Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Thời gian nghệ thuật trong "Cung oán ngâm khúc"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.86 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC

NIÊN LUẬN
HỌC PHẦN:

VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVIII
ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

TP.HỒ CHÍ MINH – 2016


MỤC LỤC

2


A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX phát
triển đến đỉnh cao với trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Tư tưởng văn học giai đoạn này kết
tinh trong các sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó nổi bật hơn cả là các
sáng tác bằng chữ Nôm. Qua những gì chúng tôi tiếp thu được trong suốt qua trình tìm
hiểu văn học giai đoạn này, chúng tôi nhận thấy dường như nội dung tư tưởng được
đông đảo nhà nghiên cứu phê bình để mắt đến và tập trung khai thác rất tâm huyết;
trong khi đó, vấn đề thi pháp cũng rất được quan tâm nhưng phần nào vẫn khiêm tốn
hơn. Và cụ thể, những mảnh đất nội dung tư tưởng của sáng tác giai đoạn này được


khai phá sớm, trong khi mảnh đất về thi pháp có độ lùi khai phá nhất định sau nội dung
tư tưởng. Tuy nhiên, chúng tôi không có ý định cho rằng những gì được nghiên cứu
trước sẽ cạn nguồn để khai thác, mai một sự hấp dẫn hay những gì được nghiên cứu
muộn hơn sẽ được ưu tiên. Nội dung tư tưởng của các sáng tác giai đoạn này đã vượt ra
ngoài biên giới Việt Nam; châu Á và vẫn là đỉnh cao chưa có sáng tác của giai đoạn
nào vượt qua. Tuy nhiên, thi pháp là vấn đề đậm tính dân tộc và gần gũi hơn với nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ của chúng ta thì dù đặc sắc đến đâu, đẹp đẽ đến
đâu cũng chỉ riêng chúng ta - những người Việt Nam - mới cảm nhận được hết vẻ đẹp.
Nên vấn đề thi pháp tương đối khó đạt được tầm vĩ mô như nội dung tư tưởng. Vì thế,
chúng tôi muốn tập trung khai thác một yếu tố trước hết là về thi pháp của một tác
phẩm giai đoạn này.
1.2. Về việc lựa chọn yếu tố thời gian nghệ thuật trong Cung oán ngâm khúc.
Chúng tôi có những lí do cả chủ quan và khách quan. Cung oán ngâm khúc là một
trong những đỉnh cao của văn học chữ Nôm ở Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỉ XVIII
3


- nửa đầu thế kỉ XIX, lý do mang tính chủ quan của lựa chọn này là chúng tôi thực sự
yêu thích tác phẩm trong suốt quá trình tiếp nhận. Một lý do nữa có thể được xem là
khách quan là vì đến nay mặc dù đã có những công trình nghiên cứu riêng về thời gian
nghệ thuật trong Cung oán ngâm khúc nhưng vẫn còn giới hạn bởi phạm vi dung lượng
tài liệu. Mỗi giai đoạn phát triển của xã hội sẽ mang đến nhiều cách tiếp cận vấn đề và
chúng tôi sẽ sử dụng những lý thuyết đã hoàn thiện hơn so với trước đây để phân tích
thời gian nghệ thuật. Thể ngâm khúc có cách xây dựng thời gian nghệ thuật đặc sắc.
Chúng tôi mong muốn sự nghiên cứu của mình không chỉ dừng lại ở việc đào sâu khai
thác một bình diện nghệ thuật còn tương đối “nông” của tác phẩm mà còn nâng tầm
cho nội dung tư tưởng mà giá trị của nó vốn đã vượt đi rất xa trong dòng chảy văn học.
1.3. Cung oán ngâm khúc đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông một phần,
cụ thể là trong sách Ngữ văn 10 nâng cao tập II với đoạn trích có nhan đề Nỗi sầu oán
của người cung nữ. Chúng tôi vì việc tác phẩm được giảng dạy cho học sinh nên mong

muốn kết quả nghiên cứu của mình là có ích, trước hết là mở rộng được kiến thức của
chính mình, tiếp đến là có ích cho những người làm công tác giảng dạy đoạn trích hay
bất kì ai có sự yêu thích và nhu cầu tham khảo một tài liệu tương đối cơ bản về thời
gian nghệ thuật trong Cung oán ngâm khúc. Điều quan trọng chúng tôi muốn vẫn là
truyền tải phần nào những kết quả này đến với học sinh thông qua nhà giáo dục. Học
sinh có thể tiếp nhận phần nào vẻ đẹp của đoạn trích nói riêng, của toàn bộ tác phẩm
nói chung thông qua việc phân tích thời gian nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu thời gian nghệ thuật một cách có ý thức xuất hiện từ sau lí
thuyết thi pháp học hiện đại được các nhà nghiên cứu giới thiệu và vận dụng phổ biến
ở Việt Nam. Văn học trung đại được chia làm nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn thơ ca
có những đặc trưng thi pháp riêng. Tuy nhiên, sự chuyển biến trong bối cảnh xã hội
4


giữa mỗi giai đoạn sẽ đưa đến những đổi thay nhất định trong hệ thống thi pháp này mà
thời gian nghệ thuật là một trong số đó. Những thay đổi trong quan niệm về thời gian
sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều đến thời gian nghệ thuật trong tác phẩm và thay đổi nào
cũng là một sự phát triển có tính kế thừa chứ không hoàn toàn phủ nhận cái cũ. Chúng
tôi xin tập trung điểm qua những công trình nghiên cứu về thời gian nghệ thuật trong
Cung oán ngâm khúc.
Trong số các công trình khảo luận về Cung oán ngâm khúc của các nhà nghiên
cứu trước 1975 cũng có đề cập ít nhiều đến yếu tố thời gian trong tác phẩm. Một vài
nghiên cứu có thể kể đến như Khảo luận về Cung oán ngâm khúc của Thuần Phong,
Luận đề về Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Duy Diễn - Bằng Phong.
Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB
GD. Cuốn sách này gồm hai phần, phần thứ hai: Thi pháp văn học trung đại Việt Nam
bao gồm chương II: Các thể thơ trữ tình. Trong chương này, nhà nghiên cứu dành riêng
một phần VI để bàn về thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật. Trong thời gian
nghệ thuật, nhà nghiên cứu đưa ra những mô hình chung của thời gian trong thơ ca

