Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Nhân vật trong truyện ngắn nguyễn công hoan và truyện ngắn sekhov

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.12 KB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Mục đích, lý do chọn đề tài
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một trong những nhà văn xuất
sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho
trào lưu văn ọhc hiện thực phê phán giai đoạn 1930
Công

- 1945. Nguyễn

Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất
sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở
nhiều thể loại khác nhau, trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các
truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền
văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện
ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr.
181]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế
hệ độc g iả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đ ào sâu để tìm tiếp
những " vỉa vàng" lấp lánh.
Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế
kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân ngệhthuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện ngắn.
Hơn hai mươi năm ầcm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện ngắn
có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp sáng tác
của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê bình
"nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những

" địa tầng" mới trong thế giới nghệ

thuật của ông.
Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công


Hoan và truyện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc
trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này
vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ
quát của văn học thế giới.
Vietluanvanonline.com

Page 1


Đối với bạn đọc Việt Nam, Nguyễn Công Hoan rất quen thuộc và gần gũi.
Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông.
Sekhov cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc
Việt Nam. Ở Nga đã có hẳn một ngành Sekhov học, với nhiều công
trình nghiên cứu về Sekhov. Nhưng cho đến nay, chưa có một công
trình chuyên biệt nào xem xét thế giới nhân vật của truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov trong mối quan hệ so sánh.
Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn Sekhov”. Với đề tài
này, chúng tôi hi vọng tìm ra những nét tương đồng trong việc tổ chức
hệ thống nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn, chỉ ra những hiệu quả
nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ của cách thức tổ chức đó; tìm ra những
nét khác biệt thể hiện cái độc đáo, cái sắc nét của mỗi nhà văn với đặc
trưng dân tộc, đặc trưng văn hoá khác nhau.
Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan và Sekhov
là hai tác gia trong ốs các tác gia tiêu biểu được đưa vào chương trình
giảng
dạy ở nhà trường.Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một
cách “đọc, hiểu” mới tác phẩm của hai nhà văn nói riêng và tác phẩm văn
chương nói chung. Điều này bổ sung và làm mới cách thức tiếp nhận văn học,
cũng như công tác giảng dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đồng thời đề tài

của chúng tôi góp một phần nhỏ bé vào việc chứng tỏ vai trò của bộ môn văn
học so sánh - một bộ môn khoa học có tính chất quốc tế mà hiện nay đang
được giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng quan tâm.
2. Lịch sử vấn đề
Với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov”, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật,
Vietluanvanonline.com

Page 2


thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn. Từ

những tài liệu thu

thập được chúng tôi có những nhận xét sau:
Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn
Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến “ một đời văn lực lưỡng”. Ông
không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào
lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 mà còn có công xâyựdng nên
một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan
luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học trong mấy chục năm qua.
Nguyễn Công Hoan đã gây được sự chú ý của dư luận ngay từ tập truyện
ngắn đầu tiên “Kiếp hồng nhan”, xuất bản năm 1923. Nhưng phải đến những
năm 1929 – 1933 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bằng những truyện
ngắn in ở mục Xã hội ba đào ký trong An Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương.
Những truyện ngắn này được độc giả yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên
viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng tởr nên quen

thuộc
với bạn đọc. Tháng 6 – 1935, khi tập truyện ngắn “ Kép Tư Bền ” ra đời, sáng
tác của Nguyễn Công Hoan đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình.. Tập Kép Tư Bền đã mở đầu cho
trào lưu văn học tả chân xã hội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội.. Với
Nguyễn Công Hoan, Kép Tư Bền có thể xem là mốc đánh dấu trong đời văn
chương Ông viết: “ việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng
tôi có
tểh

viết nổi tiểu thuyết và
tểh

tôi có

theo đuổi được nghề văn"

[35, tr.118].
Tập truyện với nghệ thuật độc đáo mới lạ, đã thu hút được đông đảo bạn
đọc trong cả nước, Họ chú tâm nhiều hơn đến những tác phẩm hiện thực của
Nguyễn Công Hoan. Năm đó Kép Tư Bền là tậ p truyện được đánh giá hay
nhất, được mười tám tờ báo Bắc, Trung, Nam viết bài khen ngợi và trở thành
Vietluanvanonline.com

Page 3


đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của
Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích phái nghệ thuật vị nghệ
thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thì Hải

Triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái Nghệ
thuật vị nhân sinh đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến Hải Triều có viết: “
Cái chủ trương Nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện
bằng những bức tranh linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn
Công Hoan”[66, tr.64]
Sau khi tập truyện Kép Tư Bền ra đời, Thiếu Sơn đã xếp Nguyễn Công
Hoan và Tam Lang ở cùng một phái " tả chân xã hội" và cho rằng: " Cũng
như Tam Lang, tác giả của Kép Tư Bền ưa nói đến những bề trái của xã hội,
ưa phanh phui, bày tỏ những cái hèn kém, xấu xa gian tà, độc ác của người
đời" và cuối cùng tác giả đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác
giả (...) ". Cái đặc sắc của ông Hoan là ỏ chỗ biết quan sát những cái gì chung
quanh mình, bếit kiếm ra những câu truyện tức cười, biết vẽ người bằng
những nét ngộ nghĩnh thần tình, viết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lý thú
và biết kết cấu thành những tấn bi hài kịch (...) còn nói về cái tài vẽ người của
ông thì thật là tuyệt diệu, có lẽ không thua gì những Carcteres và Paraits của
La Bruyere" [71, tr.441- 442].
Trần Hạc Đình khi nhận xét về “Kép Tư Bền”, qua nghệ thuật khắc hoạ
tính cách nhân vật có viết "Ông ưa tả , ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của
cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Hạng người này có
gặp ở đời, ta thường lầm vì cái bề ngoài mà phải kính trọng nể nang họ” và
tác giả kết luận “Nhà văn ở đây vô tình lại có cái đau đớn, khổ sở lầm than
của hạng người cùng đinh nghèo khổ và cái giả trá xấu xa bất lương của bọn
quyền quý trưởng giả, nhà văn đã nhận thấy rằng: “cái xã
đầy

hội hiện thời


rẫy sự ô trọc, giả dối lại xây lên trên mọi sự bất bình, là một xã hội cần phải
đạp đổ”” [17, tr.40].

Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc
Phan đã nhận định : “Ông miêu ảt đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít
khi
ông tả những ý nghĩ của họ nhất là những điều u uất của họ thì không bao
giờ ông đả động, bao giờ cũng đặt họ vào một khuôn riêng, đó là khuôn lễ
giáo hay phong tục mà họ đã " ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của
họ” [64, tr.1078]
Trên đây là những ý kiến đánh giá và phê bình về thế giới nhân vật được
miêu tả, khắc hoạ trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan trước năm 1945. Sau
năm 1945 các nhà nghiên ứcu đi vào khai thác sâu hơn về thế giới nhân
vật trong truyện ngắn của ông và đi đến những ý kiến thống nhất về nghệ
thuật mô tả nhân vật, xây dựng tính cách nhân vật, chân dung nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
Nhóm tác giả trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam có nhận xét
về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật như sau: " ông có sở trường về cách mô tả tư
cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn
hãnh tiến giầu có, sang trọng và khinh người" [ 9, tr.101].
Nói về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan qua thủ pháp
nghệ thuật trào phúng, Trương Chính lại cho rằng: "cách vẽ phóng đai, cách
vẽ biếm hoạ của nghệ thuật gây cười... cách tập trung tất cả những cái xấu về
hình thức cũng như về tư tưởng vào nhân vật phản diện không phải là cách
sáng tạo điển hình. Cách đó sẽ làm cho nhân vật kỳ dị, méo mó, không thật.
Bệnh công thức, bệnh sơ lược bắt đầu từ đây chứ còn từ đâu nữa" [8, tr.169]
Tại cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định:
"Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú,
ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực, những mâu thuẫn, những cảnh tượng


trái và phản nhau…. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới những
những kẻ khốn khổ đáng thương. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan người

đọc như được trực tiếp sống giữa cái xã hội khốn cùng của những con người
dưới đáy, những thói hư tật xấu của đám thanh niên tiểu tư sản thành thị
chạy theo lối sống "Âu hoá". Hoặc “khi nhân vật ông miêu tả vừa là kẻ có
tiền, có quyền vừa có nhân cách và hành động trái ngược với thứ đạo đức
ông ưa, thì ông lên án bằng cả lý trí và tình cảm. Tiếng cười đả kích của ông
sảng khoái, nhân vật của ông sống, tác phẩm của ông thành công” [75,
tr.222].
Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học - tập 2 đánh giá về nghệ
thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Mỗi nhân vật
nhà văn thường chỉ nêu lên một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động
ngôn ngữ, tình huống nào đó (...). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực,
không sinh động. Có thể nói trái lại, chỉ bằng vài nét vẽ, nhà văn đã phác ra
được một bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ
yếu nổi bật, phù hợp với bản chất xã hội nhân vật" [39, tr.56].
Vũ Ngọc Khánh trong Thơ văn trào phúng Việt Nam , có viết về thủ pháp
nghệ thuật, cách mô tả nhân vật của Nguyễn Công Hoan như sau: "Thủ pháp
quen thuộc và độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối
tượng trở nên méo mó hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ
hơn" [38, tr.375].
Nhóm Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu Trong cuốn Văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời 1900 - 1930 nhận xét về ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan, cho rằng: "Đọc ông, độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn
ngữ của tác giả đâu là ngôn ngữ nhân vật và mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ
của riêng mình. Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và
ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành" [13, tr.386]


Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam đã nhận xét như sau: “Với số lượng khá lớn như vậy… Nguyễn Công

Hoan đã hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết
trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tểi u
tư sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà báo, nhà văn, nhà
giáo, các nghệ sĩ, tư sản, các nhà buôn, nha thầu khoán, địa chủ, quan lại,
cường hào,nghị viên, công chức, học sinh đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm,
chị bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…từ các giai cấp bị bóc lột, các giai
cấp thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của
một xã hội hết sức phức tạp”. “Quả thật, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn
có tài xây dựng nhân vật phản diện (...) việc xây dựng nhân vật phản diện
cho phép nhà văn được tô đậm khuếch ®¹i những nét tiêu biểu” [14, tr.351]
Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức
Hạnh, với những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, bà đã chỉ ra được
những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Khi nhận
xét về cách miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, bà
viết: “Cách miêu tả nhân vật trong sự đối lập giữa hai sự vật bản chất khác
nhau, giữa bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức..." [28, tr.58]
Nhận xét về chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,
tác giả Hoàng Anh trong Văn tập 39 khẳng định: "Những chân dung Nguyễn
Công Hoan vẽ nên là những ký hoạ hoặc biếm hoạ linh hoạt, không chỉ đặc tả
tính cách của từng loại nhân vật qua cái thần của họ, mà xếp bên cạnh nhau
còn hiện lên lồ lộ bức tranh toàn cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến,
mặc dù chúng cố tình che đậy, giấu giếm sau tấm phông loè loẹt, mỹ miều"
[67, tr.54]
Nhìn dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử nhận xét: "Con

