Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ theo hướng pháp quyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.48 KB, 18 trang )

A.Lời mở đầu
Nhà nước và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau mỗi mô
hình tổ chức bộ máy nhà nước, phương thức hoạt động của nó phải phù hợp với
một giai đoạn xác định, tương ứng một môi trường kinh tế nhất định.
Tại đại hội lần thứ X, Đảng ta nhận định chúng ta có thuận lợi cơ bản
nhưng còn nhiều yếu kém, “Trong khi yêu cầu về phát triển nhanh và bền vững
rất cấp bách, yêu cầu về hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng
khẩn trương và sâu rộng hơn” (8; 185). Điều này đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước mà trọng tâm cải cách vào hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước nhằm hai mục tiêu: Tiếp tục xây dựng và
từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Từ tình hình trên chọn đề tài “Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo
và quản lý của chính phủ theo hướng pháp quyền Việt Nam” để nghiên cứu là
việc làm cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Tiểu luận có sự tham khảo kế thừa những công trình nghiên cứu về bộ
máy nhà nước. Mục tiêu của tiểu luận là đưa ra một số giải pháp cho việc đổi
mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ.
Do vậy phương pháp nghiên cứu được sử dụng là đọc tài liệu, phân tích,
so sánh, tổng hợp tài liệu…Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu nội dung và kết
cấu cho khoa học song tiểu luận vẫn có nhiều thiếu sót mong thầy cô thông cảm
và tận tình chỉ bảo.
Bố cục tiểu luận gồm: mục lục, lời nói đầu, nội dung gồm ba mục, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo.

1


B.Phần nội dung
I. Một vài nét về chính phủ nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Vệt Nam.


1.Khái quát về sự ra đời và phát triển của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
Trước Cách mạng 8/1945, quốc dân đại hội ở Tân Trào đã bầu ra ủy ban
dân tộc giải phóng để chuẩn bị các điều kiện tổng khởi nghĩa giành chính quyền
của nhà nước. Sau Cách mạng 8/1945, ủy ban dân tộc giải phóng đã trở thành
chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 3/9/1945 chính
phủ lâm thời họp phiên đầu tiên để thảo luận và quyết định những nhiệm cấp
bách của nhà nước. Sau tổng tuyển cử 6/1/1946, Quốc hội được thành lập. Tại
kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Quốc hội bầu ra chính phủ chính thức của nhà nước ta gồm có: Chủ tịch nước,
Phó chủ tịch nước và Nội các. Đến kỳ họp thứ II Quốc hội khóa I đã thông qua
Hiến pháp đầu tiên của nước ta, trong đó có quy định vị trí, (điều 43), cơ cấu
(điều 44), nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch (điều 49, 50) và Chính phủ (điều
52). Đến Hiến pháp 1959, Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng chính phủ.
Trong cơ cấu có sự thay đổi là không có Chủ tịch nước. Trong nhiệm vụ, quyền
hạn của hội đồng chính phủ cũng có sự đổi mới và bổ sung. Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1959, Quốc hội khóa II tại kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức
hội đồng chính phủ. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI đã thông qua hiến pháp
năm 1980, theo đó đổi tên hội đồng chính phủ thành Hội đồng Bộ trưởng. Trên
cơ sở hiến pháp năm 1980, Quốc hội khóa VII tại kỳ họp thứ nhất đã thông qua
luật tổ chức hội đồng bộ trưởng.
Hiện nay Hiến pháp năm 1992 quy định tên gọi Hội đồng Bộ trưởng
thành Chính phủ. Trên cơ sở hiến pháp năm 1992 quốc hội khóa IX tại kỳ họp
thứ nhất đã thông qua luật tổ chức chính phủ.
Trên đây là khái quát những cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu chính phủ.
2. Tính chất và vị trí của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2



