Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Di sản văn hóa cố đô huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 34 trang )

CỐ ĐÔ HUẾ
MỞ ĐẦU
1. Lịch sử vấn đề
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc đề tài
NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề chung
1.1 khái quát về Thừa Thiên Huế
1.1.1 Vị trí địa lý
1.1.2 Lịch sử - văn hóa
Chương II: Tìm hiểu về quần thể di tích cố đô Huế
2.1 Các di tích trong kinh thành
2.2 Các di tích ngoài kinh thành
Chương III: Những điều thú vị khi đến với Huế
KẾT LUẬN
Tài LIỆU THAM KHẢO


Mở ĐẦU
1. Lịch sử vấn đề

Tìm hiểu nghiên cứu về quần thể di tích cố đô Huế là nội dung được các nhà nghiên cứu
lịch sử, khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa… trong và ngoài nước đáng quan tâm và lưu ý.
Trong khuôn khổ đề tài, nhóm chúng tôi đã tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề này với
một số nguồn bài viết và công trình của các nhà nghiên cứu.
Qua việc tiếp cận một số tài liệu của các nhà nghiên cứu như tác giả Phạm Thị
Dung là một cử nhân Sư phạm Ngữ Văn sinh ra và lớn lên ở Huế. Dòng máu quê hương
đã đem lại cho con người chị nguồn cảm hứng vô tận về miền đất thần kinh này. Với
mong muốn đưa Huế đến với những ai yêu Huế, muốn khám phá Huế, chị đã cho ra đời


tác phẩm “Huế - qua miền di sản” dày 331 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm do NXB Thuận Hóa
ấn hành. Cuốn sách nhỏ này là những trang giấy ghi lại ký ức gắn bó với Huế, những suy
nghĩ về những di tích, danh thắng cố đô, những tư liệu sưu tầm cho công tác hướng dẫn
trong gần 20 năm qua của tác giả tại Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế.
Ngoài ra nhóm chúng tôi còn tham khảo một số trang mạng để tìm hiểu thêm thông
tin.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đề tài này nhóm chúng tôi muốn đi tìm những nét đẹp cổ kính và một số
công trình của cố đô Huế. Qua đó giúp cho việc nghiên cứu sâu sắc hơn về niên đại,
phong cách và chức năng của cố đô Huế. Đồng thời trình bày những hiện trạng của cố đô
ngày nay và đưa ra những kiến nghị về bảo tồn và phát huy văn hóa trong công cuộc xây
dựng văn hóa hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quần thể di sản cố đô Huế. Các di sản trong kinh thành
Huế: Kỳ Đài, Trường Quốc Tử Giám, Điện Long An, Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế,
Đình Phúc Xuân, hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, viện cơ mật – Tam Tòa, cửu vị thần công,
hoàng thành Huế, Ngọ Môn, điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng
Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm
Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên, Tử Cấm Thành, Tả Vu và Hữu Vu, vạc đồng, điện
Kiến Trung, điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường. Các di sản ngoài kinh
thành Huế: Lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Đồng
Khánh, lăng Dục Đức, lăng Khải Định, Trấn Bình Đài, Phu Văn Lâu, Tòa Thương Bạc,
Văn Miếu, Võ Miếu, Đàn Nam Giao, Hổ Quyển, Điện Voi Ré, Điện Hòn Chén, chùa
Thiên Mụ, Trấn Hải Thành, Nghênh Lương Đình, cung An Định.
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ quần thể di sản cố đô Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài nhóm chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp sưu tầm, khảo sát
- Phương pháp lựa chọn, phân tích tài liệu

- Phương pháp so sánh và hệ thống
5. Cấu trúc đề tài


Ngoài phần mở đầu kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài gồm các chuong
chính sau:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Tìm hiểu về quần thể di tích cố đô Huế


NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề chung
1.1 Khái quát về Thừa Thiên Huế
1.1.1 Vị trí địa lý
Thành phố Huế nằm ở toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh Đông.
phía Bắc và phía Tây giáp thị xã Hương Trà, phía Nam giáp thị xã Hương Thuỷ, phía
Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú Vang. Tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông
Hương, về phía Bắc đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 112 km, cách biển Thuận An 14 km,
cách sân bay quốc tế Phú Bài 14 km và cách Cảng nước sâu Chân Mây 50 km. Diện tích
tự nhiên 71,68 km2, dân số năm 2014 ước là 345.581 người.
Nằm tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là đồng bằng thuộc
vùng hạ lưu sông Hương và sông Bồ, có độ cao trung bình khoảng 3 – 4 m so với mực
nước biển và thường bị ngập lụt khi đầu nguồn của sông Hương (trên Dãy Trường Sơn)
xảy ra mưa vừa và lớn. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, tuy trong đó có
xen kẽ một số đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Vọng Cảnh...
1.1.2 Lịch sử - văn hóa
• Lịch sử
Từ năm 192 sau CN vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và sau đó là vương
quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, biên
giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân

Công chúa cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô - Rí. Năm sau vua Trần cho đổi thành
châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thành Hóa châu (nằm cách Huế 9 km về
phía hạ lưu sông Hương) là trị sở và trung tâm chính trị kinh tế hành chính và quân sự
của châu Hóa. Sau hơn hai thế kỷ mở mang khai khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, lộ Thuận
Hóa đã thành nơi "đô hội lớn của một phương". Năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời
phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và
phát triển của thành phố Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc
Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí tây nam trong kinh
thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị
phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời ra Bác
Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở
"bên tả phủ cũ", tức góc đông nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô
thành Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong
sách Phủ biên tạp lục năm 1776. Đó là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ
châu thổ Sông Hương, từ Kim Long - Dương Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Tiếp đó,
Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là
kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế kỷ dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (18021945).
- Ngày 20-10-1898, dụ của Vua Thành Thái lập thị xã Huế, ngày 30-8-1899
Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuẩn y đạo dụ và ngày 12-12-1929 được nâng
thành phố Huế (địa giới hành chính chỉ gồm 9 phường nằm ngoài Kinh thành, từ phường
đệ nhất đến phường đệ cửu, đến năm 1934 được sắp xếp thành 11 phường).
- Sau Cách mạng Tháng Tám, thị xã Huế bao gồm cả khu vực nội ngoại thành, là
tỉnh lỵ của Thừa Thiên.


