Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Định hướng phát triển của các thư viện Đông Nam Á trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.73 KB, 15 trang )

Định hướng phát triển của các thư viện Đông Nam Á trong bối cảnh toàn cầu
hóa

Ảnh minh họa
(Cinet)- Toàn cầu hoá tác động đến từng con người, mọi lĩnh vực trong đó có
cả ngành thông tin thư viện. Cũng như các lĩnh vực khác, toàn cầu hoá đã
mang lại cơ hội cho những người làm công tác thông tin thư viện, họ có điều
kiện để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến. Trong xu thế hội
nhập, thư viện các nước Đông Nam Á cũng đã đưa ra những định hướng về
phát triển nguồn nhân lực và các chương trình quảng bá, tiếp thị các dịch vụ
của thư viện nhằm đáp ứng với xu thế đổi mới của toàn cầu.
I. Khái quát những chuyển biến đang diễn ra trong các thư viện
Những biến chuyển hiện đang diễn ra trong các thư viện, cơ quan lưu trữ và viện
bảo tàng nhiều đến mức khó có thể được biết hết. Mọi khía cạnh của dịch vụ thư
viện và mọi chức năng trong thư viện đều đang thay đổi. Những thay đổi này có thể
được tổng quát hóa trong một vài nhóm.
Nhóm khái quát thứ nhất là nhân sự và đào tạo cán bộ. Nhóm này bao gồm việc
tuyển dụng và duy trì đội ngũ cán bộ nhân viên thư viện, đào tạo về thư viện, mở
rộng và tiếp tục đào tạo cán bộ nhân viên thư viện, đào tạo người dùng thư viện
gồm các sinh viên, giảng viên và công chúng.
Nhóm thứ hai là tiếp thị và quảng bá cho thư viện, gồm cả các dịch vụ thư viện, là
hoạt động mang tính bước ngoặt trong nền kinh tế và thế giới hôm nay. Nhóm này
bao gồm các vấn đề như giá trị của thư viện, sự thừa nhận giá trị này của các bên
liên quan từ các viên chức chính phủ cao nhất đến người dùng thư viện trẻ tuổi
nhất. Nó gồm cả việc làm cho bộ phận có thẩm quyền cấp kinh phí trong các trường
đại học, viện nghiên cứu, trong các thành phố, thị trấn hiểu được vai trò của thư
viện nhằm nhận được sự hỗ trợ và các nguồn lực của họ.Toàn bộ lĩnh vực xuất bản
là một bộ phận khác với những thay đổi lớn trong các thư viện. Ngày càng có nhiều


tài liệu điện tử được xuất bản. Chúng ta truy cập các tạp chí một cách trực tuyến và


trong các CSDL tổng hợp. Chúng ta có thể tìm sách, như sách dạng điện tử, một
cách trực tuyến. Toàn bộ lĩnh vực xuất bản khoa học đang thay đổi bởi các trường
đại học có thể tiến hành việc nghiên cứu và công bố kết quả của giảng viên và sinh
viên thông qua các kho tài liệu và hệ thống lưu trữ truy cập mở của trường.
Công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến cách thức mà các thư viện vận hành và
phục vụ người dùng. Hệ thống quản lý thư viện tích hợp (ILMS) đã giúp chúng ta
tổ chức truy cập và lưu chuyển tài liệu. Hiện nay, nó đã mở rộng hơn nhiều so với
một hệ thống ILMS và vận hành như một cổng truy cập cho phép chúng ta cung cấp
tất cả các loại dịch vụ cho người dùng. Chúng ta sử dụng nó để cung cấp tài liệu
tham khảo đến người dùng trực tuyến thông qua chat, hệ thống văn bản và nhắn tin
nhanh. Người dùng có thể thêm các từ khóa riêng vào biểu ghi thư mục và chia sẻ
thông tin này với những người dùng khác.
Các tiêu chuẩn và tầm quan trọng của chúng đang ngày càng gia tăng khi các thư
viện trên toàn khu vực Đông Nam Á làm việc và hợp tác với nhau. Có các loại tiêu
chuẩn mà chúng ta phải biết: quốc tế, quốc gia, chuyên ngành, dịch vụ, các tiêu
chuẩn cho phần cứng và phần mềm. Ngoài các tiêu chuẩn ra, các hướng dẫn và
phong cách làm việc tốt cũng có thể giúp chúng ta làm việc cùng nhau và chia sẻ
thông tin, dịch vụ và tài liệu nhằm phục vụ người dùng tốt hơn.
Một mảng hoạt động khác cũng đang được các thư viện chú ý nhiều hơn đó là toàn
bộ lĩnh vực bảo tồn di sản văn hoá và tài liệu lưu trữ. Ngày nay, các thư viện không
chỉ nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo tồn tài liệu thư viện truyền thống mà còn
hợp tác với cơ quan lưu trữ và viện bảo tàng để bảo quản các tài liệu vốn dĩ là một
phần của di sản văn hoá. Điều này đã tạo ra mối quan hệ gần gũi hơn của thư viện
với cơ quan lưu trữ và viện bảo tàng.
Một vài lĩnh vực khác nữa cũng đòi hỏi các thư viện phải quan tâm đến, nhất là các
thư viện đại học, đó là kiến thức thông tin, kết quả học tập của sinh viên, sự đánh
giá và chất lượng của dịch vụ thư viện. Mặc dù việc đánh giá các dịch vụ thư viện
chủ yếu được trao đổi trong các thư viện đại học nhưng nó cũng là một lĩnh vực rất
quan trọng trong các loại hình thư viện khác, nhất là thư viện công cộng.
II. Định hướng phát triển của các thư viện trên Đông Nam Á trong bối cảnh

