Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Phố cổ Hội An Di sản Văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 42 trang )

MỞ ĐẦU
Đến Hội An là đến với một không gian tĩnh lặng với các khu phố, với những ngôi
nhà cổ kính mái ngói rêu phong và những nét điêu khắc tinh tế cầu kỳ trên gỗ đã đi qua
thời gian.
Bước chân du lịch phố cổ Hội An, du khách sẽ ngỡ ngàng trước một thế giới biệt
lập, tách khỏi mọi dòng chảy và sức phá huỷ của thời gian. Không có tiếng động cơ gầm
rú cũng chẳng có những thương hiệu rực rỡ đèn màu. Tất cả đã lùi xa sau lưng, cả không
gian và thời gian đều lắng đọng trong những nếp nhà gỗ cổ xưa. Khu phố cổ mang một
vẻ lãng mạn, sâu lắng và bình yên dưới ánh đèn lồng huyền ảo mỗi đêm 14 âm lịch hàng
tháng.
Khắp nơi ở Hội An, đi đâu bạn cũng đều bắt gặp những ánh mắt rất thân thiện,
những nụ cười rất tươi của người dân trong vai chủ nhà đón chào khách. Họ đón khách,
mời khách mua những món hàng lưu niệm hết sức lịch sự và nhã nhặn. Và đã du lịch thì
chắc chắn phải nhắc đến ẩm thực Hội An ,trong bầu không khí cổ tích đó, hãy kiểm
nghiệm sự hiện hữu bằng việc nếm một vài món ăn phong vị xứ Quảng , Cao lầu tại các
nhà hàng còn giữ nguyên hình ảnh đầu thế kỷ. Du khách tới Hội An, ngoài việc khám phá
sự bình dị chân thật trong tâm hồn người dân phố Hội, sẽ mất nhiều thời gian chiêm
ngưỡng vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của các mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ
tinh vi trong những căn nhà gỗ đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông.
Dường như con người đang được sống với dĩ vãng khi mà những phiền toái của
cuộc sống hiện tại chưa hiện hữu. Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện
với giọng ca bài chòi, hò khoan, giã gạo... vẳng lên từ con thuyền đậy dưới bến sông,
dưới mái hiên, nơi đầu phố... tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ đối với du khách. Không quá trang
nghiêm như Cố Ðô Huế, không quá sôi động như chợ Lớn, nét cổ truyền nơi đây mang
một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn ưa chuộng lãng mạn của những ngày xa xưa.


NỘI DUNG
I.KHÁI QUÁT VỀ PHỐ CỔ HỘI AN:
1.Nguồn gốc tên gọi của Hội An:
Tên gọi Hội An ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó


có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong
cuốn sách Ô Châu cận lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã
Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời
Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi lần đầu tiên
các địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung
Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa,
tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh
Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của
dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6
làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu
người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng
tạo nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An
Thọ.
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này
ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de
Rhodes in tại Roma năm 1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong
xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho
rằng Faifo xuất phát từ tên Hội An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc
tới. Theo một thuyết khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn
được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái
tên Faifo. Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những
cái tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de
Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi


rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương, người Pháp
đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.
2.Lịch sử hình thành và phát triển phố cổ Hội An:
Hội An là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử cách mạng và văn hóa, từng được
biết đến trên thương trường quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Lâm ấp, Faifo Hoài

Phố, Hội An... Do có đặc điểm địa lý thuận lợi nên từ hơn 2000 năm trước, mảnh đất này
đã tồn tại và phát triển nền văn hóa Sa Huỳnh muộn ...
Thương cảng Hội An hình thành trong khoảng thế kỷ 15-16, thịnh đạt trong thế kỷ
17-18, nhưng trước đó rất lâu (từ thế kỷ 2 SCN trở về trước), vùng đất Hội An đã nằm
trong địa bàn phân bố của văn hoá tiền Sa Huỳnh - đến Sa Huỳnh và còn là một cảng thị
trọng yếu của Champa (từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 15). Cửa Đại Chiêm, Cù Lao Chàm cùng
nhiều di tích văn hoá Champa cổ được phát hiện trong thời gian gần đây đã chứng minh
về giai đoạn tiền đề trong lịch sử phát triển của đô thị - Thương cảng Hội An. Trong thời
thịnh đạt, đặc biệt trong nửa đầu thế kỷ 17, Hội An là trung tâm mậu dịch lớn nhất của
Đàng Trong và cả nước Đại Việt, là một trong những thương cảng sầm uất của vùng biển
Đông nam á. Trung tâm hoạt động của thương cảng là vùng bến cảng cùng phố chợ buôn
bán nằm trên bờ biển Bắc sông Thu Bồn, nay là vùng nội thị của Thị xã Hội An gồm các
phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô. Nhưng phạm vi thương cảng lúc đó còn mở
rộng ra cả hai bên bờ Bắc, bờ Nam dòng sông bao gồm những nơi neo đậu tàu thuyền
như đầm Trà Nhiêu, Trung Phường, Trà Quế…Cảng Sông Hàn ở phía Bắc và có thể coi
đó chính là các vệ tinh của Đô thị - Thương cảng Hội An. Phía trên sông Thu Bồn là
Dinh trấn Thanh Chiêm của Quảng Nam, nơi các tàu thuyền ngoại quốc muốn hoạt động
buôn bán ở Hội An phải đến trình báo, làm các thủ tục hải quan. Có thể hình dung Đô thị
Hội An với không gian hoạt động rộng lớn như vậy.
Nhờ ở vào vị trí địa lý thuận lợi nên hàng hoá từ bốn phương trong nước tụ về
Thương cảng Hội An. Rồi lại chính từ thương cảng này, hàng hoá trong nước với những
sản phẩm nổi tiếng như tơ, tằm, gốm, sứ, trầm hương, yến sào…được thuyền buôn các