Theo Hiến pháp năm 1992, chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” (5; 60). Như vậy, về tính chất, chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội có trách nhiệm chủ yếu là cụ thể hóa Hiến pháp, các luật và nghị
quyết của Quốc hội thành những văn bản dưới luật, đồng thời bàn biện pháp
phân công chỉ đạo thực hiện, biến những quy định trong Hiến pháp, các luật,
nghị quyết của Quốc hội thành hiện thực.
Vì phải bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc
hội…Đối với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân nên chính phủ
phải điều hành và quản lý nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước của chính phủ
là hoạt động chủ yếu, là chức năng của chính phủ.
3.Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ được Quốc hội quy định trong Hiến
pháp năm 1992 và luật tổ chức chính phủ. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn có
trên chín lĩnh vực, bao gồm: kinh tế; văn hóa giáo dục, khoa học và công nghệ; y
tế và xã hội; tổ chức hành chính nhà nước; lĩnh vực pháp luật và hành chính tư
pháp; đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương; lĩnh
vực dân tộc – tôn giáo; quốc phòng và an ninh; trật tự xã hội; đối ngoại (7; 355352).
Nhiệm vụ và quyền hạn của chính phủ có thể khái quát có các nhóm
nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau:
-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bộ máy hành chính nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở, đảm bảo hoạt động có hiệu lực và hiệu quả đủ mạnh để hoàn
thành các chức năng của quyền hành pháp.
- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước
và trong đời sống xã hội.
-Thống nhất quản lý hành chính nhà nước về cơ cấu, kinh tế, xã hội, an
ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đối ngoại. Thực hiện chính sách dân tộc,
chính sách xã hội, chính sách tôn giáo.
3



-Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình,
bảo vệ tài sản, lợi ích nhà nước, xã hội, bảo vệ môi trường.
4.Cơ cấu tổ chức và hình thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ.
-Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các bộ, cơ quan ngang bộ. Hiện nay,
chính phủ có 26 bộ và cơ quan ngang bộ.
-Cơ cấu thành viên của Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
-Hình thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ dưới ba hình thức thông
qua các phiên họp của Chính phủ, thông qua hoạt động của Thủ tướng chính phủ
cũng như hoạt động của từng thành viên Chính phủ (2;428).
Tóm lại phần một đã nêu một cách chung nhất về Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở này, chúng ta đánh giá khách
quan về thực trạng hiện nay của chính phủ.
II. Thực trạng tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ Việt
Nam hiện nay.
Chính phủ ta từ khi thành lập đến nay đã trải qua hơn 60 năm. Trong
những năm đó, Chính phủ đã đạt được nhiều thành tựu và cũng có hạn chế trong
tổ chức và hoạt động của mình.
1. Về vị trí, vai trò của chính phủ.
Hiến pháp năm 1946, chính phủ được xác định là cơ quan hành chính cao
nhất của toàn quốc có địa vị pháp lý tương đối độc lập so với nghị viện nhân
dân. Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ do Quốc hội bầu ra. Hiến pháp
1959 đã có sự thay đổi; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ
quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Chính phủ do
Thủ tướng đứng đầu. Đến Hiến pháp 1982, Chính phủ được gọi là Hội đồng Bộ
trưởng. Và đến Hiến pháp 1992, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng
Chính phủ.[xem 10]

4


1.1. Mặt đạt được:
- Vai trò của Chính phủ từ quản lý thống nhất mọi lĩnh vực đời sống xã
hội đến Chính phủ làm nhiệm vụ xây dựng thể chế, chuẩn bị và tập trung vào
xây dựng chính sách ở tầm vĩ mô. Điều này thấy rõ qua số lượng các dự án luật.
pháp lệnh mà Chính phủ trình Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành:
năm 1999 là 12 dự án luật; năm 2000 là 11 dự án; năm 2001 là 22 dự án; năm
2002 là 6 dự án; năm 2003 là 34 dự án [11;118].
- Bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả đảm bảo tính thống
nhất, liên tục của hệ thống hành chính. Bên cạnh đó là sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ đã nhanh gọn, có hiệu quả góp phần thực hiện thành công các chương
trình, kế hoạch kinh tế- xã hội.
- Chính phủ tập trung vào việc quản lý, điều hành vĩ mô, phân công , phân
cấp cho các Bộ, ngành và chính quyền địa phương quyết định những vấn đề cụ
thể trong lĩnh vực được phân công.
1.2. Mặt hạn chế:
- Vai trò của Chính phủ vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Thể hiện đó là
năng lực lập quy của Chính phủ còn nhiều hạn chế như chậm ban hành các văn
bản pháp quy cụ thể hóa luật, pháp luật, chất lượng các dự thảo luật của Chính
phủ còn thấp…
- Việc Chính phủ phân cấp phân công cho Bộ, ngành và chính quyền địa
phương vẫn chưa hợp lý. từ đó dẫn đến sự phân tán, thiếu kỷ luật trong quản lý
Nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ. Thực tế, Chính phủ không thể điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức các cán bộ địa phương nếu không có sự thỏa thuận của chính quyền
địa phương.

2. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ.

5


2.1 Mặt đạt được:
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ đã giảm đáng kể số lượng các Bộ bằng
cách chuyển từ Bộ quản lý đơn ngành sang Bộ quản lý đa ngành. Bộ máy Chính
phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, giảm dần các việc quản lý sản xuất kinh doanh,
hoạt động sự nghiệp.
- Do bộ máy Chính phủ gọn hơn nên giảm chi phí hành chính, giảm biên
chế, sử dụng hợp lý hơn các công sở và các chi phí khác.
- Sắp xếp cán bộ đã hợp lý, tiến bộ hơn do áp lực từ việc giảm số lượng
các Bộ. Đồng thời, năng lực đội ngũ cán bộ nâng cao thích ứng với yêu cầu hoạt
động của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
2.2 Mặt tồn tại:
- Số lượng các cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan tư vấn liên ngành vẫn
còn quá nhiều so với số lượng Bộ. Điều này dẫn đến việc giao những lĩnh vực
quản lý cho thủ trưởng cơ quan không phải là thành viên Chính phủ. Một số tổ
chức liên ngành có tổ chức bộ máy riêng ở Trung ương và địa phương không
phù hợp với hình thức tổ chức liên ngành.
- Quyền hạn không rạch ròi giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ với các cơ quan
thuộc Chính phủ dẫn đến khó phân biệt các cơ quan này với các Bộ và cơ quan
ngang Bộ.
- Căn cứ để sắp xếp lại các Bộ chưa có một tiêu chí thống nhất. Một lĩnh
vực có thể do nhiều Bộ cùng quản lý dẫn đến khó quy trách nhiệm cho một Bộ
nào.
- Cơ cấu tổ chức bên trong của Bộ. cơ quan ngang Bộ vẫn có những
vướng mắc. Có tổ chức trong Bộ trùng tên gọi với tổ chức trong cơ quan thuộc
Chính phủ, dẫn đến khó phân biệt địa vị pháp lý của từng cơ quan. Ví dụ: Trong
Tổng cục thuộc Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ đều có Vụ trực thuộc…Điều
này tạo ra quá nhiều đầu mối và thiếu sự thống nhất và phối hợp giữa các cơ cấu

thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ.

6


3. Về phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ.
3.1 Mặt đạt được:
- Phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ được thực hiện qua ba
phương thức:
+ Phát huy chế đọ làm việc tập thể của Chính phủ.
+ Tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ.
+ Nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng đối với các ngành, lĩnh vực được
giao.
Chính phủ đã sử dụng tốt ba phương thức này. Kết quả là Chính phủ đã
góp phần đắc lực vào phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh, giữ vững môi
trường chính trị ổn định.
- Phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ đang dần được đổi mới
theo hướng đề cao vai trò của Chính phủ là trọng tài phán xử, điều tiết trong tiếp
cận và giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. Biểu hiện là Chính
phủ tiến hành cải cách hành chính, áp dụng và hoàn thiện cơ chế hành chính một
cửa…
- Chính phủ thiết lập mối quan hệ đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp
và người dân. Điều này đã giúp Chính phủ hiểu được tâm tư, nguyện vọng của
doanh nghiệp và nhân dân. từ đó đưa ra những biện pháp tích cực để Chính phủ
làm tốt hơn vai trò của mình.
- Chính phủ đang đẩy mạnh xây dựng mô hình Chính phủ điện tử, lập
website Chính phủ, Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ. Hoạt động này đã giúp
cho Chính phủ gần gũi với người dân và doanh nghiệp.
3.2 Mặt hạn chế:
- Chương trình công tác của Chính phủ, của Bộ, ngành vẫn chưa hợp lý

nên chưa phát huy hiệu quả thực sự. Do vậy, phải xác định nhiệm vụ cụ thể của
từng Bộ, ngành khi tham gia phối hợp hoạt động.

