Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bài tập nhóm dân sự đề 1 đại học Luật Hà Nội - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.44 KB, 8 trang )

TÌNH HUỐNG

a
b
c

d

Gia đình ông A và gia đình ông B là hàng xóm thân thiết của nhau. Do lối đi từ nhà ông B
ra đường công cộng lầy lội, không thuận tiện cho các sinh hoạt thường ngày nên ông B đã xin
phép và được ông A đồng ý cho đi tắt qua vườn để ra đường công cộng. Sau 10 năm, lối đi đó đã
trở thành lối đi quen thuộc đối với nhà ông B. Năm 2014, gia đình ông B bán nhà và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình ông C. Sau một thời gian sinh sống, gia đình ông C có
mâu thuẫn với gia đình ông A nên gia đình ông A đã bịt lại lối đi mà trước đây đã cho gia đình
ông B đi nhờ qua vườn nhà mình. Ông C cho rằng hành vi của gia đình ông A là vô lý và đã xâm
phạm quyền lợi của gia đình mình, nên đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân.
Câu hỏi:
Xác định tình trạng pháp lý của lối đi bị tranh chấp trong tình huống?
Gia đình ông A có quyền bịt lối đi đó không?
Giả sử tại thời điểm được gia đình ông A cho đi nhờ, gia đình ông B đã đền bù một khoản tiền
bằng với giá trị quyền sử dụng đất dành làm lối đi, thì gia đình ông C có đương nhiên được
hưởng quyền này không?
Giả sử lối đi cũ của gia đình ông C đã bị các hộ gia đình xung quanh lấn chiếm hết dẫn đến tình
trạng quyền sử dụng đất của gia đình ông bị vây bọc sau khi ông A bịt lối đi, thì ông C có quyền
yêu cầu một trong các hộ gia đình phải mở cho mình lối đi qua không?


I. LÝ THUYẾT VỀ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
1. Định nghĩa
Bất động sản được coi là liền kề với một bất động sản khác và có thể chịu hạn chế về
quyền khi chúng thuộc bất động sản về bản chất do tính chất không dời đi được và giữa chúng


tồn tại một ranh giới về địa lý cũng như về pháp lý. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì
bất động sản liền kề chỉ được áp dụng đối với đất đai và một số công trình xây dựng mà giữa
chúng có mối liên hệ hữu cơ về vật lý cũng như về pháp lý được pháp luật ghi nhận .
Dựa trên cơ sở đề bài tập được giao, nhóm chúng em chỉ đề cập đến những nội dung lý
thuyết liên quan.
2. Phân tích quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
2.1. Cơ sở pháp lý:
Theo điều 273, Bộ luật Dân sự 2005: Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng
bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để đảm bảo các nhu cầu của mình về lối đi,
cấp thoát nước, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cấp thiết khác một cách hợp
lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thỏa thuận khác.
Theo điều 274, Bộ luật Dân sự 2005: Xác lập quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
1. Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật.
2. Trong trường hợp quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề đã được xác lập cho chủ
sở hữu nhà, người sử dụng đất thì người được chuyển giao nhà, quyền sử dụng đất cũng được
hưởng quyền đó.
Theo điều 279, Bộ luật Dân sự 2005: Chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Bất động sản liền kề với bất động sản của chủ sở hữu đang thực hiện quyền sử dụng hạn
chế bất động sản liền kề đó nhập làm một.
2. Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng hạn chế bất động sản
liền kề.
2.2. Phân tích
a. Căn cứ phát sinh quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề: Quyền sử dụng hạn chế
bất động sản liền kề không tồn tại mặc nhiên do sự liền kề giữa các bất động sản mà phải dựa
trên cơ sở nhất định và với những điều kiện nhất định.
* Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thỏa thuận: Trong thực tế,
có nhiều trường hợp luật dân sự không thể điểu chỉnh được hết, điều này tạo điều kiện cho người
dân tự giải quyết bằng ý chí của mình. Tương tự vậy, điều 275 đến điều 279, Bộ luật Dân Sự