toàn cầu hóa
1. Nhân sự và đào tạo cán bộ thư viện
Nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á hiện đang phải đối mặt với sự thiếu hụt
cán bộ thư viện đã qua đào tạo. Sự thiếu hụt này làm nảy sinh vấn đề, chúng ta làm
thế nào để tuyển dụng được những người thông minh, nhiệt tình với nghề thư viện
vào làm việc và phục vụ người dùng trong các thư viện, cơ quan lưu trữ và viện bảo


tàng. Ở nhiều nước, đào tạo thư viện bắt đầu ở trình độ cử nhân. Chúng ta làm thế
nào thu hút được các bạn trẻ vừa rời trường trung học bước vào một nghề mà có vẻ
tất cả công việc đều gắn với những cuốn sách cũ, bẩn, bám bụi và thu nhập không
cao? Nhiều bạn trẻ bước vào trường đại học mà không hiểu công việc của cán bộ
thư viện và nghề thư viện. Công việc thư viện không hấp dẫn và nhiều tiền như các
nghề kinh doanh, luật hay y. Chúng ta phải tìm ra cách tốt nhất để tiếp thị nghề thư
viện cho các bạn trẻ này. Hoặc có thể, chúng ta cần nghĩ đến một mô hình đào tạo
khác.

Mô hình đào tạo nghề thư viện mà bằng cấp chuyên môn tối thiểu là trình độ thạc
sỹ sẽ tạo ra khả năng hấp dẫn cho việc tuyển dụng cán bộ vào nghề thư viện. Trước
hết, những người có thể được tuyển dụng đã có cơ hội học nhiều môn học khác ở
trình độ đại học và khai thác được lượng kiến thức chuyên môn hữu ích cho họ khi
giúp người dùng tìm kiếm thông tin. Cái đó cũng tạo cho họ cơ hội hiểu biết hơn,
nhận ra và thậm chí hiểu được công việc của cán bộ thư viện là gì. Trong một vài
khảo sát ở các nước cho thấy, nhiều người muốn trở thành cán bộ thư viện và học
lấy bằng về thư viện và thông tin học chỉ sau khi họ đã làm việc ở thư viện và phát
hiện ra rằng, họ thích công việc này. Bởi vậy, có thể chúng ta cần thay đổi mô hình
tuyển dụng và tuyển vào nghề thư viện những người đã từng làm trong các thư
viện. Mô hình này buộc chúng ta đòi hỏi các ứng viên vào học các chương trình đào
tạo về thư viện phải có một số kinh nghiệm về công tác thư viện. Đào tạo trực tuyến
và từ xa cũng đang làm thay đổi mô hình đào tạo về thư viện.

Duy trì đội ngũ cán bộ thư viện cũng đang là vấn đề của hôm nay khi mà lớp trẻ có
nhiều sự lựa chọn về nghề nghiệp và cơ hội. Hiện nay, người ta đang nghiên cứu
các đặc điểm của thế hệ mạng hay người của thiên niên kỷ, những người sinh ra
giữa các năm 1979 và 1994 và được nuôi dạy trong môi trường công nghệ. Chúng


ta phải tìm hiểu thế hệ này để đưa ra cách phục vụ họ trong thư viện, đồng thời
chúng ta cũng đang nghiên cứu để tìm cách tuyển họ vào nghề cũng như giữ chân
họ. Những bạn trẻ này sẽ không ngồi đợi để có các cơ hội thử nghiệm cái mới, đưa
ra dịch vụ mới. Nếu chúng ta không tạo cho họ cơ hội học hỏi, mở mang và gánh
vác trách nhiệm họ sẽ bỏ nghề thư viện để đến với công việc mà họ cảm thấy có thể
đảm trách và kiểm tra.
Thư viện và người quản lý thư viện phải học cách làm việc với cán bộ thư viện trẻ
và khuyến khích họ dùng ý tưởng và nhiệt huyết của mình làm vững mạnh nghề thư
viện. Chúng ta không thể tiếp tục bao biện cho những gì đang làm bằng cách nói
rằng, từ trước đến nay chúng ta vẫn luôn làm theo cách đó. Thế giới của chúng ta,
nghề nghiệp và công việc trong thư viện của chúng ta đang thay đổi một cách triệt
để và chúng ta phải thay đổi cùng với nó.
Thái độ phục vụ khách hàng tích cực hiện là cái cốt lõi để làm một cán bộ thư viện
tốt, để giúp người dùng xác định thông tin mà họ cần cho cuộc sống trong thế giới
hôm nay. Thái độ tích cực này cho phép chúng ta giúp người dùng học được cách
tìm tin và cách đánh giá thông tin đã tìm được để tin chắc thông tin này là chính xác
và cập nhật. Nó cũng cho phép chúng ta giúp các giảng viên và sinh viên sử dụng
thông tin để tiến hành nghiên cứu và tạo ra tri thức mới. Nếu cán bộ thư viện không
có tư duy phục vụ khách hàng thì người dùng sẽ không đến với chúng ta, và chẳng
bao lâu, thư viện và cán bộ thư
viện sẽ không còn thích hợp
cho người dùng nữa. Kết quả
sẽ là sự cáo chung của các thư
viện và nghề thư viện như

