Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tư tưởng cải cách của hồ quý ly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.07 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trước sự tiến bộ của xã hội loài người, cái mới của hôm nay sẽ là cái cũ
của ngày mai, nếu chúng ta không bắt kịp, không thay đổi để hòa nhập vào dòng
chảy của thời đại thì chúng ta sẽ trở nên lạc hậu lỗi thời. Chúng ta buộc phải
thay đổi , sự thay đổi ấy có thể bằng cuộc cách mạng hay chí ít là một cuộc cải
cách. Trong lịch sử đã xuất hiện không ít những cuộc cách mạng, những cuộc
cải cách, có những cuộc cải cách thành công mang đến thành quả những cũng có
những cuộc cải cách thất bại mang lại hậu quả tụt lùi cho xã hội.
Ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV đã có một nhân vật lịch
sử đưa ra tư tưởng cải cách toàn diện và táo bạo mà cho đến nay vẫn tồn tại hai
luồng ý kiến khen – chê , thành công – thất bại. Hồ Quý Ly – ngàn năm công,
tội? Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Quý Ly trong lịch sử Việt Nam thời trung
đại, đặc biệt vương triều Hồ do ông lập lên, luôn nhận được sự quan tâm của
giới sử học và những người yêu sử. Nhà nước Đại Ngu (1400 - 1407) mà trụ cột
của nó là Hồ Quý Ly xuất hiện như một hiện tượng, một sự kiện lịch sử khá đặc
biệt, vấn đề không chỉ liên quan đến Hồ Quý Ly mà còn liên quan đến tiến trình
lịch sử Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối
thời Trần đang dần suy yếu và nguy cơ xâm lược từ hai đầu đất nước. Trước
những vấn đề lịch sử đăt ra vào buổi suy vong của nhà Trần đồng thời với họa
xâm lăng đã và sẽ xảy ra vào thời kì này, vương triều Trần – Hồ Quý Ly và tiếp
theo là vương triều Hồ đã phải đương đầu với không ít khó khăn, phức tạp. Tư
tưởng, chủ trương, biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly cùng hệ quả của nó vẫn
đang trong quá trình tiến hành dang dở thì bị chặn đứng bởi cuộc kháng chiến
chống xâm lược Minh do vương triều Hồ tổ chức bị thất bại, lịch sử đã mở ra
vấn đề nhưng chưa sang trang mới. Trong vòng 25 năm cuối thời Trần và chưa
đầy 7 năm đời nhà Hồ nhưng việc làm của Hồ Quý Ly cho thấy ông đã vạch ra
và quyết tâm thực hiện cải cách mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế , văn hóa, xã hội,
quốc phòng, giáo dục… Tư tưởng của ông mới mẻ, vượt tầm thời đại song cuối
1



cùng công cuộc cải cách ấy đã thất bại, dòng họ bị mất ngôi, dân tộc bị mất
nước. Nhưng đánh giá đúng về mặt giá trị thì tư tưởng cải cách ấy vẫn còn
nguyên giá trị mà các thế hệ tiếp theo và cho đến cả hôm nay người ta vẫn còn
kính phục.
Vì lẽ đó, xung quanh vấn đề “cải cách Hồ Quý Ly” còn có nhiều nhìn
nhận, đánh giá khác nhau, cần được tiếp tục nghiên cứu trao đổi, nhằm rút ra
những kinh nghiệm , bài học lịch sử phục vụ cho công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề Hồ Quý Ly và những cải cách của ông đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, có thể nói rằng, không một cuốn sách nào nghiên cứu về lịch sử
Việt Nam thời trung đại lại không dành cho Hồ Quý Ly một phần tùy theo tầm
cỡ của cuốn sách.
Các sử gia thời phong kiến xem xét đánh giá nhân vật Hồ Quý Ly chỉ
được ghi chép sơ sài, nếu không phê phán gay gắt thì cũng nhìn nhận một khách
phiến diện, lệch lạc. Điều đó được thể hiện rõ nét trong cuốn Việt Nam sử lược
của Trần Trọng Kim.
Phải nói rằng vấn đề Hố Quý Ly chỉ thực sự nhận được sự quan tâm
đúng mức vào những năm 60 của thế kỉ trước. Trong số đó phải kể đến những
cuốn thông sử, sách giáo khoa bậc đại học… và những cuộc tranh luận về Hồ
Quý Ly trên tạp chí “nghiên cứu lịch sử” năm 1961, cuốn “ Lịch sử Việt Nam”
năm 1970 của tác giả Trương Hữu Quýnh cùng với Nguyễn Đức Nghinh đã
dành một chương nói về chính sách của ông. Năm 1977 nhóm tác giả Phan Huy
Lê, Phan Đại Doãn trong tác phẩm “ Khởi nghĩa Lam sơn” đã đánh giá ông là
con người mạnh dạn, tiến bộ nhưng cải cách của ông không đáp ứng được yêu
cầu của xã hội. Năm 1989 sử gia Liên Xô Maxlov trong cuốn “ Việt Nam phong
kiến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỳ XV” đã đánh giá cao cuộc cải cách của Hồ Quý
Ly , coi ông là nhà cải cách điển hình ở thời phong kiến.
Năm 1996 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội đã ấn hành cuốn sách

của Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa với nhan đề “ Cải cách Hồ Quý Ly”
2


Năm 1997 Viện sử học và Nhà xuất bản Văn hóa thông tin đã ấn hành
cuốn sách của tác giả Nguyễn Danh Phiệt với nhan đề “ Hồ Quý Ly” là cuốn
sách nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông đầy đủ hơn cả từ trước đến
nay.
Năm 2006 Nhà xuất bản đại học Sư Phạm đã ấn hành cuốn sách “ Mười
cuộc cải cách đổi mới lớn trong lịch sử” của tác giả Văn Tạo.
Từ đó đến nay việc nghiên cứu về Hồ Quý Ly và công cuộc cải tạo của
ông vẫn được tiếp tục.
Tiểu luận này sẽ đi sâu tìm hiểu những nội dung tư tưởng cải cách của Hồ
Quý Ly và những thành công cũng như hạn chế của nó.Qua đó thấy được ý
nghĩa và rút ra bài học kinh nghiệm đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

3


Chương I:
VÀI NÉT VỀ XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỈ XIV ĐẦU THẾ KỈ XV
ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ XUẤT HIỆN TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CỦA HỒ
QUÝ LY
1.1.

