Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thực trạng và những vấn đề đặt ra của hệ thống chinh trị tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.09 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

VŨ VIỆT ĐỨC

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

VŨ VIỆT ĐỨC

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỈNH THÁI NGUYÊN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

.
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Hoàng Công

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Vũ Hoàng Công. Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong luận văn là
trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Công trình
nghiên cứu của luận văn không trùng với công trình nghiên cứu khác.
Tác giả

Vũ Việt Đức


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Hoàng
Công với tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của một người Thầy đã hướng
dẫn, chỉ dạy và giúp đỡ em trên con đường nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Khoa học chính trị, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và Thầy, Cô
giảng dạy các chuyên đề trong quá trình học. Các anh, chị học viên cao học đã
luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin được cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè lời biết ơn
sâu sắc vì sự quan tâm, thấu hiểu và chia sẻ.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .......................................... 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 5
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu ................................................... 5
6. Những đóng góp của luận văn ...................................................................... 6
7. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 6
Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM HIỆN NAY ............................................................................................ 7
1.1 Khái niệm, chức năng, đặc điểm, cấu trúc của hệ thống chính trị Việt
Nam ................................................................................................................... 7
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị.................................................................... 7
1.1.2 Chức năng của hệ thống chính trị ........................................................... 9
1.1.3 Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam .......................................... 11
1.1.4 Cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam ............................................ 13
1.2 Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các bộ phận cấu thành ... 15
1.2.1 Đảng cộng sản Việt Nam ...................................................................... 15
1.2.2 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .................................. 20
1.2.3 Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ............................... 32
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 36
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỈNH THÁI NGUYÊN ................................... 37
2.1 Tổ chức bộ máy và hoạt động của Đảng bộ Tỉnh................................. 38
2.1.1 Tổ chức bộ máy của Đảng bộ Tỉnh ........................................................ 38
2.1.2 Hoạt động của Đảng bộ Tỉnh ................................................................. 39
2.2 Tổ chức bộ máy và hoạt động của chính quyền tỉnh ........................... 48


2.2.1 Hội đồng nhân dân tỉnh ......................................................................... 48
2.2.2 Ủy ban nhân dân tỉnh ............................................................................. 49
2.3 Tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các
tổ chức chính trị - xã hội tỉnh ....................................................................... 50
2.3.1 Tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) tỉnh ...... 50

2.3.2 Tổ chức bộ máy và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh ......... 51
2.4 Một số vấn đề đặt ra................................................................................ 54
2.4.1 Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên .................................. 54
2.4.2 Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân và cơ chế chịu trách nhiệm
của Ủy ban nhân dân tỉnh ............................................................................... 60
2.4.3 Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội tỉnh ....................................................................................... 63
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 68
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ, CHẤT
LƢỢNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN ..... 70
3.1 Quan điểm ................................................................................................ 70
3.2 Giải pháp .................................................................................................. 70
3.2.1 Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị
tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................. 70
3.2.2 Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân ................................................................................................... 72
3.2.3 Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................. 74
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


Đoàn TNCSHCM

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

HĐND

Hội đồng nhân dân

Hội LHPN

Hội Liên hiệp phụ nữ

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

UBND

Ủy ban nhân dân

UBKT

Ủy ban kiểm tra


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn hai
thập kỷ qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa nước ta thoát khỏi khủng
hoảng và không ngừng lớn mạnh, vững bước tiến vào thế kỷ XXI trong xu thế

hội nhập và phát triển. Trong quá trình đó, hệ thống chính trị ở nước ta luôn là
nhân tố đóng vai trò tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với việc
đổi mới tư duy về kinh tế, chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đổi mới
hệ thống chính trị đã tạo ra thế và lực mới cho toàn bộ hệ thống chính trị, góp
phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, phát triển đất nước.
Trong giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên đang
đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn, đòi hỏi phải nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; năng lực quản lý, điều hành của Chính
quyền; vai trò đại diện và tập hợp quần chúng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên có tính nguyên tắc, dựa trên những
quan điểm lý luận và chính trị đúng đắn, khoa học, có phương hướng, mục
tiêu rõ ràng và cách làm, bước đi thích hợp là một trong những nhiệm vụ quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược to lớn.
Cùng với những thành công trong đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị,
Tỉnh Thái Nguyên đã nhấn mạnh, cho đến nay, tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan chưa hợp lý, còn cồng kềnh, nhiều đầu mối và tầng nấc trung gian. Mục
tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,
nhất là trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo tình hình, tham
mưu, đề xuất với Trung ương những vấn đề mang tính chiến lược về phát
triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, đối
1