trung đại và tập trung khai thác hai đặc điểm lớn là thời gian vũ trụ bất biến, thời gian
con người. Trong đó, một vài đoạn trong Cung oán ngâm đã được nhà nghiên cứu đưa
ra để làm ví dụ cho thời gian con người. Quyển sách này đã được tái bản năm 2005 với
tựa Thi pháp văn học trung đại Việt Nam.
Trong bài viết đăng trên Tạp chí văn học số tháng tư năm 2001, Nguyễn Hữu
Sơn đã có những phân tích rất sâu sắc và thuyết phục về thời gian nghệ thuật trong
Cung oán ngâm khúc. Tuy nhiên, do giới hạn của một bài viết tạp chí nên nhà nghiên
cứu vẫn chưa làm nổi bật ảnh hưởng của thể thơ song thất lục bát đến những đặc điểm
của thời gian nghệ thuật trong tác phẩm.

5


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong niên luận này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là thời gian nghệ thuật
và phạm vi nghiên cứu chính là tác phẩm Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều. Cụ
thể, chúng tôi sử dụng bản trong quyển Cung oán ngâm khúc bằng tranh của Nhà xuất
bản Văn hoá dân tộc (2004)
4. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp loại hình
Trong suốt quá trình thực hiện niên luận, để làm nổi bật thời gian nghệ thuật của
của tác phẩm, chúng tôi sẽ căn cứ vào các đặc trưng về nội dung tư tưởng và nghệ thuật
của thể loại ngâm khúc.
b) Phương pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp này chúng tôi áp dụng cụ thể trong việc phân tích tác phẩm theo
những dẫn chứng cụ thể mà chúng tôi tìm thấy trong tác phẩm. Sau đó chúng tôi tiến
hành tổng hợp bằng cách tập hợp những dẫn chứng đã phân tích vào từng đặc điểm của
thời gian nghệ thuật. Sau đó chúng tôi sẽ nêu chức năng, lý giải nguyên nhân của các
đặc điểm này.
c) Phương pháp thống kê - phân loại

Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong quá trình người viết tìm kiếm các
biểu hiện cụ thể thể hiện “cảm thức bi ai” của thể ngâm như từ ngữ, câu, giọng điệu…
d) Phương pháp hệ thống
Tiểu lụân đặt vấn đề nghiên cứu thời gian nghệ thuật tươg quan với các yếu tố
khác trong hệ thống thi pháp thể loại để thấy đây là một trong những yếu tố cơ bản
6


nhất. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa nội dung tìm hiểu vào truyền thống thơ đương thời
để phần nào thấy sự tiếp nối, gặp gỡ và khác biệt.
e) Phương pháp lịch sử
Chúng tôi phân tích thời gian nghệ thuật trên cơ sở xem xét những tác động của
các sự kiện lịch sử, xã hội đến văn học nói chung và thi pháp văn học nói riêng. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng xem xét những đánh giá về thời gian nghệ thuật có sự thay đổi
theo dòng chảy lịch sử.
5. Cấu trúc niên luận
Niên luận gồm có 3 chương chính
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Thời gian nghệ thuật trong Cung oán ngâm khúc
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện thời gian trong Cung oán ngâm khúc

7


B - PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thời đại
Thời đại mà chúng tôi muốn đề cập đến không phải chỉ riêng những năm tháng
mà tác giả đã sống mà mở rộng ra cả một giai đoạn lịch sử xã hội với những đặc trưng
phân biệt với các giai đoạn khác.

Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều thuộc giai đoạn văn học nửa sau thế
kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Giai đoạn này có những đặc trưng lịch sử - xã hội như
sự sụp đổ của chế độ phong kiến và tình cảnh cơ cực của người dân, sức mạnh quật
khởi của phong trào nông dân khởi nghĩa, kinh tế hàng hoá phát triển và tầng lớp thị
dân xuất hiện. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào những đặc trưng ít nhiều có
liên quan đến vấn đề chính của niên luận.
1.1.1. Những sự kiện quan trọng
1.1.1.1 Sự sụp đổ của chế độ phong kiến
Chế độ phong kiến Việt Nam sau khi phát triển đến đỉnh cao với triều Lê Thánh
Tông thì dần dần đi vào gia đoạn khủng hoảng. Nội chiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn
phá hoại nghiêm trọng sự thống nhất đất nước. Thế kỉ XVIII nội chiến phong kiến
không còn nhưng thỉnh thoảng vẫn có một vài mâu thuẫn giữa hai tập doàn Lê - Trịnh
hoặc ngay trong nội bộ họ Trịnh.
Đặc biệt vua chúa thế kỉ này chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, xây nhiều cung thất
nguy nga, tuyển chọn rất nhiều cung tần mĩ nữ. Hoàng Lê nhất thống chí nói về vua Lê
Hiển Tông: “quanh năm suốt tháng chỉ biết khoanh tay rũ áo làm trò mua vui bên đám
8