nước chuyển tải đến nhiều nước Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á và một số nước phương
Tây. Hàng hoá nước ngoài cũng từ Hội An được toả khắp mọi miền đất nước. Hội An là
cửa ngõ của Đàng Trong - Việt Nam thông thương với thế giới bên ngoài. Tàu thuyền
của Nhật Bản, Trung Quốc, các nước vùng biển Đông Nam Á như Thái Lan, Philippin,
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ…và một số nước Châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
Hà Lan, Anh, Pháp…hàng năm cập bến mở hội chợ từ 4 đến 6 tháng liền. Nhiều kiều dân

nước ngoài, nhất là người Hoa, người Nhật đã được Chúa Nguyễn cho phép ở lại lập phố,
mở cửa hàng buôn bán, được sống theo phong tục riêng. Thế kỷ 17, Hội An có “phố
Nhật”, “phố Khách”, có thương điếm Hà lan…và đó là một trung tâm giao lưu kinh tế
rộng lớn, một Đô thị- Thương cảng có tầm cỡ quốc tế. Đó cũng là kết quả của một thời
kỳ đất nước mở cửa trong bối cảnh phát triển của hệ thống buôn bán với khu vực và thế
giới. Trong thời kỳ này, Hội An còn là trung tâm giao lưu văn hoá Đông - Tây, là một
trong những cái nôi chính hình thành chữ Quốc ngữ, là trung tâm truyền bá đạo Thiên
chúa, đạo Phật ở Đàng Trong.
Sang thế kỷ 19, do nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngoài, do cả những biến
đổi của địa hình sông nước, hoạt động kinh tế và vai trò của Hội An suy giảm dần kết
thúc thời kỳ thương cảng thuyền buồm và nhường chỗ cho thương cảng thuyền máy Đà
Nẵng phát triển (từ cuối thế kỷ 19). Nhưng cũng nhờ đó, Hội An tránh được những biến
dạng của một đô thị cận đại để bảo tồn cho đến ngày nay - một quần thể Đô thị - Thương
cảng cổ tương đối nguyên vẹn. Đó là di tích của các bến cảng, các phố cổ, các nhà ở kết
hợp cửa hàng của nhân dân, các hệ thống nhà thờ tộc họ, các đình chùa, đền miếu, các
hội quán của người Hoa, những mộ người Nhật, người Hoa và chiếc cầu mang tên cầu
Nhật Bản…Những loại hình kiến trúc phong phú đa dạng đó, cùng với lối sống, phong
tục tập quán, lễ hội...của cộng đồng dân cư Hội An còn như tấm gương phản ánh chặng
đường dài của quá trình giao thoa, hội nhập, tiếp biến văn hoá, tạo nên một sắc thái văn
hoá riêng Hội An vừa mang tính dân tộc, bản địa, vừa có sự hài hoà giữa các yếu tố nội
sinh và ngoại sinh.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di
tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu,


nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ...và những con đường hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô
vuông kiểu bàn cờ. Cảnh quan phố phường Hội An bao quát một màu rêu phong cổ kính.
Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy
trên thế giới. Đây được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Ngoài những giá trị văn hóa qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ được nhiều

hoạt động văn hóa phi vật thể với các lễ hội văn hóa đang được bảo tồn và phát huy cùng
các làng nghề thủ công truyền thống, các món ẩm thực làm cho Hội An ngày càng trở
thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương.
Đô thị - Thương cảng Hội An với hạt nhân Phố cổ là di tích lịch sử, là di sản văn
hóa vô giá thuộc loại quý hiếm trên thế giới đã được Chính phủ CHXHCN Việt Nam
công nhận và xếp hạng di tích Quốc gia (năm 1985), được dư luận trong nước và thế giới
trân trọng đánh giá cao. Năm 1985, Hội thảo Khoa học Quốc gia và năm 1990, Hội thảo
Khoa học Quốc tế về Đô thị cổ Hội An đã được tổ chức ở ngay tại Hội An, tại Đà Nẵng
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Năm 1995, Hội Bảo trợ Di
sản Văn hoá - Kiến trúc Hội An được thành lập nhằm vận động những cá nhân và tổ chức
trợ giúp cho công việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích Phố cổ Hội An. Đặc biệt, ngày 01-121999, UNESCO công nhận Khu Phố cổ Hội An là Di sản Văn hoá Thế giới đã là khẳng
định vị trí và sự góp mặt của Di sản Văn hoá Hội An trong kho tàng Di sản Văn hoá nhân
loại.
3.Vị trí địa lí của phố cổ Hội An:


Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2,
nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông Thu Bồn, ở vị trí địa lý từ 15o15’26” đến 15o55’15” vĩ độ
Bắc và từ 108o17’08” đến 108o23’10” kinh độ Đông; cách quốc lộ 1A khoảng 9 km về
phía Đông, cách thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Đông Nam, cách thành phố Tam Kỳ
khoảng 50 km về phía Đông Bắc.
Phần đất liền của thành phố có diện tích 46,22 km2 (chiếm 74,9% tổng diện tích tự
nhiên toàn thành phố), có hình thể gần giống như một hình thang cân, đáy là phía Nam
giáp huyện Duy Xuyên với ranh giới chung là sông Thu Bồn, phía Tây và phía Bắc giáp
huyện Điện Bàn, phía Đông giáp biển với bờ biển dài 7 km. Hạt nhân trung tâm đô thị
Hội An là các phường Minh An, Sơn Phong, Cẩm Phô; trong đó có Khu phố cổ rộng
chừng 5km2 đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới (ngày
04/12/1999).
Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng Nam và cảng hàng không quốc
tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu thế đặc biệt với vị trí nằm trên “Con đường

di sản văn hóa miền Trung” bao gồm: Hội An- Mỹ Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện
khách quan thuận lợi giúp Hội An thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong và
ngoài nước.
Ngoài ra, Hội An còn nằm trong chuỗi đô thị ven biển dài hơn 500 km vùng duyên
hải miền Trung, là cơ sở quan trọng để thiết lập và mở rộng các liên kết kinh tế giữa các
địa phương trong vùng. Khu vực lân cận Hội An đã và đang hình thành các khu kinh tế,
khu cảng phi thuế quan, các khu đô thị mới với quy mô lớn. Phía Bắc có khu kinh tế
Chân Mây- Lăng Cô gắn liền với Di sản văn hóa thế giới kinh thành Huế, thành phố Đà
Nẵng đang được đô thị hóa nhanh và đóng vai trò động lực của khu vực. Phía Nam có
cảng Kỳ Hà, khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất. Các khu kinh tế và đô
thị này đều có cảng nước sâu, hệ thống giao thông đường bộ và đường hàng không thuận
lợi.
Thành phố Hội An là trọng tâm của cụm động lực phía Bắc vùng Đông của tỉnh
Quảng Nam, có quan hệ mật thiết với thành phố Đà Nẵng- vừa là đô thị lớn nhất Miền


Trung, vừa là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước; là điểm đầu tuyến của
hành lang Bắc trong chiến lược kết nối phát triển Vùng Đông- Vùng Tây tỉnh Quảng
Nam, cùng với Đà Nẵng kết nối Đông Tây theo trục Quốc lộ 14B qua cửa khẩu Nam
Giang của hành lang kinh tế EWEC2 và vùng kinh tế Tây Nguyên theo đường Hồ Chí
Minh. Về đối nội, Hội An nằm trong Cụm động lực phát triển số 1 của Quảng Nam, là
vùng giao thoa giữa Hành lang phát triển Bắc Quảng Nam (kết nối Vùng Đông Quảng
Nam với các huyện Tây Bắc (Đông Giang, Nam Giang, Tây Giang) tương đối dồi dào tài
nguyên, nguyên liệu) với Vệt ven biển Quảng Nam.
II.KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ:
1. Kiến trúc khu phố cổ Hội An:

Trải qua bao thăng trầm sự biến thiên của lịch sử đô thị cổ Hội An vẫn giữ trong
mình những nét xưa cổ trầm mặc rêu phong, bình lặng cùng với nét tính cách thuần hậu
giản dị, chân chất của người dân nơi đây.

Khu phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích khoảng 2 km², với những
con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn cờ. Nằm sát với
bờ sông là đường Bạch Đằng, tiếp đó tới đường Nguyễn Thái Học rồi đường Trần Phú
nối liền với Nguyễn Thị Minh Khai bởi Chùa Cầu. Do địa hình khu phố nghiêng dần từ
Bắc xuống Nam, các con đường ngang Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần
Quý Cáp hơi dốc dần lên nếu đi ngược vào phía sâu trong thành phố. Đường Trần Phú
xưa kia là con đường chính của thị trấn, nối từ Chùa Cầu tới Hội quán Triều Châu. Vào


thời Pháp thuộc, đường này được mang tên Rue du Pont Japonnais, tức Phố cầu Nhật
Bản. Ngày nay, đường Trần Phú rộng khoảng 5 mét với nhiều ngôi nhà không có phần
hiên, kết quả của lần mở rộng khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hai con đường
Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn đất bồi lấp. Đường
Nguyễn Thái Học xuất hiện năm 1840, sau đó được người Pháp đặt tên là Rue
Cantonnais, tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch Đằng ra đời năm 1878, nằm sát bờ
sông nên xưa kia từng có tên gọi là Đường Bờ Sông. Nằm sâu về phía thành phố, tiếp
theo đường Trần Phú là đường Phan Chu Trinh, con đường mới được xây dựng thêm vào
khoảng thời gian sau này.Trong khu phố cổ còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc
với đường chính kéo dài ra đến tận bờ sông.
Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung nhiều nhất những công trình
kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc Hội An. Nổi
bật nhất trong số này là các hội quán do người Hoa xây dựng để tưởng nhớ đến quê
hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hội quán trên đường Trần Phú, tất
cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Phúc Kiến,
Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều Châu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là
miếu Quan Công, di tích đặc trưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Việt
Nam. Ngay sát miếu về phía Bắc, có thể thấy Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội An,
nguyên trước đây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương. Bảo tàng văn hóa Sa
Huỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con đường này. Theo đường Trần
Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai. Những ngôi nhà truyền

