Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ TRẬT TỰ XÂY DỰNG Ở PHƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.14 KB, 18 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC

TIỂU LUẬN
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ
TRẬT TỰ XÂY DỰNG Ở PHƯỜNG

Hà Nội, tháng 05 năm 2015

1


PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU
Trên thế giới bất kỳ một quốc gia nào hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước
mạnh hay yếu đều thể hiện ở kết quả hoạt động xã hội của Nhà nước đó trên tất cả các
lĩnh vực. Nói một cách khác, một đất nước phát triển, văn minh, hiện đại, giàu mạnh là
một xã hội mà ở đó có sự điều hành tài tình của Nhà nước.
Ở Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính
Nhà nước. Nhiều năm qua Đảng, Nhà nước đã chủ trương và tiến hành công cuộc cải
cách hành chính một cách toàn diện, mục tiêu là “xây dựng một nền hành chính trong
sạch có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có
hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước”. (NQ hội nghị lần thứ 8 BCH TW khoá
VII).
Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước của Chính quyền cấp xã, phường đang là yêu
cầu cấp bách nhằm củng cố bộ máy Nhà nước từ cơ sở, để chính quyền ở cơ sở có khả
năng tổ chức thực thi tốt các chủ trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước,
đồng thời thực sự đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương. Hội nghị lần
thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ việc đổi mới và nâng cao hiệu
lực của chính quyền cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới.
Trong hoạt động quản lý Nhà nước của chính quyền cơ sở thường xuyên diễn ra
nhiều tình huống quản lý đa dạng phong phú và rất đặc thù. Là cán bộ đang công tác tại


chính quyền cấp cơ sở, trong phạm vi của tiểu luận này, tôi xin đề cập tới một tình
huống cụ thể mà tôi tâm đắc nhất đó là: "giải quyết vi phạm trật tự xây dựng của chính
quyền phường" với hy vọng rút ra được một số kinh nghiệm phục vụ công tác quản lý
Nhà nước về trật tự xây dựng của chính quyền cơ sở trong tình hình mới.
Đây là một tình huống có thật xảy ra tại địa phương nơi tôi công tác, song do điều
kiện về thời gian và khả năng nghiên cứu, quá trình mô tả và xử lý tình huống có thể
chưa chặt chẽ và chưa mang tính khái quát cao. Kính mong các thầy giáo, cô giáo
Trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức tham gia đóng góp và cho ý kiến để tiểu
luận được hoàn chỉnh hơn.

2


Cuối cùng tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Trờng đào tạo bồi dỡng cán
bộ công chức đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học này. Xin kính chúc các thầy cô giáo và
toàn thể gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Tiu lun gm 3 phn :
PHN I : PHN M U.
PHN II : PHN NI DUNG.
PHN III: PHN KT LUN V KIN NGH.

3


PHẦN II : PHẦN NỘI DUNG
I- MÔ TẢ TÌNH HUỐNG

1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống
Phường Tân Thành có diện tích 0,46 km2, dân số 10.694 người là địa bàn ở vị
trí trung tâm quận Tân Phú, nơi có mật độ dân số cao, đường phố cũ chật hẹp, tập

trung nhiều trụ sở của các cơ quan Trung ương, Thành phố và Quận, có 1 trụ sở tôn
giáo lớn và 1 bệnh viện.
- Bên cạnh đó trên địa bàn phường có hơn 100 số nhà đông hộ phải sử dụng
chung sân, nhà bếp… nên việc cải thiện dân sinh còn nhiều khó khăn trong khi đó
nhu cầu sinh hoạt của nhân dân tăng (cơi nới, xây dựng, …) do đó việc phát sinh
mâu thuẫn dẫn đến khiếu nại - tố cáo là khó tránh khỏi.
Ngày 12/9/2011 UBND phường Tân Thành nhận được đơn khiếu kiện của ông N
là con ông B (cán bộ lão thành Cách mạng đã chết) là chủ sử dụng đất tại số nhà 125
phố Q tố cáo việc xây dựng nhà của bà H (mẹ liệt sỹ) ở tại số 127 phố Q với những nội
dung sau :
- Xây dựng hợp khối 2 đơn nguyên, 2 giấy phép khác nhau làm một khối nhà
chung.
- Xây nhà sai mục đích sử dụng so với giấy phép được cấp.
- Xây dựng sai phép tầng 6.
Đồng thời ngày 05/11/2011, UBND phường cũng nhận được đơn tố cáo của bà H
về việc ông N đã tự ý xây dựng một bức tường trái phép trên lối đi chung chắn toàn bộ
cửa đi của ngôi nhà bà H đang xây.
2. Diễn biến tình huống
Tháng 3/2011 bà H được UBND quận Tân Phú cấp giấy phép số 43/GPXD cho
phép xây dựng nhà 05 tầng, có 01 tầng hầm, diện tích mặt bằng là 56m2. Tầng 1 cao 6m
trong có tầng lửng cao 3m. Có tum thang diện tích 20m2, phía trước là giàn hoa bê tông
cốt thép. Trong bản vẽ thiết kế tầng 1 được mở một cửa đi ra ngõ đi chung, các tầng trên
được xây các ô kính lấy ánh sáng. Tương tự, nhà ông C (là con trai bà H) cũng được

