lịch sử và nhân vật tiêu biểu, thể hiện trong các tác phẩm lịch
sử hoặc có nội dung lịch sử như: Ba năm hội Cần Vương Quảng Nam, Vụ chống thuế ở
Trung Kỳ năm 1908, Khởi nghĩa Duy Tân 1916, Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử, Huỳnh
Thúc Kháng tự truyện, Bức thư bí mật của cụ Huỳnh Thúc Kháng trả lời cụ Kỳ ngoại
hầu Cường Để năm 1943 (Lịch trình cách mạng Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp)…,
Thi tù tùng thoại, Ý kiến của Huỳnh Thúc Kháng đối với thời cuộc… Cụ Huỳnh còn
viết nhiều bài về các danh nhân lịch sử như Ngô Sĩ Liên, Tô Hiến Thành, Nguyễn
Trường Tộ, Lê Cơ, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên…
Mặc dù không phải là nhà viết sử chuyên nghiệp, song Cụ Huỳnh Thúc Kháng là
người ln ý thức được vấn đề: Vì sao phải viết sử và học sử? Viết sử để làm gì? Viết sử
thì viết cái gì? Những vấn đề trên được Cụ Huỳnh góp phần làm sáng tỏ cả về lí luận và
thực tiễn. Theo Cụ, viết sử là để “lưu tấm ảnh phản chiếu về thời kì lịch sử ấy”

(1)

[1,

tr168], tức là khơi phục chính xác lại một thời kì lịch sử. Và Cụ xem đây là trách nhiệm
của Cụ đối với nước với dân. Cụ viết: “Tôi tự xét đời sống sót sau vận kiếp này, khơng
làm gì bổ ích cho đời, chỉ lưa cái trách nhiệm cỏn con là nhà học giả đối với quốc dân,
không dám không gắng”(2) [1, tr168].
4


Tuy còn sơ lược nhưng từ trong những tác phẩm này đã toát lên những cống hiến
của Cụ Huỳnh Thúc Kháng trên nhiều lĩnh vực của sử học như cung cấp nguồn tư liệu
chính xác, khơi phục chân thực bức tranh lịch sử dân tộc thời thuộc Pháp, đặc biệt là
phong trào Duy Tân, về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu lịch sử….như

quan niệm về chức năng, nhiệm vụ và đối tượng của sử học, tính khách quan khoa học
của lịch sử, vấn đề phân kì, mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng lịch sử,…
* Cụ Huỳnh Thúc Kháng với vai trò là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ
Cuối năm 1925, để đối phó với những chuyển biến mạnh mẽ của phong trào cách
mạng, thực dân Pháp chủ trương dùng đường lối mị dân, đưa ra một số cải cách rất hạn
chế. Viện Dân biểu Trung Kỳ đã được thành lập ngày 24/2/1926 do quyết định của tồn
quyền Đơng Dương Varenne. Thực ra chỉ là đổi tên một hội đồng trước đó đã được
thành lập năm 1925 là “Hội đồng tư vấn Trung kỳ”. Đây là một tổ chức tư vấn cho
chính quyền Pháp ở Trung Kỳ về các vấn đề kinh tế, tài chính, xã hội. Nghị viên của
Viện dân biểu do đại biểu của nhân dân bầu ra để thay mặt cho nhân dân. Nhiệm vụ của
Viện Dân biểu là góp ý với Chính phủ về các vấn đề liên quan đến dân chúng bản xứ,
chính phủ Bảo hộ phải tham khảo Viện dân biểu về ngân sách, thuế khóa và các cơng
trình công cộng ở Trung kỳ.
Nhiệm vụ của Viện dân biểu là 4 năm, mỗi năm họp 1 khóa tại Huế. Với tư tưởng
canh tân – cải cách xã hội và chủ trương hoạt động hợp pháp, Cụ Huỳnh đồng tình ra
ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ tại huyện Tam Kỳ, được bầu làm Viện trưởng năm
1926.
Khi làm Viện trưởng cụ Huỳnh bắt đầu thực hiện quyền hạn của mình, đọc những
bài diễn văn về kế hoạch hoạt động của Viện. Đưa ra một số yêu sách đòi mở rộng
quyền dân chủ, vạch trần những chiêu trò lừa bịp, mị dân của thực dân Pháp. Trong khi
bọn thực dân muốn Viện Dân biểu là cơ quan bù nhìn khốc áo dân chủ, chỉ có nhiệm
vụ thơng qua các các chủ trương, chính sách nhằm đàn áp, bóc lột nhân dân ta, ngược
lại, Cụ Huỳnh muốn dùng nghị viện làm cơ sở để đấu tranh hợp pháp bảo vệ quyền lợi
của dân tộc, đứng về phía nhân dân chống lại bọn quan lại độc tài. Vạch trần chính sách
thâm độc của thực dân Pháp trong việc hạn chế về giáo dục, pháp luật hà khắc, đòi mở
trường học, giảm thuế, bỏ những hình luật hà khắc, những yêu cầu của Cụ chính là
mong ước của nhân dân, mang lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân, điều này cũng thể
hiện tư tưởng canh tân, cải cách xã hội của cụ Huỳnh. Nhưng tất cả những đề xuất cũng
5