cung nữ”[1; 124], về chúa Trịnh Sâm: “Sâm dần dần sinh ra xa xỉ kiêu căng, cung tần
thị nữ kén vào rất nhiều, ngày đêm mặc sức mua vua không còn e lệ gì nữa.”[1; 124]
Tình trạng cung vua phủ chúa có vài trăm cung nữ này chính là cơ sở hiện thực cho
tình cảnh người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc.
Một điều đáng lưu ý ở giai đoạn này là tình trạng mua quan bán tước. Điều này
có nguyên do là những cuộc chiến tranh liên miên khiến ngân khố triều đình kiệt quệ
nên triều đình phải hạ bệ giá trị tinh thần của các chức danh xuống, đem chúng ra ngã
giá. Họ Trịnh đặt ra lệ “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức
một bậc. Còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800
quan thì được bổ tri huyện.”[1; 124] Chưa bao giờ vinh hoa phú quý lại dễ dàng đạt
đến như vậy và người bình thường khi mờ mắt trước “mồi phú quý”, “bả vinh hoa” sẵn

sàng đổi lấy cho mình một danh phận, dù là hư danh.
Đời sống người dân hết sức cơ cực (trừ một giai đoạn rất ngắn của triều đại Tây
Sơn) vì vua chúa ngoài quyền lợi của bản thân không còn biết đến điều gì. Người dân
phải chịu thiên tai, mất mùa, sưu cao, thuế nặng mà không có sự hỗ trợ cuả nhà nước.
Cuộc sống con người lúc này chồng chất khổ đau đã khơi nguồn cảm hứng nhân đạo
cho rất nhiều tác giả. Có thể cho rằng đây là cơ sở hiện thực cho những triết luận về sự
hư huyễn của cuộc đời trong Cung oán ngâm khúc.
1.1.1.2. Sức mạnh quật khởi của phong trào nông dân khởi nghĩa
Nhắc đến phong trào nông dân khởi nghĩa giai đoạn này, chúng tôi chỉ tập trung
đánh giá nó như một biểu hiện của tinh thần phản kháng trong con người nói chung.
Tuy vậy, những phong trào này hết thảy đều bị thẳng tay đàn áp. Khởi nghĩa của nông
dân cũng có thể xem là một loại chiến tranh và tất sẽ có đổ máu. Chiến tranh và những

9


mất mát, loạn li mà nó gây ra cũng là nguyên nhân nảy sinh cảm thức hư vô về kiếp
người con của người đương thời, làm cơ sở cho triết luận trong tác phẩm.
1.1.1.3. Kinh tế hàng hoá phát triển và tầng lớp thị dân xuất hiện
Kinh tế hàng hoá phát triển nhờ chính sách mở cửa thông thương với các thương
nhân nước ngoài bắt đầu từ thế kỉ XVII. Sinh hoạt mua bán li khai quan hệ sản xuất
phong kiến. Tư tưởng của các thương nhân Việt Nam nhờ chính sách mở cửa mà cũng
trở nên tự do phóng túng so với tư tưởng những người nông dân quanh năm gắn bó với
ruộng đồng. Họ đi đây đi đó và bắt đầu cảm thấy tư tưởng Nho giáo lạc hậu, trói buộc
con người. Chính tư tưởng của họ là bước đầu của sự vùng lên phản kháng giải phóng
con người cá nhân, quyền khẳng định bản ngã vượt lên vòng cương toả của lễ giáo
phong kiến. Đây không chỉ là nền tảng cho chủ nghĩa nhân đạo phát triển mà còn là cơ
sở cho cá tính nổi loạn của người cung nữ dưới sự khắc hoạ của Nguyễn Gia Thiều.
1.1.2. Bi kịch thời đại
Trong thời kì này, bi kịch thời đại chính là những cuộc chiến tranh nông dân nổ

ra liên miên nhưng không đem lại một kết quả bền vững lâu dài. Nhân dân vẫn tiếp tục
sống trong cảnh cùng cực với chế độ phong kiến thậm chí còn hà khắc hơn trước. Đây
không phải bi kịch của riêng một cá nhân mà là của cả một lớp người.
1.1.3 Ý thức xã hội
Như đã trình bày phần nào, những biến thiên trong xã hội đã ảnh hưởng đến tư
tưởng con người. Nho giáo không còn là hệ giá trị tư tưởng chuẩn mực mà đã xuống
cấp, địa vị độc tôn bị lung lay nên con người tìm sự xoa dịu tinh thần trong những hệ tư
tưởng triết học khác hay tìm đến tôn giáo. Đặc biệt, cửa Phật là một trong những chốn
nương náu cho những con người bế tắc trước cuộc sống và điều này đã xuất hiện trong
10


tác phẩm. Tuy nhiên, không phải lúc nào những lựa chọn như thế cũng dễ dàng thực
hiện. Số đông những người còn lại cố giữ cho tâm trong sạch, không quay lưng với
cuộc đời.
1.1.4 Chủ nghĩa nhân đạo
Giai đoạn thế kỉ XVIII, XIX, đất nước nhìn chung đã thoát khỏi nạn ngoại xâm
và vấn đề dân tộc được đưa xuống hàng thứ yếu. Sự xuống cấp của chế độ phong kiến
làm đảo điên mọi giá trị vững bền và con người bị xoay vòng trong cuộc đời nhiều biến
động. Vấn đề con người lúc này được xem là chính. Số phận con người được quan tâm
hơn cả và trong các sáng tác văn học, con người cá nhân được xây dựng trong thế đối
lập với chế độ xã hội.
Những giông bão trong sự biến chuyển của xã hội làm dấy lên vấn đề về số phận
con người, khơi gợi nỗi bất bình và khát khao, hy vọng tìm kiếm cuộc sống hạnh phúc,
êm ấm cho những người bất hạnh, đây là xu hướng tìm kiếm sự vẹn toàn, những điều
tốt đẹp trong cuộc sống. Tư tưởng nhân đạo bắt đầu từ đây với những biểu hiện cụ thể
như sau:
• Vạch trần sự thối nát, tàn bạo của giai cấp thống trị, sự sụp đổ các tín điều Nho
giáo, tố cáo mạnh mẽ mọi tội ác áp bức bất công với nhân dân.
• Bày tỏ lòng thương yêu con người, nhất là người phụ nữ.