- Năm 1956 Ngô Đình Diệm ban hành dụ 37A cải tổ hành chính, Huế là thành
phố (về sau là thị xã) ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên nhưng tỉnh lỵ Thừa Thiên vẫn đặt
tại Huế.
- Sau năm 1975 Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) gồm 18 phường, 22 xã.
- Năm 1989 Thừa Thiên tách khỏi tỉnh Bình Trị Thiên, Huế là thành phố tỉnh lỵ của

Thừa Thiên - Huế gồm 18 phường, 5 xã và hiện nay là 27 phường.
Song, dù là Thủ phủ - Đô thành - Kinh đô - Thị xã hay Thành phố thì Huế vẫn luôn
luôn là một trung tâm quan trọng về nhiều mặt. Ngày nay Huế là thành phố Anh hùng,
thành phố có hai Di sản thế giới, thành phố Trung tâm văn hóa du lịch, thành phố
Festival; một trong những đô thị cấp quốc gia.
• Văn hóa
Huế cũng như mỗi vùng, miền khác trên đất nước ta đều có những sắc thái văn hóa
địa phương độc đáo. Cùng với Thăng Long, Huế là kinh đô của nước Việt trong nhiều thế
kỷ. Nói đến Huế, không chỉ là Huế trong phạm vi hành chính hiện nay, mà Huế là cả địa
bàn Châu Hóa xưa, nay là tỉnh Thừa Thiên Huế, từ Mỹ Chánh đến Lăng Cô, từ núi đồi
Trương Sơn đến đầm phá ra biển Đông. Vì vậy, có thể khái quát một số đặc điểm tiêu
biểu của văn hóa Huế như sau:
- Văn hóa Huế, một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó giữa môi trường sống và chủ
nhân của nó.
Người ta thường nói văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người trong cuộc
sinh tồn của mình, thì con người Huế trong lịch sử vươn lên phía trước đã ứng xử hợp với
tự nhiên, để rồi tự nhiên hữu tình vì có con người và cho con người.
Huế không chỉ là xứ sở của sông Hương - núi Ngự mà Huế có đủ núi - đồi, sông biển, đầm - phá, đất - cát, cồn - bàu. Huế có núi đồi nhấp nhô với Kim Phụng, Ngự Bình,
Vọng Cảnh; có dòng sông êm đềm với Hương Giang, An Cựu, Như Ý, Lợi Nông; có đầm
Chuồn, Cầu Hai; có phá Tam Giang; lại có Cồn Hến, Giã Viên v.v... Huế có tất cả đất núi
đồi, đất thịt và cả đất cát ven phá, ven biển... Không những thế, thiên nhiên Huế lại quyện
vào nhau, sơn thủy hữu tình, phong cảnh kỳ thú. Sống trong khung cảnh thiên nhiên hòa
quyện như vậy, con người Huế đã sớm đùm bọc, gắn bó với nhau, kể từ ngày vào mảnh
đất làm "quà cưới" này lập làng, sinh sống.
Con người đã biết dựa vào và biến đổi cái tự nhiên của Huế để sáng tạo nên lịch sử văn hóa Huế. Cái hài hòa, êm đềm của phong cảnh Huế đã ăn nhập vào con người Huế
nhuần nhị và sâu lắng.
- Văn hóa Huế, một nền văn hóa được làm giàu bởi các dòng văn hóa đô thị - văn hóa làng
(chùa) và văn hóa cung đình (bác học) - văn hóa dân gian không có sự đối lập, loại trừ.
Năm 1802, vua Gia Long lập ra triều Nguyễn, định đô ở Phú Xuân, Huế trở thành
kinh đô của cả nước thống nhất từ Đồng Văn đến Cà Mau. Di sản kiến trúc hiện nay chủ

yếu được xây dựng từ thời Gia Long trở đi.
Quá trình đô thị hóa khái quát ở trên cũng là quá trình Huế trở thành xứ sở mang
đặc điểm của một nền văn hóa Huế đô thị.
Ở chốn thần kinh, tinh hoa văn hóa được dịp hội tụ và phát triển, dòng văn hóa cung
đình - bác học xuất hiện với những di sản tinh thần quý giá về các lĩnh vực thơ ca, âm
nhạc, kiến trúc, nghệ thuật múa, nghệ thuật trang trí.


-

Trong khi đó, không xa kinh thành Huế, vẫn là các làng quê với lối sống làng quê
của mình. Các làng An Hòa, Vĩ Da... sát nạc Kinh thành vẫn là các làng chủ yếu sinh
sống bằng kinh tế nông nghiệp. Ngoài nghề nông làm ruộng, nhiều làng có thêm nghề
làm vườn với những loại cây trái đặc sản: quýt Hương Cần, nhãn lồng Kim Long, thanh
trà Nguyệt Biều, chè Tuần...
Văn hóa Làng của những làng quê Huế phản ánh qua phong tục, tập quá của cư dân
làm ruộng, làm vườn và nghề thủ công. Riêng trong lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, hằng
năm đều đặn diễn ra những lễ hội, cúng tế ở các làng. Ngoài ra còn có những lễ hội mang
tính truyền của làng hoặc lễ hội của những làng nghề: Làng Sình mở hội vật vào ngày 10
tháng Giêng Âm lịch, làng Thai Dương có hội Cầu Ngư vào ngày 12 tháng Giêng Âm
lịch, làng Hiền Lương có lễ cúng tổ nghề rèn vào 18/12 v.v...
Trong làng có đình, nơi thờ cúng chư thần, cử hành tế lễ và hội họp của làng. Trong
làng lại có chùa. Hầu hết các làng ở Huế đều có chùa. Trong chùa gian chính thờ các vị
Phật, còn ở án hậu thờ ngài khai canh các họ của làng. Với số lượng trên 150 ngôi chùa
lớn, nhỏ, Phật giáo đã và đang có một vai trò quan trọng trong văn hóa dân gian Huế. Có
người cho rằng Huế còn là kinh đô của Phật giáo, ở Huế đã hình thành dòng văn hóa
chùa, tiêu biểu cho bản sắc của văn hóa Huế...
Sự dung hợp giữa các dòng văn hóa trên đã làm giàu cho văn hóa Huế. Theo thời
gian, chúng bổ sung và nâng cao cho nhau, làm nên cái bản sắc, "cái hồn" của văn hóa
Huế.