như những ý kiến của Cụ đều bị chính quyền thực dân khước từ. Có thể nói những yêu
sách của Viện Dân biểu Trung Kỳ đều không phù hợp với lợi ích của chính quyền thực
dân phong kiến nên khơng được chính quyền bảo hộ chấp nhận. Thực dân Pháp muốn
Viện Dân biểu Trung Kỳ chỉ là một hình thức dân chủ giả hiệu, để thơng qua những chủ
trương, chính sách của chúng, chúng đã sử dụng Viện Dân biểu Trung Kỳ để lừa bịp
nhân nhân. Song chúng đã vấp phải thái độ khảng khái của Viện trưởng Huỳnh Thúc
Khán – một con người luôn đề cao nhân dân - vì nhân dân, bảo vệ quyền lợi của nhân
dân và ln đúng về phía nhân dân để chống lại bọn tham quyền và độc đoán.
Những cải cách đề xuất của Cụ Huỳnh Thúc Kháng thông qua Viện Dân biểu
Trung kỳ khơng được chính quyền thực dân thực thi, cuối cùng Cụ đã quyết định từ
chức. Hành động từ chức của Cụ Huỳnh Thúc Kháng thể hiện tinh thần cương trực và
khảng khái của một sĩ phu yêu nước không chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp,
thể hiện rõ lập trường chính trị của Cụ chứ khơng phải vì danh dự cá nhân. Cụ đã đặt sự
nghiệp quốc gia dân tộc, lên trên quyền lợi cá nhân.
* Cụ Huỳnh Thúc Kháng với vai trò là Chủ bút tờ báo Tiếng Dân
Báo Tiếng Dân là tờ báo đầu tiên và chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời
sống tinh thần của nhân dân Trung Kỳ trước năm 1945. Tên tuổi tờ báo, gắn liền với
người sáng lập, chủ biên Cụ Huỳnh Thúc Kháng. Báo Tiếng Dân được coi như một cơ
quan ngôn luận, giáo dục con người biết u nước, thương nịi, vũ khí địi quyền sống,
nhằm thực hiện cải cách canh tân, cãi cách xã hội một cách có hiệu quả hơn. Tồn tại từ
năm 1927 – 1943 suốt 16 năm, với 1.776 số báo được xuất bản, báo đã gây cảm tình đối
với đơng đảo độc giả ở Trung Kỳ. Tờ báo tập hợp được một số lượng đông đảo tri thức
tân học và nho học, có tinh thần dân tộc, dân chủ, tiến bộ. Tiêu biểu phải kể đến Phan
Bội Châu, Nguyễn Quý Hương, Nguyễn Xương Thái, Lê Nhiếp, Trần Đình Phiên, Trần
Đình Nam, Đào Duy Anh, Nguyễn Trí Diễu, Hải Triều, Võ Nguyên Giáp... Vừa mới ra
đời Tiếng Dân đã khẳng định: “Đối với đồng bào xin làm vị thuốc đắng” (thuốc đắng dã
tật), “đối với chính phủ xin làm người ngay” (lịng dạ ngay thẳng, không cong lưng uốn
gối), phản ánh trung thực đời sống nguyện vọng chính đáng của nhân dân cho chính phủ
rõ.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng chính là linh hồn của tờ báo Tiếng Dân, không chỉ là hiện
thân của một lớp trí thức ni dưỡng trong Nho giáo và thấm nhuần Nho học nhưng lại
6