• Khẳng định con người - cá nhân như một thực thể tồn tại đối lập với con người quan hệ phong kiến Nho giáo, đồng thời khẳng định đời sống trần tục và thế giới
nội tâm phong phú của con người.
1.2. Khuynh hướng văn học
Bối cảnh rối ren của xã hội do sự suy tàn của chế độ phong kiến là hiện thực để
các nhà văn bày tỏ sự phê phán. Khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội đương thời,
11


so với các khuynh hướng khác, có thể nói bao gồm được hết các tác gia tiêu biểu và các
tác phẩm chủ yếu của thời đại. Khuynh hướng này tập trung sâu sắc vào các vấn đề
như: chiến tranh và hạnh phúc lứa đôi, tình yêu tự do và đấu tranh chống giai cấp thống
trị.
Về khuynh hướng trữ tình lãng mạn, đây là một khuynh hướng có quan hệ chặt
chẽ với khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội đương thời. Xã hội càng rối ren, các
thế lực xấu càng lên ngôi thì giá trị con người cũng bị huỷ hoại. Từ đó, các sáng tác
mang nặng sự giãi bày xúc cảm ra đời, tiếng nói cá nhân được cất lên và những cá tính
nổi loạn bắt đầu lộ diện. Bên cạnh những tác phẩm mang nặng tâm sự ai hoài “cố
quốc” còn có những tác phẩm bày tỏ những tâm sự riêng tư và rất đa dạng của con
người như chuyện lứa đôi.
Nhìn chung, Cung oán ngâm khúc có mang hai khuynh hướng vừa nêu. Ở
khuynh hướng phê phán hiện thực, Cung oán ngâm khúc là tiếng nói đòi sự công bằng
cho hạnh phúc lứa đôi, tình yêu tự do. Ở khuynh hướng trữ tình lãng mạn, thể ngâm
khúc - một thể loại trữ tình nói chung và Cung oán ngâm khúc nói riêng là mảnh đất
dạt dào tình cảm ở nhiều cung bậc khác nhau, là chuỗi những hồi ức đan xen hiện thực
và sự biến chuyển tinh vi của tâm trạng nhân vật. Chỉ riêng tâm sự xuyên suốt của
người cung nữ về tình yêu đã đủ để Cung oán ngâm khúc mang khuynh hướng trữ tình
lãng mạn
1.3. Tác giả
1.3.1. Về gia thế
Nguyễn Gia Thiều sinh năm Tân Dậu (1741), ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm,

huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là thôn Liễu Ngạn, xã Ngũ Thái,
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình quý tộc. Ông nội Nguyễn Gia Thiều là
12


Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước Siêu Quận
công. Bà nội ông là bà Cảo Phu Nhân là em họ bà chúa Ghênh - Thái Phi Trương thị
Ngoc Chử và là vú nuôi của chúa Trịnh Cương. Cha của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn
Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước Quận công, hai người chú bác của ông
cũng là Quận Công. Mẹ của ông là quận chúa Quỳnh Liên, con gái An Đô vương Trịnh
Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu
ruột, và là con cô con cậu với chúa Trịnh Sâm. Vợ của Nguyễn Gia Thiều là con gái
trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
1.3.2. Về con người và sự nghiệp
Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm, sáu tuổi Nguyễn
Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúa. Ông nổi tiếng là người thông minh, học
rộng, văn võ toàn tài, tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật, trong đó có kiến trúc. Các
công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn nhưng trong sáng tác
văn học thì tri thức nghệ thuật của ông được phản ánh khá rõ và trong năm 1759 khi
mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy
Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Nguyễn Gia Thiều là một
người rất được chúa Trịnh tin dùng. Vì có công nên ông được phong tước hầu - Ôn
Như Hầu.
Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng,
Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ
và cùng bạn bè bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt
hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không
còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết
điều đó, nên ông chán nản bỏ về.
13



Năm 1786, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn
lên miền núi xứ Hưng Hóa. Năm 1789, Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, lập ra
triều Tây Sơn. Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều
đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chối.
Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy cho tới khi mất vào ngày 9 tháng 5 Mậu
Ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798, thọ 57 tuổi.
Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có tập thơ chữ Hán là Ôn Như thi tập nhưng đã
thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc, ông còn có Tây hồ
thi tập và Tứ trai thi tập, hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập Xuyết thập tạp ký
của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều là một người nghệ sĩ. Ông am tường cầm kỳ thi họa thì tâm
hồn đã có nền tảng nghệ thuật căn bản. Tài nghệ ấy thể hiện trọn đủ trong tác phẩm
Cung oán ngâm khúc.
Nguyễn Gia Thiều cũng có khuynh hướng của một tu sĩ. Ông không có bút hiệu.
Người đương thời gọi ông bằng tước hiệu của ông và ông tự đặt cho mình bốn pháp
hiệu mà hai hiệu Tâm Thi Viên Tử và Hy Tôn Tử là môn đệ của Lão Trang, hai hiệu
Sưu Chân và Như Ý Thiền là đệ tử của Phật Thích Ca. Đời ông không có điều gì khiến
đến thay tên, thọ pháp, quy y. Ông tự đặt cho mình bốn pháp hiệu là vì ông có sẵn tâm
đạo
Đứng ở địa vị tu sĩ, ông giác ngộ phần nào, nhận ra cõi đời sắc giới chẳng qua là
hư huyễn. Tuy vậy, với tâm hồn nghệ sĩ, ông không lấy gươm trí tụê chặt đứt liên hệ
với cõi hồng trần.
Như vậy, bàn về cuộc đời của Nguyễn Gia Thiều, chúng ta nhận ra một vài vấn
đề như sau. Thứ nhất, ông là người thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, học vấn uyên
14