người

trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là con người bị tha hoá,



vật hoá, sống và hoạt động hầu như phi nhân tính. Thế giới truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan là thế giới làm trò, nhân vật là những kẻ làm trò”
[21, tr.142]
Những tổng hợp ý kiến trên, một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Công Hoan trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một mặt đã ít nhiều
chú ý đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Từ những
ý kiến đó đã gợi ý cho chúng tôi khi thực hiện đề tài.
A.Sekhov và truyện ngắn
Nhà văn lão thành Nga Grigôrôvich là nưgời đầu tiên có công phát
hiện và đưa raý kiến đánh giá mang tính dự báo về tài năng nghệ thuật độc
đáo của Sekhov. Đồng thời ông còn khích lệ cổ vũ và xác định ưu thế vượt
trội của tác giả trong thể loại văn học này: “Tôi rất kinh ngạc về sự độc đáo
của các chi tiết trong truyện, và nhất là tính trung thực, chân xác sâu sắc
trong việc mô tả các nhân vật và cả thiên nhiên nữa (...), anh đã có khả
năng phân tích nội tâm rất sâu, cả tài tả cảnh điêu luyện” [20, tr.161-162]
Yêu mến tài năng nghệ thuật của nhà văn Sekhov, đại văn hào Nga
L.Tonxtoi không chỉ coi ông như một người kế tục và thừa hưởng đầy
đủ truyền thống văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn là người
cách tân của văn học Nga. “ Điều chủ yếu là bao giờ Sekhov cũng chân thành,
và đó là phẩm chất cao quý của nhà văn, nhờ đó mà Sekhov đã sáng tạo ra
được những hình thức viết mới, hoàn toàn mới” [20, tr.330] hoặc “đây là một
viên ngọc, một ngôn từ tuyệt diệu. Cả Tuôcghênhep và Gônsarôp, cả tôi
không ai viết được như ông ta” [58, tr.41]. Nhận xét này có ý nghĩa định
hướng và cổ vũ A.sêkhov vững tin sáng tạo.
G.N. Pospelôp với chuyên luận “Dẫn luận nghiên cứu văn học”, khi xây
dựng lý thuyết về cốt truyện cũng đánh giá quan trọng về những cách tân
nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn: “ Cơ sở của truyện không phải là


các sự kiện đột biến, mà là những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân

vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, sự cảm thụ và lý giải các hiện
tượng và sự thực ngày càng mới, những sự bừng sáng của trí tuệ, các bước
chuyển hoá từ quan niệm hư ảo đến cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc có tính phê
phán đối với thế giới, hoặc là ngược lại, ngày càng phụ thuộc vào sức ỳ của
cái tầm thường”[63, tr.42]
M.Gorki là người rất say mê Sekhov. Ông đã nhận xét: “Sự tầm thường
ti tiện là kẻ thù của anh, suốt đời anh đã đấu tranh với nó, bắt nó hiện nguyên
hình nghiêm khắc qua ngòi bút của anh, anh biết moi móc ra vết mốc meo hôi
hám của nó ở ngay chỗ mà mới nhìn tưởng như mọi vật đều sắp đặt khéo léo
và có vẻ choáng lộn nữa” [59, tr.36]. Đồng thời ông cũng khẳng định tinh
thần nhân đạo trong tác phẩm Sekhov: “Mỗi một truyện của Sekhov đưa ra,
là nhấn sâu thêm vào cái điểm dũng cảm và yêu thương cuộc đời, nó
là một điểm rất quý và rất cần cho chúng ta”… “ Mỗi một truyện ngắn là
một cái thảm kịch nhỏ, nó cảm người một cách sâu sắc” [78, tr.258]
M.Gorki đã có những nhận xét chân thành và sâu sắc về tính

hiện thực

trong sáng tác ủca Sêkhov: "Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng
như
người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sekhov đúng như họ sống trong
hiện thực. Trong các truyện ngắn của Sekhov, không hề có một cái gì mà lại
không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông,
chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, “không có trên đời này”, tuy có thể
là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông không bao giờ tô vẽ cho con
người...” [22, tr.5]
Nhận xét về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật của Sekhov M. Gorki
viết: “Trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ
của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với
những lạc thú trần gian; đó là nhưng kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối tăm



10
trước cuộc sống, họ quằn quại trong một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời
lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm thấy trong hiện tại không có chỗ cho
mình đứng...” [22, tr.5]
Là đại diện xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga cuối thế kỷ
XIX Sekhov được giới thiệu ở Việt Nam khá sớm. Nhiều nhà văn Vi ệt Nam
say mê Sekhov như Nguyễn Tuân, Nam Cao. Những truyện ngắn đầu tiên của
Sekhov được dịch ra tiếng Việt từ năm 1943. Nguyễn Tuân đã có bài nghiên
cứu đầu tiên về ông. Đến nay ở Việt Nam A.Sêkhov được coi là một tài năng
đặc biệt, được hâm mộ và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu ở tập truyện ngắn Sekhov, đã
nhận xét: “Trong sáng tác, Sekhov không chen vào màảigiquyết vấn đề,
hoặc gián tiếp giải quyết bằng nhân vật này khác. Sekhov cho ta thấy, cho ta
xem hết ông nọ bà kia, cho ta gặp nhưng thằng, những con người và như ngụ
ý hỏi lại những người đồng điệu chúng ta rằng: “ Trò đời là vậy đó? Vậy thì
có nên để nó tồn tại thế không? Có nên bắt chước họ sống một cách tồi tàn,
bậy bạ như thế không?” [77, tr.14]
Nhấn mạnh cái tính chất ban đầu, tính chất khởi điểm trong cách miêu tả
nhân vật của Sekhov, Hoàng Xuân Nhị nhận xét: “lần đầu tiên trong văn học
Nga và thế giới chúng ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào
biểu hiện những con người nhìn bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện
cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau thương của họ”[ 65, tr.79]
Dịch giả Đỗ Khánh Hoan cho rằng: Thế giới nhân vật Sekhov "là một
nhân loại nho nhỏ", qua đó ông nhấn mạnh tính phức tạp của những
"mản
h đời" những "mảng sống" của đủ mọi hạng người trong xã hội. Nhà nghiên
cứu Phan Hồng Giang đã đưa ra những nhận định để khái quát số lượng nhân
vật đông đảo, nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov "đó là những cảnh

tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người,
chải


11
chuốt và bê tha… nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một thế giới trên cái
đường phố tưởng tượng kia một thế giới thu nhỏ dường như thật hơn, cô đọng
hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn" [20, tr.12]
Năm 2004 ở Việt Nam đã có một cuộc hội thảo kh oa học kỉ niện 100
năm ngày mất Sekhov. Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến về nhân vật trong
truyện ngắn Sekhov.
Đi sâu tìm tòi những cái mới trong truyện ngắn Sekhov, Nguyễn Hải Hà
đã chú tọrng khám phá