là người dùng báo chí – một hình thức thơng tin công cộng của phương Tây, để tham gia
vào cuộc tranh luận về hiện đại hóa và xây dựng đất nước.
Phần lớn các bài viết trên tờ báo là do Cụ Huỳnh Thúc Kháng viết, các bài viết của
Cụ đều mang tính chất thời sự cao, phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Với phương trâm: Người cầm bút phải chân thực, đi sâu bám sát vào đời sống nhân
dân từ đó phản ánh một cách sống động chân thực, đời sống nhân dân lao động. Nội
dung của tờ báo cũng chính là phương trâm sống của Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Cụ đã
dùng toàn bộ tâm huyết của mình qua những bài viết trên từng số báo. Tờ báo có số
lượng độc giả khá đơng đảo. Khơng chỉ có những người lớn tuổi đọc báo, mà các giai
tầng, giai cấp khác nhau cũng tìm đọc Tiếng Dân vì tờ báo đã đề cập đến nhiều chủ đề,
lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa xã hội và cả những sinh hoạt quần chúng
nhân dân ở thôn quê và thành thị. Một mặt nêu lên những thực trạng xã hội nông thôn
Việt Nam: nhân dân ta một cổ hai trịng áp bức bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến
nhà Nguyễn đồng thời vận động nhân dân ta tự đứng lên đấu tranh cởi trói mình. Mặt
khác cũng lên án những thói hư tật xấu mà người quê tự tạo ra nhằm cảnh tỉnh họ. Cụ
Huỳnh Thúc Kháng đã nhiều lần lên tiếng đấu tranh địi quyền tự do ngơn luận cho
người dân dưới quyền bảo hộ của thực dân Pháp: “Ôi ngôn luận tự do! Đến bao giờ tự
do ngôn luận mới thực là xuất hiện”. Theo Cụ Huỳnh Thúc Kháng, cái quyền của người
làm báo : “Nếu khơng có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói, thì ít ra cũng giữ
được cái quyền khơng nói những điều người ta ép buộc”. Mặc dù sự ra đời của báo
Tiếng Dân là cái gai trong mắt thực dân Pháp nhưng điều đó khơng thể làm sai lệch
quan điểm làm báo xuyên suốt của Cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cụ đưa tin viết bài rất trung
thực. Tin nào sai sót về nghiệp vụ báo chí, Cụ sẵn sàng cho chính sửa và đính chính, tin
nào đã được Cụ điều tra kỹ lưỡng, xác đáng thì dù nhà cầm quyền có bắt ép không được
đăng Cụ vẫn nhất quyết cho đăng.

Báo Tiếng Dân chính là hình ảnh đích thực của Cụ Huỳnh Thúc Kháng – luôn sẫn
sàng đấu tranh bảo vệ lẽ phải bảo vệ công lý. Đã giúp những người thấp cỏ bé họng bị
áp bức bị bóc lột phần nào hiểu được thân phận của một người dân mất nước, qua đó
giúp họ nhìn rã được bộ mặt thật, tàn các của bọn thực dân cướp nước, khích lệ động
viên họ đứng lên địi lại quyền lợi cũng như lợi ích của mình. Với những gì mà báo
Tiếng Dân và chủ bút Cụ Huỳnh Thúc Kháng làm được trong suốt thời gian tồn tại đã
7


khẳng định vị trí quan trọng của mình trong đời sống tinh thần của nhân dân và hệ thống
báo chí ở Trung Kỳ nói riêng và cả Việt Nam trước năm 1945.
2.2.