Hoàn cảnh kinh tế
Nhà Trần có bề dày lịch sử trong các triều đại phong kiến Việt Nam,

với 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông xân lược, Triều Trần đã đạt tới sự

thịnh vượng trong bối cảnh kinh tế, chính trị ổn định, quân đội vững mạnh
không mấy triều đại nào trong lịch sử có thể sánh kịp . Nhưng thành quả ấy chỉ
kéo dài đến thời vua Minh Tông ( 1314-1329) , thời điểm này trở đi xã hội triều
Trần bộc lộ những nét rối ren, tiêu cực báo hiệu một cuộc khủng hoảng trậm
trọng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và sớm muộn đi đến sự sụp đổ
của một vương triều.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ cơ cấu kinh tế, giữa yêu cầu tư hữu hóa
ruộng đất mà Nhà Trần thừa nhận cuối thế kỷ XIII. Năm 1254 nhà nước bán
ruộng công, mỗi diện là 5 quan tiền cho phép nhân dân mua đất làm ruộng tư,
với chính sách này địa chủ bình dân ngày càng phát triển có tác dụng phần nào
giải quyết được tình hình xã hội. Quan hệ địa chủ với tô tức tương đối nhẹ và
thân phận tương đối tự do hơn đã trở thành hướng tiến bộ mới của quan hệ xã
hội. Năm 1266, vua lệnh cho các vương hầu công chúa, phò mã chiêu tập dân
phiêu tán khai khẩn đất hoang lập thành điền trang. Với chính sách này bọn quý
tộc đua nhau tìm cách cướp ruộng đất công, ruộng đất của nông dân để mở rộng
điền trang. Người nông dân cày cấy trong điền trang bị bóc lột tàn tệ về thân
phận.
Như vậy điều tất yếu xảy ra: một khi đã trở thành hàng hóa – hàng hóa
bất động sản – ruộng tư trở thành lực lượng năng động phá vỡ kết cấu ruộng đất
cổ truyền, kéo theo nhiều biến động xã hội.

4


Với việc nhà nước lấy ruộng đất để phong cấp và bán, tư nhân mua và
chấp chiếm. Phần sở hữu tư có nhiều phân hóa, ruộng đất tập trung ở trong tay
một số ít người – giai cấp địa chủ các loại – đã đẩy sự phân hóa xã hội và mâu
thuẫn xã hội ngày càng lên cao.
Trong bối cảnh đó nhân dân không có ruộng đất bị biến thành nông nô –
nô tỳ ( công hoặc tư ) với nhiều tên gọi khác nhau như “ quan nô – chịu sự bóc

lột trực tiếp của nhà nước”, “ tư nô, quan nô do ban cấp – chịu sự bóc lột của địa
chủ quý tộc các loại”.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của ruộng tư, xã hội Đại Việt thời
Trần gặp phải không ít khó khăn, ngân khố trống rỗng, xã hội bất ổn, sự thống
trị của chính quyền phong kiến đang dần lung lay.
+Nhà nước ngày càng nghèo, tiềm lực kinh tế suy yếu, địa chủ ngày càng đông
đảo ( địa chủ quý tộc, quan lại và địa chủ không quan tước ) thực sự trở thành
giai cấp thống trị với hạt nhân là vương hầu, quý tộc.
+ Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc biểu hiện qua các cuộc khởi nghĩa nông
dân ( khởi nghĩa nông dân, nô tỳ). Điều đó làm nảy sinh mâu thuẫn, rạn nứt đặt
ra cho liên danh Trần Nghệ Tông – Hồ Quý Ly cần giải quyết lúc này.
Tuy vậy cũng cần khẳng định rằng, chính sự xuất hiện ruộng tư đã giúp
Đại Việt 3 lần chiến thắng quân Mông nguyên trong vòng 30 năm trời (12581288)và nhiều lần chiến thắng quân Chiên Thành ở phía nam đã chứng minh
cho sức mạnh của xu thế đó. Có thể nói rằng, đây là thời kì huy hoàng nhất của
lịch sử nước ta thời trung đại với những thành tựu văn hóa văn minh rực rỡ với
những chiến công vang dội. Thời kì này xuất hiện nhiều gương mặt lịch sử chói
lọi: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần
Khánh Dư… Thế nhưng lịch sử không lặp lại. Trong thực tế như đã trình bày ở
trên, sự phân hóa xã hội dẫn đến khởi nghĩa nông nô – nô tỳ vào giữa thế kỉ
XIV. Điều này làm hạn hẹp dần ngân sách của nhà nước, đẩy nhà nước quân chủ
quí tộc Trần vào tình thế bất lực trước những biến động xã hội. Đây là vết rạn
nứt đầu tiên trên bình diện kinh tế trong xã hội Đại Việt cuối thời Trần.
5


Bối cảnh xã hội Đại Việt lúc này cùng lúc đặt ra những bài toán nan giải
cho những người đứng đầu nhà nước. Việc củng cố duy trì, phát huy nhà nước
quân chủ trung ương tập quyền Trần mạt đã và đang gặp phải nhiều trở ngại
lớn. Trong đó, vấn đề ruộng đất và sở hữu ruộng đất – nền móng của nhà nước –
đang gây nhiều bất ổn cho xã hội. Bối chảnh lịch sử đặt ra một số vấn đề lớn:

+Thứ nhất: tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của ruộng tư, phá vỡ cấu trúc xã hội
cổ truyền, thiết lập xã hội mới hơn, phù hợp hơn?? Hay quay về duy trì, củng cố
sở hữu ruộng đất công của nhà nước làm cơ sở cho sự tồn tại một nhà nước quân
chủ tập quyền mạnh??
+ Thứ hai: sự biến động của xã hội đương thời cũng đặt ra vấn đề làm thế nào để
điều hòa lợi ích giai cấp, cố kết đội ngũ quí tộc tông thất với quí tộc quan lại –
những thành viên của bộ máy nhà nước nhằm trấn hưng nhà Trần??
+ Thứ ba: làm thế nào để cứu vãn tình trạng đói kém trong xã hội và ngăn chặn,
giải quyết tận gốc vấn đề loạn lạc đã và đang làm lung lay nhà nước?
Đó là những vấn đề kinh tế xã hội lớn đặt ra trước mắt liên danh Trần Nghệ
Tông – Hồ Quý Ly nói riêng và vương triều Trần nói chung trong xã hội Đại
Việt những năm cuối của thế kỉ XIV.
1.2.

Tình hình chính trị

Khủng hoảng chính trị bắt đầu do trong xã hội phát sinh những mâu thuẫn
dẫn đến loạn lạc và các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân, bộ máy cai
trị của nhà nước đã rệu rã, suy đồi, không còn đảm bảo được chức năng
thống trị của nhà nước như trước nữa. Vua quan chơi bời vô độ, triều đình
bạc nhược , trộm cướp không từ một ai từ dân nghèo đến cả vua cũng ngang
nhiên cướp bóc.
Nạn ngoại xâm tứ phía, một đất nước nhỏ bé đang trong tình cảnh hỗn loạn,
nhà nước mất dần chức năng cai trị, vua quan bạc nhược, nhân dân khởi
nghĩa khắp nơi … là cơ hội cho những kẻ đang có âm mưu nhòm ngó xâm
chiếm đất nước. Phía Nam quân Chiêm Thành đã thực sự xâm lược nước ta
bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XIV. Phía Bắc nhà Minh đã
thay thế nhà Nguyên , đưa ra những yêu sách càng ngày càng quá đáng, Nhà
6



Trần dần không có sự kháng cự mà đang quy phụng. Nguy cơ nhà Minh xâm
lược đang tiến dần .
1.3.