ngoại. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị-xã hội trên `một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Tinh
thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức còn thấp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn nghiêm trọng, chậm
được khắc phục. Việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội còn chậm. Công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng còn hạn chế. Hoạt động của hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn hiệu quả thấp, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề
phức tạp phát sinh.
Từ những khuyết điểm, hạn chế của hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên
hiện nay sự cần thiết việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị một
cách đồng bộ từ tỉnh đến thành phố, huyện, xã trên địa bàn tỉnh là vô cùng
quan trọng. Trước tình hình đó, trên tinh thần Nghị quyết của Đảng nhằm
đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở tỉnh Thái
Nguyên từ năm 2007 đến nay chỉ ra những vấn đề và giải pháp đổi mới hệ
thống chính trị tỉnh Thái Nguyên; nhằm củng cố, tăng cường vai trò của hệ
thống chính trị của Tỉnh. Do vậy tôi chọn đề tài: “Thực trạng và những vấn đề
đặt ra của hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu về hệ thống chính trị Việt Nam được giới nghiên cứu
về chính trị quan tâm từ lâu. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hệ
thống chính trị Việt Nam, với những mục đích nghiên cứu khác nhau như về
mô hình hệ thống chính trị, đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam,
những vấn đề chính trị - kinh tế - văn hóa nổi bật… đã có nhiều ấn phẩm
trong nước và nước ngoài bằng tiếng Anh, Pháp.

2


Nhiều tác phẩm viết về hệ thống chính trị Việt Nam nói chung về khái
niệm, chức năng, đặc điểm như: Vũ Hoàng Công (2009): Các mô hình hệ
thống chính trị; trong quyển “Chính trị học – Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS. TSKH Vũ Minh Giang: Những đặc
trưng cơ bản của bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính trị nước ta
trước thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 đây là những tác
phẩm nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của hệ thống chính trị đã được
giải quyết dựa vào những nghiên cứu này có thể xác định chính xác khái niệm
hệ thống chính trị là gì.
Nghiên cứu về hệ thống chính trị về các yếu tố cấu thành; vị trí, vai trò
của các bộ phận có các tác phẩm tiêu biểu như: PGS.TS. Lê Minh Thông: Cơ
sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, , Nxb Chính trị quốc gia, 2007; PGS.TS.
Lê Minh Quân: Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện chính trị học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; Nguyễn Hữu Đổng (2008): Vị trí, vai trò
của Đảng trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 11-2008; Nguyễn Thị Doan (2004): Tăng cường công tác giám sát
trong Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 22-2004 và Một số vấn đề đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 777, 2007; TS. Nguyễn Hữu
Đông: Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học, Hà
Nội, 2009. Các tác phẩm nêu trên đã trình bày khá đầy đủ về khái niệm, vị trí,
vai trò của các bộ phận cấu thành từ đó đánh giá được trong quá trình tổ chức
và hoạt động các bộ phận cấu thành đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình hay chưa.
Giáo trình nghiên cứu về hệ thống chính trị có cuốn: Tập bài giảng chính
trị học (hệ cao cấp chính trị), Nxb Chính trị học, Hà Nội. Đây là cuốn giáo
3


trình nêu khá đầy đủ về khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính
trị góp phần giúp người nghiên cứu hiểu một cách chính xác, khoa học về hệ

thống chính trị Việt Nam.
Nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở có các tác phẩm như: Vũ Hoàng
Công: Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Hà Quang Ngọc (2005): Cải cách cơ cấu tổ chức
và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, Tạp chí Cộng sản, số 22005.
Nghiên cứu về hệ thống chính trị Tỉnh Thái Nguyên có rất ít tác phẩm
chủ yếu qua Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (nhiệm kỳ
2005 – 2010), lần thứ XVIII (nhiệm kỳ 2010 – 2015), lần thứ XIX (nhiệm kỳ
2015 – 2020)…. qua đó thấy được thực trạng, tình hình hoạt động của các cơ
quan, bộ máy, biên chế, năng lực cán bộ.
Như vậy, nhìn chung các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị
Việt Nam nói chung và hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên nói riêng không
phải là ít, nhưng việc tổng hợp những tài liệu về tổ chức bộ máy và hoạt động
của hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên cũng như những giải pháp, phương
hướng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị Tỉnh chưa được
các tài liệu đề cập tới đầy đủ, hệ thống.
Báo cáo luận văn thạc sĩ này hy vọng sẽ đóng góp một phần vào công
việc nghiên cứu về hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên và rút ra những suy
nghĩ riêng cho việc xây dựng hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên hôm nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 2007 đến
nay nêu ra các ưu điểm và hạn chế nhằm khắc phục hạn chế và đưa ra các giải
pháp đổi mới hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên đây, các nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
4