2005 chỉ đề cập đến những trường hợp đặc biệt, buộc các chủ thể phải tuân theo. Ngoài những
trường hợp đó, còn vô vàn mâu thuẫn khác phát sinh trong đời sống hàng ngày. Chính vì vậy, Bộ
luật Dân Sự quy định về nguyên tắc thỏa thuận và lấy nguyên tắc này làm cơ sở phát sinh một số
quyền, trong đó có quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Những thỏa thuận này phải đảm
bảo tính hợp pháp, không vi phạm đạo đức xã hội và phải được tạo lập một các tự nguyện. Mọi
2


thỏa thuận không đáp ứng được điều đó sẽ không có hiệu lực và kèm theo đó, quyền sử dụng hạn
chế bất động sản liền kể không được xác lập.
* Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo quy định của pháp luật:
Bộ luật dân sự quy định rất rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến quyền sử
dụng bất động sản liền kề như quyền về lối đi, quyền về cấp thoát nước,…nhằm bảo vệ quyền
lợi của những cá nhân trong trường hợp bất khả kháng mà điển hình là bất động sản bị vây bọc.
Nếu không có những quy phạm pháp luật này, khi không đạt được thỏa thuận thì chủ sở hữu bất
động sản sẽ không được đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình. Như vậy, trong những trường
hợp cá biệt, pháp luật luôn tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền và được đảm bảo
quyền của mình. Hơn thế, khoản 2 điều 274 quy định quyền hạn chế sử dụng bất động sản liền
kề gắn liền với việc chuyển đổi quyền sở hữu nhà, sử dụng đất. Điều này có nghĩa là quyền đã
xác lập cho người sử dụng trước thì người được chuyển giao cũng có quyền tương tự, mà không
cần lập thêm bất cứ thỏa thuận nào. Nhưng trong thực tế, như đã phân tích ở trên, thỏa thuận có
thể lập bằng miệng và khó có thể xác định được quyền. Như vậy, khi có mâu thuẫn giữa người
được chuyển giao với chủ sở hữu bất động sản liền kề thì có khả năng rất cao rằng quyền đó sẽ
không được thực hiện. Trong trường hợp này, không có đủ căn cứ để xác định quyền sử dụng
hạn chế bất động sản liền kề trước và sau khi chuyển giao quyền sử dụng bất động sản
b. Căn cứ chấm dứt quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề:
Theo điều 279, Bộ luật Dân sự 2005, khi hai bất động sản là độc lập, thuộc quyền sử dụng
của hai chủ thể độc lập thì khi đó, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề mới có giá trị và
hiệu lực. Còn khi hai bất động sản được sáp nhập, thuộc quyền sử dụng của một chủ thể duy
nhất, ranh giới giữa hai bất động sản độc lập đó cũng biến mất, thì quyền sử dụng hạn chế bất

động sản liền kề mặc nhiên chấm dứt và không còn giá trị nữa. Một trường hợp khác là khi chủ
sở hữu, hay người có quyền sử dụng bất động sản liền kề không có nhu cầu sử dụng bất động
sản liền kề đó nữa, chủ sở hữu hay người có quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề đó có
thể đơn phương từ bỏ quyền, không tiếp tục sử dụng bất động sản liền kề nữa hoặc có thể thỏa
thuận để chấm dứt quyền này, bên cạnh đó phải giải quyết các hậu quả pháp lý liên quan.
3. Phân tích quyền về lối đi qua bất động sản liền kề
3.1. Cơ sở pháp lý:
Theo điều 275, Bộ luật Dân sự năm 2005: Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất
động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ
sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu
cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất
động sản liền kề, nếu không có thỏa thuận khác
Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm
thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.
3


Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử
dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại
khoản 2 Điều này mà không có đền bù.
2.2. Phân tích:
Bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản khác cần phải có một lối đi để ra đường công
cộng. Đây là nhu cầu chính đáng. Tuy nhiên, lối đi phải đảm bảo nguyên tắc hợp lý và thuận
tiện, ít gây phiền hà cho các bên và trong trường hợp đó, người được yêu cầu phải có nghĩa vụ
đáp ứng khi yêu cầu đó phù hợp với những nguyên tắc nêu trên.
Một lối đi được hình thành trên phần bất động sản thuộc quyền sử dụng của người khác,
đương nhiên đem lại những bất tiện cho người đó. Vì thế, chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc
phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề. Đây là nguyên tắc đền bù tương đương trong
luật dân sự. Việc đền bù này do các bên thỏa thuận. Mặc dù vậy, để tìm ra tiếng nói chung, sự

thống nhất về ý chí của các chủ thể trong việc xác định lối đi thuận tiện nhất, hợp lý nhất trong
thực tế không phải dễ dàng, vì các chủ thể thường không muốn phần bất động sản thuộc sở hữu
của mình bị ảnh hưởng hay xâm phạm. Vì vậy, nếu các bên không thỏa thuận được vấn đề này
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ đứng ra giải quyết.
Trong trường hợp bất động sản bị chia thành nhiều phần cho nhiều chủ sở hữu, để tránh
xảy ra tranh chấp, xung đột không đáng có, pháp luật đã quy định trong trường đó, chủ sử dụng
khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại Khoản 2
Điều 275 Bộ luật Dân sự 2005 mà không có đền bù.
II. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VỀ BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ ĐỂ GIẢI QUYẾT
TÌNH HUỐNG
2.1. Tình trạng pháp lý của lối đi đang bị tranh chấp là gì?
Lối đi đang tranh chấp nằm hoàn toàn trên phần đất nhà ông A và được ông A cho gia
đình ông B sử dụng để đi lại được mười năm và đã trở thành lối đi quen thuộc của nhà ông B.
Phần đất của gia đình B (sau này là của C) không bị vây bọc hoàn toàn bởi các bất động sản
khác mà vẫn có lối đi mặc dù bị lầy lội, đi lại khó khăn do đó ông B đã xin phép và được sự
đồng ý của ông A cho mở lối đi qua vườn nhà mình. Việc ông B mở lối đi qua vườn ông A hoàn
toàn dựa vào mối quan hệ thân thiết của hàng xóm mà không có hợp đồng (theo đúng hình thức
pháp luật quy định đối với bất động sản) hay đền bù. Do đó, việc ông B sử dụng lối đi qua nhà
ông A rơi vào trường hợp “Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” quy định tại điều 273
nhưng không phải trường hợp “Lối đi qua bất động sản liền kề” quy định tại khoản 1, điều 275,
Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, dù theo thỏa thuận, ông B đã được ông A cho phép sử dụng hạn
chế bất động sản liền kề thuộc quyền sử dụng của ông A, nhưng thỏa thuận (giao dịch) trên rõ
ràng không tuân thủ hình thức như pháp luật quy định. Vì thế, có thể coi giao dịch này là vô
hiệu. Như vậy, trong trường hợp này ông B và ông C không có bất cứ quyền nào đối với lối đi,
nó hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của ông A.
4


Tóm lại, tình trạng pháp lý của lối đi qua nhà ông A trong tình huống trên được xác định là
lối đi nằm trên phần đất thuộc quyền sử dụng của ông A.