4


UBND quận Tân Phú cấp giấy phép số 50/GPXD cho phép xây dựng nhà 05 tầng, diện
tích mặt bằng xây dựng là 56m2, tầng một cao 6m trong có tầng lửng cao 3m có tum
thang diện tích 20m2 và giàn hoa bê tông cốt thép, tầng 1 không được mở cửa ra ngõ đi

chung, các tầng trên được xây các ô kính lấy ánh sáng.
Trong quá trình xây dựng nhà, bà H và ông C đã xây 2 nhà liền khối với nhau mục
đích là để cho thuê văn phòng làm việc. Đã mở rộng tum thang, giàn hoa bê tông thành
tầng 6. Khi bà H và ông C bắt đầu xây dựng ông N đã có nhiều ý kiến và đưa ra một
bản dự thảo cam kết thoả thuận nhưng không được bà H và ông C đồng ý. Từ đó ông N
nhiều lần làm đơn kiến nghị lên UBND phường yêu cầu phải đảm bảo ANTT, vệ sinh
môi trường, an toàn giao thông và đặc biệt không cho lắp giàn giáo sang không gian đất
thuộc nhà ông quản lý v/v... Khi phát hiện bà H và ông C xây dựng sai phép ông N đã
làm đơn tố cáo gửi UBND phường. Khi UBND phường kiểm tra phát hiện bà H và ông
C xây dựng sai phép đã lập biên bản, ra quyết định đình chỉ thi công và gia đình đã xuất
trình giấy nhận hồ sơ điều chỉnh nội dung giấy phép xây dựng. Trong khi chờ được cấp
phép điều chỉnh, chủ đầu tư vẫn cho thợ lén lút xây dựng ngoài giờ hành chính, nhất là
vào các ngày nghỉ cuối tuần. Thấy vậy ông N đã tự ý đào một hào dài 17m, rộng 1,3m,
sâu 0,5m trên ngõ đi chung (phần sát với móng nhà bà H và ông C mới xây). Bà H và
ông C đã làm đơn tố cáo tới UBND phường. UBND phường đã kiểm tra lập biên bản,
ra quyết định xử lý vi phạm và buộc ông N phải san lấp trả lại nguyên trạng cũ cho ngõ
đi chung. Ông N không thực hiện, UBND phường không ra quyết định cưỡng chế mà
vẫn tìm cách hoà giải. Khi đó, bà H và ông C cũng đã xây dựng xong tầng 6. Còn ông N
không những không san lấp lại ngõ đi chung mà còn xây một bức tường dài 24m, cao
2m trên phần hào giáp với tường mới xây và chắn cửa nhà của bà H, tạo thành ngõ đi
riêng. Cả hai nhà tiếp tục làm đơn tố cáo nhau gửi đến các cấp chính quyền yêu cầu
được giải quyết.
II. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

1. Phân tích tình huống
Trong tình huống này, chúng ta cần phân tích và tìm hiểu rõ việc xây dựng của bà
H có đúng với nội dung ghi trong giấy phép xây dựng hay không? Tại sao ông N lại

5



khiếu kiện với những nội dung trên? Tại sao ông N lại tự ý xây dựng bức tường trái
phép trên ngõ đi chung? Các bước xử lý vi phạm trật tự xây dựng của UBND phường
đã đúng với Nghị định 23/2009/NĐ-CP và 180/2007/NĐ-CP của Chính phủ hay chưa?
Có thực hiện theo đúng quy trình xử lý vi phạm TTXD trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm
do UBND Quận Hoàn Kiếm ban hành hay không? Và hiệu quả của việc xử lý như thế
nào? Đó là những vấn đề làm cơ sở giải quyết những nội dung mà ông N và bà H đã
khiếu kiện lẫn nhau.
+ Trước hết cần tìm hiểu nguồn gốc nhà và đất của bà H và ông N:

Theo hồ sơ Địa chính do phường quản lý, kết hợp với kiểm tra thực tế, ngôi nhà
của bà H và ông N trước đây nằm trong khuôn viên 1 thửa đất của biển số nhà 125-127
phố Q do cơ quan G phân cho cán bộ ở. Trong thửa đất này có 1 ngõ đi chung ra mặt
phố Q để các hộ cùng sử dụng chung. Năm 1998, cơ quan G đã bàn giao nhà và đất tại
địa chỉ trên cho Thành phố quản lý, các hộ này làm thủ tục mua nhà theo NĐ 61/CP và
đã được UBND Thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở. Theo đó diện tích nhà và đất trên đã được hoạch định cho 2 hộ sử dụng
riêng biệt. Còn ngõ đi rộng 4,5m, dài 26m được sử dụng chung.
+ Quá trình xây dựng và phát sinh khiếu kiện :