Những đóng góp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau Cách mạng Tháng Tám -1945
Sang năm 1945, tình hình cách mạng trong nước và thế giới chuyển biến mau lẹ,
chiến tranh thế giới thứ hai đã bước vào giai đoạn kết thúc. Phe Đồng minh đã đại
thắng, phe Phát xít (Đức – Ý – Nhật) lần lượt đầu hàng. Phong trào cách mạng dân tộc
phát triển nhanh chóng. Nắm bắt được thời cơ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt
trận Việt Minh, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đã tiến hành
thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám - 1945 thắng lợi, dẫn tới sự ra
đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa – Nhà nước cơng nông đầu tiên ở Đông
Nam Á. Với bước ngoặt vĩ đại này đất nước Việt Nam đứng trước một cơ hội hồi sinh,
trấn hưng và phát triển.
Chính quyền cách mạng còn non trẻ mới thành lập phải đương đầu với nhiều khó
khăn, thử thách. Ở miền Nam, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, ở miền
Bắc, bọn phản động Việt Nam quốc dân Đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội theo
chân Tưởng Giới Thạch vào phá nước ta, chính quyền cách mạng phải lo giải quyết
những hậu quả tệ nạn xã hội. Thù trong, giặc ngoài, tình cảnh đất nước lúc này rất rối
ren. Yêu cầu lúc này là cần phải có một Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được đáp ứng
yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, tập hợp được toàn dân đoàn kết, bảo vệ cho

được nền độc lập của nước nhà. Để huy động mọi nguồn lực của dân tộc trong đó có
nguồn lực trí tuệ và đội ngũ nhân tài cần được khơi dậy, quy tụ và phát huy. Việc trọng
dụng nhân tài, đặc biệt là những nhân sĩ trí thức tài năng ngồi Đảng có ý nghĩa quan
trọng đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc để chung tay góp sức chống
thù trong giặc ngồi bảo vệ chính quyền non trẻ vừa mới thành lập. Thấu hiểu tầm quan
trọng của việc trọng dụng nhân tài cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điện cho
Ủy ban nhân dân lâm thời Trung Bộ mời Cụ Huỳnh Thúc Kháng ra Hà Nội. Tuy nhiên
trong lúc này Cụ Huỳnh Thúc kháng vẫn do dự, phân vân không muốn ra gặp cụ Hồ.
Mãi đến tháng 1/1946, sau khi nhận được liên tiếp hai bức điện ký tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên
Giáp, Cụ Huỳnh đã nhận lời, lên đường ra Hà Nội. Mặc dù tuổi cao, nhưng với lòng yêu
nước nhiệt thành, Cụ đã nhận lời mời gánh vác việc nước, sát cánh cùng các chiến sĩ
cộng sản và đồng bào cả nước đưa đất nước vượt qua những thử thách to lớn, giữ vững
8


nền dân chủ cộng hòa non trẻ. Kể từ giờ phút nhận lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Hà Nội,
Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã ghi tiếp những trang sử mới trong cuộc đời của mình.
Chỉ hơn một năm tham gia vào chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Cụ Huỳnh
Thúc Kháng đảm đương đến 3 chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyền Chủ
tịch nước, Hội trưởng Hội Liên hiệp. Trên bất cứ một cương vị nào Cụ cũng hồn thành
xuất sắc và có nhiều đóng góp cho dân tộc trong thời khắc hiểm nghèo, thời khắc thù
trong giặc ngồi rình rập.
* Cụ Huỳnh Thúc Kháng Tham gia chính phủ cách mạng nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa với vai trò là Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Huỳnh Thúc Kháng không phải là người cộng sản, trước năm 1945 Cụ còn viết
nhiều bài báo phản bác những phương pháp đấu tranh của những người cộng sản, nhưng
khi cách mạng tháng Tám thành công, Cụ cảm thấy sung sướng và ý thức được niềm
hạnh phúc trọn vẹn của một dân tộc thốt khỏi thân phận nơ lệ lầm than. Cụ tự cho mình
là lớp người đã lỗi thời khơng phù hợp với chính trường. Chuẩn bị lên đường ra Hà Nội,