thống ở đây được tu bổ và bảo tồn rất tốt, phần lối đi bộ hai bên được lát gạch đỏ, phía
cuối đường là vị trí của đình Cẩm Phô. Phía Tây đường Nguyễn Thái Học có một dãy
phố được hình thành bởi những ngôi nhà có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía
Đông là khu phố mua bán nhộn nhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích lớn. Bảo
tàng Văn hóa Dân gian Hội An nằm ở số 33 của con đường này là ngôi nhà cổ lớn nhất
khu phố cổ, có chiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét. Trong mùa mưa bão, đường Nguyễn
Thái Học và khu vực xung quanh thường bị ngập lụt, dân cư phải sử dụng thuyền để đi


mua sắm và đến các quán ăn. Khu phố phía Đông phố cổ từng là khu phố của người
Pháp. Trên đường Phan Bội Châu, dãy phố phía Tây được xây dựng san sát những ngôi
nhà với mặt đứng kiểu châu Âu, đa số một tầng. Nơi đây từng là nhà ở của các công chức
dưới thời Pháp thuộc.
2.Kiến trúc truyền thống:

Hội An là trung tâm buôn bán lớn và thương cảng sầm uất bậc nhất vùng Đông
Nam Á của sứ Đàng trong nơi giao lưu của các thương nhân người Nhật Bản, Trung
Quốc, Ấn Độ, Tây Ban Nha… Đến Hội An điều làm chúng tôi ngạc nhiên là những ngôi
nhà cổ có tuổi trên 300 năm với bố cục kiến trúc và kiểu thức xây dựng từ thế kỷ XVI,
XVII… vẫn còn được giữ nguyên dạng.
Kiểu nhà ở phổ biến nhất ở Hội An chính là những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng
với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài tạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật
liệu chính dùng để xây dựng nhà ở đây đều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm
khí hậu khắc nghiệt và bão lụt hàng năm của vùng này. Thông thường, các ngôi nhà có
kết cấu kiểu nhà khung gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn viên trung bình của
các ngôi nhà có chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu khoảng 10 đến 40 mét, biến
thiên theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến của những ngôi nhà ở đây gồm: vỉa
hè, hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau ba gian, vườn
sau. Thực chất, nhà phố ở Hội An bao gồm nhiều nếp nhà bố trí theo chiều sâu và cấu
thành không gian kiến trúc gồm 3 phần: không gian buôn bán, không gian sinh hoạt và



không gian thờ cúng. Cách phân chia này phù hợp với mặt bằng hẹp và kết hợp nhiều
công năng của ngôi nhà. Có thể nhận thấy đây là một sản phẩm kiến trúc mang tính văn
hóa khu vực.
Ở không gian nhà chính, hệ thống 16 cây cột phân bố 4 x 4 tạo thành phân vị chiều
ngang và chiều sâu theo cấu trúc 3 x 3 gian, trong đó 4 cột trung tâm cao hơn hẳn các cột
còn lại. Đây chính là không gian dành cho buôn bán với gian đầu từ đường vào là chỗ
bán hàng, gian kế tiếp là kho hàng hóa được ngăn bằng vách, gian thứ ba bố trí nhà thờ
quay mặt vào bên trong. Điểm đặc biệt này là một đặc trưng rất quan trọng của nhà phố
Hội An, dù đôi khi cũng có trường hợp bàn thờ quay ra phía đường. Bên cạnh các nhà
chính phổ biến dạng 3 x 3 gian, một số ít ngôi nhà khác có nhà chính rộng hoặc hẹp hơn,
kiểu 3 x 2 gian hoặc 3 x 5 gian. Không gian tiếp theo nhà chính là nhà phụ, thường thấy ở
những ngôi nhà hai tầng có chiều cao thấp. Khoảng không gian mở này vừa được tiếp nối
với mặt đường, vừa tách biệt với những hoạt động buôn bán phía ngoài, lại có thể tiếp
nhận ánh sáng của sân trời, được dùng làm nơi gia chủ tiếp khách. Nhà cầu và sân trong
là không gian được chia hai phần theo chiều dọc, có kết cấu độc lập với nhà trước và nhà
sau, mang chức năng chuyển tiếp. Phần sân trời được lát đá, trang trí bể nước, non
bộ, cây cảnh, giúp ngôi nhà thoáng và hòa hợp với thiên nhiên hơn. Ngược lại, phần nhà
cầu có mái nối liền nhà trước với nhà sau thành một cơ cấu liên tục, rất phù hợp với điều
kiện khí hậu nhiều mưa và nắng nóng ở đây. Dù trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, mọi
sinh hoạt trong nhà vẫn có thể diễn ra bình thường. Nhà sau là không gian sinh hoạt của
cả gia đình, được ngăn buồng bằng các vách gỗ. Phía sau nhà sau còn một khoảng không
gian nữa, dành cho bếp, nhà vệ sinh và các chức năng phụ khác. Đối với một ngôi nhà
thông thường, không gian thờ cúng chỉ chiếm một phần nhỏ, nhưng luôn được dành riêng
một vị trí quan trọng. Để các công năng buôn bán, vận chuyển hàng hóa, sinh hoạt không
bị cản trở, ban thờ thường được chuyển lên gác lửng. Ở những ngôi nhà một tầng, ban
thờ được đặt ở phần mái phụ của nhà trước hoặc trung tâm nhà sau. Trong những ngôi
nhà hai tầng, toàn bộ tầng hai của nhà chính thường được dùng làm kho hàng và ban thờ
cũng được bố trí ở tầng này.