Tháng 9/2011 bà H và ông C tiến hành xây nhà (như đã nói ở trên). Việc xây dựng
của bà H và ông C ban đầu là thực hiện đúng theo đơn xin phép xây dựng. Trước hết là
đúng diện tích, đúng vị trí và kích thước (biên bản kiểm tra do Thanh tra xây dựng
phường lập xác nhận của người làm chứng). Trước khi khởi công bà H và ông C đã có
cam kết với hộ ông N về việc đảm bảo an toàn, VSMT, giao thông đi lại trên ngõ đi
chung và đền bù thiệt hại nếu nguyên nhân là do việc xây dựng gây nên. Tuy nhiên,
trong quá trình hộ bà H và ông C xây dựng, UBND phường liên tục nhận được ý kiến
kiến nghị của các thành viên trong gia đình ông N về việc công trình xây dựng tại 127
phố Q đã làm ảnh hưởng tới sinh hoạt như tiếng ồn vào đêm khuya, bụi cát, giàn giáo
đua sang phần không gian nhà ông N...

Khi có đơn kiến nghị, UBND phường đều cử cán bộ phối hợp với cán bộ cơ sở đến
kiểm tra xác minh, lập biên bản làm cơ sở để giải quyết. Thực tế, UBND phường đã tổ

6


chức họp với các hộ trên nhằm làm rõ trách nhiệm và yêu cầu thực hiện nghiêm túc các
biện pháp giữ gìn VSMT, TTĐT và an toàn giao thông, đồng thời đề nghị gia đình ông
N tạo điều kiện giúp đỡ cho gia đình bà H và ông C xây dựng. Các cuộc họp đều được
các hộ nhất trí cam kết thực hiện và có sự chấp nhận của ông N. Vì chưa xảy ra thiệt hại
gì nên UBND phường chưa có hình thức xử lý mà chủ yếu vẫn giải quyết theo biện
pháp hoà giải.
Tháng 10/2011, cả 2 hộ bà H và ông C xây dựng sai phép nới rộng tum thang và
giàn hoa bê tông cốt thép thành tầng 6. UBND phường đã kiểm tra lập biên bản và ra
quyết định xử lý vi phạm hành chính yêu cầu đình chỉ phần xây dựng sai phép và gia
đình bà H và ông C đã làm thủ tục xin xây dựng bổ sung thêm tầng 6, tum thang và
được UBND quận Hoàn kiếm tiếp nhận hồ sơ bằng giấy hẹn trả kết quả sau 15 ngày.
Trong thời gian đình chỉ phần sai phép chờ cấp có thẩm quyền xem xét, bà H và
ông C đã lợi dụng ngày nghỉ cuối tuần, tranh thủ làm ngoài giờ để hoàn thiện việc xây
dựng tầng 6.
Ngày 02/11/2011, ông N đã tự động đào một hào không phép trên lối ngõ đi chung
sát với tường móng nhà mới xây của hộ bà H, ông C với kích thước dài 17m, rộng 1,3m,
sâu 0,5m dùng khoá riêng để khóa cổng ngõ đi chung. Bà H và ông C đã làm đơn tố cáo
sự việc trên, UBND phường đã kiểm tra lập biên bản đình chỉ việc đào hào không phép,
ra quyết định xử lý vi phạm của ông N buộc ông N lấp trả lại nguyên trạng ban đầu cho
ngõ đi chung và mở cổng ngõ để các hộ được sử dụng chung. Ông N không thực hiện,
UBND phường không ra quyết định cưỡng chế mà vẫn tìm cách hoà giải.
Khi được cơ quan cấp có thẩm quyền trả lời là không được phép bổ sung tầng 6 thì
bà H và ông C đã xây dựng xong. Vào lúc này ông N không những không san lấp lại ngõ
đi chung mà lại xây một bức tường dài 24m cao 2m trên phần hào đã đào giáp với tường

mới xây nhà bà H và ông C chắn cửa không cho gia đình bà H đi ra ngõ chung, tạo thành
ngõ đi riêng. Cùng lúc này bà H và ông N đã làm đơn tố cáo nhau gửi đến các cấp chính
quyền yêu cầu được giải quyết.
2. Mục đích xử lý tình huống
Giải quyết tình huống trên cần đạt được một số mục đích sau đây :