Khủng hoảng về văn hóa tư tưởng

Sự phát triển và thay thế dần dần của Nho giáo với Phật giáo trong hệ tư
tưởng chính thống.
Nho giáo và Phật giáo vốn không phải là sản phẩm bản địa. Sau khoảng
5 thế kỉ ra đời, Phật giáo từ Ấn Độ, Nho giáo từ Trung Hoa du nhập vào
nước ta theo những phương thức khác nhau. Trước hết, Phật giáo theo chân
những nhà tu hành Ấn Độ trên con đường truyền giaaos sang phương Đông
đã dừng chân và truyền bá ở Việt Nam. Đó là cảnh … “chuông khánh uy
nghi đủ hết, kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường: người Hồ đi sát bánh xe
đốt hương thường có đến mấy chục người” đã diễn ra ở Giao Châu thời Sĩ
Nhiếp đầu thế kỉ III sau công nguyên đã được ghi chép trong lịch sử.
Cụ thể hơn là nhà sư Khâu Đà La (kaudra)và đạo hữu là nhà sư Ma Ha
Kì Vực (người Ấn Độ) sang lưu trú và truyền giáo ở Luy Lâu – trung tâm
Phật giáo lớn nhất đương thời.
Phật giáo truyền vào nươc ta theo hai hướng: Trực tiếp từ Ấn Độ sang
theo chân các cao tăng Ấn Độ trên các tàu buôn từ Ấn Độ đến Việt Nam . Và
òng từ Trung Hoa đến, đã có mặt và phổ biến ở nước ta suốt thời kì Bắc
thuộc. Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, với sự cầm quyền của nhà Ngô
( Ngô Quyền) đã mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc. Khi đất nước thoát khỏi
ách đô hộ của ngoại tộc phương Bắc, Phật giáo đã phát triển và chiếm được
vị trí không chỉ trong đời sống xã hội mà còn có uy tín đối với cả nhà nước
quân chủ độc lập tự chủ còn non trẻ. Trong chính trị, tâng lớp tăng sư đã
được các vua Đinh, vua Lê ( tiền Lê ), vua Lý trọng dụng và có vai trò quan
trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Đó là thiền sư Ngô Chân Lưu được

Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống, rồi phong làm Khuông Việt Đại
sư và còn giữ chức đến thời Lê Đại Hành cùng với sư Pháp Thuận; vai trò
các nhà sư Vạn Hạnh, Lý Khánh Văn đối với cuộc đời Lý Công Uẩn. Khi
giành được ngôi Lý Thái Tổ ( tức Lý Công Uẩn ) thường cùng đàm đạo, luận
7


bàn công việc chính trị, ngoại giao với các bậc cao tăng. Dưới thời Lý Phật
giáo đã trỏe thành quốc giáo của Đại Việt.
Nho giáo ra đời gắn liền với Khổng Tử ( 551 – 479 tr CN ) với việc tập
hợp chỉnh lý sách vở có nội dung tư tưởng triết học, luân lý, đạo đức, thể chế
cai trị của Trung Hoa cổ dại thành một hộc thuyế, biên soạn thành linh điển (
Tứ thư, Ngũ kinh ) của Nho gia. Khổng Tử không có trước tác riêng, chỉ có
Luận Ngữ là lời của ông được học trò nhớ và chỉnh lý, ghi chép lại mà thành.
Học thuyết này về sau được giai cấp phong kiến thống trị từ thời Hán trở về
sau sử dụng như một công cụ ý thức hệ chính thống .
Khoảng thế kỉ I sau CN, Nho giáo được truyền bá vào nước ta vào
thời Tích Quang, Nhâm Diên. Nhưng phải đến khi Sĩ Nhiếp sang làm Thái
thú Giao Chỉ ( từ 187- 226 sau CN ) thì Nho giáo được phổ biến hơn bằng
việc mở trường học. Lúc bấy giờ theo sử chép thì ở nước ta chưa có khoa cử.
Những người học giỏi được cử giữ các chức vụ nhỏ ở Giao Châu. Dần dần
cũng có người từ các trường lớp ở Giao Châu sang Trung Hoa dự thi. Có
người đỗ đạt được giữ lại làm quan ở Trung Hoa. Như thế, đến thế kỉ X
trường học còn vắng bóng, cũng như vai trò của nho sĩ chưa thấy xuất hiện
trong bộ máy cai trị của nhà nước quân chủ thời Ngô – Đinh –Tiền Lê.
Trong xã hội lúc này còn phải kể đến Đạo Giáo – một phái tư tưởng Đạo đức
mà đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Đạo Lão sùng chuộng tự
nhiên, có nhiều nhân tố biện chứng mới, chủ trương thanh tịnh vô vi. Đạo
Lão du nhập vào nước ta nuộn hơn Nho giáo và Phật giáo. Theo thời gian
Đạo Lão thâm nhập vào tầng lớp nho sĩ, lan rộng và thấm sâu vào xã hội

người Việt. Trên chính trường chúng ta thấy vị trí và vai trò của đạo sĩ Đặng
Huyền Quang với chức Sùng Chân uy ngho trong vương triều Đinh.
Bắt đầu từ đây học thuyết Lão Tử cùng với Nho giáo và Phật giáo trở
thành yếu tố cấu thành trong tư tưởng Nho giáo ( tam giáo đồng nguyên ).
Như vậy, sau hơn ngàn năm dưới ách đô hộ của ngoại tộc phương Bắc,
bước sang thời kì xây dựng đọc lập tự chủ từ thế kỉ X, trong xã hội đã có
những luồng tư tưởng lớn – Nho- Đạo – Phật cùng tồn tại với vai trò và vị trí
8