Văn hóa Huế, một nền văn hóa của cái đẹp trong nghệ thuật kiến trúc và phong cách
sống.
Nói đến Huế không thể không nói đến di sản kiến trúc ở Huế và phong cách nghệ
thuật sống của người Huế. Không phải ngẫu nhiên mà người ta vẫn quen gọi thành những
cụm từ mang sắc thái tiêu biểu riêng cho Huế, như: người Huế, kiến trúc Huế, nhà vườn
Huế, món ăn Huế, màu tím Huế, nón lá Huế, giọng Huế - tiếng Huế, ca Huế... Tất nhiên
không phải cái gì thuộc về Huế đều là bậc nhất cả. Song trong nghệ thuật kiến trúc và
phong cách sống, cái đẹp vẫn là nét trội, nét tiêu biểu.
Cái đẹp trong nghệ thuật kiến trúc ở Huế được thể hiện trước hết là ở sự hòa hợp,
gắn bó giữa công trình với môi trường tự nhiên, một bên là tạo hóa, đất trời, một bên là
sáng tạo của thường dân, phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo nên một thể thống nhất,
chặt chẽ mà nên thơ, hùng vĩ và duyên dáng...
Kiến trúc ở Huế không nguy nga đồ sộ và xa hoa lộng lẫy, nhưng Huế vẫn hấp dẫn
con người bởi những công trình kiến trúc dung hợp với cảnh quan tự nhiên đó. Nét đẹp
của nghệ thuật kiến trúc ở Huế còn ở chiều cao của công trình (ngôi tháp Phước Duyên
cao 7 tầng cũng chỉ 21 m). Lâu đầu, cung điện, lăng tẩm, đình chùa... không vượt quá cao
so với hàng cây làm đẹp cho không gian kiến trúc.
Nét riêng của văn hóa Huế còn được thể hiện qua ăn nói, ăn mặc, ăn uống, ăn học
và cả ăn chơi của người Huế. Trong ăn nói, người Huế luôn tôn trọng thứ bậc thể hiện
qua cách xưng hô ở làng, họ và gia đình, không phân biệt tuổi tác, giàu sang, nghèo hèn
(có cả một hệ thống xưng hô khác với nhiều vùng). Đối với xóm giềng, lạ cũng như quen
đều căn cứ vào tuổi tác mà ăn nói. Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện nay đều có chung
một thứ tiếng là tiếng Huế, chung là thứ giọng là giọng Huế, không phân biệt dân làng


hay thành phố. Người ta vẫn biết đến giọng Huế nhẹ nhàng, có phần e ấp của những cô
gái Huế.
Chương II: Tìm hiểu về quần thể di tích cố đô Huế
Kinh thành Huế nghiên mình soi bóng bên bờ Bắc Hương Giang. Xưa kia Huế là
Phú Xuân được mở rộng trên đất của 8 làng thuộc hai tổng An Vân và Phú Xuân thuộc

huyện Hương Trà. Kinh thành được bao bọc bởi 3 vòng thành cùng chung một trục, lấy
núi Ngự Bình ở bờ Nam làm tiền án, lấy cồn Hến làm tả Thanh Long, cồn Dã viên làm
Hữu Bạch Hổ. Diện tích kinh thành 520 ha.
Thành ngoài cùng gọi Kinh thành, hay Phòng thành, dáng hình vuông chu vi 9950
mét. Để phù hợp cho việc phòng thủ, các cạnh đều được xây theo hình “dích dắc”. Trên 4
mặt thành bố trí 24 pháo đài và 400 pháo nhãn và đường di chuyển binh lính lúc lâm trận.
Thành cao 6,60m, mặt trên rộng 6m, chân 21m. Mặt ngoài thẳng đứng, mặt trong thoải.
Cốt thành đắp đất nên chặt. Hai lớp áo ngoài xây gạch vồ, dày 1m50. Ngoài thành có hào
sâu, rộng gọi là Hộ Thành hà, thông với sông Hương – Bốn phía thành có 11 cửa.
2.1 Các di tích trong kinh thành
2.1.2 Kinh Thành Huế
• Kỳ Đài

Còn gọi là Cột cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành Huế thuộc phạm vi pháo
đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia
Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ
Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840. Trong lịch sử, kỳ đài thường là nơi
đánh dấu các sự kiện quan trọng và sự thay đổi thể chế chính quyền ở Huế.
• Trường Quốc Tử Giám
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI, Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Thăng Long - Hà Nội là
trung tâm của cả nước về giáo dục. Sang thế kỷ XVIII, do sự phân chia đôi miền Đàng
Trong và Đàng Ngoài nên việc giáo dục theo đó cũng tách biệt. Ở Đàng Trong, chúa
Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) tổ chức bộ máy chính quyền riêng ở đất Thuận Quảng và cho mở trường Văn miếu dạy học ngay tại phủ chính, để dạy các công tử cùng
con em quan lại. Giáo sĩ Chritofo Borri có mặt ở Đàng Trong trong thời gian từ năm
1614 - 1626 đã ghi nhận đôi điều về vấn đề này như sau: “đã thấy nhiều trường học bậc
đại học với nhiều giáo sư cùng các cuộc thi hạch các cấp y như ở Trung Quốc”.


Quốc Tử Giám
Địa điểm đầu tiên của Văn Miếu thời này được xây dựng tại xã Triều Sơn (nay

thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế). Năm 1770, đời chúa Nguyễn Phúc Thuần
(1765 - 1774), nhận thấy địa thế Triều Sơn ẩm thấp nên sai dời Văn Miếu đến Long Hồ
(nay thuộc phường Kim Long, thành phố Huế) với tên gọi Nhà Học hay Học Cung (đền
Khải Thánh ngày nay). Nhà Học tọa lạc trên một khu đất mà Lê Quý Đôn, người từng
sống ở Thuận Hóa vào thời điểm đó đã miêu tả trong cuốn Phủ biên tạp lục như sau:
“Ngày tế Đinh, tôi thân đến Học cung xem lễ, học trò đến học có vài trăm người, tôi cũng
cùng họ giảng học luận văn, khuyến khích dạy bảo ân cần lắm”.
Khi vương triều Tây Sơn thành lập, vua Quang Trung đóng đô tại Phú Xuân, đặt
nền tảng cho công cuộc thống nhất đất nước và thi hành một số chính sách về giáo dục
trong đó có việc cho sửa sang lại Học cung ở Long Hồ. Học cung ở Long Hồ đổi tên
thành Quốc Tử Giám và được chuẩn hóa về mặt tổ chức như đặt chức quan Tế tửu, Tư
nghiệp. Từ đó Văn Miếu - Quốc Tử Giám Huế đóng vai trò trung tâm giáo dục của cả
nước, thay hẳn Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long - Hà Nội. Tuy nhiên, triều đại
Tây Sơn (1778 - 1801) chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi nên những dự định của vua
Quang Trung về một nền giáo dục nước nhà cũng như vai trò của Văn Miếu - Quốc Tử
Giám Huế dưới triều Tây Sơn chưa thực sự phát huy tác dụng trong thực tế.