chúng ta biết về nó hôm nay.
Chúng ta phải thay đổi về cách
thức, thời điểm và địa điểm
phục vụ người dùng, bởi lẽ nếu
không, người dùng sẽ không
coi thư viện là thích hợp cho
các nhu cầu của họ nữa.
Trong xã hội thông tin, thông
tin tri thức đã và đang trở thành
nguồn lực và lợi thế cạnh tranh
của các quốc gia trên thế giới.
Để phát huy được các lợi thế
về thông tin, đồng thời giúp thu


hẹp khoảng cách giữa người giàu thông tin và người nghèo thông tin, nhiều quốc
gia trên thế giới rất quan tâm đến phát triển đào tạo cán bộ thông tin thư viện. Gần
đây một số học giả chỉ ra rằng lĩnh vực của chúng ta là trung tâm của xã hội thông
tin và đóng vai trò quan trọng trong thời đại số hóa. Nhận thức được điều này, các
trường đào tạo cán bộ thông tin thư viện trên thế giới luôn quan tâm đến đổi mới
nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy và học tập, đa dạng hóa các
chuyên ngành đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học
nhằm đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao động, thích ứng với sự thay đổi
nhanh chóng của xã hội thông tin.
Một trong các thay đổi quan trọng là sự đổi mới nội dung đào tạo. Trước năm 1990,
hầu hết các cơ sở đào tạo nghề thông tin thư viện trên thế giới chỉ chú trọng đào tạo
cán bộ thư viện truyền thống. Chương trình đào tạo thường tập trung vào việc phát
triển các bộ sưu tập tài liệu truyền thống vì vậy nội dung chương trình chủ yếu đề
cập đến các vấn đề như lựa chọn, bổ sung, biên mục, tra cứu và lưu thông tài liệu.
Ngày nay, các chương trình đào tạo nghề thông tin thư viện đã mở rộng phạm vi nội

dung chương trình từ các bộ sưu tập truyền thống tới thế giới internet ảo, tập trung
chủ yếu vào việc cung cấp thông tin dưới nhiều hình thức trong những bối cảnh
khác nhau. Trong một nghiên cứu về chương trình đào tạo cán bộ thông tin thư viện
tại Mỹ, Callison và Tilley cho biết trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1998 có 695
tên môn học mới được bổ sung vào chương trình đào tạo cán bộ thông tin thư viện.
Tên các môn học khá đa dạng giữa các cơ sở đào tạo khác nhau. Tuy nhiên, chỉ ra
rằng các môn học truyền thống như tổ chức thông tin (mô tả, phân loại, định chủ đề,
tóm tắt, định từ khóa), dịch vụ thông tin, tra cứu tin là những môn học bắt buộc ở
hầu hết các cơ sở đào tạo tại Mỹ, sau đó là các môn về quản lý thư viện, công nghệ
thông tin, phát triển bộ sưu tập, nhu cầu tin và người dùng tin. Các môn học liên
quan đến công nghệ thông tin và truyền thông như quản lý tài liệu điện tử, lập trình
máy tính, thiết kế cơ sở dữ liệu, phân tích hệ thống, thư viện số, xuất bản điện tử
được thiết kế trong nhóm các môn học tự chọn.
Bên cạnh việc đổi mới nội dung đào tạo, các trường thư viện cũng đổi tên và đa
dạng hóa các ngành đào tạo, từ khoa học thư viện sang khoa học thông tin thư viện,
thông tin học, quản trị thông tin, thông tin và các phương tiện truyền thông, quản trị
tri thức, quản trị thông tin và tri thức. Ngày nay các trường đào tạo cán bộ thông tin
thư viện không chỉ thiết kế chương trình giảng dạy để đáp ứng các thư viện truyền
thống mà còn còn đáp ứng nhu cầu cán bộ thông tin cho các cơ quan giáo dục,
thương mại bằng việc chú trọng đào tạo các cán bộ tư vấn thông tin, chuyên gia
thông tin. Chương trình thông tin thư viện không chỉ giới hạn cho cán bộ thư viện


mà còn nhằm vào việc đào tạo cán bộ lưu trữ, quản lý tư liệu, quản lý hồ sơ, biên
tập Web, cũng như các cán bộ bảo quản di sản và xuất bản.
Đặc biệt, các cơ sở đào tạo cán bộ thông tin thư viện đã và đang thay đổi cách tiếp
cận trong việc thiết kế chương trình, chuyển từ cách tiếp cận theo mục tiêu sang
cách tiếp cận phát triển. Theo cách tiếp cận này chương trình giáo dục được xem là
quá trình và giáo dục là sự phát triển. Giáo dục là sự phát triển với nghĩa phát triển
con người, tiềm năng, kinh nghiệm để có thể làm chủ được bản thân, đương đầu với