7


- Thiết lập lại trật tự kỷ cương trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng.
- Giải quyết tốt mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân cụ thể là giữa hộ gia đình ông N
với gia đình bà H.
- Làm rõ những tồn tại thiếu sót trong công tác quản lý TTXD và giải quyết đơn thư
khiếu nại tố cáo. Qua đó nâng cao trách nhiệm của chính quyền phường, sự phối hợp giữa
chính quyền phường với các ngành, các cấp trong công tác quản lý Nhà nước tại địa
phương góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền các cấp.
3. Cơ sở lý luận :
Xử lý tình huống trên ta phải tìm cơ sở lý luận để giải quyết các vấn đề
Một là : Việc xây dựng sai phép của hộ bà H và ông C.
Hai là : Việc xây dựng không phép của hộ ông N.
Ba là : Trách nhiệm của chính quyền phường trong công tác quản lý TTXD và
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
3.1. Việc xây dựng sai phép, không phép của hộ Bà H và ông N
Nhu cầu xây dựng nhà ở hợp pháp là nhu cầu chính đáng của mọi công dân được
Pháp luật cho phép. Đảng, Nhà nước đang khuyến khích mọi cá nhân, tập thể, huy động
mọi nguồn lực để xây dựng nhà ở, nơi làm việc nhằm phục vụ cho mục đích cải thiện
đời sống và phát triển kinh tế. Nguyện vọng xây dựng nhà ở của bà H và ông C là chính
đáng được Pháp luật cho phép.
* Đối với việc xây dựng liền khối :
Theo quy chuẩn xây dựng Việt Nam phần xây dựng và kiến trúc đô thị (Ban hành

theo QĐ 682/BXD-CBXD ngày 11/12/1996 của Bộ trưởng Bộ xây dựng) cũng như các
văn bản pháp quy khác đều không cấm các chủ đầu tư xây dựng liền nhau, có kết cấu
gắn liền với nhau (Pháp luật Việt Nam cho phép mọi công dân có quyền làm những gì
mà Pháp luật không cấm). Trong trường hợp bà H và ông C là hai mẹ con cùng xây
dựng nhà có kết cấu kiến trúc tương đồng cùng cos 0.00, đồng cấp, đồng sàn, đồng tầng,
phối hợp với nhau để xây dựng vừa đảm bảo kết cấu vừa tiết kiệm trong thi công.
* Về mục đích sử dụng công trình xây dựng :

8


Trong bản thiết kế công trình xây dựng, bà H và ông C đã thể hiện công trình xây
dựng là nhà ở gồm các phòng ngủ và công trình phụ song thực tế hiện nay khi thi công
bà H và ông C đã không cho ngăn các phòng như bản vẽ thiết kế mà bố trí lại để phù
hợp với văn phòng làm việc để kinh doanh. Đây là việc làm sai với nội dung thiết kế xin
phép xây dựng. Tuy nhiên trong quy chuẩn xây dựng Việt Nam cũng như các quy định
của Pháp luật chưa có điều khoản nào cấm việc làm thay đổi mục đích sử dụng công
trình xây dựng.
* Việc xây dựng sai phép nới rộng tum thang và giàn hoa bê tông thành tầng 6
của bà H và ông C :
Việc xây dựng nới rộng tum thang trên nóc tầng 5 và giàn hoa bê tông thành tầng 6
của bà H và ông C là xây dựng sai phép vi phạm Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày
27/02/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý trật tự
xây dựng, quản lý nhà và công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, vi phạm Nghị định
180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 Chính phủ về ban hành quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
* Việc đào hào, xây dựng bức tường trên ngõ đi chung :
Theo Luật Đất đai năm 2003, việc ông N đào rãnh hào dài 17m, rộng 1,3m, sâu
0,5m trên ngõ đi chung sát móng nhà mới xây của bà H và ông C là việc làm trái phép,
xâm hại đến quyền sử dụng đất ở của các hộ liền kề. Việc ông N sau đó lại tiếp tục xây

dựng một bức tường dài 24m cao 2m chắn toàn bộ cửa của nhà bà H và ông C là xây
dựng không phép vi phạm Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý trật tự xây dựng, quản lý nhà và
công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị, vi phạm Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày
07/12/2007 Chính phủ về ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
3.2. Về trách nhiệm của chính quyền phường Phan Chu Trinh trong việc
quản lý TTXD:
Quyết định 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về thí
điểm thành lập Thanh tra xây dựng quận, huyện và thanh tra xây dựng xã, phường, thị