Sau khi thiết lập vương triều Nguyễn và chọn Huế làm kinh đô, vua Gia Long vẫn
duy trì Văn Miếu ở Long Hồ. Đến tháng 2 năm Mậu thìn (1808), nhà vua cho rằng qui
mô ấy nhỏ hẹp, không phù hợp mỹ quan nên sai bầy tôi chọn khu đất rộng hơn ở xã An
Ninh Thượng (phía tây Kinh Thành Huế) và dời Văn Miếu về dựng tại đấy rồi cho dựng
nhà Quốc học, nhằm tôn vinh địa vị của đạo Khổng. Các tham tri bộ Công là Nguyễn
Khắc Thiệu, Nguyễn Đức Huyên và Vệ úy Long Võ được giao nhiệm vụ theo dõi thi
công. Cơ sở Văn Miếu lúc này gồm một tòa nhà lớn gọi là Chính đường, hai dãy nhà bên
cạnh dành cho quan Đốc học, phó Đốc học, cùng các công trình dùng vào việc sinh hoạt
và giảng dạy. Các tranh và tượng thờ bằng bài vị cũng được thay thế trong thời gian này.
Sau khi hoàn thành việc xây dựng nhà Quốc học, vua Gia Long sai Tham tri bộ Lễ soạn
bài văn khắc vào bia đá, dựng tại Văn miếu để nhắc lại lịch sử và sự thay đổi trong cách
thờ phụng tại đây.

Sang triều Minh Mạng (1820 - 1841), do nhu cầu đào tạo ngày càng mở rộng nên
nhà Quốc học được đổi thành Quốc Tử Giám với qui mô lớn hơn, trong đó có việc xây
dựng thêm nhà Di Luân Đường, Giảng đường cùng các phòng ở của sinh viên, quan Tế
tửu và Tư nghiệp. Dưới triều Tự Đức (1848 - 1883), cấu trúc Văn Miếu được chỉnh trang
và mở rộng hoàn chỉnh nhất.
Đầu thế kỷ XX, trong trận bão năm 1904, hệ thống cấu trúc của Quốc Tử Giám bị
hư hỏng nặng. Nhân việc xây dựng và tu bổ lại Quốc Tử Giám Huế, đồng thời để tạo điều
kiện cho việc dạy và học thuận lợi hơn nên năm 1909, vua Duy Tân đã cho dời Quốc Tử
Giám về trong Kinh Thành, dựng trên một khu đất rộng 40.000m2, về phía trái Hoàng
Thành.
Năm 1803, vua Gia Long cho đặt chức Chánh đốc học chính đường (1 viên), Phó
đốc học (2 viên) phụ trách công việc giảng dạy. Năm 1804, vua Gia Long cho định lại
quan chế và xếp chức quan Đốc học ở Quốc Tử Giám thành hàm chánh tứ phẩm, hưởng
lương 6 quan tiền và 6 phương gạo, chức Phó đốc học thành tòng tứ phẩm, hưởng lương
5 quan tiền và 5 phương gạo.
Nhưng đến năm 1805 thì chức Phó đốc học rút bớt 1 người chỉ còn lại 1 Chánh, Phó
Đốc học. Chức danh Chánh, Phó đốc học chỉ tồn tại đến hết đời vua Gia Long. Sang đời
Minh Mạng, vào năm 1821, Quốc Tử Giám được xây dựng khang trang hơn và nhà vua
ra lệnh đặt thêm 01 viên Tế tửu, 2 viên Tư nghiệp.
Xét về mặt quy mô và nội dung đào tạo thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám Huế chưa
phải là một trường đại học, bởi học sinh phân cấp nhiều thành phần với trình độ kiến thức
khá chênh lệch. Tuy nhiên, với vai trò trường kinh sư, tồn tại đến cuối triều Nguyễn, mặc
dù bị chi phối do những biến động về mặt xã hội... nhưng Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Huế là một tổ chức giáo dục tương đối kỷ cương, là nơi đã đào tạo cho đất nước nhiều
hiền tài (293 tiến sĩ) với những tên tuổi như: Phan Thanh Giản, Phan Đình Phùng, Phan
Thúc Trực, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền...
• Điện Long An


Điện Long An là cung điện đẹp nhất trong kinh thành Huế đã tồn tại gần 150 năm

nay. Tên tuổi của điện Long An được gắn liền với Bảo Định Cung, hành cung của vua
Thiệu Trị được xây dựng năm 1845.

Trang trí khảm – thi họa – hoa văn ở ô hộc ở điện Long An

Trấn phong làm bằng bạc
Điện được xây dựng vào năm 1845, thời vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long An
trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc (Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ


Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới,
nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh.
• Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế

Hình ảnh các cổ vật trong Bảo tàng Khải Định nay là Bảo tàng mỹ thuật cung đình
Huế
Tại số 3, Lê Trực, Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng chính là điện Long An xây
năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng,
sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn. Bảo
tàng Mỹ thuật Cung đình Huế giúp người tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống
cung đình Huế.

Các cổ vật được bảo tồn trong Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế



Đình Phú Xuân

Đình Phú Xuân



Đình Phú Xuân được xây dựng nửa đầu thế kỷ XIX ở tổng Phú Xuân, huyện Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế; nay thuộc phường Tây Lộc, thành phố Huế, cách trung tâm
thành phố 2 km về phía Bắc.
• Hồ Tịnh Tâm

Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn. Trước đây,
hồ nguyên là vết tích của đoạn sông Kim Long chảy qua Huế. Đầu thời Gia Long, triều
đình cho cải tạo một số đoạn sông và khơi dòng theo hướng khác để tạo thành Ngự Hà và
hồ Ký Tế. Hai bãi nổi trong hồ này được dùng làm nơi xây dựng kho chứa thuốc súng và
diêm tiêu. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính
tham gia vào việc cải tạo hồ. Năm 1838, vua Minh Mạng cho di dời hai kho sang phía
đông, tái thiết nơi này thành chốn tiêu dao, giải trí và gọi là hồ Tịnh Tâm. Dưới thời vua
Thiệu Trị đây được xem là một trong 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh.
• Tàng thư lâu
Tàng thư lâu là được xây dựng năm 1825 trên hồ Học Hải trong kinh thành Huế,
dùng làm nơi lưu các công văn cũ của cơ quan và lục bộ triều đình nhà Nguyễn. Đây có
thể coi là một Tàng Kinh Các của Việt Nam dưới triều Nguyễn lưu trữ các tài liệu văn
bản quý hiếm liên quan đến sinh hoạt của triều đình và biến đổi của đất nước. Chỉ riêng
số địa bạ thời Gia Long và Minh Mạng lưu trữ ở đây đã lên đến 12.000 tập. Có thể nói
Tàng thư lâu rất quan trọng trong việc chứa các tài liệu và địa bạ, giấy tờ quan trọng lúc
bấy giờ.