Cụ Huỳnh nói: “Tơi nghe tiếng Nguyễn Ái Quốc đã lâu, bây giờ cần phải gặp người để
bày tỏ một vài ý kiến...”. Trước lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia vào chính
quyền mới, Cụ Huỳnh cũng từng nhận được nhiều lời mời tham chính, nhưng Cụ đều từ
chối. Khi đỗ đạt, triều đình Huế mời ra làm quan nhưng Cụ khước từ. Sau này Bảo Đại
cần người lập một chính phủ thân Nhật đã mời Cụ “cùng bàn việc nước” nhưng Cụ đã
trả lời rằng: “Bất thành vô vật! Nhật chẳng thành thật với Bảo Đại đâu!” Thế nhưng sau
khi được gặp và trao đổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh Cụ Huỳnh hồn tồn bị thuyết phục,
tin cậy Chủ tịch Hồ Chí minh, Cụ nhận ra đã gặp được người tri kỷ. Trong bài thơ “Bảy
mươi mốt tự thọ”, Cụ đã tiếc rằng mình gặp được người tri kỷ khi đã xế chiều:
“Bảy tuần đầu bạc như bông
Được người tri kỷ thôi xong đã già”.
Cảm phục Chủ tịch Hồ Chí Minh, và nhận thấy “quốc gia hữu sự”, Cụ đã yên tâm
tham gia và tận tâm, tận lực vì sự nghiệp chung. Ngày 02/3/1946, tại kỳ họp thứ nhất
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Chính phủ liên hiệp kháng chiến ra mắt
toàn thể quốc dân đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giới thiệu Cụ Huỳnh Thúc
Kháng: “... một người đạo đức danh tiếng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết: Cụ Huỳnh
Thúc Kháng”, làm Bộ trưởng Bộ nội vụ - một vị trí rất quan trọng trong Chính phủ Liên
hiệp kháng chiến. Ở trong một trang trong cuốn nhật ký đi Pháp, Chủ Tịch Hồ Chí Minh
9


còn viết về việc Cụ Huỳnh Thúc Kháng nhận lời tham gia chính phủ như một tấm
gương điển hình vì nước vì dân: “Như Cụ Huỳnh vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng vì
tơi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng cố gắng ở lại”. Dù tuổi già nhưng Cụ Huỳnh Thúc
Kháng không hề nan, hễ làm việc gì có ích cho lợi ích đồng bào Cụ cũng bất kể gian
khó.
Mặc dù sự ra đời của Chính phủ liên hiệp kháng chiến (02/3/1946) theo chủ trương
của chủ tịch Hồ Chí Minh, trước mắt là để đối phó với âm mưu của bọn phản động, tay
sai Tàu Tưởng. Tuy nhiên sự có mặt của Cụ Huỳnh Thúc Kháng trong Chính phủ liên
hiệp cũng như tâm huyết của Cụ Huỳnh xung quanh chủ trương đoàn kết toàn dân tộc

đây là một kế sách lâu dài trong công cuộc kháng chiến kiến quốc mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh theo đuổi.
Là một thành viên quan trọng của chính phủ, trên cương vị Bộ trưởng, Cụ Huỳnh
đã đem lòng nhiệt huyết của mình để phục vụ tổ quốc. Đứng đầu mộ Bộ quan trọng đã
khá vất vả, đứng đầu một đất nước lại khó khăn vất vả hơn gấp bội. Nhưng cũng chính
vì vậy mà chúng ta càng thấy được tấm lịng dành cho dân tộc, đất nước cũng như sự tài
giỏi của Cụ Huỳnh.
* Cụ Huỳnh Thúc Kháng với vai trò Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa
Ngày 31/5/1946, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên
đường sang thăm nước Pháp, với tư cách là thượng khách. Cùng thời điểm này, phái
đoàn ngoại giao của ta cũng đang tham dự Hội nghị Phôngtennơblô nên sự có mặt của
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan trọng. Bởi vậy mà, dù tình thế đất nước cịn nhiều rối
ren, nhưng Hồ Chủ tịch phải lên đường sang Pháp. Trước khi lên đường cùng phái đoàn
Việt Nam sang Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “chọn mặt gửi vàng” giao cho Cụ
Huỳnh Thúc Kháng giữ chức quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo
Sắc lệnh số 82/SL ngày 29-5-1946, thay Chủ tịch Hồ Chí Minh ký những công văn
thường ngày và Chủ tọa Hội đồng Chính phủ. Trước khi lên máy bay Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói với Cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Tơi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa
ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho”, và trao
cho Cụ tấm thiếp ghi 6 chữ: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái khơng thay đổi để đối
phó với mn sự thay đổi)”(3). Cụ Huỳnh coi đó là một phương châm hành động mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở.
10