9


trấn tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có quy định trách nhiệm của
Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn. Theo đó Chủ tịch UBND phường phải chịu trách
nhiệm toàn diện về quản lý TTXD trên địa bàn.
Quyết định số 22/2010/QĐ-UB ngày 10/9/2010 của UBND Quận Hoàn Kiếm về
việc ban hành quy trình xử lý vi phạm TTXD trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm nêu rõ Chủ
tịch UBND phường chỉ đạo tổ quản lý TTXD phường, công an phường thường xuyên
kiểm tra phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm về TTXD trên địa bàn (đặc biệt chú ý
ngày lễ, Tết, ngày thứ 7, chủ nhật). Tổ quản lý TTXD, cán bộ chuyên trách quản lý
TTXD phường khi tiếp nhận được thông tin về vi phạm TTXD và qua kiểm tra phát
hiện vi phạm TTXD phải lập biên bản ngay (giao biên bản hợp lệ cho chủ đầu tư) xác
định nội dung vi phạm và có biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm, đồng thời báo cáo
đề xuất bằng văn bản với Chủ tịch UBND phường và báo cáo cụ thể việc về TTXD
Quận chậm nhất sau 24 giờ kể từ khi biên bản được thiết lập. Như vậy để xem xét trách
nhiệm của chính quyền phường phải căn cứ vào các văn bản trên.
Thực tế UBND phường đã thành lập một tổ quản lý TTXD với các thành phần quy
định trong quy trình xử lý vi phạm về TTXD mà UBND Quận đã ban hành quyết định.

Đối với công trình xây dựng này đã có nhiều cố gắng phát hiện kịp thời các vi phạm, lập
biên bản báo cáo Chủ tịch UBND phường và báo cáo về TTXD Quận kịp thời. Khi bà
H và ông C xây dựng sai thiết kế tầng 6 đã lập biên bản đề xuất Chủ tịch phường ra
Quyết định xử phạt hành chính yêu cầu hai hộ gia đình đình chỉ phần xây dựng sai
phép. Tương tự, các vi phạm của ông N khi đào hào hay xây dựng bức tường trái phép
trên ngõ đi chung, tổ công tác cũng đã lập biên bản tuy nhiên việc đào hào, xây tường
đều thực hiện ngoài giờ hành chính, tranh thủ các ngày nghỉ cuối tuần nên không đình
chỉ kịp thời.
Trong tình huống này đã thấy rõ UBND phường chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu
quả các hành vi vi phạm để hộ bà H và ông C xây dựng xong tầng 6. (Quyết định đình
chỉ xây dựng của UBND phường đối với việc xây dựng sai phép của bà H và ông C
không có hiệu lực). Trường hợp đào hào không phép của ông N sau khi lập biên bản, ra
Quyết định buộc khôi phục nguyên hiện trạng ban đầu, ông N không thực hiện thì

10


UBND phường không ra quyết định cưỡng chế mà lại chú trọng đến công tác hoà giải
dẫn đến ông N lại tiếp tục vi phạm xây dựng không phép trên hào đó một bức tường cao
2m, dài 24m dọc theo ngõ. Trong khi đó, UBND phường mới chỉ lập biên bản mà chưa
ra quyết định xử lý vi phạm. Tại điểm 5.1.1 quy trình xử lý vi phạm TTXD của UBND
Quận nêu rõ, với công trình xây dựng không phép chậm nhất sau 24h kể từ khi nhận
được hồ sơ báo cáo đề xuất của tổ quản lý TTXD phường, Chủ tịch UBND phường ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính kèm theo biện pháp khắc phục hậu quả buộc
khôi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi vi phạm hành chính gây ra, buộc
chủ đầu tư tự giác thực hiện. Nếu chủ đầu tư không tự giác chấp hành phải ra Quyết
định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế, dỡ bỏ xong trước 10 ngày kể từ ngày chủ đầu tư
nhận quyết định xử lý.
Đối với tổ quản lý TTXD của phường chưa có biện pháp giám sát chặt chẽ, chưa
ngăn chặn kịp thời, lập hồ sơ, lập biên bản còn chậm do khó khăn là người vi phạm có

thái độ thiếu hợp tác.
4. Lựa chọn phương án giải quyết
4.1. Về việc xây dựng sai phép tầng 6 của bà H và ông C
Phương án 1 :

Căn cứ vào Quy hoạch kiến trúc của Thành phố Hà Nội và Quận Hoàn Kiếm, phố
Q không thuộc khu phố cổ, việc xây dựng tầng 6 của bà H và ông C không vi phạm quy
hoạch kiến trúc, không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của các hộ liền kề (cạnh công trình
này tại số nhà đối diện đã có toà nhà văn phòng được Sở xây dựng cấp giấy phép xây 8
tầng).
Bản thân bà H là mẹ liệt sỹ, gia đình có công với nước, được MTTQ, hội CCB, hội
PN phường kiến nghị cho công trình trên được tồn tại vì xét đến công lao gia đình chính
sách. Mặt khác, công trình này xây dựng trên đất hợp pháp. Nên khi có đơn khiếu kiện,
UBND phường tổ chức hoà giải, nếu hoà giải thành thì đề nghị ra quyết định phạt vi
phạm hành chính, yêu cầu chủ đầu tư đình chỉ thi công và hoàn tất thủ tục xin phép xây
dựng bổ sung phần sai phép. Nếu hoà giải không thành thì ra quyết định giải quyết đơn