`

Viện Cơ Mật - Tam Tòa
Là cơ quan tư vấn của nhà vua gồm bốn vị đại thần từ Tam Phẩm trở lên, là Đại
Học Sĩ của các điện Đông Các, Văn Minh, Võ Hiển và Cần Chánh. Viện lúc đầu đặt ở
nhà Tả Vu. Sau khi kinh đô thất thủ năm 1885 phải dời đi đến nhà của bộ Lễ, rồi bộ Binh,

và cuối cùng là về chùa Giác Hoàng vùng với toà Giám Sát (của người Pháp) và Trực
Phòng các bộ nên gọi là Tam Toà. Hiện nay Tam Tòa nằm ở địa chỉ 23 Tống Duy Tân,
thuộc phường Thuận Thành, ở góc Đông-Nam bên trong kinh thành Huế, hiện là trụ sở
của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
• Cửu vị thần công


Cửu vị thần công là tên gọi 9 khẩu thần công được các nghệ nhân Huế đúc dưới thời
vua Gia Long. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, khi lên ngôi, vua Gia Long liền cho các
nghệ nhân đương thời tập trung tất cả chiến lợi phẩm là binh khí và vật dụng bằng đồng
để đúc thành 9 khẩu thần công làm vật chứng cho chiến thắng vẻ vang của mình. Công
việc đúc chính thức từ năm 1803 và hoàn thành vào năm 1804.
2.1.2

Hoàng thành Huế


Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan
trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi
dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi
chung là Đại Nội.

Một cổng của cung điện hoàng gia ở Huế năm 1931
• Các di tích trong Hoàng Thành gồm:
 Ngọ Môn

Cửa chính của Hoàng Thành xây năm 1833 dưới thời Minh Mạng. Ngọ Môn có
nghĩa đen là Cổng giữa trưa hay Cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng lớn nhất trong 4
cổng chính của Hoàng thành Huế. Về mặt từ nguyên học, "Ngọ Môn" có nghĩa là
chiếc cổng xoay mặt về hướng Ngọ, cũng là hướng Nam, theo Dịch học là hướng dành

cho bậc vua Chúa. Ngọ Môn dài 57,96m cao 14,80m gồm 2 phần. Phần dưới: nền dài
bằng đá ghép, có 3 lối ra vào. Kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ thách”.
Phần trên lầu Ngũ Phụng, 2 tầng bằng gỗ sơn son thép vàng, có 100 cột nhỏ. Kiến
trúc theo lối liên kết 9 bộ mái riêng biệt, to nhỏ, cao thấp khác nhau, đặt trên một nền đài
đá hình chữ U đồ sộ, tạo nên một sự nhấp nhô trong không gian như những hình chim
phụng xòe cánh đang bay. Vì vậy nhân dân quen gọi lầu Ngũ Phụng.
Cấu trúc lầu Ngũ Phụng bo trống các liếp che (trừ phía lưng), mái hiên ngắn cao
hẳn lên, tạo cho công trình thoáng đãng. Về trang trí, dùng ngói ống tráng men xanh có in
hình hoa vãn ở diềm mái. Những hình trang trí như dơi ngậm tiền, bướm, rồng cách điệu,
ghép bằng sành sứ màu.
 Điện Thái Hoà


Điện Thái Hòa xây tháng 1 – 1805, kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”. Là tòa
nhà chính, nơi cử hành lễ của triều đình, nên điện được xây trên 1 nền cao 1m, diện tích
1.200m2, trông ra sân chầu rồng. Kết cấu của điện Thái Hòa là sự ghép nối hai ngôi nhà
rường để tạo nên không gian nội thất lớn, đồng nhất phong quang. Cấu trúc này là sự
ghép nối hai công trình riêng, trong đó ứng dụng kiểu trần vòm mai cua ở dưới máng
nước nối của hai mái nhà này, gọi là “ máng thừa lưu”. Chính trần mai cua này tạo ra một
không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, mất cảm giác khi tòa nhà ghép nối lại
nữa. Nhờ có mảng trần vòm cuốn mai cua này mà người xem dỡ hẫng khi đi từ không
gian hạn chế nửa trong điện là nhà có trần, và không gian hạn chế nữa ngoài điện là nhà
không trần và ngược lại.
Ở các diềm của điện Thái Hòa còn ghi 197 bài thơ dạt dào tâm hồn thi nhân đầu thế
kỷ XIX , nói lên niềm khao khát hòa bình, kiến quốc và lòng tự hào đất nước văn hiến
ngàn xưa của người dân Việt.
 Triệu Tổ Miếu
Triệu Tổ miếu còn gọi là Triệu Miếu, được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804).
Miếu này nằm ở phía bắc của Thái Miếu trong hoàng thành Huế, là miếu thờ Nguyễn
Kim, thân sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng.