+ Khái quát chung về hệ thống chính trị theo quan điểm của Đảng.
+ Tìm hiểu thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tỉnh

Thái Nguyên (theo Luật, Hiến pháp, quy định, quy chế)
+ Chỉ ra những vấn đề, nguyên nhân, mâu thuẫn, bất cập.
+ Đề xuất giải pháp đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị tỉnh theo tinh
thần Nghị quyết của Đảng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Các tổ chức thuộc hệ thống chính trị tỉnh Thái
Nguyên (Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh)
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hệ thống chính trị tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính trị, đồng thời luận văn kế thừa có
chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích, khái
quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp đổi
mới và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam nói chung và hệ thống
chính trị tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
+ Phương pháp hệ thống: luận văn sử dụng phương pháp phân tích
theo hệ thống các vấn đề nghiên cứu đặt trong hệ thống có mối quan hệ
biện chứng, hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất, do vậy phương pháp hệ
thống được sử dụng để nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị cấp tỉnh trong đó có mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị xã hội.

5


+ Phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa được sử dụng trong
Chương 3 nhằm đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống

chính trị tỉnh Thái Nguyên.
6. Những đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tỉnh
Thái Nguyên.
Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức
liên quan trong việc nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp tromg hoạt động của hệ
thống chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn có phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính
gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống chính
trị tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu lực, chất lượng của hệ
thống chính trị ở tỉnh Thái Nguyên.

6


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1 Khái niệm, chức năng, đặc điểm, cấu trúc của hệ thống chính trị
Việt Nam
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là khái niệm hiện đại của chính trị học. Trong lịch sử
tư tưởng chính trị phương Đông và cả phương Tây không có khái niệm hệ
thống chính trị. Nó chỉ xuất hiện trong nền chính trị hiện đại. Trước đây việc
đưa ra các quyết định chính trị có tính quốc gia luôn thuộc thẩm quyền của bộ

máy nhà nước mà tối cao là các hoàng đế, các nhà vua (chỉ trừ một số thời kỳ
của Hy Lạp hay La Mã cổ đại tồn tại thể chế dân chủ cộng hòa, trong đó Nghị
viện và đám đông nhân dân có tiếng nói quan trọng nhất định trong việc đưa
ra các quyết định có tính quốc gia). Việc một cá nhân nào khác (tể tướng,
thượng thư) có góp ý hoặc tác động tới một quyết định nào đó là có thể, song
điều đó không mang tính thể chế, nghĩa là không phải là một điều bắt buộc có
tính pháp lý. Nói cách khác, các quyết định chính trị có tính quốc gia không
phải là một sản phẩm của một hệ thống mà chủ yếu là sản phẩm của cá nhân
người cai trị tối cao.
Chính trị hiện đại, nói đúng hơn là chính trị thời tư bản chủ nghĩa, đã
khác một cách căn bản, xét từ góc độ thể thức cai trị. Việc xuất hiện các đảng
chính trị đại diện cho các giai cấp, các lực lượng xã hội khác nhau, xuất hiện
các nhóm lợi ích, các tổ chức chính trị - xã hội…đấu tranh giành quyền lực
nhà nước hoặc tham gia vào các quyết định chính trị của quốc gia đã làm cho
nền chính trị dân chủ hơn. Các quyết định chính trị giờ đây là sản phẩm của
hệ thống, là kết quả của một chu trình có tính thể chế, tính bắt buộc, không
tùy thuộc riêng vào ý chí chủ quan của một cá nhân nào dù là người đứng đầu
Nhà nước. Do vậy, khi nghiên cứu chính trị hiện đại không thể dừng lại ở việc
7