11


thư khiếu nại, tố cáo đồng thời báo cáo UBND Quận áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả buộc tháo dỡ phần sai phép.
Phương án 2 :

Ra quyết định buộc bà H và ông C phải tháo dỡ phần sai phép tầng 6. Tuy nhiên
Quyết định quản lý hành chính Nhà nước đảm bảo tính hợp pháp nhưng cũng cần đảm
bảo tính hợp lý, khi ban hành quyết định phải cân đối giữa lợi ích Nhà nước và xã hội,
coi lợi ích của Nhà nước và lợi ích chung của công dân làm tiêu chí để đánh giá tính
hợp lý của quyết định quản lý hành chính Nhà nước. Một quyết định có hiệu lực và khả
năng thực thi cao khi nó được ban hành đúng lúc, hợp với nhu cầu quản lý. Trong

trường hợp không cần thiết mà vẫn ban hành quyết định thì không những không mang
lại hiệu quả mà thậm chí còn gây thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần.
4.2. Về việc xây nhà hợp khối :

Việc xây nhà hợp khối không có điều luật nào cấm chủ đầu tư xây nhà hợp khối
nên không phải xử lý hành chính, UBND phường trả lời đơn của ông N theo Luật khiếu
nại, tố cáo.
4.3. Về việc xây nhà sai mục đích sử dụng ban đầu :

Việc thay đổi thiết kế nội thất không làm ảnh hưởng đến kết cấu, kiến trúc công
trình, UBND phường ra quyết định phạt hành chính vì xây dựng sai giấy phép và trả lời
đơn của ông N theo Luật khiếu nại, tố cáo.
4.4. Về việc đào hào, xây dựng bức tường trái phép trên ngõ đi chung của ông N
Phương án 1 :

Ra quyết định xử phạt hành chính đồng thời buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
là dỡ bỏ toàn bộ bức tường, san lấp mặt ngõ trả lại nguyên trạng cũ cho ngõ đi chung
theo Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong quản lý trật tự xây dựng, quản lý nhà và công trình kỹ thuật hạ
tầng đô thị, Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 Chính phủ về ban hành quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng về xử lý vi phạm
trật tự xây dựng đô thị.
Phương án 2 :

12


Sau khi nắm tình hình tìm hiểu kỹ nguyên nhân dẫn đến vi phạm của ông N về
việc xây dựng bức tường trái phép trên ngõ đi chung nhận thấy :
Gia đình ông N cho rằng bà H và ông C xây dựng nhà mới đã mở cửa ra mặt phố

vì vậy ông N muốn được sử dụng riêng phần ngõ đi chung cho mình nhưng lại không
chủ động bàn với bà H để hoạch định phân chia quyền lợi sử dụng ngõ đi chung. Khi
phát hiện bà H và ông C xây dựng sai phép mặc dù không ảnh hưởng đến quyền lợi trực
tiếp của mình, ông N vẫn làm đơn tố cáo để mong muốn vì thế mà bà H và ông C phải
nhượng lại phần ngõ cho mình, lấy việc xây dựng sai phép tầng 6 làm đối tượng cho
việc xây dựng không phép bức tường. Thực chất đây là bức tường ngăn giữa nhà bà H
và ông C với ngõ đi chung. Vì vậy phương án 2 là hoà giải giữa hai hộ bà H và ông N.
Trên cơ sở thoả mãn lợi ích của mỗi bên trong việc sử dụng ngõ đi chung, nếu hai bên
thoả thuận có thể chỉ cần tháo dỡ từ phần cửa mở ra ngõ chung của nhà bà H cho đến
mặt phố còn sau cửa trở vào vẫn để nguyên và làm một cổng riêng cho ông N sử dụng,
phần ngoài ngõ sử dụng chung hoặc có thể chia ngăn dọc ngõ theo thoả thuận để mỗi bên
được sử dụng riêng. Phương án này có ưu điểm là giữ được đoàn kết, tránh phát sinh mâu
thuẫn trong sinh hoạt cộng đồng.
4.5. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của bà H và ông N :
Sau khi lựa chọn các phương án giải quyết trên, UBND phường trả lời đơn của bà H
và ông N bằng văn bản. Trong đó nêu rõ trách nhiệm, thẩm quyền của UBND phường khi
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương đảm bảo quyền của công dân theo
quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Nếu bà H và ông N không đồng tình với kết luận giải
quyết của UBND phường thì có quyền gửi đơn khiếu nại tới UBND Quận Hoàn Kiếm.
5. Biện pháp thực hiện phương án :
5.1. Thiết lập đầy đủ hồ sơ vi phạm trật tự xây dựng :
* Đối với bà H và ông C cần làm rõ việc :
- Tự ý xây dựng sai phép tầng 6.
* Đối với ông N làm rõ việc :
- Đào hào trái phép trên ngõ đi chung.
- Xây dựng bức tường trái phép trên ngõ đi chung.