“Sekhov không tựrc tiếp miêu tả nhân vật như

F.Dostoievski, L.Tonxtoi nhưng ông ẫvn quan tâm đến thể hiện tâm lý
theo cách riêng của mình, qua hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và
qua chân dung nữa". Đồng thời chú ý đến bút pháp nghệ thuật trong miêu tả
chân dung của Sekhov, ông viết: "Ông rất chú trọng đến chân dung nhân vật,
nắm bắt tâm lý của nó". [22, tr.6]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hải Hà trong bài Cái
mới trong truyện ngắn Sekhov, đã chỉ ra thói tật nô lệ của những nhân vật
trong truyện ngắn của Sekhov: “Có thể nói thói nô lệ ngấn sâu và đầu độc
người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quan nhân, thương
gia, sinh viên, nông dân, “ những con người không biết kính trọng cái phẩm
giá làm người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như
những kẻ nô lệ”[22, tr.5]. Sekhov muốn giúp con người “chắt lọc, loại bỏ
khỏi con người mình từng giọt nô lệ”.
Phạm Xuân Nguyên cũng gặp gỡ Nguyễn Hải Hà khi khẳng định tài
năng của Sekhov trong miêu tả tâm lý nhân vật "... Sekhov có biệt tài khám

phá những khả năng kinh ngạc của bản tính con người, sự phân tích tâm lý
của ông rất sâu sắc và linh động”[57, tr.6].
Trong bài Sekhov - Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, Nguyễn Trường
Lịch lại chú ý tới giọng điệu, điểm nhìn của người thuật truyện như: “lối dẫn
truyện khách quan, sự vắng mặt cả người thuật truyện. Ông đã chứng minh


cho các luận điểm của mình bằng các tác phẩm như

Người đàn bà có con

chó nhỏ, Hai kẻ thù....” [44, tr.89]
Đến với thế giới nhân vật đông đảo của Sekhov nhiều nhà nghiên cứu
khẳng định lần đầu tiên trong văn học những con người bình thường trong
cuộc sống chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Sekhov…. Nói cách
khác, có thể khẳng định "gu" thẩm mĩ hay cái tạng của Sekhov là "nhà văn
của đời thường”.
Như vậy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Sekhov là nhà văn của
tầng lớp bình dân, nhân vật của ông chỉ loay hoay với cuộc sống đời thường
với những lo lắng tủn mủn về vật chất, những biến động tinh thần không lớn
lắm trong từng nhân vật. Tuy nhiên, với tài năng của mình, thông qua cái thế
giới nhân vật sám xịt ấy, Sekhov đã phản ánh và nói lên được những vấn đề
nóng bỏng của xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ.
Với một loạt bài viết của mình, Đào Tuấn Ảnh là một trong những người
mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu Sekhov theo lối so sánh loại hình. So
sánh truyện ngắn của Se khov với truyện ngắn của Nam Cao nhà nghiên cứu
đã chỉ ra những tương đồng loại hình trong sáng tác của hai nhà văn thể hiện
ở kiểu truyện “không cốt truyện”, ở nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện,
ngôi kể, điểm nhìn…), ở nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Từ những so
sánh nêu trên nhà nghiên ứcu đã hướng tới kết luận về một


“chủ nghĩa

hiện thực kiểu mới” mà người mở đầu trong văn học Nga giao thời thế kỉ XIXXX là Sekhov, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945, là nhà văn Nam
Cao.
Tóm lại: Từ những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy:
- Về vị trí, vai trò của hai nhà văn viết truyện ngắn Sêkhov và Nguyễn Công
Hoan, hầu hết các ý kiến đều nhất trí khẳng định tài năng cùng những đóng
góp của họ cho văn học nước nhà và văn học thế giới.


- Các ý kiến đó đều thống nhất khẳng định thế giới nhân vật phong phú, đa
dạng, độc đáo trong truyện ngắn của hai nhà văn.
- Tuy nhiên, các nhà nghiên ứcu chưa tập trung phân tích thế giới nhân vật
của hai nhà văn, nhất là đặt nó trong hệ thống tiếp cận thi pháp học. Hơn nữa,
chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu và so sánh thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov.
- Mặc dù vậy, những ý kiến chúng tôi thu thập trên đều là những gợi
mở, định hướng tốt cho chúng tôi khi lựa chọn và thực hiện đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu trong tập
Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội 2005 và những truyện ngắn trong Truyện ngắn Sekhov, NXB
Văn học 1978, tập I, II, để khảo sát và trích dẫn. Số lượng tác phẩm ở
hai tập truyện ngắn của hai nhà văn rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ
chọn ở mỗi nhà văn 30 tác phẩm để khảo sát và phân tích. Trước hết,
chúngtôi căn cứ vào yêu cầu về dung lượng của truyện ngắn để chọn
tác phẩm. Căn cứ tiếp theo để chúng tôi ựl a chọn là tính tiêu biểu
của tác phẩm đã được khẳng định theo thời gian và quá trình nghiên
cứu, tiếp nhận. Đối tượng khảo sát của chúng tôi là nhân vật và cách

thức tổ chức hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan
(trước năm 1945) và truyện ngắn Sekhov (tập I, II do Phan Hồng Giang
và Cao Xuân Hạo dịch).
Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sekhov có thể có
nhiều vấn đề nghiên cứu như : nghệ thuật kết cấu truyện, nghệ thuật
xây dựng nhân vật, thời - không gian nghệ thuật…, nhưng chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và truyện ngắn Sekhov trên hai phương diện hình thức và
nội dung.