7


- Tình trạng giải quyết công việc không đúng thẩm quyền: Bộ trưởng. Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ lại đẩy công việc thuộc trách nhiệm của mình lên để
Thủ tướng, phó Thủ tướng giải quyết.
- Tình trạng ủy quyền tràn lan, thiếu căn cứ. Có một số văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ lại ủy quyền cho phó Thủ tướng ký…
Những ưu điểm của Chính phủ là tín hiệu đáng mừng. Nhưng những hạn
chế đã nêu trên chứng tỏ sự cần thiết phải đổi mới Chính phủ.
III. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của
chính phủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
1.Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đối với Chính
phủ.
“Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức Nhà nước với sự phân
công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ
sở pháp luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách
quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người” [1; 174].
Như vậy, Nhà nước pháp quyền có những yêu cầu riêng như: pháp luật vì
con người. phân công quyền lực, chủ quyền nhân dân, chính quyền chịu sự ràng
buộc của pháp luật, tư pháp độc lập… Nhưng suy cho cùng những yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền “chỉ hướng về một mục tiêu là chông lại sự lạm quyền
của Nhà nước, sự vi phạm của Nhà nước đối với những nguyên tắc pháp lý trong
việc hành xử quyền lực, để bảo vệ quyền và tự do của con người, định hướng xã
hội phát triển theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh” [4;295].
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi Chính phủ phải có những tiêu chí sau:
Một là, cơ cấu của Chính phủ phải “tinh gọn”. Tổ chức trong Chính phủ
phải gọn, hợp lý vì nếu cơ cấu của Chính phủ mà phức tạp, cồng kềnh sẽ bị các

8


quan chức lợi dụng để gây sách nhiễu đối với công dân, lạm quyền, tham
nhũng…
Nhà nước pháp quyền tồn tại trong xã hội năng động và phát triển. Trong xã
hội đó, nhiều yêu cầu xã hội cần phải được giải quyết, xử lý nhanh để dọn đường
cho xã hội tiếp tục phát triển. Để làm được điều ấy, các thiết chế cấu trúc quyền lực
của Nhà nước pháp quyền phải có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối với những
vấn đề phát sinh trong xã hội. Sự phức tạp, cồng kềnh trong cơ cấu của Chính phủ
là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức ỳ, kém hiệu quả trong lãnh đạo
và quản lý của chính phủ. Nếu cơ cấu bao gồm quá nhiều tiểu cấu trú, nhất là lại
không ăn khớp với nhau thì sẽ làm cho Chính phủ không có khả năng giải quyết
một cách nhanh chóng các vấn đề phát sinh, nền hành chính trở nên không thông
suốt và chậm chạp. Nói cơ cấu tinh gọn, Chính phủ phải gồm rất ít tiểu cấu trúc bên
trong. Đồng thời, những cơ quan của Chính phủ phải có khả năng hoạt động hiệu
quả, có khả năng giải quyết tốt, nhanh những vấn đề nảy sinh trong xã hội.
Hai là, thẩm quyền của Chính phủ phải mạnh. Chính phủ là bộ phận quan
trọng của chính quyền Nhà nước trực tiếp điều hành xã hội. Một khi Chính phủ
là cơ quan điều hành xã hội mà lại không được giao thẩm quyền mạnh thì hiệu
quả của việc điều hành xã hội khó có thể được cao.
Vì vậy, Chính phủ phải được giao thẩm quyền manh để có thể điều hành
xã hội, đảm bảo sự thông suốt, thuận lợi cho việc phát triển xã hội.
Thẩm quyền của Chính phủ cần phải tập trung vào những vấn đề vĩ mô.
Một cơ chế phân công, phân cấp hợp lý, kèm theo một nỗ lực thực hiện sẽ là

một yếu tố góp phần tạo dựng một Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền.
Ba là, hệ thống cơ quan hành pháp phải tồn tại trong môi trường đạo đức
trong sạch. Sự lạm quyền, tham những của các công chức nhiều khi không chỉ
do thể chế, bộ máy mà chính là do yếu tố đạo đức con người. Do đó, chúng ta
phải chú trọng đào tạo đội ngũ công chức giỏi về chuyên môn nhưng cũng phải
tốt về đạo đức. Chúng ta phải thiết lập được một khuôn khổ pháp lý cho sự vận