tuy rộng hẹp khác nhau. Nho với tam cương ngũ thường làm giường cột, chủ
trương nhập thế, lấy “ tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ” làm phương
châm mục đích. Phật lấy từ bi, bình đẳng, ;láy việc tu luyện thoát tục làm
phương châm hướng thiện … Điều đáng lưu tâm và có liên quan trực tiếp đặt
ra là vị trí và vai trò của chúng trong xã hội trước và trong thởi Trần.
Có thể khái quát rằng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV ở nước ta Phật giáo
chiếm ưu thế tuyệt đối, phát triển mạnh mẽ trong xã hội. Nhưng trong đời
sống chín trị vị trí của Phật giáo sớm mờ nhạt và bị loại khỏi vũ đài chính trị.
Thay vào đólà sự “ lên ngôi ” của Nho giáo. Cũng có thể nói rằng, ở nước ta
ngay vào thời kì hưng thịnh nhất, Phật giáo chưa bao giờ có được vai trò như
Thiên chua giáo ở Phương Tây trung đại
Nhà Trần tồn tại 175 năm , lúc “ Thịnh Trần” chính trị vững chắc, vua
tôi đồng lòng, kinh tế phát triển, xã hội ôn hòa, đến những năm cuối của thế
kỷ XIV nhà Trần rệu rã , suy vong, xã hội khủng hoảng toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực . Trước tình hình đó yêu cầu đối với xã hội Đại Việt lúc này là :
- Phá bỏ quan hệ ruộng đất điền trang, phân phối lại ruộng đất thỏa
đáng hơn cho nhân dân, tạo điều kiện cho phát triển quan hệ sản
xuất địa chủ bình dân tá điền.
- Ổn định tình hình sản xuất bằng chính sách khuyến nông, sửa sang
lại các công trình thủy lợi, đẩy mạnh sản xuất, giải quyết nạn đói

kém.
- Hủy bỏ nhà nước quý tộc tôn thất xây dựng một bộ máy nhà nước
phong kiến nhưng tiến bộ hơn , rộng rãi hơn .
- Giải quyết tình trạng lưu vong của nhân dân và thanh toán chế độ
nô tỳ…
Muốn giải quyết được những khủng hoảng toàn diện của xã hội thì
không phải chỉ thay bằng ngôi vua mà phải bằng 1 cuộc cách mạng
hay chí ít cũng phải bằng một cuộc cải cách. Sự nghiệp cải cách Hồ
Quý Ly đã được ươm mầm từ trong sự khủng hoảng của vương
triều Trần , để rồi đến năm 1400 một cuộc cải cách cung đình táo
9


bạo, triệt để lật đổ nhà Trần thay thế bằng nhà Hồ và với sự ra đời
của nhà nước Đại Ngu.
Chương II: TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY
2.1.

Sơ lược tiển sử Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly tự là Lý Nguyên, dòng dõi Hồ Hưng Dật – một trạng nguyên –
người Triết Giang ( một tỉnh ven biển Trung Hoa, phía nam sông Dương Tử).
Sống vào thời Ngũ Đại thời Hậu Hán ( 947 – 950 ). Hồ Hưng Dật đõ rạng
nguyên và được cử sang làm Thái Thú Diễn Châu ( vùng Nghệ An ngày nay)
Về sau, Hồ Hưng Dật chuyển đến hương Bào Đột ( nay thuộc vùng ahọ này
có người làm phò mã nhà Lý, lấy công chúa Nguyệt Đích sinh ra công chúa
Nguyệt Đoan. Hộ Hồ đến đời thứ 12 hậu duệ là Hồ Liêm dã dời diền trang
đến hương Đại Lại ( nay thuộc khu vực sông Lèn – Thanh Hóa ), làm con
nuôi Tuyên uý Lê Huấn, nên đổi sang họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của
Tuyên uý Lê Huấn, ông mang họ Lê cho đến khi thành lập nhà Hồ mới đổi

lại họ của mình. Quý Ly có hai người cô đều là vợ của vua Minh Tông và hai
bà là mẹ của 3 vua Hiến Tông , Nghệ Tông , Duệ Tông, nhờ đó ông rất được
Trần Nghệ Tông tin yêu.
Những hoạt động của Hồ Quý Ly trong 30 năm cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV.
Như đã trình bày, tình hình xã hội Đai Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV
rơi vào khủng hoảng trầm trọng, loạn lạc binh đao khắp nơi, đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ . Song, ở đây để có được cái nhìn toàn cảnh về Hồ Quý
Ly trong những năm cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV chúng ta cần điểm qua
vài nét về tình hình xã hội Đại Việt trong 30 năm cuôí thế kỉ XIV. Điều đáng
lưu ý là vào cuối thế kỉ XIV tình hình xã hội Đại Việt tiếp tục không ổn định
nhưng lại mang một sắc thái mới. Nếu như trước đó tình trạng loạn lạc tập
trung cao độ ở các cuộc khởi nghĩa nông nô: Ngô Bệ ( từ 1344 đến 1360 ),
và do một người tên Tề cầm đầu diễn ra vào năm 1354 trên một vùng rộng
lớn khắp Lạng Sơn - Quảng Ninh - Hải Hưng ngày nay. Thì vào những năm
10


cuối thời Trần tình hình xã hội dường như ổn định hơn. Theo sử sách để lại,
thì trong khoảng những năm cuối thế kỉ XIV ghi nhận 4 cuộc khởi nghĩa và
nổi dậy, đó là các trường hợp : Nguyễn Thanh tự xưng Linh Đức Vương nổi
dậy ở Thanh Hoá; Nguyễn Kỵ xưng Lỗ Vườn khởi nghĩa tại Thanh Hoá ;
đáng lưu ý nhất là cuộc khởi nghĩa của nhà sư Thiên Nhiên - Phạm Sư Ôn nổ
ra ở Quốc Oai … đánh vào kinh sư, buộc nhà Trần phải lánh sang Bắc Giang.
Cũng cần nói thêm rằng, trong thời gian này tình hình biên giới phía nam với
Chiêm Thành nhiều lần nảy sinh binh đao. Trong năm 1370 – 1394 ít nhất có
9 lần quân Chiêm Thành tiến đánh trong đó một lần uy hiếp kinh sư Thăng
Long. Cũng trong thời gian này nguy cơ xâm lược từ phương Bắc ngày một
rõ ràng . Tình hình đất nước lúc này , đòi hỏi phải tiêu phí sức người , sức
của trong khi kho tàng cạn kiệt. Đội ngũ quý tộc Trần ngày càng sa đoạ trở

thành gánh nặng cho xã hội. Trong bối cảnh đó , Trần Nghệ Tông nổi lên
như nhân vật số 1 không có người phù tài giỏi tâm huyết ông chỉ có Hồ Quý
Ly , tuy không phải tông thất nhưng có năng lực văn võ, hăm hở hành động
với ý chí mịnh mẽ hơn hẳn các vương hầu quý tộc đương thời. vì thế Hồ Quý
Ly nhanh chóng lọt vào “ mắt xanh ” của Trần Nghệ tông bằng chính năng
lực của mình. Ông bước vào chính trường Đại Việt từ đây. Hồ Quý Ly dấn
thân hoạn lộ vào tuổi 34 với chức quan võ nhỏ trong buổi đầu triều Nghệ
Tông. Từ đây ông chiếm được cảm tình của Trần Nghệ Tông do đó ông được
sử dụng , cất nhắc và nhận được mọi uỷ thác của vua Trần, ngược lại Hồ Quý
Ly hoạt động hết mình trở thành cánh tay phải của Trần Nghệ Tông.
Năm 1371, sau khi lên ngôi được một năm và củng cố được địa vị
thống trị của họ Trần, Nghệ Tông bắt đầu phong cấp chức tước, bổng lộc cho
những người đã ủng hộ mình và tổ chức lại bộ máy nhà nước. Trong khoảng
thời gian này Hồ Quý Ly được phong chức Khu mật viện Đại sứ - một chức
quan quan trọng trong triều, trông coi cấm quân. Cũng từ đây Hồ Quý Ly bắt
đầu thâm gia hoạt động chính trị một cách tích cực và càng ngày càng thể
hiện được vai trò của mình trong bộ máy nhà nước.
11