Gánh vác trọng trách thay Hồ Chủ tịch điều hành việc nước là một thử thách không
nhỏ đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng. Đáp lại sự kỳ vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong thời gian Người đi vắng, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giải quyết êm thấm nhiều công
việc liên quan đến quốc gia đại sự. Trong 4 tháng 21 ngày (từ 31/5/1946 đến

20/10/1946) với vai trò là Quyền Chủ tịch, Cụ đã ký 103 sắc lệnh thuộc tất cả các lĩnh
vực của tất cả các cơ quan tham mưu của chính phủ để điều chỉnh, bộ máy chính quyền,
nhân sự, chính sách và cả hoạt động tác chiến điều động cán bộ quân sự. Cụ đã chỉ đạo
các cơ quan chức năng thẳng tay trừng trị những phần tử phản động trong Việt Nam
Quốc dân đảng cấu kết với quân Tưởng âm mưu lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa mới được thành lập quanh “Vụ án Ôn Như Hầu”.
Ghi nhận những sự cố gắng và công trạng của của Cụ Huỳnh trong Lời Tuyên bố
với Quốc dân sau khi đi Pháp về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng qn thể hiện lịng tri
ân: “Trong lúc tôi đi vắng, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Huỳnh quyền Chủ tịch, sự
săn sóc giúp đỡ của Quốc hội, sự ra sức gánh vác của Chính phủ, sự đồng tâm hợp lực
của quốc dân mà giải quyết được nhiều khó khăn”. Uy tín, tài năng và đức độ của Cụ
Huỳnh Thúc Kháng trong thời gian giữ trọng trách Quyền Chủ tịch nước đã góp phần
cùng với Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo nên khối đại đoàn kết rộng rãi toàn dân
trong cuộc đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng non
trẻ ở thời điểm hết sức hiểm nghèo.
* Cụ Huỳnh Thúc Kháng với vai trò là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam
Trong năm 1946, Cụ Huỳnh Thúc Kháng khơng chỉ góp sức cho Chính phủ liên
hiệp trên vai trò là Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Quyền Chủ tịch Chính phủ mà cịn rất gắng
sức trong vai trò là Hội trưởng Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam. Đối sách cơ bản đối
với thù trong giặc ngồi của Đảng và Chính phủ lúc này là thành lập một Mặt trận dân
tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng tổ chức Việt Minh, dựa chắc
vào dân giữ yên bên trong để đối phó với bên ngồi. Đứng trước u cầu đó cần phải có
một hình thức tổ chức mặt trận mới thích hợp. Ngày 29/5/1946 Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), được thành lập tại Hà Nội, theo sáng kiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự, Huỳnh Thúc Kháng là Hội trưởng và
Tơn Đức Thắng làm Phó Hội trưởng.
11