Từ việc khám phá cách thức tổ chức hệ thống nhân vật, chúng tôi xem xét
hai nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế
kỉ XX, xã hội Nga cuối thế kỉ XIX như thế nào, với những phương
thức biểu hiện nào.
4 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp tếip cận hệ thống: nhằm nghiên cứu so sánh truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan và A.Sêkhov trong tính chỉnh thể
Phương pháp tiếp cận thi pháp học nhằm giải quyết nhiệm vụ đề tài đặt ra.
Phương pháp này cho phép không chỉ dừng lại xem xét tác phẩm nói
lên cái gì mà pảhi xem còn được nói như thế nào. Trên cơ sở
phương pháp nghiên cứu này chúng tôi sẽ tìm hiểu thông qua việc tổ
chức hệ thống nhân vật trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Công
Hoan và Sekhov đã cắt nghĩa những vấn đề gì của xã hội đương thời.
Phương pháp so sánh: giúp cho chúng tôiỉ crha những nét tương
đồng và khác biệt của hai nhà văn, ở hai quốc gia khác nhau trong
những điều kiện lịch sử (dựa trên phông văn hoá khác nhau, lịch đại,
lịch sử khác nhau). Sử dụng phương pháp loại hình nhằm so sánh
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov trên một cấp độ và bình

diện cụ thể, để từ đó chỉ ra những nét tương đồng mang tính phổ
quát và cả những nét khác biệt mang tính đặc thù.
Phương pháp phân tíchổtng h ợp: giúp chúng tôi đi vào phân tích nhân vật
cụ thể nhằm thuyết minh cho những luận điểm, từ đó quy nạp, tổng
hợp lại vấn đề.
5. Những đóng góp mới của luận văn
So sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn có “cơ
địa
sáng tác” khác nhau này, chúng tôi mốun hướng tới những tương đồng
về


loại hình nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đồng thời chỉ ra những điểm
độc đáo trong phương thức xây dựng thế giới nhân vật của từng nhà văn, qua
đó xác định những đóng góp của hai nhà văn đối với chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam, văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung.
Thực hiện được điều này, luận văn bước đầu đóng góp thêm vào việc tìm
kiếm những cách thức tiếp cận mới sáng tác của Nguyễn Công Hoan, nhằm
phát hiện những giá trị về nội dung, tư tưởng nghệ thuật đang còn tiềm ẩn
trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Điều này bổ sung thêm một cách “đọc
hiểu” hiện tượng văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình
văn học thế kỉ XX ở Việt Nam.
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và
Sekhov.
Chương 2: Nhân vật - những dị tật của xã hội trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan và Sekhov.
Chương 3: Nhân


ậvt - những nạn nhân bi ảthm trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan và Sekhov.


Chương 1:
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN
A.SEKHOV
Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan và thời đại
Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) được xem là một trong những đại thụ
của văn xuôi Việt Nam, là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học
Việt Nam.
Được sinh ra trong một gia đình nho học thất thế, cuộc sống của anh em
Nguyễn Công Hoan đã trải ra trong khó khăn, vất vả. Nhà nghèo, đông anh
em, Nguyễn Công Hoan phải đến ở với bác ruột - một Phó bảng, làm Tri
huyện. Những năm tháng sống ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan chứng kiến rất
nhiều chuyện xung quanh mối quan hệ quan - dân. Chuyện nhà quan, chuyện
làm quan đã để lại những ấn tượng sâu sắc, làm thành ý thức khám phá thời
cuộc ở Nguyễn Công Hoan.
Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường sư phạm, bắt đầu cuộc
sống tự lập của một ông giáo tiểu học. Cuộc đời dạy học của ông không mấy
suôn sẻ. Vốn tinh tường, sắc sảo, trung thực, khảng khái, Nguyễn Công Hoan
không được cấp trên vừa ý. Ông bị chuyển chỗ dạy nhiều nơi. Thị xã Hải
Dương, Thị xã Lao Cai, Thị xã Nam Định, Trà cổ… là những nơi Nguyễn
Công Hoan bị điều đến và dạy học. Mỗi nơi, ông và gia đình không ở quá
được 2 năm. Vất vả, long đong, nhưng bù lại, ông có điều kiện đi nhiều nơi,
biết và khám phá được nhiều điều.
Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu” (1920)

của Nguyễn Công Hoan ra đời. Năm 20 tuổi, tập truyện ngắn “Kiếp hồng
nhan” ra mắt độc giả. Cũng như “Quyết chí phiêu lưu”, tập “Kiếp
hồng nhan”


không được độc giả đón đợi nhiều. Năm 1935, truyện ngắn “Kép tư bền” ra
đời, gây một tiếng vang lớn trên văn đàn, khẳng định tài năng nghệ thuật, mở
ra một giai đoạn mới, sung sức trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có thể
coi, sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan được bắt đầu từ những năm
20 và thực sự được khẳng định ở những năm 30 của thế kỷ XX, với thể loại
truyện ngắn. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn thành công nhất của Nguyễn
Công Hoan được tính từ 1920 đến 1945. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị,
xã hội Việt Nam rất phức tạp, rối ren với tính chất thực dân nửa phong kiến.
Nhà nước phong kiến già nua, lỗi thời, phản động, chế độ thực dân tàn bạo
hiện hữu và cùng với nó là sự đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân
dân, là phong trào Âu hóa rầm rộ, lố lăng…, sự vận động của phong trào yêu
nước ở các sỹ phu, những manh nha đầu tiên của các tổ chức cộng sản v…v…
là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, làm biến
đổi đời sống tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, khoa bảng, Nguyễn Công
Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc hệ tư tưởng phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của
Nguyễn Công Hoan là tư tưởng yêu nước, yêu con người. Con gái ông - Nhà
văn Lê Minh - khẳng định: “Cha tôi trước khi là nhà văn đã là một nhà giáo
yêu nước” [81]. Sống trong thời thế rối ren, đảo lộn đó, ông ghi nhận và đồng
tình với tâm lý bất mãn của tầng lớp quan lại thất thế với xã hội nửa Tây, nửa
Tầu nhố nhăng. Ông cũng không chấp nhận, thậm chí cảm thấy bị xúc phạm
bởi sự xu nịnh, luồn cúi của bọn quan lại “thức thời”, lũ “liếm gót giầy cho
Tây”. Ông khinh bỉ bọn hãnh tiến, bọn tư sản chạy theo lối sống Âu hóa đồi
bại. Ông đau đớn trước sự biến đổi khôn lường của những thước đo giá trị
cho những vấn đề, vốn được coi là thiêng liêng. Những khái niệm nghĩa: cha con, tình chồng - vợ, bạn bè… đã được thay đổi nội hàm, được đem ra