bác, và một thời được chúa tin yêu. Chính điều này sẽ là nền tảng cho sự bộc lộ cái tôi

ngạo nghễ, ý thức về sắc đẹp “khuynh thành”, tài năng phong phú của hình tượng
người cung nữ mà ông xây dựng. Tuy nhiên, mối quan hệ gần gũi với nhà chúa cũng
gây cho Nguyễn Gia Thiều những ấn tượng tiêu cực về cuộc sống của chúa. Hình ảnh
người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc không chỉ là chiếc mặt nạ của Nguyễn Gia
Thiều để bày tỏ tâm sự bản thân mà đó còn là nguyên mẫu, là số phận đại diện của mấy
trăm cung nữ trong phủ chúa. Ông hiểu sâu sắc về hoàn cảnh những người cung nữ, và
nêu lên những nét rất tinh vi về những biến chuyển tâm trạng của họ. Tiếp đến, chúng
ta sẽ chú ý đến những biến cố liên tục của thời đại mà Nguyễn Gia Thiều đang sống
cùng việc ông không được trọng dụng nữa. Đây là cơ sở cho những nỗi oán hờn khôn
nguôi vì thất sủng hay triết luận về sự hư vô của đời người của người cung nữ trong
Cung oán ngâm khúc.
1.4. Tác phẩm
Cung oán ngâm khúc (宮怨吟曲) được xem là sáng tác chữ Nôm có giá trị
nhất còn lưu giữ được đến ngày nay trong số những sáng tác của Nguyễn Gia Thiều.
Tác phẩm gồm 356 câu thơ Nôm làm theo thể song thất lục bát.
Ngâm khúc ( 吟曲 ) là một trong những thể loại trữ tình. Sự xuất hiện của ngâm
khúc đánh dấu nhu cầu một nội dung biểu đạt mới. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt
thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát. Có khúc ngâm không viết bằng thể thơ
song thất lục bát và cũng có những bài làm theo thể thơ đó những không phải là ngâm.
Trước thế kỉ XVIII, các sáng tác bằng thể thơ song thất lục bát chưa hề có thể ngâm.
Ngâm nguyên là tên một thể thơ ca cổ ở Trung Quốc. Nguyên Chẩn đời Đường trong
một bài tựa viết: “Thi kết thúc ở đời nhà Chu, Ly tao kết thúc ở nước Sở. Sau đó dong
thơ chia thành 24 tên gọi : phú, tụng, minh tán, văn, luỵ, châm, dao, âu ca khúc từ điệu
15


đều là sự nối tiếp của lục nghĩa”. Đời tống có Lũng đầu ngâm thuộc cổ từ, Lương phủ
ngâm của Khổng Minh, Bạch đầu ngâm của Tương Như. Nội dung thể loại của thể
ngâm là niềm thương tiếc, đau xót khôn nguôi cho những giá trị nhân sinh bị mất
(người chết, tuổi trẻ phôi pha, tình yêu bị phai nhạt, rẻ rúng…). Nhân vật trữ tình hồi

tưởng lại từng kỷ niệm trong quá khứ với tâm trạng buồn đau, tiếc nuối nhưng không
sao quay trở lại, không sao cứu vãn được. Với nội dung như thế, các khúc ngâm có giá
trị ở Việt Nam gắn với thể song thất lục bát là một điều có thể giải thích. Thể song thất
lục bát có nhiều vần. Tính nhiều vần của khuôn thơ làm cho tình cảm nhớ tiếc lại được
thể hiện nổi bật. Vần có tác dụng buộc người ta nhớ lại cái vần có trước và tô đậm cho
nó.
Về nội dung, Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ có tài sắc,
lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân hết sức nồng nàn thắm thiết "mây mưa mấy
giọt chung tình - đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn", nhưng chẳng bao lâu đã bị
ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ
bạc "chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi". Tâm trạng của người cung nữ không ngừng
biến chuyển và cảm xúc của nàng rất sâu sắc. Nhưng đến cuối cùng nàng vẫn tiếp tục
bị giam cầm trong cung điện vàng son, trong nỗi buồn đau sầu thảm và oán hờn chất
chứa. Nàng vẫn khát khao có lại những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa "giọt mưa cửu hạn
còn mơ đến rày", vẫn mong chờ được nhà vua đoái hoài đến dù đôi lúc tưởng như nàng
đã tuyệt vọng.