nghiên cứu hoạt động của nhà nước nói chung, của một cơ quan Nhà nước
nào đó nói riêng, lại càng không thể chỉ dừng lại ở một cá nhân mà phải
nghiên cứu vai trò, vị trí hay nói rộng hơn là nghiên cứu mối quan hệ của một
hệ thống các chủ thể tham gia vào quá trình chính trị. Do vậy, có thể nói khái
niệm hệ thống chính trị là sự phản ánh thực tiễn chính trị hiện đại. Nó là sản
phẩm của nền chính trị vận động theo xu hướng dân chủ hóa. Nghiên cứu sự
hoạt động của một hệ thống chính trị ở một quốc gia nào đó một mặt cho thấy
quyền lực chính trị thuộc về ai, giai cấp nào , lực lượng nào, mặt khác cho
thấy tính dân chủ của nền chính trị ở đó ra sao. Đó chính là ý nghĩa của việc

nghiên cứu hệ thống chính trị .
Mục đích của việc đưa ra khái niệm hệ thống chính trị chính là vạch ra
hệ thống các chủ thể (các tổ chức, các thiết chế) có quan hệ với nhau trong
việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị…Nói cách khác, nghiên cứu hệ
thống chính trị thực chất là nghiên cứu hệ thống các tổ chức, thiết chế có
quyền lực chính trị hoặc tham gia vào quyền lực chính trị.
Vậy “hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội,
bao gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích,
chức năng trong việc thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị,
trong việc đưa ra các quyết định chính trị”[79 ,tr. 289].
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hệ thống chính trị: Trong sách
Triết học Mác – Lênin (chương trình cao cấp) hệ thống chính trị được hiểu là:
“tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa nhận về mặt
pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hôi đó. Hệ thống này bao
gồm: nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị xã
hội khác, trong đó nhà nước là yếu tố cơ bản nhất”.
Ở Việt Nam, khái niệm hệ thống chính trị được chính thức sử dụng
trong các văn kiện Đảng từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khóa VI(3/1989) để thay thế cho khái niệm chuyên chính vô sản vẫn được
8


dùng trước đổi mới (1986) với cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Theo đó hệ
thống chính trị là một phạm trù thể hiện hình thức tổng quát nhất của chính trị
và dân chủ, xác lập cơ chế thực hiện quyền lực chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong điều kiện xây dựng và vận hành nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [45, tr. 11-12].
Hệ thống chính trị ở nước ta là hệ thống các thiết chế chính trị được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, hiện nay là Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các đạo luật khác của Nhà nước ta. Tổ

chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các
nguyên tắc chủ yếu như tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Chức năng của hệ thống chính trị
Chức năng tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân: Quyền lực
chính trị của Đảng, quyền lực chính trị của Nhà nước là những quyền lực phát
sinh từ quyền lực của nhân dân, là sự ủy quyền của nhân dân. Trách nhiệm và
quyền hạn cơ bản của hệ thống chính trị nói chung, của Đảng và Nhà nước
nói riêng là thực hiện quyền lực được nhân dân ủy quyền. Do vậy mỗi thiết
chế trong hệ thống chính trị chỉ tổ chức thực hiện quyền lực chính trị đúng
trong phạm vi, giới hạn và tính chất của sự ủy quyền, trên cơ sở nguyên tắc
đảm bảo toàn bộ quyền lực luôn thuộc về nhân dân. Chức năng tổ chức thực
hiện quyền lực của nhân dân chính là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền lực.
Chức năng xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc: Đại đoàn
kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó nhấn mạnh vai trò hạt nhân
lãnh đạo là tổ chức Đảng. Tổ chức Đảng nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc và hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết ấy. Để Đảng thực sự là hạt nhân
9


lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải tiếp tục kiên trì thực hiện tốt
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là cần xây dựng những
cơ chế cụ thể để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân động viên toàn dân tham
gia xây dựng Đảng.
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tốc
không phải chỉ bằng việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật mà phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính

sách pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong
sạch, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại diện cho lợi
ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời là cầu nối
giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Chức năng tổ chức dân chủ và đảm bảo dân chủ: Xét về tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị , dân chủ vừa là bản chất, vừa là mục tiêu.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
2011) khẳng định: “ Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân;
chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ
công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước,
của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện”.
10