hành


xử theo kiểu xu thời mẫn thế. Xã hội, nhất là nơi thành thị, nhan nhản những
rởm đời, học đòi, đua chen, bẩn thỉu.
Thời đại, hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống… đã tạo nên ở Nguyễn
Công Hoan một cái nhìn sắc sảo. Ông viết: “Do gia đình tôi là một gia đình
quan lại lỗi thời lép vế, hằn học với bọn quan lại đương lên, ôm chân bọn đế
quốc để có thể có tiền, bản thân tôi làm cái nghề bị bạc đãi là cái nghề dạy
học, lại làm thêm nghề viết tiểu thuyết kiểu tôi, là nghề mà bọn thống trị
chẳng ưa tý nào. Tất cả những cái ấy giáo dục cho tôi nhìn đế quốc, phong
kiến, tư sản bằng con mắt căm thù” [35, tr.282].
Nguyễn Công Hoan là người quan tâm nhiều đến thời cuộc với những
biến đổi khi ồn ào, dữ dội, lúc bình lặng, tinh vi. Không một câu chuyện nào
ngoài đời, không một cảnh tượng nào bất chợt xuất hiện…, lại không được
ông lưu gữi . Một gánh tuồng với những đào kép son phấn lòe loẹt diễu
qua phố lúc chiều muộn, một mẩu tin trên báo đọc hàng ngày, có thể thoáng
qua, vô nghĩa đối với người khác, nhưng với ông lại có giá trị và ông không
bỏ qua. Với lòng yêu nước, với cái nhìn sắc sảo, tỉnh táo, Nguyễn Công Hoan
quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch. Ông từng tự bạch : “Tôi là một
người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế nhạo.
Sống dưới chế dộ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa
bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm
ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế giễu, mỉa mai
để khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả đối với tôi chỉ
là trò cười. Vì vậy tôi hay pha trò cười” [35, tr.367].
Cái nhìn tờhi cuộc, xã hội thuộc địa thực dân phong kiến này của
Nguyễn Công Hoan gặp gỡ cái nhìn của Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng
cũng nhìn thấy sự quay cuồng, hỗn loạn, điên đảo của “xã hội chó đểu”. Ông

cũng phanh phui thực chất sự vô luân lý, vô nghĩa lý của xã hội, khi bố con


trở thành kẻ thù, vợ chồng hóa ra anh em, nghèo đói trở thành triệu phú, mạt
hạng trở thành vĩ nhân. Có thể nói, cả Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng
Phụng đều nhìn đời là một trò diễn sân khấu đầy bi hài. Bằng cách của riêng
mình, mỗi ông đã giải phẫu những sinh thể quái dị ấy, “xé toạc mọi trạng thái
đang bị che giấu”. Không chỉ nhìn đời bằng con mắt lạnh lùng, kết hợp khôi
hài để chế giễu những trò diễn sân khấu, Nguyễn Công Hoan còn nhìn đời
bằng con mắt trắc ẩn, đầy cảm thông, đau xót. Là một người nhân hậu, sống ở
thời kỳ đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than, đói nghèo, loạn lạc. Ông luôn
khuyên, dạy các con: “Con người sống phải biết căm thù bọn bóc lột và yêu
thương những người cùng khổ [81]
Cái nhìn chân thực, cảm thông đối với những kiếp lầm than như hệ quả
tất yếu của cái nhìn đời là một trò diễn và không hề mâu thuẫn, trái lại, đó là
cái nhìn hiện thực hết sức tinh nhạy, tỉnh táo. Có thể nói, quan điểm đạo đức
phong kiến, dẫu có sâu sắc, cũng không là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy
nhất và của Nguyễn Công Hoan. Từ cái nhìn hiện thực nhiều chiều đó,
Nguyễn Công Hoan đã phát hiện mâu thuẫn giầu - nghèo trong xã hội. Đó là
“nỗi ám ảnh thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công
Hoan” [37,tr.359].
Ý thức nghệ thuật đã chi phối Nguyễn Công Hoan trong sáng tác chính là
“yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống” [35,tr.236]. Ông
luôn đứng về phía những con người nghèo khổ, bần cùng, bị ức hiếp, bóc lột
để lên án bọn giầu có, quyền thế, bất nhân, bất nghĩa. Đó chính là cảm quan
hiện thực khỏe khoắn và tiến bộ cuả ông. Trong thời của ông, khi người ta
đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, thì Nguyễn Công Hoan dứt khoát chọn
con đường hiện thực phê phán. Sức mạnh thuyết phục của cách thức phản ánh
này là bám ấrt chặt và o đời sống, nhìn thẳng vào nh÷ng vấn đề của xã
hội đương thời, công khai đả kích, phê phán không thương tiếc những thói hư

tật


20
xấu, những cái ác, thói rởm đời và bênh vực những con người bé nhỏ, cơ cực.
Mục đích sáng tác mà Nguyễn Công Hoan nhằm tới là “(…) yêu quan ngày
xưa, so sánh với quan ngày nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói”.
Để người đọc nhận biết, hiểu được điều mình nói ra, Nguyễn Công Hoan
chú ý khai thác đề tài trong xã hội hiện hành và tìm tới hình thức t ruyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái
độ, với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc” [35, tr.301]. Mỗi truyện ngắn
“chỉ có thể tóm tắt bằng một câu, nêu lên một ý” [35, tr.307].
Từ những sự có thật trong cuộc sống, tìm cho nó được hình thức Nguyễn
Công Hoan còn rất chú ý tới kỹ thuật viết để sao cho thích hợp với ngòi bút
trào phúng của mình, đồng thời làm cho truyện nổi rõ tư tưởng, chủ đề. Quan
niệm của Nguyễn Công Hoan về một truyện hay là “dễ hiểu. Người đọc phải
nhận ra được, phải hiểu tác giả định nói cái gì?” [35, tr.132]. Theo Nguyễn
Công Hoan để người đọc hiểu được truyện, nhận thấy được từ truyện những
cái đang có rất nhiều ở ngoài đời, điều căn bản mà nhà văn phải làm là biết sử
dụng chi tiết, phải biết “bớt cái thừa, thêm cái thiếu, nhấn mạnh cái cần ở
trong sự việc có thật” [35, tr.315]. Nguyễn Công Hoan sử dụng chi tiết với tư
cách là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để p hản ánh cuộc sống
với tất cả sự rộng lớn bên trong.
Tóm lại, thời đại, hoàn cảnh xã hội cụ thể, điều kiện gia đình, đã tác
động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát triển tài năng của Nguyễn Công
Hoan. Hiện thực cuộc sống của một trí thức yêu nước đã trở thành nguồn
nguyên liệu quý giá để Nguyễn Công Hoan kiến tạo nên hệ thống hình tượng
trong sáng tác của mình. Những quan niệm về cuộc đời, về con người đã giúp
nhà văn ìtm hiểu, khám phá hiện thực, phản ánh hiện thực một cách sống