16


CHƯƠNG 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CUNG OÁN NGÂM KHÚC
2.1. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một khái niệm rất mới của khoa học văn học, được coi là
một trong những thành tựu nổi bật nhất của khoa nghiên cứu văn học hiện đại. Trước
thế kỉ XX, nó hầu như chưa được ý thức.
2.1.1. Khái niệm
“Thời gian nghệ thuật là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Tác phẩm
cần một lượng thời gian để mở ra trước mắt người đọc. Thời gian nghệ thuật không
đồng nhất với thời gian vật chất thực tại. Thời gian trong thế giới nghệ thuật có độ
dài, nhịp dộ, tốc độ, có ba chiều quá khứ, hiện tại tương lai khác với thời gian thực

tại.”[7; 85]
Đây là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế
giới vật chất[…] đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh như là một yếu
tố của nó[11; 157]. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học không giống với thời
gian và không gian thực tế. Nếu thời gian thực tế là thời gian vật lý thì thời gian nghệ
thuật trong tác phẩm văn học chủ yếu là do con người tạo ra nhằm mục đích nghệ
thuật.
2.1.2. Cấu trúc của thời gian nghệ thuật
Trần Đình Sử khi nghiên cứu về thi pháp học đã chia thời gian nghệ thuật thành
thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật.
2.1.2.1. Thời gian trần thuật

17


Thời gian trần thuật là thời gian vận động theo dòng vận động tuyến tính, một
chiều của văn bản ngôn từ. Nói văn học là nghệ thuật thời gian bởi vì văn học diễn đạt
các sự vật, hiện tượng theo trật tự thời gian của lời nói liên tục, từ câu đầu cho đến câu
cuối cùng, không đảo ngược. Khái niệm trần thuật được dùng với ý nghĩa rất khái quát
- không chỉ là cho loại tự sự, mà cho mọi văn bản văn học, nghĩa là sự tổ chức văn bản
miêu tả, biểu hiện của chủ thể để thể hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Trong văn
học cổ Việt Nam người ta thường gọi thơ trữ tình là “tự tình”, “trần tình”, “tự thuật”
tức là kể nỗi lòng, trình bày tình cảm.
Thời gian trần thuật là thời gian của người kể, của sự kể. Thứ nhất, nó có mở đầu
và kết thúc nên là thời gian hữu hạn. Thứ hai, nó có tốc độ và nhịp độ riêng do người
kể có thể kể nhanh hoặc chậm, nghĩa là có thể kể lướt hay tỉ mỉ, dừng lại miêu tả chi
tiết. Thứ ba, do nó có tính không đảo ngược nên nó có thể sắp xếp lại trật tự thời gian
của sự việc vào trật tự trước sau của nó. Nó có thể đem cái xảy ra sau kể trước, đem cái
xảy ra trước kể sau. Thứ tư, thời gian trần thuật luôn mnag thời hiện tại. Khi ta đọc một
bài thơ trữ tình cổ là ta nhập thời hiện tại của tác giả vào thời hiện tại của người đọc là

ta, và tạo thành một thời gian nghệ thuật.
2.1.2.2. Thời gian được trần thuật
Trong lời nói, ta phân biệt được hai sự kiện: sự kiện nói và sự kiện được nói thì
trong văn học chúng ta cũng phân biệt được thời gian trần thuật và thời gian được trần
thuật. Thời gian được trần thuật là thời gian của sự kiện được nói tới. Đây chưa phải là
thời gian nghệ thuật, nhưng là cơ sở của nó. Thời gian được trần thuật bao gồm:
a) Thời gian sự kiện: là chuỗi liên tục của các sự kiện trong quan hệ liên tục trước sau,
nhân quả. Có người gọi đây là thời gian lịch sử, thời gian tích truyện. thời gian sự kiện
có thể tính theo độ dài thời gian mà nó diễn ra.
18


b) Thời gian nhân vật: bao gồm thời gian tiểu sử và thời gian được nếm trải qua tâm
hồn nhân vật. Thời gian tiểu sử bao gồm các giai đoạn được đánh dấu bởi những sự
kiện quan trọng như ngày sinh, ngày đỗ đạt, ngày cưới, ngày mất,…Thời gian sinh
mệnh cũng thuộc thời gian con người. Hoạt động tâm lý, dòng ý thức tạo thành thời
gian nhân vật. Có những sự kiện cứ bám lấy tâm lý con người làm cho thời gian tâm lý
dừng lại. Nếu nhân vật thiếu đời sống nội tâm thì thời gian của nó chỉ tồn tại trên cấp
độ sự kiện nhân quả, trên cấp độ thời gian đồng hồ và lịch.
c) Thời gian thiên nhiên: gồm cuộc vận hành của vũ trụ, các mùa trong năm và các
thức của chúng, các buổi trong ngày, các giai đoạn chuyển thời tiết trong năm,… Thời
gian thiên nhiên có vị trí to lớn trong tâm hồn con người.
d) Thời gian sinh hoạt: thời gian con người thực hiện các hoạt động sống. Đi sâu vào
lớp thời gian này người ta sẽ hiểu được trạng thái sống và tồn tại của con người
e) Thời gian phong tục: đó là thời gian của các phiên chợ, các tuần chay, các ngày cúng
giỗ, các ngày lễ tiết trong năm, tạo thành nhịp độ chung của cuộc sống từng vùng
e) Thời gian xã hội, lịch sử: đó là thời gian thay đổi sơn hà, sự hưng phế, thinh suy của
xã hội. Nó được đánh dấu bằng các sự kiện lên ngôi, niên hiệu, chiến tranh, nội chiến,
ngày giải phóng, ngày hoà bình, các đổi thay trong chính sách làm thay đổi cuộc sống
và số phận con người.