Năm 1375, Hồ Quý Ly được giao giữ chức tham mưu quân sự. Cuối năm
1376 đầu năm 1377, Hồ Quý Ly tham gia đánh quân Chiêm Thành do Duệ
Tông chỉ huy, ông giữ chức Đốc thúc Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá chở
lương cho quân.
Năm 1380 Hồ Quý Ly được thăng chức Nguyên nhung hành hải Tây đô
thông chế. Tháng 2 năm Nhâm Tuất ( 1382 ) ông đem quân đi đánh Chiêm
Thành ở Thanh Hoá.
Năm 1387, Hồ Quý Ly được Nghệ Tông thăng chức Đồng bình chương
sự quyền như tể tướng cùng vua bàn việc nước. Cũng từ đây, dựa vào chức
quyền và sự tin yêu của Nghệ Tông, Hoò Quý Ly đã từng bước nâng cao,

củng cố thế lực của mình, đưa người thân tín nắm các chức vụ quan trọng
trong triều cũng như trong quân đội.
Năm 1388, Duệ Tông cùng Thái uý Trần Ngạc và một số quý tộc nhà
Trần mưu giết Hồ Quý Ly, sự việc bại lộ, Trần Ngạc bị giết Duệ Tông bị
phế làm Linh Đức Vương – đêm giam lại rồi bị giết chết. Thế lực của Hồ
Quý Ly ngày càng mạnh, đã có lúc Nghệ Tông phải lo lắng mà rằng: “
nay thế nước suy yếu …sau khi ta chết rồi , quan gia ( chỉ Thuận Tông )
đáng giúp thì giúp, nếu là người hèn kém, ngu dốt thì ngươi tự lấy lấy
nước ”. Năm 1394 Nghệ Tông mất. Hồ Quý Ly được phong chức Nhập
nội phục chính thái sư bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên trung
vệ quốc Đại vương. Quyền hành nằm hầu hết trong tay Quý Ly. Năm
1397, ông cho xây kinh đô mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc – Thanh Hoá ) rời cả
triêù đình vào đây, ép Thuận Tông nhường ngôi cho thái tử An ( 3 tuổi
theo âm lịch ) tức Thiếu đế.
Năm 1399, trước tình hình xã hội có nhiều biến động phức tạp, trước
nguy cơ xâm lược từ phương Bắc và giặc Chiêm Thành từ phía nam. Hồ
Quý Ly cho người bức tử Thuận Tông. Một số quý tộc Trần : Trần Khát
Chân, Trần Nguyên Hãn, Trần Nhật Đôn, Hành khiển Hà Đức Lân… tổ
chức mưu sát Hồ Quý Ly. Sự việc bại lộ, tất cả bọn họ cùng 370 thân
thuộc bị giết trong bể máu.
12


Bước sang năm 1400, không thể chần chừ thêm nữa, Hồ Quý Ly phế truất
ngôi Thiếu Đế, tự xưng làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, niên hiệu
Thánh Nguyên. Nhà Hồ “ có vua Hồ thành lập ”.
2.2.

Những tiền đề tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly


Những tiền đề dẫn đến tư tưởng cải cách “ táo bạo” của Hồ Quý Ly có
liên quan mật thiết đến tình hình xã hội Đại Việt bấy giờ.
Trong xã hội, về kinh tế, sự xuất hiện của ruộng tư và những hệ quả của nó làm
cho xã hội biến đổi sâu sắc. Nhà nước ngày càng nghèo, tiêm lực kinh tế suy
yếu, tầng lớp quý tộc sa đoạ…đã đẩy đất nước vào tình cảnh vô cùng khó khăn.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc biểu hiện qua các cuộc khởi nghĩa
nông nô (nông dân, nô tỳ ) điều đó làm nảy sinh những rạn nứt buộc liên danh
Trần Nghệ Tông - Hồ Quý Ly ( linh hồn của sân khấu chính trị Đại Việt cuối thế
kỉ XIV đầu thế kỉ XV ) phải giải quyết những vấn đề nan giải:
tiếp tục để ruộng tư phát triển hay quay về duy trì, củng cố sở hữu ruộng đất của
nhà nước làm nền tảng cho nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh như
đã diễn ra trong lịch sử.
Làm thế nào để điều hoà lợi ích giai cấp , cấu kết đội ngũ quý tộc tông
thất với quý tộc quan lại - những thành viên của bộ máy nhà nước?
Làm thế nào để ngăn chặn loạn lạc, giải quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra?
Lịch sử đã đặt ra các vấn đề trước mắt cần giải quyết. Việc giải quyết hay
không những vấn đề này có vai trò quyết định sự tồn vong của đất nước trong
bối cảnh bấy giờ. Cũng cần nói thêm rằng trong bộ mày nhà nước lúc bấy giờ
người có khả năng đảm đương nhiệm vụ lịch sử này có thể nói ngoài Trần Nghệ
Tông ra chỉ còn có duy nhất Hồ Quý Ly là làm được điều đó.Nhưng ông vua già
Nghệ Tông vốn không mặn mà với công việc làm vua đã gần như “nhường lai”
nhiệm vụ khó khăn ấy cho Hồ Quý Ly, hơn nữa ông vua già Nghệ Tông bị bao
bọc xung quanh bởi những quý tộc tong thất vốn yên vị với những gì mình đã
có, họ luôn tìm cách giữ nguyên hiện trạng xã hội với lợi ích không ,hoặc ít
nhiều thay đổi của mình nhưng vẫn đảm bảo cuộc song của họ. chính vì thế ông
vua già Trần Nghệ Tông không thể tiến hành cách tân đất nước và trong thực tế
Nghệ Tông cũng không muốn điều này xay ra vì ít nhiều nó sẽ ảnh hưởng mạnh
đến lợi ích của dòng họ mình. Trong khi đó, với tư tưởng “táo bạo” Hồ Quý Ly
luôn muốn cách tân đất nước nhằm giải quyết những khó khăn chồng chất mà xã
hội Đại Việt gặp buổi Trần mạt đặt ra. Với vị trí và uy quyền ngày một lớn trên

chính trường Hồ Quý Ly đã từng bước thực thi những chính sách cải cách đất
nước của mình, trước hết trên lĩnh vực kinh tế mà tiêu biểu là việc ông cho phát
hành tiền giấy,… dưới sự ngầm ủng hộ của Nghệ Tông.
Như thế chính trong bối cảnh xã hội Đại Việt bấy giờ đã thổi bùng lên tư tưởng
cách tân đất nước vốn tiểm ẩn sẵn trong con người đầy mưu lược Hồ Quý Ly.
2.3.

Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly
13


Trước những yêu cầu khách quan của xã hội thời Trần với mong muốn cứu
vãng tình thế Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực:
chính trị quân sự, kinh tế -xã hội và văn- hóa giáo dục….
2.3.1. Trên lĩnh vực chính trị- quân sự :
Hồ Quý Ly đã cho cải tổ lại bộ máy chỉ huy quân sự lúc bấy giờ:tổ chức các kì
thi xác hạch nhân tài, tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội như đưa vào
đội ngũ những người khỏe mạnh và giảm bớt người yếu
Năm 1375 Hồ Quý Ly đã đề nghị “chọn các viên quan người nào có tài năng
luyện tập võ nghệ thông hiểu thao lược thì không cử là tôn thất, đều cho làm
tương coi quân”
Năm 1397 thay đổi một số lộ trấn trấn và quy định về cơ chế làm việc: “lộ coi
phủ,phủ coi châu, châu coi huyện”.
Hồ Quý Ly cho xây dựng một kinh thành ở An Tôn (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) còn
gọi là Thành Nhà Hồ
Tăng cường củng cố sức mạnh quân sự quốc phòng Hồ Quý Ly đã cho cải tiến
các loại vũ khí tiêu biểu là Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý Ly ) đã chế tạo
ra súng thần cơ, thuyền chiến cổ lâu đi biển.
Hồ Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội nhân , đi về các lộ thăm hỏi cuộc
sống nhân dân và tình hình quan lại để thăng giáng cho hợp lý (năm1400).

2.3.2. Trên lĩnh vực tài chính- kinh tế và xã hội
• Tài chính:
Năm 1396, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy thu hồi hết các loại tiền đồng
gọi là “thông bảo hội sao” có 7 loại hình vẽ khác nhau. Nhà nước quy định làm
14


giả phải tội chết, 1 quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy, ai dùng tiền đồng
bị bắt cung bị tội như làm giả. Trước phản ứng của nhân dân, năm 1403 nhà Hồ
ban điều luật về tội không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng và đóng cửa hàng, đặt
chức thị giám, ban mẫu về công thước thương đấu.
Năm 1402 Hồ Quý Ly cho định lại thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh
vào những người có ruộng được chia, còn không phải đóng thuế đinh đó là
người không ruộng,trẻ mồ côi, đàn bà góa. Và thuế được đánh theo lũy tiến :
người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan..
• Về kinh tế :
Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền vào năm 1397. Tất cả mọi người từ quý
tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa:10 mẫu) trừ đại vương và
trưởng công chúa. Người nào nhiều ruộng thì được phép lấy ruộng chuột tội còn
ruộng thừa thì sung công.
Năm 1398 Hồ Quý Ly đã cho quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất với mục
đích là để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền. Những ai có ruộng tư thi
phải kê khai rõ số ruộng và phải cắm thẻ ghi tên của mình trên mảnh ruộng đó.
Nếu sau 5 năm ruộng nào không có ai nhận thì nhà nước sung công.
• Về xã hội:
Hồ Quý Ly chú trọng đến phép hạn nô. Năm 1401 Hồ Quý Ly quy định
các quan lại , quí tộc theo các phẩm cấp chỉ được nuôi một số nô tì, nông nô
nhất định số thừa ra sẽ sung công. Nhà nước đền bù 5 quan tiền cho 1 gia nô trừ
loại mới nuôi với gia nô nước ngoài , các gia nô còn lại thị phải ghi dấu hiệu ở
trên trán theo tước hiệu của chủ. Cho làm lại sổ hộ và biên hết tên những người

từ 2 tuổi trở lên những dân phiêu tán thì không được ghi vào sổ còn các dân kinh
thành sống ở các phiên trấn phải trở về quê quán.

15


Nhà Hồ đã đưa những người có của mà không có ruộng biên vào quân ngũ ở lại
trấn giữ lâu đài khi đánh chiếm được vùng đất Hóa Châu đến Cổ Lũy vào năm
1403 và sau đó gọi nhà giàu nộp tâu vào đây.
Nhà Hồ đã cho quan địa phương khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt phải bán
thóc cho dân đói theo thời giá, khi nạn đói xảy ra năm 1403 đồng thời đặt quản
tế thự để chữa bệnh cho nhân dân
• Trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục :
Hồ Quý Ly đã cho chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo đề cao Nho giáo
và hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Năm 1396 Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng
đạo dưới 50 tuổi bắt họ phải Hồ Quý Ly hoàn tục vị nho giáo thực dụng chống
giáo điều kết hợp với tinh thần pháp gia. Năm 1392 soạn sách “minh đạo” bàn
về Nho giáo, phê phán thói giáo điều của Nho Hàn Dũ , Chu Đôn Di, Trình Hiệu
La “trộm Nho” và đề Cao Chu Công. Ngăn cấm và xử phạt nặng những người
làm nghề thương thuật.
Người có ý thức đề cao chữ Nôm, từ đó cho nên ông đã tự mình dịch
“Thiên Vô Dật” để dạy cho vua Trần Nhuận Tông và dịch sách Kinh thi để cho
các nữ quan dạy các phi tần, cung nữ.
Hồ Quý Ly rất quan tâm đến giáo dục và thi cử. Năm 1396, Hồ Quý Ly
cho sửa lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành.
Những người đã thi hội thì phải làm thêm một bài văn do vua đề ra để định vị
thứ bậc. Ông đã bỏ thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa trong 4 trường thi.
Ông đã đặt thêm trường thứ 5 thi viết chữ và toán.
Ngay sau khi mới lên ngôi ông mở khoa thi hội lấy đỗ 20 người trong đó
có Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Thời Sĩ “phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự

4 trường, đến nay còn theo , không thay đổi được”. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã đề
nghị đặt học quan ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông.
16


CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ :
Qua cuộc cải cách trên cho ta thấy rằng Hồ Quý Ly là một con người
hành động có tầm nhìn, có năng lực và sự quyết đoán. Hồ Quý Ly là một nhà cải
cách táo bạo và kiên quyết, Ông đã ban hành nhiều chính sách nhiều biện pháp
,trên nhiều phương diện khác nhau nhằm củng cố tăng cường chế độ quân chủ
tập quyền, đồng thời cũng để giải quyết các mâu thuẫn kinh tế xã hội, đáp ứng
yêu cầu lịch sử do cuộc khủng hoảng đặt ra. Phải nói rằng Hồ Quý Ly đã nhận
thức được nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng cuối đời Trần, mạnh dạn
tiến hành các chính sách và biện pháp cải cách. Đồng thời ông cũng là người mở
đầu một giai đoạn cải cách quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Xét về định hướng, mục tiêu và kết quả của công cuộc cải cách thì Hồ Quý
Ly đã loại bỏ được tầng lớp quý tộc nhà Trần ra khỏi bộ máy nhà nước, bổ sung
một đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương, mang tính pháp chế cao
hơn. Chuyển dần thiết chế chính trị từ quân chủ quý tộc đến quân chủ chuyên
chế. Xét về tư tưởng cải cách thì phải nói rằng tư tưởng Hồ Quý Ly là của hành
động, của tinh thần yêu nước sâu sắc. Tuy mang ý thức hệ Nho giáo nhưng cũng
tỏ ra thực dụng, không giáo điều. Do hoàn cảnh khách quan (cuộc kháng chiến
chống quân Minh 1406_1407) cuộc cải cách bị bỏ dở nhưng nó được tiếp tục
được thực thi dưới ở cuối thế kỷ XV dưới triều Lê Thánh Tông. Xong nhìn
chung công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã đem lại những thành tựu cần phải
được ghi nhận:
Với chính sách hạn điền đã góp phần làm hạn chế sự sở hữu ruộng đất tư
trong tay quý tộc quan lại nhà Trần cũng như tần lớp không quan tước và nhà
chùa.Với chính sách này Hồ Quý Ly nhằm đánh vào tiềm lực kinh tế của thế lực
nhà Trần (kẻ thù không đội trời chung với ông). Theo nhà sử học Nguyễn Danh

17


Phiệt cho rằng: “Hồ Quý Ly chỉ giới hạn ruộng đất sở hữu tư nhân chứ không
hạn chế số lượng người sở hữu.”
Trên lĩnh vực tài chính thì việc ban hành tiền giấy là việc làm mới mẻ ở
Việt Nam và mang tính chất thiết thực nhằm giải quyết tình trạng khủng hoảng
tạm thời trong điều kiện xã hội đang khủng hoảng nghiêm trọng, và cũng bổ
sung một lượng đồng cần thiết để chế tạo vũ khí phục vụ cho công cuộc kháng
chiến chống quân Minh xâm lược, đây là việc làm hết sức thiết thực .
Mặc khác Hồ quý Ly tiến hành thực hiện cuộc cải cách từ khi ông còn làm
quan ở triều Trần. Năm 1397 với sự kiện ông cho quân lính xây dựng cơ sở tại
An Tôn để rồi sau đó là chuyển hẳn kinh thành về nơi đây, cho chúng ta thấy
rằng đây là một sự tính toán khôn ngoan.Với việc làm này của Hồ Quý Ly nhằm
mục đích tránh xa và một phần để loại bỏ bớt sự phản kháng của tầng lớp quan
lại , quý tộc Trần đã tồn tại gần hai trăm năm ở kinh thành Thăng Long. Đồng
thời là để phòng bị chống giặc ngoại xâm từ phương Bắc. Sử cũ cũng đã ghi lại
rằng An Tôn (Thanh Hoá) là một huyện nhỏ nhưng lại có đầy đủ các dạng điạ
hình (có sông, biển , núi non hùng vĩ…) thuận lợi cho phòng chống giặc Minh
và cũng thuận lợi đối với việc giao lưu buôn bán, dẫu không bằng Đông Đô ( chỉ
kinh thành Thăng Long )
Nếu như nói Thăng Long là nơi thích hợp để xây dựng một kinh đô phát
triển và mạnh hơn về kinh tế, thì An Tôn là nơi xây dựng một kinh thành phát
triển và phát huy thế mạnh hơn về quốc phòng điều này phù hợp với điều kiện
xã hội đang khủng hoảng nghiêm trọng trên cả hai mặt chính trị-quân sự và đặc
biêt là đất nước đang đứng trước hoạ xâm lược. Như vậy, ngoài Thăng Long ra
thì không có nơi nào thích hợp hơn An Tôn để làm kinh thành.
Hồ Quý Ly cũng đã đem lại nhiều tiến bộ cho xã hội qua các lĩnh vực giáo
dục và chính sách tuyển dụng quan lại bằng cách thi cử. Cụ thể là lệnh cho các
quan lộ, quan đốc phải dạy hoc trò nên tài rồi nhà vua sẽ thân hành thi tuyển,

18


mặc khác Hồ Quý Ly còn cho dịch sách và làm sách để giáo dục trong cung
đình. Đặc biêt tiến bộ trông thấy của công cuộc cải cách đó là ở chính sách
tuyển dụng quan lại bằng cách thi cử, thay thế chế độ quan liêu thân tộc cũ.
Như vậy những ai làm quan đều phải qua những kỳ thi cam go thử thách, với
chế độ tuyển dụng này đã mở rộng chế độ quan trường cho mọi tầng lớp nhân
dân, Hồ Quý Ly muốn đưa nền giáo dục phát triển từ trung ương đến các địa
phương và có thể tuyển dụng được nhân tài trong cả nước để góp phần vào việc
củng cố và đưa đất nước thoát ra khỏi sự khủng hoảng, tạo điều kiện chống giặc
ngoại xâm và đi đến xây dựng đất nước vững mạnh. Đây là sự cống hiến đóng
góp to lớn cho nền giáo dục và tuyển dụng nhân tài mà các triều đại sau ông
tiếp tục phát triển thêm.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nhất định như trên thì công cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly lại có nhiều tiêu cực, hạn chế và không triệt để (để rồi
công cuộc cải cách đi dến thất bại và đất nước ta phải chịu cảnh thống trị của
giặc Minh). Như chính sách hạn điền gặp phải sự phản kháng quyết liệt của
vương hầu quý tộc Trần (đây là điều tất yếu và có lẽ Hồ Quý Ly đã biết trước
điều này). Ông cũng mất đi sự ủng hộ của những địa chủ có ruộng đất lớn hơn
10 mẫu.
Việc ban hành tiền giấy của Hồ Quý Ly không được sự hưởng ứng của
người dân mà đặc biệt tầng lớp thương buôn lớn. Vì tiền giấy khó bảo quản (dễ
bị rách nát) mà trong khi đó nhân dân ta lúc giờ làm nông nghiệp là chủ yếu,
thường xuyên tiếp xúc với ruộng nước (độ ẩm nước ta đến 80%). Thêm vào đó
là tiền giấy lúc này rất mới mẽ với nhân dân ta.(1)
(1)

.Xét ở thời điểm lúc bấy giờ thì Trung Quốc trước đó đã dùng tiền giấy dưới


dạng như ngân phiếu ,việc dùng tiền giấy không phải do nhà vua Trung Quốc ra
quy định mà là xuất phát từ 8 nhà thương buôn bán lớn nhất ở Trung Quốc
thống nhất với nhau lại để tiện buôn bán ở trong nước cũng như ngoài nước. Và
19