Với tư cách là Hội trưởng Hội Liên hiệp Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dốc hết nhiệt
tâm của mình mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Cụ đi nhiều nơi thăm hỏi
đồng bào giải thích đường lối đối nội và đối ngoại của Chính phủ, của Mặt trận Liên
Việt, động viên mọi người tin tưởng vào tương lai dân tộc. Bằng uy tín của mình, Cụ
Huỳnh Thúc Kháng đã thu phục nhân dân một lòng ửng hộ chính phủ. Vì Cụ Huỳnh
Thúc Kháng có vai trị quan trọng trong Hội, trong Chính phủ nên sau đợt cải tổ lại
Chính phủ (11/1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa mời Cụ ở lại Chính phủ.
Đầu năm 1947, Cụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt Chính phủ Trung ương đi kinh lý
miền Trung, trên đường đi hễ có dịp tiếp xúc với nhân dân, Cụ lại truyền đạt đường lối
kháng chiến cứu nước của Hồ Chủ tịch, Chính phủ và Mặt trận. Lúc này thực dân Pháp
đã không tuân thủ những gì đã ký trong Tạm Ước 14/9, liên tục gây hấn với chính phủ
ta nhằm phát động một cuộc chiến tranh mới. Đứng trước những hành động quá đáng
của thực dân, đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, lúc này Cụ Huỳnh đang đi cơng tác
miền Trung đã nhanh chóng hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kêu
gọi đồng bào đoàn kết chống giặc. Với tư cách là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam, Cụ Huỳnh Thúc Kháng phát đi bức thư “Kêu gọi đồng bào phụ lão kháng
chiến thư”, nhằm nêu cao quyết tâm chống Pháp của nhân dân Việt Nam: “Hãy tin
tưởng vào cụ Hồ Chí Minh... mọi người hãy đồng lịng đoàn kết chặt chẽ một khối,
quyết sống mái với kẻ thù... Tổ quốc sẽ độc lập quang vinh muôn năm”(4).
Sau những ngày kinh lý ở Quảng Nam, Cụ vào dến Quảng Ngãi không may bị
bệnh, tuổi cao, sức yếu qua đời tại Quảng Ngãi ngày 21/4/1947. Trước khi từ biệt cõi
đời, cùng với việc gửi điện chào vĩnh biệt anh em binh sĩ, kêu gọi anh em các đảng phái,
tôn giáo hãy hết lòng tin tưởng và thực hiện ngay đại đồn kết chung quanh Chủ tịch Hồ
Chí Minh, ngày 14-4-1947, Cụ đã đọc cho người thư ký riêng của mình ghi bức thư gửi
Hồ Chủ tịch, với nội dung: “Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc
lập, chế độ dân chủ đã thực hiện; thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không gặp được Cụ lần cuối
cùng! Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân lên đường vinh quang, hạnh phúc. Chào
vĩnh quyết”(5).
Cả cuộc đời Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã sống vì dân vì nước, đến những năm cuối

đời dù đã già yếu, Cụ vẫn hết mình vì nước, vì dân, đã cống hiến cho tổ quốc đến hơi
thở cuối cùng.
12


3. Kết luận
Trong lịch sử cận đại và hiện đại Việt Nam, Huỳnh Thúc Kháng là một nhân vật
lịch sử có vị trí đáng trân trọng .
Nhìn lại q trình tham gia vào phong trào yêu nước, Cụ Huỳnh Thúc Kháng tựa
như một gạch nối, một bước chuyển tiếp giữa tư tưởng quốc gia dân tộc cải lương với tư
tưởng độc lập dân tộc cách mạng, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đầu thế kỷ XX,
mà cái chất tạo nên gạch nối đó là tư tưởng và hành động vì dân vì nước của các nhà
yêu nước nhà cách mạng Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp của cụ Huỳnh Thúc Kháng - Nhà cách mạng kiên quyết,
trung thành, hết lòng phụng sự Tổ quốc - Nguyên Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những cống hiến
xuất sắc của đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhất
là trong giai đoạn Cụ tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu, là một trong những dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử cận
hiện đại của Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.(1), (2). Huỳnh Thúc Kháng, Huỳnh Thúc Kháng niên phổ, Thư gửi Kỳ ngoại hầu
Cường Để, NXb Văn hóa Thơng tin, 2000.
13


2. (3) Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 248
3. (4) Vương Đình Quang: Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng, Nxb. Văn học, Hà Nội,

1965, tr. 188 – 191.
4. (5) Nguyễn Q.Thắng: Huỳnh Thúc Kháng - tác phẩm, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, 1992, tr. 22.
5. Nguyễn Q. Thắng: Phong trào Duy Tân – Các khuôn mặt tiêu biểu, NXB Văn
hóa Thơng tin, Hà Nội, 2006.
6. Ủy ban Nhân dân Quảng Nam: Thân thế và sự nghiệp Cụ Huỳnh Thúc Kháng
(1876-1947), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2012.

14



×