2.2. Ông A có quyền bịt lối đi không?
Khẳng định ông A có quyền bịt lối đi.
Thứ nhất, trước đây vì tình làng nghĩa xóm, ông A cho gia đình ông B đi nhờ qua vườn
mình, nhưng không có nghĩa là ông A phải có nghĩa vụ đó với gia đình ông B và sau này là gia
đình ông C (như đã trình bày ở trên, không phải nhà ông B không còn lối đi nào khác, chỉ là lối
đi kia bị lầy lội khó đi mà thôi). Giữa ông A và ông B thành lập một giao dịch bằng miệng “xin cho”,đây là giao dịch bằng miệng phổ biến trong đời sống hàng ngày. Theo đó ông A là người
nắm quyền với lối đi này, ông B chỉ là người được hưởng quyền khi ông A cho phép, đây cũng
là nội dung thoả thuận của hai nhà.
Theo khoản 1, điều 274 Bộ luật Dân sự: “Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
được xác lập theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.” Quyền sử dụng hạn chế bất
động sản liền kề của ông B được xác lập theo thỏa thuận. Nhưng trên thực tế, đây là thỏa thuận
miệng, không có giấy tờ làm chứng. Như vậy, ông B không đăng kí và cũng không đủ điều kiện
đăng kí biến động đất đai theo điểm l, khoản 4, điều 95 luật Đất Đai 2013: “Đăng kí biến động
đất đai để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền sử dụng đối với thửa đất liền kề”. Theo đó, lối
đi vẫn thuộc quyền sử dụng đất của ông A và ông A có quyền bịt lối đi mà không cần thỏa thuận
với chủ sở hữu mảnh đất liền kề.
Thứ hai, Con đường đi qua khu vườn nhà ông A, ảnh hưởng tới quyền về sử dụng đất của
ông A mà ông B không có bất cứ sự bồi thường hay thoả thuận nào khác về việc đền bù theo như
điều 273 Bộ luật Dân sự 2005. Theo điều 273, Bộ luật dân sự 2005: “Chủ sở hữu nhà, người sử
dụng ruộng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để đảm bảo
nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và
các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù nếu không có thỏa thuận khác.”
Hơn nữa, lối đi này không phải là lối đi chung, ông A không sử dụng nó mà chỉ để gia
đình ông B sử dụng, sau này là gia đình ông C. Thực tế, gia đình ông A và gia đình ông C đang
có mâu thuẫn, việc gia đình ông C đi qua vườn nhà ông A có thể dẫn đến những hậu quả đáng
tiếc từ hai bên. Như vậy, để bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của mình, ông A có thể làm những gì
pháp luật không cấm trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng của mình, bao gồm cả quyền bịt con
đường.
Thứ ba, ta thấy trong tình huống đặt ra, mảnh đất của gia đình ông C mà trước đây là đất
nhà ông B không bị vây bọc, vẫn có một lối đi ra đường lớn mặc dù lầy lội. Điều này chứng tỏ,

không thể áp dụng điều 275, Bộ luật Dân sự 2005. Theo điều 275, Bộ luật Dân sự 2005: “Chủ sở
hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có
quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến
5


đường công cộng; người yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải
đến bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thỏa thuận khác...”.
Như vậy, điều luật chỉ đúng với trường hợp “bất động sản bị vậy bọc bởi các bất động
sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra”. Hơn nữa, trong vòng 10 năm kể từ khi ông
B xin đi qua vườn nhà ông A, chủ sở hữu mảnh đất hoàn toàn có đủ khả năng để làm lại con
đường lầy lội dẫn ra đường công cộng của mình. Như vậy, gia đình ông C có thể nâng cấp để sử
dụng con đường cũ, không nhất thiết phải đi qua vườn nhà ông A, nên việc ông A bịt lối đi
không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của gia đình ông C.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy, ông A có đầy đủ căn cứ pháp lí để bịt lối đi trên
mảnh đất của mình. Nếu ông C muốn mở lại lối đi thì phải xác lập với ông A một thỏa thuận
khác, có đền bù và hợp đồng được công chứng theo đúng quy định của pháp luật về hình thức
hợp đồng về bất động sản.
Các trường hợp khác được giải quyết ở các ý sau của bài làm.
2.3. Giả sử tại thời điểm được gia đình ông A cho đi nhờ, gia đình ông B đã đền bù
một khoản tiền bằng với giá trị quyền sử dụng đất dành làm lối đi, thì gia đình ông C có
đương nhiên được hưởng quyền này không?
Ở vấn đề này, ta phải xem xét hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, gia đình ông B đã đền bù một khoản tiền bằng với giá trị quyền
sử dụng đất dành làm lối đi có thông qua hợp đồng rõ ràng về quyền sử dụng đất làm lối đi, và
khi bán đất gia đình ông B có trao lại hợp đồng cho ông C hoặc có người làm chứng về việc đền
bù:
Theo Điều 274, Bộ luật dân sự 2005:
1.Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thỏa thuận hoặc theo
quy định của pháp luật.