thử thách một cách sáng tạo, chủ động, tạo khả năng thích nghi với nghề nghiệp
luôn thay đổi và với thế giới luôn biến động. Giáo dục là một quá trình tiếp diễn
liên tục suốt đời. Cách tiếp cận này chú trọng đến sự phát triển khả năng hiểu biết,
tiếp thu ở người học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác định từ
trước. Các kỹ năng sống, kỹ năng có thể chuyển đổi, kỹ năng tư duy (suy nghĩ có
phê phán), kỹ năng giao tiếp hiệu quả, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, kỹ năng
khai thác và xử lý thông tin được các cơ sở đào tạo chú trọng đưa vào giảng dạy .
Vai trò của chúng ta ngày nay là đào tạo những người cán bộ thư viện thông tin mà
họ có được những cách nghĩ chuyên nghiệp, các kỹ năng kỹ thuật phù hợp, phấn
khởi với công việc của họ, sẵn sàng giành thời gian, tiền của để nâng cao năng lực,
trình độ chuyên môn. Một trong các thách thức lớn nhất đối với chúng ta là đảm
bảo rằng nội dung các môn học về thư viện thông tin được đánh giá, xem xét lại và
cập nhật thường xuyên để theo kịp những thay đổi nhanh của thế giới. Những ảnh
hưởng của cuộc cách mạng thông tin và truyền thông cũng như những thay đổi
mang tính văn hóa xã hội đã có những tác động to lớn đến nghề thông tin thư viện.
2. Tiếp thị và quảng bá cho thư viện

Ảnh minh họa
Việc tiếp thị các dịch vụ, vai trò và chức năng của các thư viện đã trở nên vô cùng
quan trọng trong môi trường công nghệ hiện nay. Trừ phi chúng ta làm cho những


người cấp kinh phí, người dùng và những người có liên quan khác hiểu được thư
viện là gì và thư viện có thể làm gì để cải thiện cuộc sống và công việc của họ, bằng
không chúng ta sẽ bị coi là không còn phù hợp, bởi ngày càng nhiều thông tin sẵn
có trên Internet và trực tuyến. Con người đang bị tấn công bởi thông tin từ các loại
phương tiện truyền thông, nếu thư viện không cho mọi người biết cái mà thư viện
có thể làm cho họ thì người ta sẽ không có nhu cầu sử dụng thư viện nữa.
Quảng bá cho thư viện đã trở thành quan trọng đến mức nhiều hiệp hội và tổ chức
thư viện bắt đầu triển khai các chương trình đào tạo về quảng bá cho thư viện và bộ

tài liệu để giúp cán bộ thư viện làm quen với quá trình này. Quảng bá thư viện là
một nỗ lực đã được hoạch định và duy trì nhằm nâng cao nhận thức về thư viện
thông qua việc sử dụng nhiều loại công cụ tiếp thị và quan hệ công chúng. Quảng
bá thư viện giúp cho các nhà quản lý đại học, viên chức chính phủ, nhà hoạch định
chính sách, đối tác tiềm năng, người cấp kinh phí và các bên liên quan hiểu rằng,
công việc của họ có thể được hỗ trợ rất nhiều nhờ những gì thư viện phải cung cấp
và có thể làm cho họ. Tất cả chúng ta đều phải phát triển các kỹ năng cần thiết để
quảng bá cho thư viện, nếu không các bên liên quan đến thư viện sẽ không coi
chúng ta là phù hợp nữa.
Quảng bá và tiếp thị thư viện là vô cùng quan trọng trong kỷ nguyên của sự phát
triển nhanh chóng công nghệ và truy cập trực tuyến tới thông tin, bởi lẽ, nhiều nhà
quản lý đại học, viên chức chính phủ và người dùng đang cho rằng, họ có thể tìm
thông tin họ cần trên mạng Internet và họ không còn cần đến thư viện và cán bộ thư
viện nữa. Chúng ta phải làm cho họ hiểu tại sao điều đó không đúng bằng việc học
cách thông tin cho họ, chỉ cho họ thấy và giúp họ hiểu về những gì thư viện có thể
làm cho họ và các cộng sự của họ. Một khảo sát cho thấy mô hình Marketing hỗn
hợp đang chiếm ưu thế trong chiến lược phát triển thư viện của các nước Đông
Nam Á đó là marketing sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp.


Sản phẩm/Giá trị đối với người dùng

Trong hoạt động thông tin thư viện, một khái niệm được nhiều nhà thư viện học
trích dẫn là của Eileen Elliot de Saez: “sản phẩm và dịch vụ là những gì mà dịch vụ
thông tin hoặc thư viện đang cung cấp hoặc có thể cung cấp để đem lại lợi ích cho
người dùng tin hiện thời và người dùng tin tiềm năng”. Hay nói một cách khác sản
phẩm là những gì được cung cấp cho thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh
trong hoạt động thư viện và thông tin . Như vậy, sản phẩm ở đây có thể là “hàng
hóa, dịch vụ, ý tưởng, nơi chốn, hoặc thậm chí là con người”.
Cụ thể hơn, có thể hiểu sản phẩm của thư viện bao gồm tất cả các tài liệu trong thư