9


hành của bộ máy hành pháp, đặt ra pháp luật hoàn hảo để làm cho khuôn mẫu
cho hoạt động của các cơ quan hành pháp.
Bốn là, hoạt động của hệ thống hành pháp phải minh bạch. Nếu như nhà
nước pháp quyền là chống lại sự lạm quyền, sự vi phạm pháp luật của công chức
Nhà nước thì người dân phải kiểm soát được hoạt động của Nhà nước. Vì vậy,
hoạt động của hệ thống hành pháp phải minh bạch để người dân có thể theo dõi,
kiểm soát.
Sự minh bạch là đảm bảo để công dân có thể ràng buộc cơ quan hành
pháp chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Có nghĩa là mọi hoạt
động của cơ quan hành pháp phải được mọi người dân biết đến, công dân quan
tâm được công khai xem xét các hoạt động của cơ quan hành pháp (trừ những
trường hợp đặc biệt do nhu cầu bảo mật của quốc gia).
Năm là, các cơ quan hành pháp phải tăng cường ý thức trách nhiệm trong
hoạt động của mình. Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền về kiểm soát sự lạm
quyền của các công chức Nhà nước, bảo vệ quyền con người đặt ra vấn đề các
cơ quan hành pháp phải tăng cường ý thức trách nhiệm trong hoạt động của
mình, để họ không lạm quyền, không để lại những hậu quả đáng tiếc xảy ra ảnh
hưởng đến nhân dân. ý thức trách nhiệm của các cơ quan hành pháp cũng chính
là ý thức phục vụ nhân dân.
Trong đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ,

chúng ta phải xây dựng Chính phủ đạt được tiêu chí của Nhà nước pháp quyền,
nhất thiết không xem nhẹ tiêu chí nào.
2. Nguyên tắc đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của
chính phủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Việc đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ
phải đạt được tiến hành tuân thủ trên nguyên tắc được áp dụng chung cho toàn
bộ máy Nhà nước. Điều đó đảm bảo cho tính định hướng của việc đổi mới tổ
chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ được đúng đắn. Nguyên
tắc khi đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ là:
10


Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ trong công việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền hành pháp tập trung vào Chính phủ. “Sự phân công không phải là phân
chia, nghĩa là không được phân định các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
một cách cắt khúc, cứng nhắc” [3;171]. Quốc hội có thể thực hiện một số việc
thuộc quyền hành pháp, tư pháp. Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng tham
gia lập pháp như xây dựng các dự án luật, pháp lệnh hoặc ban hành các nghị
định… Hoàn thiện Chính phủ phải dựa trên quan điểm quan trọng này, vì có như
thế mới phù hợp với nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mới phát
huy được cái gốc của quyền lực là nhân dân.
Hai là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình hoàn thiện
cơ cấu tổ chức Chính phủ. Tập trung là nhằm đảm bảo tính thống nhất, dân chủ
chỉ cho chúng ta biết tập trung như thế nào. Sự tập trung chỉ đạo, điều hành của
một trung tâm sẽ đem lại hiệu quả của kỷ luật, giữ vững được kỷ cương phép
nước. Muốn vậy phải đề cao trách nhiệm cá nhân trên nền tảng dân chủ, thực
hiện nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, nhân viên phục tùng thủ trưởng,
đông thời cấp trên tạo mọi điều kiện thuận lợi để cấp dưới chủ động sáng tạo
thực hiện tót chức năng, nhiệm vụ của mình.

Ba là, đảm bảo sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Việc phân công ba quyền chỉ có thể thực
hiện được bởi nhân dân trực tiếp tham gia ý kiến xây dựng thông qua đại biểu
của mình phê chuẩn Hiến pháp. Vì vậy việc đổi mới tổ chức phải tiến hành đông
bộ ở ba cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Toà án cùng Viện kiểm sát. Cả ba cơ
quan này phải nằm trong một cơ cấu thống nhất; phải xá định chính xác lại
phạm vi các loại quyền ở mỗi một cơ quan là chủ thể của quyền đó và từ đó quy
định lại thẩm quyền và mối quan hệ giữa Quốc hội- Chính phủ- Tòa án và Viện
kiểm sát.
Bốn là, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng với hệ thống các cơ quan
nhà nước. Đây là nguyên tắc có tính chủ đạo. Trong đổi mới tổ chức và phương
11


thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ phải tuân theo các quan điểm chỉ đạo của
Đảng được chỉ rõ trong văn kiện, nghị quyết của Đảng. Việc đảm bảo sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng là nhằm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đã đề ra.
Tóm lại, đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính
phủ phải tuân theo bốn nguyên tắc nêu trên, bỏ qua hoặc xem nhẹ một nguyên
tắc nào là yếu tố bất lợi cho sự đổi mới. Tuân thủ nguyên tắc đảm bảo sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng với hệ thống các cơ quan nhà nước.
3. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý
của chính phủ theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
3.1.Xác định vị trí, vai trò của Chính phủ trong điều kiện đổi mới.
Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi, Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong quan hệ với Quốc hội, hệ thống hành pháp mà đại diện là Chính
phủ vừa là cơ quan chấp hành, vừa có vị trí độc lập tương đối để Chính phủ hoạt
động tốt ở cả hai vị thế nói trên, cần nghiên cứu giải pháp sau đây:

Một là, thừa nhận tính độc lập của Chính phủ trong việc thực hiện những
chức năng vốn dĩ thuộc về hành pháp, đó là: chức năng quản lý nhà nước; chức
năng bảo vệ trật tự xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia; chức năng bảo vệ quyền
tự do của công dân. Nhấn mạnh những chức năng này sẽ góp phần thực hiện ý
tưởng phân công quyền lực nhà nước.
Hai là, hạn chế hoặc đưa ra giới hạn cho quyền lực hành pháp trong việc
thực hiện những chức năng như: chức năng xây dựng pháp luật, chức năng thi
hành pháp luật, chức năng xử lý vi phạm pháp luật. Đồng thời cần tạo ra ranh
giới hoạt động lập quy của Chính phủ để thực sự đề cao vị trí và ưu thế của
Quốc hội. Khi tổ chức thi hành pháp luật, cơ quan hành chính không chỉ cụ thể
hóa ý chí của nhà lập pháp mà còn phải sáng tạo để lấp đi những khoảng trống
của luật, pháp lệnh [9]. Điều này dẫn đến nguy cơ làm sai lệch quan điểm của
nhà lập pháp. Hệ thống hành chính còn thực hiện thẩm quyền mang tính tư pháp.

12


Việc hạn chế khả năng sáng tạo pháp luật và thực hiện hoạt động có tính
chất tư pháp của hệ thống hành pháp sẽ góp phần đề cao vai trò của quyền lập
pháp, tôn vinh luật. khắc phục rõ nét vị trí chấp hành của Chính phủ, bảo đảm
nguyên tắc phân công quyền lực.
Để đặt Chính phủ vào đúng vị trí của mình thì Quốc hội không còn sự lựa
chọn nào khác ngoài tập trung vào chức năng lập pháp nhằm hai mục đích: hạn
chế tối đa việc ủy quyền lập pháp cho Chính phủ và thu hẹp những vấn đề cần
giao cho Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Do đó, cần ban hành
luật về ủy quyền, trong đó là nguyên tắc, nội dung, phmj vi, điều kiện và hình
thức ủy quyền từ phía Quốc hội cho Chính phủ.
3.2.Kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Trong qua trình kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo hướng tinh
gọn, đa ngành, đa lĩnh vực thì cần phải bảo đảm cơ cấu bộ máy Chính phủ trùm

hết các lĩnh vực quản lý nhà nước ở cấp Trung ương. Mục tiêu đầu tiên của việc
đổi mới mô hình tổ chức của Chính phủ cần sắp xếp, thu gọn các đầu mối Chính
phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả. Để
làm điều này, chúng ta cần thực hiện:
Thứ nhất, bố trí, sắp xếp lại các Bộ, cơ quan ngang Bộ theo hướng gọn
nhẹ, hiệu quả. Số lượng 26 Bộ, cơ quan ngang Bộ của Chính phủ hiện nay là số
lượng khá lớn. Do vậy, nên giảm bớt số lượng các Bộ và cơ quan ngang Bộ
nhưng phải có sự ổn định, tránh sự thay đổi quá nhiều. “Xét cơ cấu Chính phủ là
phải xét những căn cứ để lập Bộ là: sự phân biệt ngành, lĩnh vực là những phạm
trù kinh tế- xã hội, với Bộ là phạm trù tổ chức bộ máy hành chính [6; 64].
Ngành, lĩnh vực là những đối tượng quản lý Nhà nước của Bộ. Do đó, chúng ta
cần bố trí, sắp xếp các Bộ, cơ quan ngang Bộ theo hướng:
- Nhập các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý Nhà nước vào
các Bộ thành các Bộ đa ngành. Việc sáp nhập các cơ quan Nhà nước trên sẽ
không còn tồn tại những cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước trực thuộc
Chính phủ mà đều nhập vào những Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Để có sự
phù hợp khi sáp nhập, đòi hỏi:

13


+ Khi sắp xếp các Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực cần phải xem xét lựa
chọn các cơ quan trực thuộc Chính phủ có lĩnh vực chuyên môn phù hợp với Bộ
để sáp nhập. Lựa chọn những ngành, lĩnh vực có đặc điểm, tính chất tương tự
hoặc gần giống nhau vào một Bộ quản lý để thuận tiện cho công tác quản lý Nhà
nước của Bộ.
+ Quy mô của Bộ cần thích hợp, nếu quá lớn sẽ dẫn đến khó khăn cho
quản lý; quá nhỏ thì dẫn đến manh mún, vụn vặt không thích hợp với sự quản lý
của một Bộ.
- Một số tổ chức sự nghiệp không mang tính chất quản lý Nhà nước hiện

nay đang được tổ chức dưới hình thức cơ quan trực thuộc Chính phủ cần chuyển
về trực thuộc các Bộ.
Như vậy, sẽ giảm được các đầu mối thuộc Chính phủ, đồng thời tăng
thêm mối quan hệ giữa các đơn vị này với các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có
liên quan.
Thứ hai, khẳng định vị trí của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính
phủ là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo điều hành họa động của Chính phủ.
Vì vậy phải khẳng định vị trí của Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính
phủ trong Hiến pháp (hiện nay mới quy định trong Luật tổ chức Chính phủ). Từ
đó phát huy hết được vai trò cá nhân của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ ba, xây dựng chính phủ điện tử hướng tới phục vụ người dân tốt hơn.
Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
cùng với đổi mới tổ chức các quá trình hoạt động nhằm tăng cường năng lực của
Chính phủ, làm cho Chính phủ làm việc hiệu quả và minh bạch hơn, phục vụ
nhân dân tốt hơn và phát huy dân chủ mạnh mẽ hơn, Cần có các đề án tin học
hóa hoạt động của các Bô trong Chính phủ. Xây dựng website riêng cho tất cả
các Bộ. Tiến tới mọi hoạt động quản lý hành chính đều sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông.
3.3. Đổi mới phương pháp, cách thức điều hành công việc của Chính phủ.
Trước hết, phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ phải tập trung
vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế điều hành đất nước. Trong đó phải đổi

14


mới quy trình xây dựng hình thành các chính sách pháp luật và soạn thảo các dự
án luật. Thành lập cơ chế lấy ý kiến Bộ, ngành trước khi bắt tay vào soạn thảo.
Thứ hai, thiết lập cơ chế phối hợp làm việc trong các việc có tính chất liên
bộ, ngành. Các bộ, ngành thường vì lợi ích cục bộ mà quên đi việc phối hợp
hoạt động với các Bộ, ngành khác. Do đó, cần xây dựng quy chế phối hợp hoạt

động cụt hể, khoa học giữa các bộ, ngành.
Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện đồng bộ cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính. Cần xác định phạm vi và phương thức giải quyết công việc của tập thể
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng và các thành viên của
Chính phủ. Từ đó quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận Chính phủ phải làm
để tránh đùn đẩy lên cấp trên.
Thứ tư, phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho chính quyền địa phương.
Đây là chủ trương thể hiện một nền hành chính phát triển, hướng vào phục vụ
người dân tốt hơn. Theo hướng này, Chính phủ cần có quy định cụt hể những
vấn đề để cho chính quyền địa phương giải quyết và có sự ràng buộc chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương với Chính phủ.
Thứ năm, phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ hướng tới công
khai, minh bạch. Muốn vậy, chú ta phải tạo điều kiện cho người dân tiếp cận đến
các hoạt động dịch vụ công một cách thuận tiện. Đẩy mạnh mô hình xây dựng
Chính phủ điện tử, chúng ta cần xây dựng luật về Chính phủ điện tử.
3.4. Đổi mới chế độ công vụ.
Công việc có thành công xét đến cùng là do con người. Do vậy đổi mới
chế độ công vụ phải là bước đi trong đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo
và quản lý của chính phủ. Đổi mới chế độ công vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức, viên chức cần làm các việc sau:
Thứ nhất, thể chế hóa chế độ công vụ. Hoàn thiện chế độ công vụ, quy
chế công chức tiến tới xây dựng Luật công vụ. Thi tuyển phải theo quy định chặt
chẽ đảm bảo sự công bằng, minh bạch nhằm tuyển chọn những cán bộ có tài,
đức. Sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức theo đúng chức danh; thay thế cán bộ,
công chức yếu về năng lực, thoái hóa về phẩm chất đạo đức. Thực hiện chế độ