1.1.3 Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Tính nhất nguyên và chỉ do một Đảng lãnh đạo: Tính nhất nguyên thể
hiện ở chỗ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền
tảng tư tưởng chung cho cả hệ thống; chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chung,
không chấp nhận những khuynh hướng chính trị trái với chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và trái với mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Các thành viên của hệ thống chính trị do Đảng cộng sản lập ra có lịch sử
đấu tranh vẻ vang, có vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất
nước: Ở nhiều nước Đảng cộng sản không có mối liên hệ gì với các thành
viên khác của hệ thống chính trị. Ngay cả một số nước xã hội chủ nghĩa trước
đây, các tổ chức quần chúng có thể do Đảng cộng sản lập ra nhưng thiếu sự
gắn bó về mặt lịch sử, nhiều tổ chức quần chúng không có bề dày đấu tranh
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Khác với các nước đó, ở Việt
Nam các đoàn thể quần chúng đều do Đảng Cộng sản lập ra nhằm mục đích
đấu tranh chống đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc. Các thành viên của
hệ thống chính trị gắn mình với sự nghiệp cao cả của Đảng và lịch sử hào
hùng của dân tộc. Hội nông dân được lập ngày 14/10/1930, Hội Phụ nữ thành
lập ngày 20/10/1930, Đoàn thanh niên ngày 26/3/1930, Mặt trận Tổ quốc mà
tiền thân là Hội phản đế được lập ngày 18/11/1930, trước đó từ tháng 7/1929,
tổ chức Công đoàn đầu tiên đã được thành lập (Công hội đỏ Bắc Kỳ). Trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, hàng chục vạn đoàn viên của các tổ
chức này đã hy sinh, hàng vạn người khác bị giam cầm, tra tấn. Sau ngày đất
nước được giải phóng, các tổ chức này lại tập hợp, động viên nhân dân đi theo
đường lối của Đảng, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các đoàn thể đã thể hiện rõ là các tổ
chức quần chúng có chức năng xã hội gắn với đời sống của các tầng lớp nhân
dân, đồng thời lại có chức năng chính trị rõ rệt: vừa đại diện cho nhân dân,
vừa tổ chức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền làm chủ; vừa giúp Đảng và
11


Nhà nước trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách tới nhân dân, vừa
truyền đạt tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân đến Đảng và Nhà nước. Có
thể nói không một chủ trương, chính sách lớn lớn của Đảng và Nhà nước mà
không có sự tham gia, đóng góp của các đoàn thể quần chúng.
Với lịch sử đấu tranh lâu dài, vẻ vang, với vai trò to lớn qua các thời kỳ

lịch sử và kinh nghiệm tổ chức quần chúng của mình, các đoàn thể này xứng
đáng là các chủ thể của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị mang tính nhân dân sâu sắc: Tính nhân dân của hệ
thống chính trị thể hiện trong mục đích vì nhân dân, trong lực lượng do nhân
dân, trong sức mạnh của nhân dân. Ở Việt Nam, không có một tổ chức nào
của hệ thống chính trị không gắn với một tầng lớp nhân dân nhất định, không
một tổ chức nào lại chỉ là diễn đàn của một nhóm nhỏ nhất là của những
người giàu có, đặc quyền, đặc lợi, thoát li lao động chân chính.
Hệ thống chính trị được tổ chức rộng khắp, chặt chẽ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ: Hiện nay cả nước ta có 64 tỉnh, thành phố, trên 500 quận,
huyện và hàng chục nghìn xã, phường, thị trấn. Hầu như ở đâu cũng có đầy đủ
các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng. Các tổ chức đảng,
đoàn thể này được tổ chức theo hệ thống từ trên xuống dười có mặt ở mọi
cấp, hoạt động theo nguyên tắc cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới, cấp
dưới phục tùng cấp trên. Đồng thời trong phạm vi địa phương, các đoàn thể
đều chịu sự chỉ đạo của cấp ủy đảng.
Hệ thống chính trị còn tồn tại theo các đơn vị, các cơ quan, các tổ chức
hành chính, sự nghiệp, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Ngay trong
một cơ quan, đoàn thể nào đó cũng có mặt các tổ chức của các đoàn thể khác,
nghĩa là các tổ chức không chỉ tồn tại bên cạnh nhau, mà còn tồn tại đan xen,
lồng vào nhau. Tất cả tạo nên một mạng lưới chằng chịt, gắn kết chặt chẽ.
Do sự tổ chức như vậy nên hệ thống chính trị có tính thống nhất cao về
mặt ý chí và hành động. Mọi chủ trương, chính sách đều nhằm về một hướng,
12


mọi hoạt động đều nhằm về một hướng. Điều đó làm nên những chiến thắng
trong các cuộc chiến tranh và những thành tựu ban đầu trong công cuộc đổi
mới hiện nay. Cũng vì thế mà hệ thống chính trị mang tính ổn định trong suốt
nhiều chục năm qua và ngay trong những giai đoạn khó khăn của chủ nghĩa