Những ngôi nhà ở Hội An hầu hết được làm theo dạng hai mái, đa số nhà chính và
nhà phụ không chung một mái mà là hai nếp mái kế tiếp nhau. Rất ít trường hợp mái nhà
chính phủ lên cả phần nhà phụ. Ngược lại, đa số nhà cầu được lợp theo kiểu bốn mái.
Trên mặt bằng tổng thể thì nhà trước, nhà cầu và nhà sau được lợp bằng những mái riêng
biệt. Ngói ở Hội An là loại ngói làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh
khoảng 22 cm và có dạng hơi cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng ngói ngửa
lên và sau đó tiếp tới một hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói âm
dương. Khi lợp xong mái, các viên ngói được cố định bằng vữa, tạo thành những dải ngói
nhô lên dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái toát nên một vẻ cứng cáp, mạnh mẽ. Ở trên
đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên hình chữ nhật như một cái hộp, cũng có một số
trường hợp hai bên tường hồi cũng được xây cao hẳn làm cho toàn bộ tổng thể dường
như bị mất cân đối. Hình thức và cách trang trí của tường hồi luôn gây một ấn tượng
mạnh và là yếu tố tạo ra giá trị rất riêng của phố cổ Hội An.
3.Một số di tích tiêu biểu của đô thị cổ Hội An:
Chùa Cầu - Biểu tượng của Hội An

Chiếc cầu cổ duy nhất còn lại ở Hội An ngày nay là Chùa Cầu, còn có tên gọi khác
là Cầu Nhật Bản. Cây cầu này dài khoảng 18 mét, bắc qua một lạch nước nhỏ chảy
ra sông Thu Bồn, nối liền đường Trần Phú với đường Nguyễn Thị Minh Khai. Theo sự


tích kể lại thì Cầu Nhật Bản được xây dựng vào năm 1593, nhưng không có một cơ sở
chính xác nào để khẳng định điều này. Trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ năm 1630, cái tên
"Hội An Kiều" và hình ảnh một cây cầu có mái đã xuất hiện. Nhà sư Thích Đại Sán cũng
nhắc tới cái tên "Nhật Bản Kiều" trong cuốn Hải ngoại ký sự năm 1695. Trải qua rất
nhiều lần trùng tu, hình dáng cây cầu đã bị thay đổi nhiều, dáng vẻ ngày nay được hình
thành trong những lần sửa chữa vào thế kỷ 18 và 19. Những trang trí bằng mảnh sứ tráng
men hay đĩa sứ là biểu hiện đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

Cầu Nhật Bản có một kiến trúc khá độc đáo, kiểu thượng gia hạ kiều, tức trên là
nhà dưới là cầu, một loại hình kiến trúc khá phổ biến ở những quốc gia châu Á nhiệt
đới. Dù mang tên Cầu Nhật Bản nhưng sau nhiều lần trùng tu, thật khó có thể tìm thấy
một chút dấu tích kiến trúc Nhật Bản trên cây cầu này. Nhìn từ bên ngoài, cây cầu nổi bật
nhờ hệ mái cong mềm mại nâng đỡ bởi một hệ thống kết cấu gỗ, và phần móng được làm
bằng vòm trụ đá. Mặt cầu vồng lên kiểu cầu vồng, được lát ván làm lối qua lại, hai bên có
bệ gỗ nhỏ, trước kia làm nơi bày hàng buôn bán. Gắn liền với cầu về phía thượng nguồn
là một ngôi chùa rất nhỏ thờ Huyền Thiên đại đế, xây dựng sau cầu khoảng nửa thế kỷ.
Ngôi chùa nằm ngay cạnh cầu, ngăn cách bởi một lớp vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ
bản", tạo không gian riêng biệt. Trên cửa chùa treo bức hoành màu đỏ với ba chữ "Lai
Viễn Kiều" do chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng vào năm 1719 với lí do vì cây cầu vốn
đã có tên là Nhật Bản Kiều. Ngoài ra Chúa Nguyễn đã có một tư duy tuyệt vời mới ban
cho cây cầu cổ cái tên mang một ý nghĩa hết sức sâu xa là " cây cầu của những người từ
phương xa tới " hàm ẩn ý nghĩa những nhà buôn từ các nước đến buôn bán ở Hội An
được người Đại Việt Đàng Trong xem như bạn bè và được đón tiếp ân cần với một
đường lối mở cửa, giao thương cởi mở.
Ở mỗi đầu cầu, hai bên lối đi đều có hai bức tượng thú, một bên tượng khỉ, bên kia
tượng chó. Các tượng đều được chạm bằng gỗ mít trong tư thế ngôi chầu, phía trước mỗi
tượng có một bát nhang. Theo truyền thuyết, Ở cảng thị Hội An ngày xưa cộng đồng
người Việt, người Nhật, người Hoa có chung một truyền thuyết về nguyên nhân gây ra
động đất. Họ cho rằng ở ngoài đại dương có một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là Con


Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long, đầu của nó ở Nhật Bản, đuôi
của nó ở Ấn Độ và lưng của nó vắt qua khe ở Hội An mà Cầu Nhật Bản bắc qua. Mỗi khi
con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để
người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán.
Để khống chế con Mamazu, người Nhật đã thờ các Thần Khỉ và các Thần Chó
trên hai đầu cầu để " yểm " con thuỷ quái đó.
Những học giả củaTrường Đại học Showa (Chiêu Hoà) đã đến nghiên cứu ở Hội