 Hưng Tổ Miếu
Hưng Tổ Miếu còn gọi là Hưng Miếu là ngôi miếu thờ cha mẹ vua Gia Long (ông
Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn), vị trí ở Tây Nam
Hoàng thành Huế|hoàng thành (cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc).
 Thế Tổ Miếu
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành
Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá
cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này.
 Thái Tổ Miếu
Thái Tổ Miếu còn gọi là Thái Miếu là miếu thờ các vị chúa Nguyễn, từ Nguyễn
Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần. Miếu được xây dựng từ năm Gia Long 3 (1804) ở góc
Đông Nam trong Hoàng thành, đối xứng với Thế Tổ Miếu ở phía Tây Nam.
 Cung Diên Thọ
Cung Diên Thọ tên ban đầu là cung Trường Thọ, các tên khác là Từ Thọ, Gia Thọ,
Ninh Thọ; được bắt đầu xây dựng năm 1803 để làm nơi sinh hoạt của Hoàng Thái Hậu
của triều Nguyễn.
 Cung Trường Sanh


Cung Trường Sanh hay Cung Trường Sinh (còn có tên gọi khác là Cung Trường
Ninh), được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ nhất (1821) ở phía Tây Bắc Hoàng thành
với vai trò ban đầu là hoa viên, nơi các vua triều Nguyễn mời mẹ mình đến thăm thú
ngoạn cảnh. Về sau cung được được chuyển thành nơi ăn ở sinh hoạt của một số bà
hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu. Trong thời kỳ rực rỡ nhất, kiến trúc cảnh quan của
Cung Trường Sanh được vua Thiệu Trị xếp vào hàng thứ bảy của thắng cảnh đất Thần
Kinh.
 Hiển Lâm Các
Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821 và hoàn thành vào năm 1822 thời vua
Minh Mạng nằm trong khu vực miếu thờ trong hoàng thành Huế, cao 17m và là công
trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ công

tích của các vua nhà Nguyễn và các quan đại thần có công lớn của triều đại.
 Cửu Đỉnh

Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là chín cái đỉnh bằng đồng đặt ở trước Hiển Lâm Các đối
diện với Thế Miếu, phía Tây Nam Hoàng hành Huế. Tất cả đều được đúc ở Huế vào cuối
năm 1835, hoàn thành vào đầu năm 1837. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một vị
hoàng đế của triều Nguyễn, chúng có trọng lượng khác nhau và hình chạm khắc bên
ngoài đỉnh cũng khác nhau. 9 đỉnh đó là: Cao Đỉnh, Nhân Đỉnh, Chương Đỉnh, Anh
Đỉnh, Nghị Đỉnh, Thuần Đỉnh, Tuyên Đỉnh, Dụ Đỉnh, và Huyền Đỉnh.
 Điện Phụng Tiên
Điện Phụng Tiên là một ngôi điện nằm ở gần cửa Chương Đức, phía trước Cung
Diên Thọ, cửa tây của Hoàng Thành được vua Gia Long và vua Minh Mạng xây dựng
dùng để thờ cúng các vua triều Nguyễn. Khác với Thế Miếu, điện này tuy cũng thờ các vị
vua và hoàng hậu nhà Nguyễn nhưng nữ giới trong triều được phép đến đây cúng tế.
Ngoài ra, nó còn là nơi lưu trữ nhiều bảo vật của nhiều đời vua nhà Nguyễn. Tháng 2
năm 1947, toàn bộ điện bị đốt cháy, hiện nay chỉ còn lại cửa Tam Quan và vòng tường
thành còn tương đối nguyên vẹn.
2.1.3 Tử Cấm thành
Tử Cấm Thành nguyên gọi là Cung Thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô
Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia.
Các di tích trong Tử cấm thành gồm:
- Tả Vu và Hữu Vu


Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, và cải tạo vào năm 1899. Tả
Vu là toà nhà dành cho các quan văn, còn Hữu Vu là toà nhà dành cho các quan võ, đây
là nơi các quan chuẩn bị nghi thức trước khi thiết triều, nơi làm việc của cơ mật viện, nơi
tổ chức thi đình và yến tiệc.
- Vạc đồng
Tại cố đô Huế hiện còn lưu giữ và trưng bày 15 chiếc vạc đồng là những tác phẩm

nghệ thuật thể hiện trình độ kỹ thuật đúc và mỹ thuật tuyệt vời. Trong số đó, 11 chiếc
được đúc từ thời các chúa Nguyễn, còn 4 chiếc được đúc vào thời Minh Mạng.
- Điện Kiến Trung
Điện Kiến Trung trong Tử Cấm thành (Huế) được vua Khải Định cho xây vào năm
1921-1923 cùng thời gian với xây lăng để làm nơi sinh hoạt của vua trong hoàng cung.
Sau này, vua Bảo Đại cho tu sửa lại điện, tân trang các tiện nghi Tây phương và cùng
hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại đây.
- Điện Cần Chánh
Điện Cần Chánh trong Tử Cấm thành (Huế), được xây dựng năm Gia Long thứ 3
(1804), sau còn được tu bổ nhiều lần. Điện là nơi vua thiết triều, thường tiếp sứ bộ ngoại
giao, tổ chức yến tiệc của hoàng gia và triều đình của triều Nguyễn, hiện nay đã trở thành
phế tích do bị phá huỷ từ năm 1947.
Hoàng đế Khải Định làm việc ở Cần Chánh điện.
- Thái Bình Lâu
Thái Bình Lâu được vua Khải Định cho xây dựng vào năm 1919, đến năm 1921 thì
hoàn thành, là nơi để nhà vua có thể nghỉ ngơi lúc rảnh rỗi, cũng là chỗ để nhà vua đọc
sách, viết văn, làm thơ, thư giản.
- Duyệt Thị Đường

Duyệt Thị Đường - theo như các tài liệu và thư tịch cổ hiện còn lại cho biết - là một
trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam . Đây là nhà hát của hoàng cung, nơi dành cho
vua và những người trong hoàng tộc thưởng thức các loại hình nghệ thuật truyền thống,
đặc biệt là nghệ thuật tuồng cổ. Nhà hát Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm Minh
Mạng thứ 7 (năm 1826) nằm bên trong Tử Cấm Thành. Từ năm 2004, Duyệt Thị Đường











được Trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế khôi phục và đưa vào hoạt động biểu diễn nhã
nhạc cung đình Huế phục vụ khách du lịch.
2.2 Các di tích ngoài kinh thành
Lăng Gia Long
Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814, khi
nhà vua còn sống. Năm 1819 vua băng hà, sang năm sau thì lăng mới hoàn thành gọi là
lăng Thiên Thọ. Lăng cách kinh thành Huế 16km về phía Tây Nam, nằm giữa một vùng
núi gồm 36 ngọn châu tuần chung quanh, hai bên là nguồn Hữu Trạch và Tả Trạch như
hai vòm tay ôm ấp. Phía trước là núi Đại Thiên Thọ lấy làm tiền án dựng hai cột biểu
cao. Trước lăng là hồ bán nguyệt, sau hồ là sân chầu, rồi đến sân tế chia 6 bậc cao dần,
cuối cùng là Bửu thành nơi đặt phần mộ vua và Hoàng hậu, phía trước xây bình phong
che chắn. Bên phải là điện Minh Thành thờ Vua và Hoàng hậu. Khu vực lăng không có
thành bao, nhưng rộng đến 2.875 ha.
Lăng Minh Mạng
Khởi xây năm 1843, khi nhà vua qua đời, lăng mới xây xong, gọi là Hiếu lăng, các
Kinh thành Huế 12 km về phia Tây Nam, rộng 26 ha, gồm 30 công trình lớn nhỏ. Cũng
như các lăng vua Nguyễn, lăng Minh Mạng được chia làm 2 khu vực: nơi thờ và đặt mộ,
nằm trên một trục xuyên suốt cả khu vực. Những công trình chính nằm trên trục này, các
công trình khác nằm đăng đối hai bên theo một trật tự nghiêm ngặt. Vậy quanh lăng là la
thành hình bầu dục, chu vi 1.800m, tường thành cao 3m, dày 1m. Toàn bộ khu lăng được
điểm xuyết các hồ sen, cầu, cổng, đình tạ, vườn hoa và rừng thông. Phía trước có 3 cửa,
Chính giữa là Đại Hồng Môn kiến trúc theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”. Hai bên sông có
Đông phối điện. Sau Sùng Ân điện là sân dẫn đến Hoàng Trạch môn. Hai bên sân là Tả
Tùng và Hữu Tùng viện. Sau Hoàng Trạch môn là Trung Đạo Kiều bắc qua hồ Trường
Minh dẫn đến một sân hẹp để đi lên Minh Lâu, 2 tầng, 8 mái lợp ngói lưu ly. Sau Minh
Lâu là Thần Đạo, hai bên có vườn hoa và hai trụ biển cao 21m, sẽ đưa tới cầu “Thông

Minh Chính Trực” bắc qua hồ Tân Nguyệt. Qua cầu đến một sân hẹp để bước lên Viên
Thành, nơi đặt mộ vua.
Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị nằm ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy,
cách Kinh thành chừng 8km. Ở ngôi vua được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày
4-11-1847 (thọ 41 tuổi). Sinh thời, nhà vua chưa nghĩ đến cái chết của mình và không
muốn binh, dân hao tổn quá nhiều sức lực và của cải, nên ông chưa xây cất sơn lăng.
Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy
Bằng, thị xã Hương Thủy. Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chôn cất
vua cha Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những
nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng
trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Lăng Tự Đức


Là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Nguyễn Dực
Tông Tự Đức hoàng đế, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân
Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành
phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ , sau cuộc Loạn Chày Vôi, Tự
Đức hoàng đế bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức băng hà, lăng được đổi
tên thành Khiêm Lăng.
Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong
những lăng tẩm đẹp nhất của hoàng gia nhà Nguyễn.
Cách kinh thành Huế 7 km về phía Tây Nam, vây quanh là La thành, đoạn thẳng
đoạn gấp khúc. Mở 4 cửa. Lăng Tự Đức cũng chia làm 2 khu vực: nơi thờ và nới đặt mộ.
Bố cục lăng tự do, phóng khoáng, nhưng vẫn nổi bật ý thức tôn quân. Lăng xây vào năm
1867, mười sáu năm sau, năm 1883, nhà vua mới qua đời. Lúc còn sống vua vẫn ra đây
nghỉ ngơi, đọc sách ngâm thơ. Lăng có tên là Khiêm Lăng.
Qua cửa Vu Khiêm (mặt bên) là con đường uốn lượn theo mép hồ Lưu Khiêm, giữa
hồ là đảo Tịnh Khiêm, có ba cầu bắc qua: Tiêu Khiêm, Do Kiêm, và Tuần Khiêm Kiều.

Ven hồ có Xung Khiêm tạ bên kia hồ và Dũ Khiêm tạ bên này hồ đối diện Khiêm Cung
môn để vào Hòa Khiêm điện, nơi thờ vua và Hoàng Hậu. Trước điện là sân rồng, hai bên
có Lê Khiêm cu và Pháp Khiêm vu. Sau điện là một sân hẹp, hai bên có Minh Khiêm
Đường (nhà hát) và Ôn Khiêm Đường, nơi ăn ở của các cung nhân trông coi đèn nhang.
Sau Hòa Khiêm là Lương Khiêm, thờ mẹ vua. Theo trục chính phía ngoài Khiêm cung
môn về phía Bắc sẽ tới khu vực mộ, nằm cạnh khu điện thờ, có lùi về phía sau chút ít.
Ngoài cùng là Bí đình, tiếp đó là bi đình có bia rất lớn “Thánh Đức thần công”, cao 4m,
rộng 2,55m, dày 0,48m. Hai bên bi đình là hai trụ biểu cao. Tiếp đó là hồ Bán nguyện.
Cuối cùng là khu mộ.
• Lăng Đồng Khánh
Lăng Đồng Khánh được xây dựng trên vùng đất thuộc làng Cư Sĩ, nay là thôn
Thượng Hai, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Xung quanh lăng này có rất nhiều lăng mộ
của bà con quyến thuộc nhà vua.


Lăng Ðồng Khánh còn gọi là Tư Lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ,
xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố
Huế). Nguyên trước đây là Ðiện Truy Tư được vua Đồng Khánh xây dựng để thờ cha
mình là Kiên Thái Vương. Khi Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành
Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên
không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm
Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh.
• Lăng Dục Đức
Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc
huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, là nơi an táng vua Dục
Ðức, vị vua thứ 5 của triều đại nhà Nguyễn. Lăng Dục Đức cũng chính là nơi Thiên Táng
của vua Dục Đức khi xưa, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km; là nơi an táng của 3
vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3
ngày thì bị phế trất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho
xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được

đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long
Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái.
• Lăng Khải Định

Lăng Khải Định (còn gọi là Ứng Lăng) là lăng mộ của vua Khải Định (1885-1925),
vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, tọa lạc trên núi Châu Chữ tại xã Thủy Bằng, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách Tp. Huế 10km. Để có kinh phí thực hiện việc
xây dựng lăng, vua Khải Định tăng thuế điền 30% trên cả nước. Kinh phí lớn nhất là
phải mua vật liệu từ nước ngoài như: Sắt, ximăng (mua từ Pháp), sành ngang chở từ
Hà Đông vào, và sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật
Bản sang... So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có một diện tích rất
khiêm tốn: 117m x 48,5m nhưng cực kỳ công phu, tốn kém và kéo dài đến 11 năm.
Tổng thể của lăng là một khối hình chữ nhật vươn lên cao với 127 bậc cấp như
muốn thể hiện khát vọng tự chủ của ông vua bù nhìn - Khải Định. Ở đây sự xâm nhập
của nhiều trường phái kiến trúc: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... đã để lại
dấu ấn trên những công trình, điều này ta có thể thấy những trụ cổng hình tháp ảnh
hưởng từ kiến trúc Ấn Độ; trụ biểu dạng stoupa của nhà Phật; hàng rào như những


cây thánh giá khẳng khiu; nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối
Roman biến thể... Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một tòa lâu đài ở châu Âu. Các
vật liệu truyền thống của bản địa như gỗ, đá, gạch, vôi ở đây chỉ là một số lượng không
đáng kể. Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong
buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.