Không phải mọi thứ liên quan đến thời gian của tác phẩm đều là thời gian nghệ
thuật[25; 6]. Thời gian chỉ chuyển hoá thành thời gian nghệ thuật khi nó cùng các yếu
tố khác như kết cấu thể hiện quan niệm của người sáng tác thể hiện quan niệm của nhà
văn về con người và cuộc đời

19


2.2. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm trữ tình trung đại
Thời gian là hình thức tồn tại của thế giới, của cuộc sống con người. Mọi cảm
nhận về sự tồn của con người đều gắn với cảm nhận về thời gian. Con người cảm nhận
thời gian từ sự đổi thay của chính mình và của thế giới xung quanh.
Không thể phủ nhận thơ ca Việt Nam hình thành trước hết là ở bộ phận thơ chữ
Hán. Việc tiếp thu không tránh khỏi sự ảnh hưởng của mô hình tư duy, cách cảm nhận
thế giới. Như vậy, thời gian trong thơ ca trung đại với số lượng lớn những sáng tác
bằng chữ Hán phải được phân tích dựa trên những ảnh hưởng của phạm trù ấy từ thơ ca
Trung Quốc.
Trước hết là những quy phạm về thời gian có nguồn gốc từ các hệ tư tưởng triết
học lớn của Trung Quốc, có thể kể đến tư tưởng nhập thế giúp đời của Nho giáo và vô
vi của Đạo giáo, tư tưởng tái sinh và luân hồi của Phật giáo.
2.2.1. Cảm thức thời gian dưới ảnh hưởng của Nho giáo
Với tư tưởng Nho giáo, con người phải làm đúng với danh phận của mình, gọi là
thuyết chính danh. Nho giáo lấy con người làm bản vị.[9; 194] Nam nhi phải tu thân tề gia - trị quốc - bình thiên hạ, nữ nhi phải có nơi để nâng khăn sửa túi, phải giữ đạo
tam tòng. Như vậy, mọi cá nhân trong cõi trời đất có những nhiệm vụ nhất định phải
thực hiện và phải làm sao để khi dứt cõi trần thì các nhiệm vụ ấy đã hoàn thành. Đặc
biệt với nam nhi, chưa hoàn thành bổn phận nghĩa là còn nặng nợ với non sông. Dẫu
vậy, không phải ai cũng có thời gian đủ để thực hiện hết bổn phận của mình với cuộc
đời, để thoả chí, để thực hiện hết những gì mình mơ ước. Từ đó, con người mang tâm
thế của một kẻ gấp, vội, hăng hái nhập thế, níu giữ thời gian cho mình. Con người trở
nên nhạy cảm vô cùng với thời gian tuyến tính, chảy trôi, một đi không trở lại, thời

gian trôi nhanh vô tình.
20


Với sự ảnh hưởng của tư tưởng này, cảm thức thời gian là cảm thức thời gian
trôi nhanh vô tình.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma
(Đặng Dung - Cảm hoài)
(Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài.)
Những dòng thơ của Đặng Dung mang nặng sự nuối tiếc của kẻ không thể hoàn thành
chí lớn, không thực hiện trọn vẹn bổn phận với non sông. Và không chỉ riêng người
quân tử, các bậc giai nhân cũng ý thức sâu sắc về thời gian chảy trôi liên tục. Người
phụ nữ lý tưởng trong văn học trung đại thường là những người đẹp, tài năng. Đối với
họ, thời gian là một yếu tố gắn với sự tàn phai nhan sắc, cũng có thể đồng nghĩa với sự
nhạt phai tình cảm của người khác với mình. Văn học trung quốc từ thời tiên tần đã có
những dòng viết về thời gian oan nghiệt của con người xuất chúng.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
(Chinh phụ ngâm)
2.2.2. Cảm thức thời gian dưới ảnh hưởng của Phật giáo

21


Tư tưởng Phật giáo cho rằng đời người chỉ là một kiếp trong rất nhiều kiếp của
một sinh thể. Sự xoay vòng của thời gian đưa đến sự bắt đầu lại ở một kiếp mới. Mỗi

một sự sinh trưởng đã hàm chứa tương lại lụi tàn và trong sự lụi tàn đã thai nghén mầm
mống tái sinh. Vạn vật sinh diệt trong trời đất là lẽ thường tình và sinh diệt chính là để
chuyển hoá, để thay đổi. Như vậy, thời gian có sự tuần hoàn như sinh thể có sự luân
hồi.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Mãn Giác thiền sư - Cáo tât thị chúng)
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
Chính cành mai muộn màng ấy đã khẳng định cuộc sống bất diệt, mùa xuân vĩnh hằng.
Thiền sư Mãn Giác thấu hiểu sự chuyển hoá của vạn vật nên đã đặt được cành mai ấy
vào bài thi kệ của mình trước lúc viên tịch. Thiền sư không bị vướng bận vào cảm giác
bi quan dù nhìn thấy sự vô thường trong vòng sinh hoá, người chỉ nêu lên một sự thật
rất tự nhiên trong quy luật sinh hoá của vũ trụ vạn vật. Trong cõi đời, thời gian tuần
hoàn đưa đến những sự bắt đầu, những sự sinh diệt tự nhiên, vì thế, tâm thế con người
đạt đạo là thuận hoà theo những biến chuyển đó.
Xuân qua lại ngỡ xuân tàn
Hoa dù rụng nở vẫn hoàn tiết xuân
2.2.3. Cảm thức thời gian dưới ảnh hưởng của Đạo giáo

22


Tuy vậy, Đạo giáo lại tác động đến cảm thức gian của con người và xoay chuyển
theo một hướng khác. Đạo giáo lấy thiên nhiên vũ trụ làm bản vị [9,194] Tư tưởng vô
vi của Đạo giáo hướng con người đến cuộc sống tự nhiên. Ở đó, con người không có
một tác động nào ngược với cái tất yếu, ngược với sự phát triển tự nhiên của vạn vật.
Theo Đạo giáo, con người và vạn vật là một, vì vậy sự nhập thế ở Đạo giáo không
mang tính can thiệp vào vạn vật. Mọi đổi thay của đời người chỉ “như hạt móc trên đầu
ngọn cỏ”, chỉ có thiên nhiên vũ trụ là vĩnh hằng, vô hạn, vô thuỷ, vô chung[9; 194].