An tháng 9-1992, tháng 3-1993 và tháng 9-1993 đã trao đổi với Ban Quản lý Di tích Hội
An rằng những con thú thờ trên cầu không phải là những con thú bất kỳ mà là những vật
linh theo tín ngưỡng vật tổ của người Nhật.
Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công
trình này được khởi dựng vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Cây cầu nhỏ này
ngày nay đã trở thành biểu tượng của thành phố Hội An
Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An.
Nhà cổ QuânThắng (77 Trần Phú, Hội An)


Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà
có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ -Trung Hoa. Qua năm
tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về khiểu dáng kiến trúc và cách bài
trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những
người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây.
Được biết, toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi
nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, Hội An thực hiện.
Đây là một điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế
giới Hội An của du khách.
Nhà cổ Tấn Ký 101 Nguyễn Thái Học, Hội An

Được xây dựng cách đây gần 200 năm, nhà cổ Tấn Ký có kiểu kiến trúc hình ống đặc trưng của loại nhà phố Hội An, với nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức
năng riêng. Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông với bến sông để
làm nơi xuất, nhập hàng hoá. Vật liệu trang trí nội thất ngôi nhà chủ yếu là các loại gỗ
quý và được trạm trỗ, điêu khắc rất tinh xảo các hình về giao long, hoa quả, bát bửu, dải
lụa... thể hiện sự sung túc của các thế hệ chủ nhân.


Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà cổ Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn
hoá quốc gia.


Nhà cổ Phùng Hưng (04 Nguyễn Thị Minh Khai, Hội An)

Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà cổ Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác
cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự
giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây.
Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp các thương nhân ở thương
cảng Hội An xưa. Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà cổ Phùng
Hưng không trạm trổ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô một cách cố ý.
Nhà cổ Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào tháng 6
năm 1993.
Hội quán Phúc Kiến (46 Trần Phú, Hội An)


Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên
Hậu Thánh Mẫu (bà Chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại
bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa
Kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện
mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền
hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài ... hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc
con người.
Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Lục Tánh
(16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn
ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17
tháng 2 năm 1990.
Hội quán Triều Châu (157 Nguyễn Duy Hiệu, Hội An)


Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 để thờ Phục Ba

tướng quân Mã Viện - vị thần giỏi chế ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên
biển được thuận buồm xuôi gió, đắc lợi.
Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ chạm trổ tinh xảo
cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ
tuyệt đẹp.

Hội quán Quảng Đông (17 Trần Phú, Hội An)

Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885. Thoạt đầu
để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan
Công và Tiền Hiền của bang.


Với nghệ thuật sử dụng hài hòa các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và họa
tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày
Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn
ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.
Hội quán Ngũ Bang (64 Trần Phú, Hội An)

Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương hay Trung Hoa hội
quán. Hội quán do các thương khách người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng
Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng vào năm 1741. Đây là nơi thờ Thiên Hậu Ngũ Bang
và sinh hoạt đồng hương để giúp nhau làm ăn buôn bán. Hội quán Ngũ Bang mang đậm
phong cách kiến trúc Trung Hoa.
Chùa Ông (24 Trần Phú, Hội An)


Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753,
1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại đây thờ
tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín - tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi

là Quan Công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa,
đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ,
buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.

Quan âm Phật tự Minh Hương (07 Nguyễn Huệ, Hội An)

Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ. Quan âm Phật tự
Hương có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các
tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ
Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày
lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.
Nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An)


Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di cư đến Hội An vào
những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống
của người Trung Hoa và người Việt. Tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m 2, có
nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật liên quan đến dòng họ, nhà
ở ... Đây là nơi tụ họp con cháu vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề
trong dòng tộc.
Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều
du khách quan tâm.
III.VĂN HÓA Ở PHỐ CỔ:
So với các đô thị khác của Việt Nam, Hội An có những đặc điểm lịch sử và địa lý
nhân văn rất riêng biệt. Mảnh đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là nơi gặp gỡ, giao
thoa của nhiều nền văn hóa. Đặc điểm đầu tiên có thể nhận thấy ở văn hóa Hội An chính
là tính đa dạng. Những người Việt vào cư trú ở Hội An từ cuối thế kỷ 15 chung sống hòa
bình với bộ phận dân cư người Chăm vẫn định cư rất lâu từ trước đó. Khi Hội An trở
thành thương cảng quốc tế sầm uất, nơi đây đã tiếp nhận nhiều cư dân mới đến từ nhiều
nền văn hóa khác nhau.Điều này giúp cho Hội An có được một nền văn hóa nhiều tầng,

nhiều lớp và đa dạng, thể hiện ở tất cả các hình thái văn hóa phi vật thể như phong tục tập
quán, văn học dân gian, ẩm thực, lễ hội... Một đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Hội An
là tính bình dân. Khác với Huế, kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang tính chất


cung đình, hệ thống di tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ truyền của cuộc
sống đời thường.Ở Hội An, văn hóa phi vật thể vẫn đang sống và tương thích với hình
thái văn hóa vật thể.
1.Tín ngưỡng:

Tại Hội An, bên cạnh tục thờ cúng gia tiên, những người dân còn có tục thờ Ngũ
tự gia đường. Theo quan niệm ở đây, nước có vua nhà có chủ, thần chủ nhà chính là Ngũ
tự gia đường. Về tôn giáo, có thể thấy ở Hội An tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau
như Phật giáo, Thiên Chúa giáo,Tin Lành, Cao Đài... nhưng Phật giáo vẫn chiếm đa số
nhất. Nhiều gia đình ở Hội An không theo Phật giáo những vẫn thờ Phật và ăn chay.
Những vị phật được thờ chủ yếu là Phật Bà Quan Âm và Thích Ca Mâu Ni, một số gia
đình còn thờ Tam thế phật, gồm Thích Ca Mâu Ni và hai vị Quân Âm Bồ Tát, Thế Chí
Bồ Tát. Trong mỗi nhà, khám thờ Phật được đặt nơi trang nghiêm, thanh tịnh, thường cao
hơn ban thờ gia tiên một bậc. Thậm chí có những gia đình dành riêng một gian rộng để
thờ Phật và làm nơi tụng niệm.
Một điểm khác biệt nữa trong tín ngưỡng ở Hội An là tục thờ Quan Công, tuy ít
gặp ở nông thôn nhưng đặc biệt phổ biến ở thành thị. Tuy hệ thống thần thánh được tôn
thờ ở Hội An rất đa dạng và phong phú, nhưng Quan Công lại được xem như vị thánh
linh thiêng nhất. Miếu thờ Quan Công được xây dựng ngay trong trung tâm khu phố cổ,
trở thành một trung tâm tín ngưỡng thiêng liêng, quanh năm hương khói nghi ngút.


Ở Hội An còn có những hình thức tín ngưỡng khác như thờ bà cô, ông mãnh, vô
danh vô vị, thờ đá bùa, đá thạch cảm đương.
2.Lễ hội truyền thống


Ở Hội An hiện nay vẫn gìn giữ được nhiều loại hình lễ hội truyền thống, như lễ
hội kính ngưỡng thành hoàng làng, lễ hội tưởng niệm những vị tổ sư ngành nghề, lễ hội
kỷ niệm các bậc thánh nhân, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo. Quan trọng nhất chính là những
lễ hội đình ở các làng ven đô thị. Thông thường, mỗi làng đều có một ngôi đình để thờ
thành hoàng và các vị tiền hiên. Mỗi năm, thường vào đầu mùa xuân, các làng lại mở lễ
hội để kính ngưỡng vị thánh của làng mình và tưởng nhớ công lao các vị tiên hiền.
Tại các làng chài ven sông, biển của Hội An, đua ghe là một sinh hoạt văn hóa
không thể thiếu, thường diễn ra trong dịp mừng xuân từ mùng 2 đến mùng 7 tháng giêng,
cầu ngư vào rằm tháng hai và cầu an vào khoảng trung tuần tháng ba âm lịch. Theo quan
niệm dân gian, đua ghe là dịp làm vui lòng các thánh thần thượng sơn hạ thủy và những
đấng khuất mặt đã phù hộ cho thôn xóm được bình yên. Trước mỗi cuộc đua ghe, các
làng xã náo nhiệt chuẩn bị, tập luyện. Chiến thắng trong các cuộc đua là niềm tự hào của
dân làng và mang ý nghĩa mang lại một vận may trong mùa màng sắp tới. Cũng vào dịp
cầu ngư hàng năm, dân cư các làng chài Hội An còn tổ chức lễ tế cá Ông, tri ân cá Ông
đã cứu giúp những người hoạn nạn trên biển. Trong những lễ tế này, thường có hoạt động
hát bả trạo, một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo, miêu tả lại cảnh sinh hoạt, lao động


trên sông nước. Và giống như các địa phương khác ở ven biển miền Trung mỗi dịp cá
Ông chết trôi dạt vào bờ, ngư dân thường tổ chức chôn cất, cúng tế rất linh đình.
Từ năm 1998, chính quyền Hội An bắt đầu tổ chức Lễ hội đêm rằm phố cổ vào
mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Ý tưởng độc đáo này xuất phát từ mong ước của kiến
trúc sư Ba Lan Kazimier Kwiatkowski, người đã dành nhiều công sức trong việc bảo tồn
hai di sản Hội An và Mỹ Sơn. Trong dịp lễ hội, thời gian từ 17 đến 22 giờ, tất cả các ngôi
nhà, hàng quán, tiệm ăn đều tắt điện toàn bộ khu phố chìm trong ánh sáng của trăng rằm
và những ngọn đèn lồng. Trên các con phố, những phương tiện giao thông tạm thời bị
cấm, chỉ dành cho người đi bộ. Tại các điểm di tích, nhiều hoạt động ca nhạc, trò chơi
dân gian, thi đấu cờ tướng, đành bài chòi, thả hoa đăng... được tổ chức. Khi các ngày lễ
lớn khác trùng vào đêm rằm, các hoạt động văn hóa sẽ phong phú hơn với những vũ hội

hóa trang, vịnh thơ Đường, múa lân... Khách du lịch đến Hội An vào dịp đêm rằm sẽ
được sống trong một không gian đô thị từ những thế kỷ trước.
3.Âm nhạc, diễn xướng và trò chơi dân gian