viện hoặc tài liệu có sẵn từ các thư viện khác thông qua mượn liên thư viện hoặc


các nguồn mua điện tử. Sản phẩm thư viện cũng có thể là chính các sản phẩm mà
thư viện tạo ra, nhằm giúp cho người dùng tìm kiếm và khai thác thông tin. Ví dụ
các sản phẩm như: hệ thống mục lục, thư mục, tạp chí tóm tắt, danh mục, tổng luận,
cơ sở dữ liệu, bản tin điện tử… Bên cạnh đó, nó cũng bao gồm tất cả các dịch vụ
thư viện, ví dụ dịch vụ cung cấp tài liệu, dịch vụ phổ biến thông tin hiện tại, dịch vụ
trao đổi thông tin, dịch vụ tư vấn…
Chất lượng của sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong chiến lược cạnh tranh giữa
các sản phẩm của các đơn vị khác nhau. Theo Levinson thì “thậm chí việc tiếp thị
tốt nhất trên thế giới cũng sẽ không thúc đẩy khách hàng mua một sản phẩm hoặc
dịch vụ nghèo nàn hơn cái khác”. Vì vậy, các thư viện cần phải chú trọng nhiều tới
chất lượng các sản phẩm của mình nhằm thu hút ngày càng nhiều người dùng sử
dụng các sản phẩm của mình.
“Sản phẩm” gắn với “Giá trị đối với người dùng” có nghĩa là sản phẩm thư viện khi
đưa ra thị trường phải đem lại giá trị thiết thực cho người dùng, giúp cho người
dùng giải quyết nhu cầu thực sự của mình chứ không phải chỉ là giải pháp đối phó
của các thư viện. Nếu một sản phẩm thư viện có chất lượng tốt nhưng lại không đáp
ứng đúng nhu cầu của người dùng thì cũng trở nên vô nghĩa. Để khắc phục vấn đề
này, các thư viện cần phải nghiên cứu thật kỹ các nhu cầu của người dùng cũng như
các giá trị đích thực nào đối với họ. Chỉ khi sản phẩm đem lại giá trị thiết thực đối
với người dùng thì họ mới sử dụng chúng.


Giá cả/Chi phí của người dùng

Giá cả là “tập hợp chi phí cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, là thước đo hao
phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa”. Giá cả có thể được gọi bằng nhiều tên
khác nhau như “giá” cho các sản phẩm hữu hình, “học phí” cho giáo dục, “lệ phí”

cho các dịch vụ chuyên môn, “tiền vé” cho dịch vụ vận tải,... Nói cách khác, “giá
là một lượng tiền trả cho một sản phẩm hoặc dịch vụ”.
Chi phí của người dùng” đi kèm với “giá cả” mang ý nghĩa: giá của sản phẩm cần
được nhìn nhận như là chi phí mà người mua sẽ phải bỏ ra. Hay “giá cả là chi phí
của người dùng cho việc có được hàng hóa”. Chi phí này không chỉ bao gồm chi
phí mua sản phẩm mà còn cả chi phí sử dụng, vận hành, và cả hủy bỏ sản phẩm.
Chi phí này phải tương xứng với lợi ích mà sản phẩm đem lại cho người mua. Như
vậy, giá cả ở đây không chỉ bao gồm lượng tiền phải trả, mà còn phải tính đến các
chi phí khác mà người dùng bỏ ra để có được sản phẩm.
Việc định giá cho các sản phẩm thư viện luôn là một vấn đề khó. Một vấn đề gây
nhiều tranh cãi là có nên miễn phí các sản phẩm và dịch vụ thư viện? Cần cân nhắc
việc các thư viện cho rằng: dịch vụ thư viện là vô giá, trong khi sau đó lại định giá


nó thấp. Nếu có một số sản phẩm thư viện không phải là miễn phí thì phải cân nhắc
giá cho sản phẩm thư viện như thế nào cho phù hợp với các nhóm người dùng tin
khác nhau. Điều này dẫn đến việc các nhà thư viện cần phải quan tâm đến việc áp
dụng chiến lược phân biệt giá cả.
Cùng với ý nghĩa về mặt tiền bạc thì giá cả còn ám chỉ các yếu tố khác. “Marketing
là một quá trình trao đổi” và việc người dùng tin phải trả giá để có được sản phẩm “
có thể bao gồm cả thời gian, công sức và những cơ hội hay hoạt động bị bỏ qua”.
Các nhà thư viện phải tính đến việc người dùng tin sẽ mất thời gian và công sức
như thế nào để tiếp cận được các nguồn tài liệu trong thư viện. Việc họ bỏ thời
gian, công sức để tìm kiếm tài liệu trong thư viện đã được đền đáp xứng đáng hay
chưa? Việc sử dụng các máy quay để kiểm soát hoạt động trong thư viện ngày càng
phổ biến. Theo Eileen Elliot thì việc cài đặt các máy quay tại các thư viện cũng
chính là “phí tổn cho việc trả giá về giới hạn tự do của cá nhân” của người dùng.
Bản thân người dùng cũng không thấy thoải mái khi bị kiểm soát trong khi sử dụng
các dịch vụ tại thư viện.



Phân phối/Sự thuận tiện cho người dùng

Biến số quan trọng tiếp theo của marketing hỗn hợp là “Phân phối” . Hoạt động
phân phối giải quyết vấn đề sản phẩm và dịch vụ được đưa như thế nào để đến với
người dùng. Các quyết định về phân phối có ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực
khác trong marketing.

Phân phối “rất phù hợp với các thư viện và dịch vụ thông tin, vì nó ám chỉ địa điểm
và cách thức đưa một dịch vụ tới cho người dùng và khách hàng”. Nói cụ thể hơn,
“phân phối không chỉ là vị trí vật lý của thư viện trung tâm và các chi nhánh của nó.
Phân phối cũng là cách bạn phân phối dịch vụ của bạn – cách thức khách hàng truy
cập thông tin và tài liệu của thư viện, được sự hỗ trợ và giải quyết các vấn đề”. Như