động trong tác phẩm.


21

Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Mỗi tác phẩm nghệ thuật hàm chứa một thế giới nghệ thuật do nhà văn
sáng tạo ra và nó mang tính chỉnh thể. Đó là toàn bộ những yếu tố hợp thành,
cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nên
giá trị thẩm mỹ, tư tưởng và nội dung cho tác phẩm. Đối tượng phản ánh của
thế giới nghệ thuật là hiện thực khách quan. Qua thế giới nghệ thuật, nhà văn
bộc lộ quan niệm về thế giới, con người và cách cắt nghĩa về thế giới đó, con
người đó. Tính chỉnh thể bao hàm cả cách thức tổ chức các yếu tố cấu thành
thế giới nghệ thuật, mang đậm tính sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới nghệ
thuật, thế giới nhân vật được coi là thành tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung
tâm. “Có bao nhiêu nhà văn sẽ có bấy nhiêu thế giới nhân vật riêng biệt”
[46,tr.700]. Tạo nên thế giới nhân vật trong tác phẩm là nhân vật và hệ thống
nhân vật. Nhân vật là trung tâm của nhận thức, là nơi tập trung tư tưởng nghệ
thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Từ cái nhìn của tác gải ,
nhân vật được khắc họa, miêu tả ở nhiều góc độ và thực hiện những chức
năng khác nhau. Vì vậy, đọc tác phẩm, người đọc tiếp xúc trực tiếp với một hệ
thống hình tượng nhân vật và thông qua đó, nắm bắt được những vấn đề nhà
văn đặt ra, giải quyết.
Thế giới nhân vật được cấu thành bởi nhiều kiểu loại nhân vật với những
đặc điểm tÝnh cách, số phận khác nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo
thành một hệ thống, thực hiện nhiệm vụ chuyển tải nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Thế giới nhân vật cũng tạo cho tác phẩm sự độc đáo - dấu ấn sáng tạo
của mỗi cá nhân. Từ sự phong phú của thế giới nhân vật người ta có thể phân
loại nhân vật dựa trên những tiêu chí khác nhau. Dựa vào vị trí, vai trò của
nhân vật trong tổ chức tác phẩm, có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật

trung tâm. Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật, có nhân vật tư tưởng,
nhân vật tính cách, nhân vật loại hình và nhân vật chức năng. Tuy nhiên, sự


phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dù là kiểu nhân vật nào, thì nhân vật
khi xuất hiện tr ong tác phẩm, cũng đều là kết quả sự lựa chọn của tác giả,
nhằm đạt đến hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Đó chính là đối tượng miêu tả mà
nhà văn tìm đến và mục đích của việc tổ chức đối tượng đó. Từ những vấn đề
lý luận trên, tìm hiểu thế giới nhân vật trong tr uyện ngăn Nguyễn Công Hoan
và Sekhov, chúng tôi dựa trên tiêu chí chung nhất: đối tượng miêu tả và mục
đích phản ánh. Với tiêu chí này, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống nhân
vật trong truyện ngắn. Chúng tôi tiếp tục xem xét, các nhà văn đã cắt nghĩa
những vấn đề thời đại như thế nào qua hệ thống nhân vật đó.
Đề tài và những vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan đề cập trong
truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Xuyên suốt các tác phẩm là bức tranh đời
sống, hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu XX phức tạp, đảo điên. Bức
tranh đó được hiện ra với hai mảng mầu đối lập. Một bên là những quan lại,
cường hào, tư sản ăn trên, ngồi trốc. Một bên là những số phận nghèo hèn,
lầm than, khổ nhục.
Khảo sát 30 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi có kết quả sau:
Nhân vật
TT

Tên tác phẩm

Nhân vật là những
dị tật của Xã hội

Nhân vật là


Ghi

những nạn nhân

chú

bi thảm của xã

1

Răng con chó nhà tư sản

X

hội

2

Oẳn tà roằn

X

3

Hai thằng khốn nạn

X

4


Người ngựa ngựa người

X

5

Gói đồ nữ trang

X

6

Thằng ăn cắp

X

7

Báo hiếu trả nghĩa cha

X

8

Báo hiếu trả nghĩa mẹ

X


9


Cụ Chánh Bá mất giầy

X

10

Mất cái ví

X

11

Kép tư bền

X

12

Thanh! Dạ!

X

13

Đàn bà là giống yếu

X

14


Một tấm gương sáng

X

15

Cái vốn để sinh nhai

16

Nhân tài

X

17

Xuất giá tòng phu

X

18

Được chuyến khách

19

Quyền chủ

20


Phành phạch

X

21

Chiếc quan tài

X

22

Đồng hào có ma

X

23

Thằng ăn cướp

X

24

Thịt người chết

X

25


Sáu mạng người

X

26

Sáng, chị phu mỏ

27

Hé! He! He!