đó là điều kiện để tiền giấy đi vào lưu thông một cách tự nhiên như nhu cầu cần
thiết cho xã hội.Trong khi đó ở nước ta Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấ , tuy
là không sai nhưng ở trong điều kiện lịch sử lúc giờ thì không phù hợp vì những
thuộc tinh đã nêu trên.
Tiền giấy được phát hành đã gặp sự phản kháng đầu tiên là của thương nhân
buôn bán lớn ở trong nước. Mặc khác tiền giấy đi vào lưu thông trong nhân dân
dưới sự cưỡng chế của triều đình, lại rất dễ bị làm giả. Cụ thể là vào năm 1399
Nguyễn Nhữ đã làm tiền giả trên núi sau đó đem đi lưu hành. Chính vì các lý do
trên tiền giấy không được tín nhiệm trong nhân dân và bị mất giá, dẫn đến chính
sách này không có hiệu quả cao.
Trong công cuộc cải cách này Hồ Quý Ly đã tiến hành trên nhiều mặt, và nhiều
phương thức khác nhau nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng nhưng
điều cốt yếu nhất mà ông chưa làm được, và thể hiện tính không triệt để đó là ở
chính sách hạn nô. Hồ Quý Ly đã chuyển đổi một số lớn gia nô thành quan nô
(nô tì nhà nước), những nô tì này họ được thay đổi về thân phận nhưng rõ ràng
họ vẫn là nô tì mà thôi, họ chỉ thay đổi ông chủ chứ hoàn toàn không được giải
phóng về thân phận. Mà sự thành công ở công cuộc cải cách đất nước nào cũng
vậy vai trò của nhân dân cực kỳ quan trọng, nhưng ở đây Hồ Quý Ly không làm
được điều đó.
Năm 1397 trong khi sức dân đang suy kiệt vì phải gánh chịu hậu quả khủng
hoảng của xã hội thì một lần nữa phải gồng mình lên đi lao dịch xây dựng kinh
thành ở An Tôn, điều này đã làm cho người dân oán hận triều đình. Vì không
lấy được lòng dân, và không tập hợp đươc sự đoàn kết sức mạnh của toàn dân
tộc nên công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly không mang lại hiệu quả cao.Và khi

quân Minh xâm lược nước ta thì sự chống trả của nhà Hồ hết sức yếu ớt và
nhanh chóng đi vào thất bại. Cuộc cải cách khép lại bằng sự sụp đổ của nhà Hồ.

20


CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
Tóm lại cuộc khủng hoảng xã hội nhà Trần vào nữa sau thế kỷ XIV đã thể
hiện tính chất lỗi thời của cấu trúc nhà nước đương thời .Trong bối cảnh đó Hồ
Quý Ly là người đã từng bước tiến lên nắm mọi quyền hành trong triều đình.
Ông đã mong muốn cứu vãn tình thế đặc biệt khó khăn và phức tạp đó. Hồ Quý
Ly đã kiên quyết thực hiện cải cách. Có thể thấy rằng đó là một cuộc cải cách
toàn diện, từ kinh tế_chính trị, đến tài chính, văn hoá, giáo dục, xã hội. Thông
qua cuộc cải cách Hồ Quý Ly đã xoá bỏ đặc quyền và thế lực của tầng lớp quý
tộc Trần, xây dựng nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền lực tập trung , để
giải quyết khó khăn trong nước và chống giặc Minh xâm lược từ bên ngoài.
Tuy nhiên Hồ Qúy Ly cũng là một con người có nhiều thủ đoạn độc đoán
mất lòng dân, duy ý chí . Sau khi củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành
các âm mưu sát hại các quan lại và quý tộc tôn thất triều Trần. Trong hội thề
Đốn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu , đứng đầu là Trần Khát Chân đã âm
mưu giết Quý Ly nhưng âm mưu không thành tất cả bị Hồ Quý Ly giết hại. Mặt
khác cuộc cải cách có chỗ quá mạnh so với thời điểm lúc đó (phép hạn điền ),
chưa triệt để (gia nô và nô tì không được giải phóng), chính sách tiền tệ nhằm
thu lại và hạn chế việc sử dụng tiền đồng để tập trung lượng đồng cần thiết phục
vụ quốc phòng là nhu cầu bức thiết nhưng lưu hành tiền giấy là việc làm không
đáp ứng đúng thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội. Cải cách văn hoá , giáo dục
có ý nghĩa tiến bộ và đầy đủ hơn..
Trong tình thế bị thúc bách nhiều mặt thì một số cải cách của Hồ Quý Ly gây
thêm mâu thuẫn trong nội bộ (ép các nhà sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục), làm
ảnh hưởng sâu sắc đến sự thống nhất đoàn kết của nhân dân khi xảy ra ngoại

xâm. Nhưng dẫu sao thì Hồ Quý Ly cũng là người đầu tiên làm cuộc cải cách
lớn ở nước ta, mà những cải cách của ông đã được tiếp nối và phát triển lên ở
đời vua Lê Thánh Tông. Lịch sử tư tưởng Việt Nam ghi nhận những cống hiến
của Hồ Quý Ly về tư tưởng cải cách, coi đó là di sản quý giá để các thế hệ nối
21


tiếp nghiên cứu, xem xét. Vì vậy cũng cần nhìn nhận, nhận xét đánh giá một
cách khoa học để từ đó rút ra những bài học lịch sử cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc hôm nay và mai sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Việt Nam (Thế kỷ X – đầu XV).NXB Khoa học Xã hội.
2. Lịch sử Việt Nam Giản Yếu. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Lịch sử Việt Nam Từ nguồn gốc đến1884. NXB Hồ Chí Minh.
(Giáo sư Nguyễn Quang Phan,Tiến sĩ Võ Xuân Đàm)
4. Hồ Quý Ly (Nguyễn Danh Phiệt) .Viện Sử học NXB Văn hoá - Thông tin.
5. Tiến Trình Lịch Sử Việt Nam (Nguyễn Quang Ngọc). NXB Giáo dục.
6. Đại cương Lịch sử Việt Nam Toàn tập. NXB Giáo Dục.
7.Tài liệu vua chúa qua các triều đại. Tác giả Trương Đình Tín. NXB Đà
Nẵng (2000)
8. Hồ Hữu Phước: Một vài ý kiến nhỏ về việc đánh giá vai trò cá nhân của
Hồ Quý Ly trong Lịch sử. Nghiên cứu Lịch Sử số 30_1961.
9. Nguyễn Quang Phan: Thêm vài ý kiến đánh giá những cải cách và thất
bại của Hồ Quý Ly. Nghiên cứu Lịch sử số 28_1961)
22


10. Trương Hữu Quýnh: Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly.
Nghiên cứu Lịch sử số 20_1960.


23



×