2.Trong trường hợp quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề đã được xác lập cho chủ
sở hữu nhà , người sử dụng đất thì người được chuyển giao nhà, quyền sử dụng đất cũng được
hưởng quyền đó.
Ở đây, ông B đã đền bù cho ông A một khoản tiền đền bù để có thể sử dụng vườn nhà
ông A làm lối đi và có sự chứng nhận thông qua hợp đồng hoặc có sự làm chứng của một người
khác, tức là ông B có quyền sử dụng hạn chế lối đi qua vườn nhà ông A theo khoản 1, điều 274
nêu trên.
Sau đó, ông B bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình ông C. Quyền
sử dụng hạn chế lối đi qua vườn nhà ông A đã được xác lập cho nhà ông B, còn ông C thì đã
được ông B chuyển giao nhà, quyền sử dụng đất. Chình vì vậy theo khoản 2, điều 274 thì người
được chuyển giao nhà là ông C đương nhiên sẽ được xác lập quyền sử dụng lối đi đó. Gia đình
ông A không thể cấm gia đình ông C đi trên lối đi đó bằng cách nói dối không có khoản có đền
bù nào trước đây với gia đình ông B vì đã có hợp đồng chứng thực ông A đã cho ông B sử đụng
6


lối đi hoặc có người làm chứng. Nếu ông A bịt lối đi trong trường hợp này nghĩa là ông A đang
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông C.
Vì vậy, trong trường hợp này ông C đương nhiên sẽ có quyền sử dụng lối đi qua vườn
nhà ông A.
Trường hợp thứ hai, gia đình ông B đã đền bù một khoản tiền bằng với giá trị quyền sử
dụng đất làm lối đi để sử dụng vườn nhà ông A làm lối đi chỉ thông qua trao tay chứ không có
hợp đồng rõ ràng hay bất cứ người làm chứng nào:
Trong trường hợp này, dù ông C đã được ông B chuyển giao nhà, quyền sử dụng đất
nhưng nếu ông A chối bỏ việc ông B đã đưa tiền cho mình để sử dụng lối đi đó thì hợp đồng về
quyền sử dụng lối đi giữa gia đình ông A và gia đình ông B bị xem như vô hiệu, lối đi là bất
động sản nên giao dịch dân sự giữa ông A và ông B phải được thể hiện bằng văn bản, có chứng
thực của UBND xã, phường (điều 122, 124 Bộ luật Dân sự 2005). Do đó ông C cũng không có
quyền đương nhiên sử dụng lối đi đó được vì đó chỉ là thỏa thuận trao tay, không có hợp đồng
chứng thực cũng như người làm chứng. Trong trường hợp này nếu muốn được quyền sử dụng lối