13



(Đào hào và xây dựng tường trong trường hợp này không phải là các bước của một
công việc mà phục vụ cho mục đích riêng. Sau khi đào hào vẫn chưa thoả mãn nên mới
xây tường).
5.2. Ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính :
Sau khi làm rõ các vi phạm về trật tự xây dựng của bà H, ông C và ông N. UBND
phường căn cứ vào Nghị định 23/2009/NĐ-CP và Nghị định 180/2007/NĐ-CP của
Chính phủ để xử lý theo thẩm quyền. Việc ra các Quyết định của Chủ tịch UBND
phường phải đảm bảo đúng quy định của Pháp luật về nội dung, thể thức, thẩm quyền
theo trình tự luật định. Trong trường hợp này, Chủ tịch UBND phường ban hành các
Quyết định cá biệt nhằm giải quyết các vụ việc cụ thể thuộc loại quyết định ra lệnh tức là
buộc người vi phạm phải thực hiện một số hoạt động cụ thể. Quyết định này có tính đơn
phương và bắt buộc phải thực hiện ngay.
5.3. Tổ chức thực hiện các quyết định :
UBND phường phải xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện, báo cáo Đảng uỷ và xin ý
kiến tham gia của các phòng ban, ngành chức năng cấp trên như phòng Tư pháp, Thanh tra
Quận, Phòng xây dựng đô thị, Phòng Lao động thương binh xã hội, Công an Quận.... Đặc
biệt xin ý kiến chỉ đạo của thường trực UBND Quận, xin ý kiến tham gia của MTTQ và
các đoàn thể nhân dân trong phường, khu dân cư để làm tốt công tác tuyên truyền vận động
bà H, ông C và ông N tự giác thực hiện các quyết định của UBND phường. Do đó kế
hoạch phải được thống nhất, triển khai đồng bộ có sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận
đảm bảo thời gian tiến độ và nội dung đề ra. Trong đó đặc biệt đề nghị Thanh tra xây dựng
Quận hỗ trợ về phương tiện, lực lượng, Công an Quận hỗ trợ, bảo vệ an toàn trong trường
hợp phải thực hiện quyết định cưỡng chế.
Chủ tịch UBND phường phải là người chỉ huy toàn bộ kế hoạch, cần chỉ đạo chặt chẽ,
tăng cường kiểm tra các bộ phận, cá nhân trong việc chuẩn bị phương tiện, dụng cụ, cơ sở
vật chất để thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công khi phát sinh các tình huống phức tạp
mới.
5.4. Hoàn thiện hồ sơ giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo :

14



Trong đó trả lời đơn tố cáo của ông N và bà H, theo Luật khiếu nại tố cáo. Đồng thời
cấp uỷ, chính quyền phường phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục Pháp
luật nâng cao nhận thức cho cán bộ, Đảng viên, công chức và nhân dân về các chủ trương,
chính sách Pháp luật có liên quan như đất đai, xây dựng, quản lý đô thị.... Hướng dẫn công
dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo một cách có trật tự, đúng Pháp luật, đúng nơi theo quy
định.
UBND phường tổ chức tốt công tác tiếp dân, bố trí nơi tiếp công dân thuận tiện tạo
điều kiện để công dân trình bày khiếu nại, tố cáo kiến nghị phản ánh được dễ dàng, thuận
tiện tránh làm tăng thêm sự bức xúc khi khiếu nại, tố cáo.
Lãnh đạo UBND phường mà trực tiếp Chủ tịch UBND phường phải bố trí thời gian
tiếp dân theo lịch, lựa chọn, bố trí cán bộ tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo là những
người có phẩm chất, đạo đức, có uy tín và khả năng thuyết phục cao, am hiểu Pháp luật.
Từ vụ việc này UBND phường phải tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm tập thể, cá
nhân được phân công nhất là tổ quản lý trật tự xây dựng của phường chưa làm tốt công tác
kiểm tra giám sát, chưa đề xuất tham mưu những biện pháp ngăn chặn có hiệu quả vì vậy
dẫn đến quyết định đình chỉ của Chủ tịch UBND phường không có hiệu lực, hiệu quả.
Theo đúng Nghị định 180 của Chính phủ và quy trình xử lý vi phạm trật tự xây dựng của
UBND Quận Tân Phú đã ban hành.