X

28

Công dụng của cái miệng

X

29

Người thứ ba

X

30

Bữa…no đòn

Tổng số

X

X
X

X

X
19

11

Kết quả khảo sát cho chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Ho an, về cơ b ản, đ ược tổ ch ức thành hai tu yến rõ rệt. Tu yến
một gồm những nhân vật thuộc lớp quan lại, địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản
mới lên. Tuyến này chiếm tỷ lệ tương đối nhiều (19/30) trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, đây là những nhân vật quen thuộc và là
những nhân vật xấu trong xã hội thuộc địa, phong kiến. Đó là bọn nhà giầu,


cậy quyền cậy thế mà ức hiếp người nghèo. Đó là bọn quan lại, địa chủ, tư
sản, tiểu tư sản với những nét nhơ bẩn cả về vật chất lẫn tinh thần. Loại người
này xuất hiện nhiều trong xã hội nhốn nháo, nửa Tây, nửa Ta, nửa Tầu.
Chúng là sản phẩm tấ t yếu của xã hội đó. Nguyễn Công Hoan đã đưa chúng
vào tác phẩm, tạo điều kiện cho chúng diễn đủ trò. Điều mà Nguyễn Công
Hoan nhìn thấy và muốn chỉ cho mọi người thấy là ở chỗ: xã hội đầy rẫy sự
bất công, lừa bịp, xấu xa, trơ trẽn, bẩn thỉu, nhưng, kẻ thống trị lại cố tìm mọi
cách để che đậy. Đưa chúng vào tác phẩm, Nguyễn Công Hoan phanh phui

những mâu thuẫn đó, phơi bầy những xấu xa, tàn bạo đó. Loại nhân vật này
xuất hiện dưới hai dạng thức. Một là bọn quan lại phong kiến, vô trách nhiệm,
“ăn bẩn” , bọn tư sản hãnh tiến ác độc. Đó là quan huyện, xuất hiện lúc là
Quan, lúc là Huyện Hinh, lúc là Tổng đốc Lê Thăng …; Đó là các cụ chánh bá,
lý tưr ởng…. Những điển hình này mang tính khái quát về lũ sâu mọt
(nhân danh nhà nước, đại diện nhà nước) chuyên đục kho ét, áp bức dân lành
với đủ mánh khóe, thủ đoạn. Đó là các ông chủ hãng xe hơi, ông chủ báo, nhà
tư sản… vô nhân tính, keo bẩn, độc ác. Hai là hệ thống nhân vật bị đồng tiền
chi phối mà trở nên mất nhân cách, vô liêm sỉ, mất lương tâm. Loại này xuất
hiện tương đối nhiều (10/19) truyện. Cuộc sống xã hội Việt Nam buổi giao
thời hiện ra với bao điều kệch cỡm, xa hoa, lố lăng, nhảm nhí. Thói đạo đức
giả, đểu cáng được phơi bầy trong một loạt các truyện như: “Mất cái ví”,
“Xuất giá tòng phu”…. Hình ảnh ông Tham bày trò mất ví để đuổi khéo cậu
ruột ra khỏi nhà khiến người đọc bật ra tiếng cười khinh miệt. Tiếp nhận hình
ảnh ông chủ hãng xe hơi đuổi mẹ già về quê ngay trong ngày làm giỗ, báo
hiếu cha, thì người đọc chỉ còn biết thở dài cho sự vô sỉ, vô lương tâm ... Và,
không còn gìđể nói khi một quan Tham lấy luân thường đạo lý ra dạy vợ, bắt
vợ ngủ với quan trên để tiến thân ... Nguyễn Công Hoan đã tập trung phơi bầy


bản chất xấu xa của bọn này. Tiền, danh vọng với chúng là trên hết. Đó là căn
bệnh do xã hội sản sinh ra và nhà văn đã giải phẫu một cách kiên quyết.
Tuyến nhân vật thứ hai là những kiếp người nghèo khổ, bị áp chế, ức
hiếp. Tuyến này chiếm tỷ lệ (11/30) trên tổng số truyện ngắn. Họ là những
con người sống lay lắt trong xã hội Việt Nam ở cả thành thị lẫn nông thôn. Đó
là những anh phu kéo xe, kép hát, gái điếm… không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước
mắt, mà còn nhục nhã, khốn cùng (“Người ngựa ngựa người”, “Kép tư bền”).
Đó là những người nông dân do dốt nát mà bị ức hiếp

(“Hai


thằng khốn nạn”, “Gánh khoai lang”, “Thịt người chết” ). Cái cách mà
Nguễyn Công Hoan sử dụng ở những truyện kiểu này là những phi lý trở thành
có lý. Người đọc tiếp nhận hiện thực ở góc độ vô lý nhất, bật ra tiếng cười
chua xót, cay đắng, đầy nước mắt và nhận thấy sự có lý hiển nhiên. Đó là
“được đến chỗ đau đớn của người đời, truyện như bịa chơi mà trò đời thường
có”[37,tr. 412].
Tham gia vào tuếny nhân vật này còn là những nhân vật trẻ
em
(“Thanh! Dạ”, “Giá ai cho cháu một hào”, “Thằng bé ăn mày”, “Quyền
chủ”…). Đó là những đứa bé đi ở, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày…. Chúng cũng bị
đánh đập, bóc lột như bất kỳ kẻ nghèo đói, cùng quẫn nào. Cuộc sống của
chúng là chuỗi dài đầy ải khủng khiếp. Chúng là thú vui của bọn nhà giầu
hợm hĩnh, ác độc. Sự góp mặt của những nhân vật trẻ em đã gia tăng sự
phong phú của những con người nghèo khổ, là những mảng màu bổ sung cho
bức tranh xã hội vốn đã xám xịt, càng xám xịt thêm.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn sáng tạo ra loại nhân vật đặc
biệt: nhân vật - đồ vật. Nhân vật hóa đồ vật là một thủ pháp các nhà trào
phúng thường sử dụng và khai thác triệt để khả năng phản ánh hiện thực của
chúng. Nói về cuộc sống khốn khổ của người dân bằng chính họ chưa đủ,
Nguyễn Công Hoan còn sử dụng đồ vật như nhân vật để làm tăng cái nghèo,
cái bấp bênh, cái khốn cùng của kiếp người (“Chiếc quan tài”).


×