đi qua bất động sản liền kề thì gia đình ông C phải thỏa thuận lại với gia đình ông A và có đền
bù tương đương.
2.4. Giả sử lối đi cũ của gia đình ông C đã bị các hộ gia đình xung quanh lấn chiếm
hết dẫn đến tình trạng quyền sử dụng đất của gia đình ông bị vây bọc sau khi ông A bịt lối đi,
thì ông C có quyền yêu cầu một trong các hộ gia đình phải mở cho mình lối đi qua không?
Ông C có quyền yêu cầu
Theo điều 275, Bộ luật Dân sự 2005: “ Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất
động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ
sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu
cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đề bù cho chủ sở hữu bất động
sản liền kề, nếu không có thỏa thuận khác”.
Mảnh đất thuộc quyền sử dụng của ông C trong trường hợp trên bị bao bọc bởi các bất
động sản khác, không còn lối ra. Trong trường hợp này, căn cứ theo khoản 1, điều 275 nêu trên,
ông C hoàn toàn có quyền yêu cầu các một trong các hộ xung quanh mở cho mình một lối ra.
Tuy nhiên, vì lối ra này sẽ gây ảnh hưởng bất tiện đến hộ có quyền sử dụng nó, thế nên ông C
cần phải có một khoản đền bù, tương ứng với giá trị quyền sử dụng lối đi, kèm theo hợp đồng có
công chứng, để đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng. Các vấn đề về kích thước lối đi… cần phải
được làm rõ trong hợp đồng để tránh gây ra tranh chấp về sau này.
III. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT TÌNH HUỐNG NÊU TRÊN
1. Những điểm đạt được
Các điều luật trong Bộ luật Dân sự 2005 về bất động sản liền kề (cụ thể ở đây là các điều
273, 274, 275 và 279) được quy định khá rõ ràng và cụ thể về các trường hợp có thể xảy ra trong
7


thực tế. Cung cấp cho người nghiên cứu luật những cơ sở pháp lý tương đối vững chắc. Ngôn
ngữ được sử dụng trong sáng, dễ hiểu.
2. Những điểm chưa được
Bộ luật không đưa ra một khái niệm cụ thể về bất động sản liền kề, điều này gây khó

khăn cho người nghiên cứu khi tìm hiểu về bất động sản liền kề.
Có một số từ ngữ được đưa ra nhưng không có những giải thích đi kèm, làm người
nghiên cứu phải chia ra rất nhiều trường hợp, gây tốn kém thời gian mà hiệu quả đem lại không
cao. Ví dụ, cụm từ “thỏa thuận”, được nhắc đến nhiều lần trong các điều 273, 274, 275. Vậy
thỏa thuận ở đây là gì? Chỉ là sự xin phép – cho phép đơn thuần, hay phải kèm theo những yêu
cầu nào khác? Khoản 1, điều 274, Bộ luật dân sự 2005 nói rằng: “Quyền sử dụng hạn chế bất
động sản liền kề được xác lập theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Vậy thỏa
thuận ở đây chỉ là thỏa thuận bằng miệng, hay phải được ghi nhận bằng hợp đồng? Thêm nữa,
điều 273, 275 Bộ luật dân sự đều nói rằng: “…phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề,
nếu không có thỏa thuận khác”. Vậy việc đền bù này có bắt buộc hay không? Nếu không đền
bù mà chỉ thỏa thuận miệng thôi thì quyền sử dụng hạn chế này có hiệu lực hay không?
Ta có thể thấy, bên cạnh những điểm đạt được, Bộ luật vẫn còn những điểm chưa thật
hoàn thiện như trên. Việc không cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ làm cho người nghiên cứu khó
nắm bắt và dễ có những hiểu biết sai lệch, gây khó khăn cho công tác giải quyết tranh chấp.

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu và phân tích tình huống được đưa ra, nhóm chúng em đã hiểu sâu
sắc hơn về các điều luật đã được học và được ứng dụng các điều luật đó để giải quyết một vụ
việc thực tế. Khoảng cách từ lý thuyết đến thực tiễn còn rất xa, để giải quyết một vụ việc trong
thực tế là không đơn giản. Do còn hạn chế về nhận thức, bài làm của nhóm chúng em chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong các thầy cô đóng góp ý kiến để bài làm
của nhóm được hoàn thiện hơn. Nhóm chúng em xin trân thành cảm ơn!

8



×