15


PHẦN III : KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1- Kết luận :
Việc xử lý các vi phạm trật tự xây dựng, việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo
của các hộ dân ở 125 và 127 phố Q phường Tân Thành đã có hướng giải quyết dựa
trên các văn bản Pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành cũng
như các quy trình hướng dẫn thực hiện của địa phương. Các mâu thuẫn trong nội bộ

nhân dân được hoà giải tình hình trật tự đô thị được ổn định, các biện pháp giải quyết
tình huống cụ thể trên đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở.
Thể hiện được sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, trong chính
sách Pháp luật và sự điều hành của Nhà nước. Đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư.
Tuy nhiên qua tình huống này cho thấy chính quyền phường còn bộc lộ những yếu
kém trong công tác quản lý Nhà nước nói chung và quản lý trật tự xây dựng nói riêng,
chưa có những biện pháp xử lý và ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vi phạm trật tự xây
dựng. Đây chỉ là một trong nhiều vụ việc đã và đang diễn ra trên địa bàn phường. Nếu
như chính quyền phường tập trung chỉ đạo chặt chẽ công tác quản lý trật tự đô thị nói
chung và trật tự xây dựng nói riêng, sẽ có những biện pháp để xử lý kịp thời các vi
phạm mới xảy ra và đặc biệt ngăn chặn kịp thời các vi phạm có thể xảy ra, không phải
tốn sức người, sức của cho công tác giải quyết hậu quả do các vi phạm gây nên.
2- Kiến nghị :
Để làm tốt công tác quản lý Nhà nước về đô thị nói chung và trật tự xây dựng nói
riêng, các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các ngành phải đổi mới tư duy, nhận thức
đầy đủ tầm quan trọng trong công tác quản lý đô thị nhất là ở địa bàn các phường trong
khu phố cổ, phố cũ của Hà Nội. Từ đó làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng trong mọi
tầng lớp nhân dân về ý thức trách nhiệm của công dân trong công tác quy hoạch và
quản lý đô thị theo quy định của Nhà nước.
Xây dựng bộ máy chính quyền trong sạch, vững mạnh có đủ khả năng, năng lực
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ về quản lý Nhà nước ở địa phương. Trong đó xây

16


dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức trong
sáng, lối sống lành mạnh, có năng lực công tác, có trình độ chuyên môn, am hiểu về Pháp
luật, nhiệt tình và trách nhiệm cao trong công việc. Đối với UBND phường cần kiện toàn

tổ công tác quản lý trật tự xây dựng gồm các thành viên :
- Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND phường làm tổ trưởng.
- Cán bộ Thanh tra xây dựng phường (theo địa bàn được phân công) làm tổ phó
thường trực.
- Một phó công an phường làm tổ phó.
- Cán bộ Địa chính nhà đất làm thành viên.
- Trưởng ban thanh tra nhân dân phường làm thành viên.
- Cảnh sát khu vực là thành viên.
- Tổ trưởng dân phố là thành viên.
Trên cơ sở quyết định thành lập, Chủ tịch UBND phường ban hành quy chế làm
việc của tổ quản lý trật tự xây dựng phường phân công rõ người, rõ việc. Qua đó nêu
cao tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên trong tổ công tác nhằm kịp thời phát hiện,
xử lý các vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn.
Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính,
thực hiện theo quy chế một cửa. Coi trọng công tác quy hoạch và phát triển đô thị theo
tinh thần công khai dân chủ đảm bảo sự minh bạch trong công tác cấp phép xây dựng
của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Một số văn bản quản lý Nhà nước ban hành từ những năm trước đây có những nội
dung không còn phù hợp với yêu cầu quản lý trong điều kiện hiện nay cần được sửa đổi
bổ sung hay thay thế bằng các văn bản khác, đặc biệt cần có các văn bản hướng dẫn cụ
thể để tránh trường hợp hiểu và vận dụng sai trong công tác quản lý Nhà nước.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Hiến pháp sửa đổi bổ
sung năm 2001 và 2003.
2- Luật Xây dựng năm 2003.
3-Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính

trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà.
4. Luật tố cáo năm 2011
5- Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật khiếu nại tố cáo.
6- Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
7- Quyết định số 22/2010/QĐ-UB ngày 10/9/2010 của UBND Quận Hoàn Kiếm về việc ban
hành quy trình xử lý vi phạm TTXD trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm.
8- Quyết định 04/2010/TT-TTCP ngày 26/8/2010 của của Thanh tra Chính phủ quy định quy
trình xử lý đơn thư khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo.
9- Quyết định 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 của Thủ tướng chính phủ về thí điểm thành lập
Thanh tra xây dựng quận, huyện và thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn tại thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
10- Tài liệu bồi dưỡng về quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên của Học viện Hành
chính Quốc gia tập I+II+III ...

18



×