vậy, phân phối là các phương thức, thể thức phân phối, phổ biến các loại hình sản
phẩm tới khách hàng.
Cặp “Phân phối” - “Thuận tiện” đòi hỏi các thư viện có cách thức phân phối tạo ra
sự thuận tiện cho người dùng. Nghĩa là “các nhà thư viện phải cố gắng tạo ra các
sản phẩm hoặc dịch vụ của họ sẵn có cho thị trường mục tiêu với sự thuận tiện cao
nhất có thể”. Các thư viện cũng cần phải lưu ý là “phân phối thông tin theo cách mà
khách hàng của bạn mong muốn” chứ không phải phân phối theo cách mà các thư
viện muốn.
Trong hoạt động thông tin thư viện, các yếu tố về phân phối có thể kể đến như: giờ
mở cửa, dịch vụ di động, địa điểm, diện mạo và bầu không khí. Giờ mở cửa thể
hiện khả năng truy cập của người dùng tới các sản phẩm của thư viện, nó trả lời cho
câu hỏi “Khi nào” và “Ở đâu”. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, các thư
viện phải tính đến việc phục vụ người dùng không giới hạn về thời gian và khả
năng truy cập tới các nguồn của thư viện qua internet. Các dịch vụ di động của thư
viện sẽ mang lại sự thuận tiện hơn cho người dùng tin khó có khả năng tiếp cận

được với thư viện. Việc bố trí các địa điểm phục vụ của thư viện hợp lý, tạo điều
kiện thuận lợi cho người dùng dễ tiếp cận thư viện cũng là một yếu tố quan trọng
trong phân phối. Thêm nữa, các thư viện cũng cần phải nhận ra rằng: dáng vẻ bên
ngoài của thư viện cũng ảnh hưởng phần nào tới việc người dùng có sử dụng thư
viện. Các yếu tố vật lý, bầu không khí trong thư viện cũng cần được lưu ý để thỏa
mãn được nhu cầu của người dùng.
Tóm lại, trong hoạt động thông tin - thư viện, phân phối đóng một vai trò quan
trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu của người dùng tin. Theo Judith A Siess thì
“thậm chí nếu bạn có sản phẩm đúng, nó cũng sẽ không thành công nếu nó không
được đưa tới cho người cần nó”.


Xúc tiến hỗn hợp/Giao tiếp người dùng

Dù cho sản phẩm của thư viện có chất lượng tốt đến đâu mà người dùng không biết
đến hoặc biết một cách không đầy đủ thì mọi nỗ lực của cán bộ thư viện để đáp ứng
các nhu cầu của người dùng đạt hiệu quả rất thấp. “Dịch vụ và sản phẩm của bạn
không trở nên khác biệt tới khi khách hàng của bạn hiểu được sự khác biệt” . Chính
vì vậy các thư viện phải cần đến biến số thứ 4 là xúc tiến hỗn hợp.
Xúc tiến hỗn hợp bao gồm “tất cả các phương pháp được sử dụng để với tới thị
trường mục tiêu”. Các thư viện sử dụng biến số này để tác động vào nhóm người
dùng tin mục tiêu nhằm đạt được mục đích của mình. Thông qua các công cụ khác
nhau của xúc tiến hỗn hợp, thư viện giúp người dùng biết đến sản phẩm mình cần,
các lợi ích nhờ việc khai thác, sử dụng sản phẩm đó, cũng như cách thức có thể khai


thác, sử dụng được sản phẩm. Như vậy, xúc tiến hỗn hợp trong thư viện là tất cả các
hoạt động nhằm đảm bảo rằng người dùng nhận biết về các sản phẩm của thư viện,
có ấn tượng tốt và dẫn tới việc thực sự sử dụng các sản phẩm này.
“Xúc tiến hỗn hợp” gắn với “Giao tiếp người dùng” ở đây có nghĩa là “một quá

trình hai chiều”. Nó yêu cầu công tác truyền thông phải là sự tương tác, giao tiếp
hai chiều giữa thư viện và người dùng. Thư viện phải lắng nghe nhu cầu, nguyện
vọng của người dùng và truyền đạt cho người dùng biết được thư viện sẽ đáp ứng
những nhu cầu, nguyện vọng đó như thế nào. “Một chiến lược truyền thông hiệu
quả phải là kết quả của sự giao tiếp, tương tác giữa sản phẩm, thương hiệu với
khách hàng để đạt được sự thông hiểu và cảm nhận sâu sắc từ khách hàng đối với
sản phẩm, thương hiệu.”
Một số dạng chủ yếu thường được các cơ quan thông tin thư viện sử dụng trong
chiến lược truyền thông marketing là quảng cáo, quan hệ công chúng, marketing
truyền miệng. Trong mỗi loại trên lại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt
để thực hiện truyền thông marketing thích hợp cho những đối tượng khách hàng cụ
thể với những hàng sản phẩm cụ thể.
Tóm lại, Marketing hỗn hợp gồm bốn biến số chính là sản phẩm, phân phối, chi phí,
xúc tiến hỗn hợp. Trong hoạt động thư viện, các biến số này cần được nhìn dưới
quan điểm hướng tới người dùng thành các cặp: Sản phẩm – Giá trị đối với người
dùng, Giá cả - Chi phí của người dùng, Phân phối – Sự tiện lợi cho người dùng,
Xúc tiến hỗn hợp – Giao tiếp với người dùng. Việc kết hợp các yếu tố trên một cách
hài hòa trong một chiến lược marketing hỗn hợp sẽ giúp cho các thư viện giải quyết
được nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả hơn.
3. Truyền đạt kiến thức