Những hình thức diễn xướng, trò chơi dân gian ở Hội An kết tinh từ quá trình lao
động của cư dân địa phương, ngày nay vẫn được gìn giữ và là một phần quan trọng trong
đời sống tinh thần nơi đây. Có thể kể đến những điệu hát hò khoan, các điệu hò giựt chì,
hò kéo neo, những điệu lý, vè, các hình thức hát tuồng, bả trạo, hô thai, hô bài chòi... Hội
An còn có truyền thống về diễn tấu cổ nhạc trong các dịp hội hè, tang ma hiếu hỉ, và
truyền thống ca nhạc tài tử với những nghệ nhân khá nổi tiếng. Những người dân ở đây


cũng có rất nhiều thú chơi, tiêu biểu có thể kể đến trò bài tới, trò đỗ xăm hường, trò thai
đề xổ cử nhân, trò thả thơ, trò chơi thư pháp.
Bài chòi, một thú giải trí đậm nét văn hóa của người dân xứ Quảng và cả vùng
duyên hải miền Trung, vẫn được diễn đều đặn vào mỗi tối 14 âm lịch hàng tháng trên
khuôn viên nhỏ ở góc đường Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng. Nếu theo đúng thể thức,
trong trò chơi bài chòi sẽ có khoảng 10 chiếc chòi được dựng, mỗi chòi sẽ được phát ba
quân bài trên đó ghi những chữ khác nhau. Bộ bài này được gọi là bộ bài tới, in theo lối
mộc bản trên giấy gió, phủ qua một lớp điệp rồi bồi thêm giấy cứng, mặt sau phết màu
đỏ, xanh lá cây hoặc xanh xám Ở chòi trung tâm có một ống thẻ đựng bài cái. Khi
tiếng trống hội đã dứt, những người chơi đã vào chòi con, tay cầm quân bài, anh hiệu sẽ
bước đến ống thẻ, xóc đi xóc lại rồi rút ra một quân bài. Mỗi lần rút, anh hiệu lại hô lên
những tiếng, ví dụ như "ông ầm", "tam quăn", "tứ cẳng"... chòi nào có đúng quân bài đó
sẽ gõ ba tiếng mõvà nhận được một lá cờ từ anh lính lệ. Khi chòi nào nhận được đủ ba cờ
thì sẽ hô "Tới". Một hồi mõ kép dài, ở chòi trung tâm tiếng trống tum, trống cán sẽ vang
lên. Trong trò bài chòi, tiếng hô của anh hiệu là cốt lõi của trò chơi. Anh hiệu phải là
người thuộc những bài truyền khẩu dân gian cộng với tài ứng tác, để nội dung cuộc chơi
luôn bất ngờ. Thay vì chỉ hô tên con bài, anh hiệu có thể hô một hay nhiều câu lục
bát ứng tác bát có liên quan đến con bài. Hô bài chòi là một hình thức diễn xướng mang

đậm nét dân dã, điểm hấp dẫn chính của trò chơi.
Một hình thức diễn xướng dân gian có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần, tâm
linh của cư dân vùng biển Hội An là hát bả trạo.Trình tự một buổi biểu diễn bả trạo có
kết cấu như một hoạt cảnh thể hiện những diễn biến từ khi con thuyền ra khơi cho đến
khi cập bến an toàn. Bả trạo thuộc thể loại dân ca lễ nghi, có sự kết hợp với hình thức
diễn tuồng, một loại hình sân khấu rất được người dân Quảng Nam yêu thích. Ngoài lối
múa hát chèo thuyền đã được nghệ thuật hóa, lối hát trong bả trạo còn có lối xướng, hô
và trình diễn các điệu dân ca như hò, lý, ngâm, hát... được thể hiện qua tài năng của các
nghệ nhân tạo nên sự hấp dẫn với người xem.
4.Ẩm thực dân gian


Với vị trí vùng cửa sông ven biển, nơi gặp nhau của các tuyến giao thông đường
thủy và cũng là nơi hội tụ về kinh tế, văn hóa liên tục trong nhiều thế kỷ, Hội An có được
một nền ẩm thực đa dạng và mang những sắc thái riêng biệt. Vùng đất nơi đây không có
được những cách đồng rộng lớn như đồng bằng sông Cửu Long hay đồng bằng sông
Hồng, nhưng bù lại Hội An có các cồn bãi ven sông màu mỡ và những thửa ruộng hẹp
giàu phù sa. Môi trường sông biển này đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày,
phong tục tập quán, lối sống của cư dân địa phương, trong đó có thói quen ẩm thực.
Trong bữa ăn hàng ngày của người dân Hội An, thủy hải sản luôn chiếm một phần lớn,
còn ngoài chợ, số lượng tôm cua cá được tiêu thụ thường gấp đôi số lượng thịt. Cá trở
thành một món ăn không thể thiếu trong khẩu phần hàng ngày của dân cư Hội An và
người ta quen gọi khu vực bày bán thức ăn là chợ cá. Ngày nay tại Hội An vẫn lưu truyền
một số thói quen, tập quán ẩm thực của một số gia đình người Hoa. Vào những dịp lễ tết,
các dịp hôn hỉ, họ thường nấu một số món ăn riêng như bún xào Phước Kiến, cơm Dương
Châu, kim tiền kê, phạch xồi... để cùng nhau thưởng thức, cũng là dịp nhớ lại nguồn gốc
dân tộc. Những người Hoa đã góp phần đáng kể làm nên sự phong phú của ẩm thực Hội
An, cũng là tác giả của nhiều món đặc sản chỉ có ở đây.
Một trong những món ăn tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ẩm thực Hội An là
món cao lầu. Nguồn gốc món ăn, cũng như cái tên Cao lầu, ngày nay rất khó xác định.

Những Hoa kiều ở Hội An không công nhận đây là món ăn của họ. Một số nhà nghiên
cứu Nhật Bản cho rằng cao lầu có nét giống món mỳ ở vùng Ise, nhưng trên thực tế
hương vị và cách chế biến của cao lầu khác món mỳ này. Sợi cao lầu được chế biến rất


×