3

4

5


Lên lăng Khải Định, vào thăm điện Khải Thành, nhìn lên trần nhà thấy một bức
tranh rồng sống động, có thể nói đây là một tuyệt phẩm. Tuy vậy, mấy ai ngờ, bức
tranh hoành tráng đó được vẽ bằng chính đôi chân của người họa sĩ tên Tánh.
Lăng được xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi. Về kiến trúc
lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời
Nguyễn bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ
thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Các di tích khác
Trấn Bình đài
Trấn Bình đài nằm ở vị trí Đông Bắc kinh thành Huế bên ngoài cửa Trấn Bình được
xây dựng năm Gia Long thứ 4 (1805), lúc đầu gọi là đài Thái Bình, đến năm Minh Mạng
thứ 13 (1832) đổi thành Trấn Bình đài, dân gian gọi là đồn Mang Cá. Đây là cái pháo đài
thứ 25 của Kinh thành Huế, một thành phụ của Kinh thành, cách thành chính chỉ một
đoạn hào chung.
Phu Văn Lâu
Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế phía trước Kỳ Đài, được
xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ
quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Năm
1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ, năm
1830 ông lại tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.
Tòa Thương Bạc

Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông Hương, bên ngoài cổng Thượng Tứ được
vua Tự Đức cho xây dựng năm 1936, tại vị trí hiện nay, cách vị trí Thương Bạc Viện cũ
khoảng 100m để ghi nhớ di tích Thương Bạc Viện. Đây là trụ sở để đón tiếp các sứ thần
nước ngoài. Công trình này được xây bằng vật liệu mới như xi măng, sắt thép; mặt nền
hình bát giác, mái chia 2 tầng lợp ngói lưu ly, cấu trúc thanh nhã, hài hòa với cảnh vật
xung quanh.



6

Văn miếu
Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ.
Miếu được chính thức xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long và có quy mô uy
nghi đồ sộ, nằm bên bờ sông Hương, thuộc địa phận thôn An Bình, làng An Ninh, phía
Tây Kinh thành Huế.

Các tân khoa bái tạ tại Văn Miếu xưa
7

8

Võ Miếu
Võ Miếu hay Võ Thánh miếu tại Huế được khởi công xây dựng từ tháng 9 năm Ất
Mùi (1835) thời Minh Mạng tại làng An Ninh thuộc huyện Hương Trà, phía bên trái Văn
Miếu, trước mặt là sông Hương. Đây là nơi thờ phụng và ghi danh những danh tướng
Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trong 3 khoa thi võ dưới triều Nguyễn, đây còn là nơi thờ một
số danh tướng Trung Quốc.
Đàn Nam Giao
Đàn Nam Giao triều Nguyễn được xây dựng vào năm 1803, đặt tại làng An Ninh,
thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía nam của kinh thành Huế, trên một
quả đồi lớn thuộc làng Dương Xuân, nay thuộc địa phận phường Trường An, thành phố
Huế. Đây là nơi các vua Nguyễn tế trời.
Một số hình ảnh lễ tế Nam Giao xưa (năm 1935):

Lễ Nam Giao - Đám rước qua Ngọ Môn



Lễ Nam Giao - Đám rước qua Vọng lâu cửa Ngăn (1935)

Lễ Nam Giao - Long tượng dẫn đầu đám rước (1935)

Đoàn Ngự đạo trở về. Nguồn
9

Hổ Quyển


10

11

12

Hổ Quyền còn đọc là Hổ Khuyên tọa lạc tại địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy
Biều, thành phố Huế; được xây dựng năm Minh Mạng thứ 11 (1830), là một chuồng nuôi
hổ và là một đấu trường độc đáo. Dưới triều Nguyễn đây là đấu trường của những cuộc tử
chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển
cho vua, quan lại và người dân.
.Điện Voi Ré
Điện Voi Ré nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây-Nam,
cách Hổ Quyền khoảng 400m, trên địa phận thôn Trường Đá thuộc xã Thủy Biều, thành
phố Huế. Tương truyền, dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, nhân dân địa phương đã
làm lễ an táng, xây mộ cho một con voi của một dũng tướng chết trận, gọi là mộ Voi Ré.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho xây dựng bên cạnh mộ con voi một ngôi điện thờ
với tên gọi là Long Châu Miếu để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng
cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Từ truyền thuyết và sự kiện lịch sử như vậy,
dân gian quen gọi ngôi miếu này là điện Voi Ré.

Điện Hòn Chén
Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ,
huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển
Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn
Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như hình chén úp. Cũng vì vậy, người ta quen gọi ngôi
điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Hòn Chén. Ðiện Hòn Chén là nơi
ngày xưa người Chàm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh
Giáo tiếp tục thờ bà dưới xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na.
Chùa Thiên Mụ


Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách
trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập
năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng
Trong. Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất của Huế.
Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài
liệu cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố
"Thiên" có nghĩa là "trời".
Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ
"Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh
thiêng").
Trấn Hải Thành
Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để bảo vệ kinh đô
triều Nguyễn được xây dựng ở cửa ngỏ Phía Đông kinh thành Huế, cách đó 10 km đường
sông và 13 km đường bộ. Cửa biển này người ta gọi là yêu Hải Môn - hay Cửa Eo (Cửa
Lấp). Năm 1813, Gia Long cho xây dựng Trấn Hải Đài và đổi tên Cửa Eo thành Cửa
Thuận An. Đến năm 1834, vua Minh Mạng cho đổi tên Trấn Hải đài ra Trấn Hải thành.
Nghênh Lương Đình
13


14


×