15


bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo có thời hạn. Xây dựng quy chế đạo đức và chế độ

trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế phát hiện, tuyển chọn, sử
dụng nhân tài cho nền công vụ. Đổi mới chính sách tạo nguồn và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước. Kiện toàn mạng lưới các trường làm công
tác đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng viên chuẩn và hệ thống giáo trình cập nhật
tri thức mới, phù hợp thực tiễn đất nước và xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ ba, đảm bảo điều kiện sống cho cán bộ, công chức nhà nước sao cho
họ toàn tâm toàn lực vào nhiệm vụ của mình. Cần cải cách chế độ tiền lương
giữa hành chính và sự nghiệp. Sửa đổi những bất hợp lý giữa mức lương với
trình độ, năng lực, sự cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức. Điều chỉnh
tiền lương tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế và mức thu nhập trong xã
hội.
Trên đây là một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và phương thức lãnh
đạo và quản lý của chính phủ. Giải pháp là một phần, quyết tâm thực hiện là
điều quan trọng nhất.

16


C. Kết luận.
Mỗi mô hình tổ chức bộ máy nhà nước chỉ phù hợp với một giai đoạn lịch
sử nhất định. Khi những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị thay đổi
đòi hỏi sự đổi mới tương ứng về tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ phải
tuân theo các nguyên tắc đổi mới bộ máy nhà nước, đặc biệt tôn trọng nguyên
tắc Đảng lãnh đạo.
Vị trí, vai trò của Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, là cơ quan hành chính cao nhất đã được Hiến pháp và Luật
ghi nhận. Cơ cấu tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ đã

được đổi mới một bước. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu lý luận và thực tiễn để
tiếp tục đổi mới Chính phủ.
Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của chính phủ phải
trên mọi mặt, toàn diện thì mới triệt để và đạt được hiệu quả cao. Đó là đổi mới
trên các mặt: xác định đúng vị trí của Chính phủ; kiện toàn cơ cấu tổ chức của
Chính phủ; đổi mới phương pháp, cách thức điều hành công việc của Chính phủ;
đổi mới chế độ công vụ. Trong đó, ba phương thức đầu là yếu tố đổi mới hình
thành nên Chính phủ. Để đổi mới thành công thì phải cần có con người tốt. Do
đó, đổi mới chế độ công vụ là nhằm đổi mới Chính phủ và đào tạo đội ngũ cán
bộ để tiến hành đổi mới.
Giải pháp để đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý của
chính phủ muốn thực hiện được thì phải có quyết tâm của các cơ quan có trách
nhiệm, các cá nhân có thẩm quyền, và được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân.
Tác giả mong muốn những nghiên cứu của mình có thể góp phần vào các công
trình nghiên cứu sâu hơn về đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo và quản lý
của chính phủ.

17


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội- 2005.
2. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội2005.
3. TS Lê Quốc Hùng: Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà
nước ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội- 2004.
4. Th.S Bùi Ngọc Sơn: Góp phân nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp
quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội- 2005.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2007.

6. GS Đoàn trọng Truyến (chủ nhiệm đề tài): Nội dung và phương pháp tổ
chức hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đề tài KX05.08, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội1992.
7. 60 năm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội- 2005.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2006.
9. Phạm Hồng Thái: Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công
rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tạp chí Quản lý nhà nước,
số 2, năm 1993.
10. Th.S Nguyễn Phước Thọ: Khái quát quá trình phát triển của cơ cấu tổ
chức Chính phủ Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 226/2- 2007.
11. TS Đỗ Ngọc Hải: Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội2006.

18



×