Việc truyền đạt kiến thức và xuất bản đang trải qua những thay đổi lớn khi chúng ta
chuyển từ khổ mẫu in ấn sang điện tử để phổ biến và lưu trữ thông tin và kết quả
nghiên cứu. Thư viện và cán bộ thư viện phải đóng vai trò quan trọng trong việc
làm cho người dùng hiểu được việc truyền đạt kiến thức là gì và vai trò mà thư viện
có thể đóng góp trong việc hỗ trợ các giảng viên, sinh viên, nhà nghiên cứu trong
quá trình làm nghiên cứu, giao thiệp với các đồng nghiệp để triển khai việc nghiên
cứu và phổ biến kết quả nghiên cứu.
Các kho tài liệu nhà trường đang được các thư viện đại học triển khai nhằm cung

cấp truy cập tới các ấn phẩm của giảng viên và cán bộ nhà trường. Các trường đại
học đang chấp nhận và đáp ứng yêu cầu truy cập mở, cho phép nhà trường cung cấp
miễn phí trực tuyến các bài báo khoa học của giảng viên và sinh viên.
Lĩnh vực xuất bản đang thay đổi khi ngày càng nhiều thông tin sẵn có chỉ còn dưới
dạng điện tử* . Và mặc dù các nhà quản lý đại học, viên chức chính phủ thường vẫn
cho rằng, mọi thứ đều có sẵn trên mạng nên chúng ta sẽ chẳng cần đến thư viện và
cán bộ thư viện nữa, điều hoang tưởng này là cái chúng ta phải làm hết sức mình để
xóa đi. Thư viện và cán bộ thư viện thậm chí còn quan trọng hơn trong môi trường
trực tuyến để có thể làm trung gian với nhà xuất bản và hỗ trợ người dùng trong
việc đánh giá những lựa chọn khi truy cập thông tin.
4. Công nghệ


Công nghệ là một trong những động lực lớn nhất làm thay đổi công việc của thư
viện và sẽ còn tiếp tục như vậy. Chúng ta luôn luôn phải nắm vững cái gì đang diễn
ra với công nghệ và những công nghệ nào người dùng đang sử dụng và cách thức
họ sử dụng chúng. Chúng ta phải học và sử dụng thành thạo các công cụ của Web
2.0 như blog, wikis, đánh dấu xã hội và luôn tìm kiếm các phương thức mới và
sáng tạo nhằm sử dụng công nghệ để tiếp cận bạn đọc và cung cấp thông tin cho họ.
Mục lục thư viện như đã được xây dựng hiện nay của một số quốc gia không còn
phù hợp với bạn đọc nữa. Bạn đọc giờ đây muốn thêm từ khóa và từ ngữ của riêng
họ vào các biểu ghi thư mục, nhờ vậy họ có thể xác định tài liệu bằng các từ ngữ họ
quen dùng hơn là những từ vựng được quy định mà thư viện đã dùng trong suốt thế
kỷ qua. Bằng cách nào chúng ta có thể xây dựng một hệ thống phát huy tác dụng
của cả từ vựng được quy định lẫn thẻ từ tự do? Các thư viện đại học đang thảo luận
với tác giả các luận án, luận văn về cách chúng ta có thể đưa những từ khoá mà họ
cho là quan trọng vào luận án và luận văn của họ. Người dùng muốn sử dụng các hệ
thống đánh dấu phổ biến như “Delicious” để tổ chức các tài liệu mà họ tìm được
trong mục lục thư viện. Chúng ta phải thiết kế các hệ thống tương hợp với các loại
hệ thống như vậy.

Hiện nay, chúng ta phải nghiên cứu kỹ cách cung cấp thông tin cho người dùng
thông qua các thiết bị di động. Các nghiên cứu cho thấy, sinh viên đại học hiện nay
không còn sử dụng nhiều email để liên lạc như thông qua nhắn tin và mạng xã hội.
Các thư viện sẽ sử dụng điện thoại di động và các thiết bị di động khác để cung cấp
thông tin và dịch vụ như thế nào? Cán bộ thư viện thường tốt nghiệp các ngành
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn và văn học, họ thường cảm thấy lúng túng
khi sử dụng công nghệ. Họ thường muốn chuyển mọi vấn đề liên quan đến công
nghệ cho các cán bộ công nghệ thông tin. Điều này tuy vậy sẽ không thể chấp nhận
trong tương lai, bởi người dùng kỳ vọng rằng, cán bộ thư viện sẽ quen và biết sử
dụng công nghệ để giúp họ trong nghiên cứu và học tập.
5. Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn là cái vô cùng quan trọng để các thư viện trên toàn cầu phối hợp với
nhau và sử dụng các hệ thống chung trong sự hợp tác đó. Các tiêu chuẩn đã được
cộng đồng thư viện và thông tin chấp nhận và sử dụng chính là con đường đi tới
toàn cầu hóa bởi chúng hỗ trợ việc trao đổi dữ liệu của thư viện, khuyến khích hoạt
động tương hỗ của các hệ thống thư viện và trợ giúp cho sự vận hành của các mạng
thư viện quốc gia và quốc tế. Hiện nay, do hoạt động thư viện phát triển và biến đổi
nhanh đến mức chúng ta thường nhận thấy, các tiêu chuẩn không sẵn có để hỗ trợ
chúng ta. Bởi vậy, các nhóm thư viện và tổ chức thư viện sẽ cùng nhau tạo ra “cách
làm việc tốt nhất”