Con người đạt đạo là con người hiểu được sự ngắn ngủi của kiếp người và hoà mình
vao thiên nhiên. Trong sự hoà hợp đó, con người vượt lên khỏi tâm thế ý thức cuộc đời
ngắn ngủi mà hướng đến cảm giác vô thời gian.
Thời gian vũ trụ tĩnh tại, bất biến thường bắt gặp trong sáng tác trữ tình thuộc
giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII, đặc biệt ở thơ thiền Lý - Trần. Trong đó, có thể
nói thơ thiền ý của đời Trần mang cảm thức thời gian này rõ nét hơn thơ thiền Lý. Thơ
thiền đời Trần gắn liền với hình ảnh thiên nhiên và từ đó cảm thức thời gian vũ trụ bất
biến hiện lên có sự hoà quyện với hình tượng nghệ thuật.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Không Lộ thiền sư - Ngư nhàn
(Ông chài ngủ tít ai lay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.)
Hình ảnh người đánh cá ngủ quên trên chiếc thuyền trong khoảnh khắc tuyết phủ. Ở
vào cái trạng thái “ngủ quên” đã có một sự hoà hợp trong vô thức với thiên nhiên.
Người đánh cá như một sự vật tồn hiện giữa đất trời mà không mảy may làm tác động
23


vào những bước chuyển mình đẹp nhất của thiên nhiên. Khoảnh khắc ngộ ra “tuyết
mãn thuyền” khi thức dậy là một sự ngạc nhiên dịu dàng của con người. Cảnh tuyết
bay không ai chờ đợi và tâm thế của người đánh cá cũng không chờ đợi. Trong phút
giây người đánh cá say ngủ giữa khung trời tuyết bay, thời gian đã ngưng đọng thành
vĩnh cửu. Đây là một trong những ví dụ cho khoảnh khắc thời gian vĩnh cửu, thời gian
đốn ngộ của thơ thiền. Những quan niệm về thời gian trên không tách biệt rạch ròi
trong tác phẩm trữ tình mà có sự đan xen, hoà quyện. Chẳng hạn như thơ thiền Lý Trần
mặc dù mang ý vị thiền của phật giáo Thiền Tông nhưng vẫn có mang cảm thức vô thời
gian của Đạo giáo bên cạnh cảm thức thời gian tuần hoàn.
Tuy nhiên, những ảnh hưởng của Đạo giáo đến cảm thức thời gian không chỉ
được các tín đồ Đạo giáo tiếp nhận mà bất kể những người có tư tưởng tiến bộ và có tài

năng nghệ thuật đều có thể tri nhận. Bằng chứng là tuy các cảm thức về thời gian có sự
hoà điệu ở những tác giả. Tầng lớp nho sĩ cũng có rất nhiều sáng tác trữ tình mang
cảm thức thời gian bất biến, tĩnh tại.
Hé cửa đêm chờ hương quế lọt
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan
(Nguyễn Trãi)
Các nhà nho này một phần vì mang tâm hồn nghệ sĩ mà yêu chuộng thiên nhiên, một
phần do cuộc sống ẩn dật vào giai đoạn “xuất thế” mà trở nên gần gũi với “bản vị thiên
nhiên” của Đạo giáo. Cuộc sống không can thiệp vào chuyện thế gian một phần đưa
những nhà nho đến việc cảm nhận và trân trọng cái đẹp vi diệu trong từng khoảnh khắc
thời gian.

24


Có thể nói, thời gian con người xuất chúng đã trình bày ở sự ảnh hưởng của Nho
giáo gắn liền với sự luyến tiếc quá khứ tươi đẹp. Bởi lẽ sự xuất chúng có thể trường
cửu trong tâm thức con người nhưng mau chóng lụi tàn ở thực tế. Và trước khi đến với
sự suy tàn của chế độ phong kiến từ cuối thế kỉ XVII, con người đã mang tâm trạng hồi
cố thuở huy hoàng của triều đại, của đời người. Đến giai đoạn lịch sử bão táp từ nửa
đầu thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, sự suy tàn và thối nát của xã hội phong kiến từ thế kỉ
XVIII trở về sau đã làm thay đổi các cảm thức thời gian. Con người lâm vào những
cuộc bể dâu đã mất đi cảm giác bất biến vô biên của thời gian thuở trước. Họ được mài
sắc thêm cảm giác về sự trôi chảy của thời gian, sự mai một của những thời đại ra đi
không trở lại. Điều này có phần nào giống với cảm thức hiện sinh trong thơ ca hiện đại.
Với những đổi thay của cuộc sống, con người dần dần cảm nhận rõ hơn sự phù du của
kiếp người.
2.3. Thời gian nghệ thuật trong Cung oán ngâm khúc
2.3.1 Thời gian vũ trụ bất biến
Nói đến thời gian vũ trụ tức là đề cập đến thời gian thiên nhiên. Trong Cung oán

ngâm khúc, thời gian thiên nhiên là thời gian các mùa, thời gian các buổi trong ngày.
Sự bất biến của thời gian vũ trụ mà chúng tôi muốn nói đến không phải tính vô thời
gian trong thơ thiền hay thời gian tĩnh tại của thơ một số nhà Nho. Thời gian thiên
nhiên - vũ trụ có trôi chảy, nhưng so với đời người thì không khác gì sự bất biến.
Chúng tôi lựa chọn hệ quy chiếu, xem xét thời gian vũ trụ trong tương quan với thời
gian tuổi xuân của người cung nữ và thời gian sinh tồn của vạn vật. Ở đó, thời gian tồn
tại vô tình và đưa những thứ dẫu có vô vàn tươi đẹp cũng về cát bụi. Sự bất biến của
thời gian trong Cung oán ngâm khúc chính là sự tồn tại vô tình và nghiệt ngã của nó, là
sự vĩnh hằng trước vạn vật biến chuyển không ngừng.

25


×