“Cách làm việc tốt nhất” có thể được xem như là bước khởi đầu trong việc xây
dựng một tiêu chuẩn nhờ tạo ra sự nhất trí về đường hướng tiến hành một hoạt động
hoặc một công việc. Khi áp dụng “cách làm việc tốt nhất” này các thư viện sẽ làm
chúng hoàn chỉnh hơn để trở thành tiêu chuẩn. Vào lúc này, chưa có các tiêu chuẩn
cho thư viện số nhưng “cách làm việc tốt nhất” đang được triển khai để bắt đầu quá
trình xây dựng tiêu chuẩn.
Nhiều tiêu chuẩn đã được chính thức hóa ở cấp quốc gia thông qua Tổ chức tiêu
chuẩn thông tin quốc gia của nước đó, sau đó, những tiêu chuẩn này được nâng lên

cấp quốc tế thông qua Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế. Trong những trường hợp
khác, chúng được cộng đồng thư viện chấp nhận rồi được thư viện quốc gia hoặc
hội thư viện của một nước ấn định là tiêu chuẩn. Trong mọi trường hợp, chúng cho
phép các thư viện hợp tác với nhau và
thống nhất về các chức năng và công việc,
nhờ vậy chúng ta có thể làm việc cùng
nhau.
6. Bảo tồn di sản văn hóa
Đã từ lâu các thư viện công nhận rằng, họ
phải bảo quản tài liệu trong các bộ sưu tập,
nhưng không phải lúc nào họ cũng nhận ra
giá trị di sản văn hóa của những bộ sưu tập
này đối với di sản quốc gia. Ngày nay, các
thư viện đang tham gia nhiều hơn vào mọi
loại hình bảo quản bởi người ta nhận ra
rằng, thư viện có chuyên môn và kiến thức
mà trước đây chưa được biết đến và thừa
nhận. Thư viện phải làm việc với các loại tổ
chức văn hóa để mở rộng hơn “cách làm
việc tốt nhất” trong việc bảo quản tất cả các
dạng tài liệu văn hóa, không chỉ tài liệu
Ảnh minh họa
dưới dạng in ấn và điện tử. Trước hết, thư viện phải tạo ra cách bảo quản tốt cho
các tài liệu và bộ sưu tập của chính mình, sau đó chia sẻ nó với cộng đồng văn hóa.
Điều kiện khí hậu của vùng Đông Nam Á khiến cho việc bảo quản trở thành một
nội dung quan trọng của dịch vụ thư viện, và thậm chí còn quan trọng hơn thế bởi
bản chất của di sản văn hóa nằm trong các bộ sưu tập.
Mối quan tâm về bảo tồn các di sản văn hóa thành văn đã đưa thư viện, cơ quan lưu
trữ và viện bảo tàng lại gần nhau hơn. Gần đây, giữa các cơ quan văn hóa đã có
nhiều tác động qua lại và trao đổi. Thêm vào đó, các khoa thư viện và thông tin học



cũng đang đóng góp vào sự phát triển này qua việc tích hợp các khóa học và mở
rộng chương trình giảng dạy gồm cả phần bảo quản tài liệu trong các thư viện, cơ
quan lưu trữ và viện bảo tàng.
7. Đánh giá các dịch vụ thư viện
Việc đánh giá các dịch vụ thư viện là một lĩnh vực quan trọng của sự phát triển ở
mọi loại hình thư viện, đặc biệt ở thư viện đại học. Thư viện đại học được đề nghị
chỉ ra cách mà họ đóng góp vào kết quả học tập của sinh viên như một phần của
việc đánh giá chất lượng đào tạo. Thư viện công cộng cũng phải xây dựng các chỉ
số đánh giá hoạt động để có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính hữu hiệu của
dịch vụ. Không có sự nhìn nhận và đánh giá thư viện sẽ khó bảo vệ được vai trò và
tầm quan trọng của mình trong việc cung cấp thông tin cho người dùng.
Thư viện còn liên quan đến kết quả học tập của sinh viên qua việc xây dựng các
chương trình đào tạo kiến thức thông tin nhằm tạo cho sinh viên khả năng hiểu biết
về cách thức tiến hành nghiên cứu, cách tìm tin hỗ trợ cho nghiên cứu, cách đánh
giá thông tin dùng cho nghiên cứu, và cuối cùng là cách viết bài báo về công trình
nghiên cứu. Nhiều trường đại học đã đưa các kỹ năng về kiến thức thông tin vào
phần các yêu cầu đào tạo bắt buộc và thư viện chính là nơi có trách nhiệm đào tạo
và đánh giá những kỹ năng này.
Tóm lại, đào tạo là công cụ phát triển tốt nhất và điều này hiển nhiên đúng cho các
thư viện. Chúng ta phải đào tạo cán bộ thư viện để cung cấp các dịch vụ tốt nhất.
Chúng ta phải làm cho nhà quản lý đại học, viên chức chính phủ và những người
liên quan hiểu về các dịch vụ thư viện và tầm quan trọng của việc cấp kinh phí cho
các dịch vụ đó. Chúng ta phải phổ biến cho người dùng về các dịch vụ thư viện và
giúp họ hiểu rằng, thông tin sẵn có trong thư viện có thể tăng giá trị cho cuộc sống
của họ như thế nào.
- See more at: />articleid=22706&sitepageid=609#sthash.Q3pu0qsS.dpuf
Nguồn: clibrary, arlingtonlibrary (Hiền Lê lược dịch) - See more at:
/>



×