xã hội vừa qua vẫn giữ được ổn định.
Các thành viên của hệ thống chính trị có địa vị pháp lý vững chắc: Khác
với nhiều nước có thành phần, số lượng các thành viên của hệ thống chính trị
không được xác định rõ ràng, ở Việt Nam các thành viên của hệ thống chính
trị được xác định cụ thể. Vị trí, vai trò của mỗi tổ chức trong hệ thống chính
trị được Hiến pháp, pháp luật khẳng định. Xu hướng luật hóa vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ các thành viên của hệ thống chính trị ngày càng rõ.
Với địa vị pháp lý được củng cố, các thành viên của hệ thống chính trị có
điều kiện thuận lợi rất lớn là được Nhà nước đảm bảo mọi điều kiện vật chất,
tài chính cần thiết; được thường xuyên cử đại diện vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp; là đầu mối mà Đảng, Nhà nước phải tham khảo ý kiến
trước khi ban hành các quyết định chính trị quan trọng.
1.1.4 Cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị nước ta là một phạm trù đa diện, có cấu trúc phức tạp,
các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị luôn vận động, phát triển, tạo nên
tính chất động và mở cho toàn bộ hệ thống.
Xét về mặt tổ chức của hệ thống chính trị nước ta được nhận diện trên
hai phương diện: số lượng các thành viên trong hệ thống chính trị và cấp độ tổ
chức của các tổ chức thành viên theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Số lượng thành viên trong hệ thống chính trị hiện nay gồm 8 tổ chức:
Đảng, Nhà nước, Mặt trân Tổ quốc và các cơ quan đoàn thể (Tổng Liên đoàn
lao động, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh).

13


Mối quan hệ cơ bản giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị xã hội.
Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã

hội bằng cương lĩnh, chiến lược các định hướng về chính sách và chủ trương
công tác; bằng công tác tuyên truyền vận động….Đảng từng bước khắc phục
tình trạnh làm thay công việc quản lý của Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác. Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm cụ cơ bản là cơ quan
quản lý nhà nước đối với xã hội theo định hướng phát triển mà Đảng đã xác
định.
Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội: Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc là mối quan hệ bình đẳng
trước pháp luật. “Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là người
lãnh đạo Mặt trận”. Đảng thực hiện lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức chính trị
- xã hội bằng chủ trương, chính sách, bằng công tác tuyên truyền, vận động
thuyết phục: bằng công tác tổ chức, kiểm tra, cán bộ. Đảng lãnh đạo nhưng
Đảng không ra lệnh, áp đặt cho Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội mà
phải thông qua hiệp thương, thuyết phục, và bằng sự gương mẫu của đảng
viên trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội:Nhà nước
không tham gia Mặt trận Tổ quốc nhưng Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc đều
là thành viên của hệ thống chính trị, cùng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, đều thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua Mặt trận tổ quốc
nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, giám sát hoạt động của các
cơ quan và công chức Nhà nước. Nhà nước ban hành luật, trong đó có luật về
Mặt trận Tổ quốc và về các tổ chức chính trị - xã hội, tạo mọi điều kiện cho
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội hoạt động hợp hiến, hợp
pháp, phát huy được mọi khả năng của mình.

14


Về phía Nhà nước, để làm tròn chức năng quản lý, thực hiện quyền lực
nhân dân, Nhà nước cần đến sự phối hợp của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội có vai trò
làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với Nhà nước; tuyên truyền, vận động

các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;
phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, thay mặt
các tầng lớp nhân dân kiến nghị với Đảng , Nhà nước về những vấn đề cần
thiết bổ sung cho các đường lối, chính sách. Các tổ chức chính trị - xã hội
trong hoạt động của mình, thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn thực
hiện giám sát, tư vấn, phản biện xã hội đối với các cơ quan và cán bộ Nhà
nước và hệ thống chính trị, tham gia xây dựng, giám sát, góp ý kiến vào các
dự án luật thuộc các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính và tổ chức
bộ máy Nhà nước góp phần giúp Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật
phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Điểm quan trọng nổi bật trong mối
quan hệ này là, theo quy định, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc có vị trí ngang
nhau trong hệ thống chính trị và có nguyên tắc phối hợp hành động chung.
Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội vẫn có thể trực tiếp phối hợp hành
động với Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội chịu sự quản lý của Nhà
nước và hoạt động trên khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ
với Nhà nước, được định hướng bởi các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
1.2 Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các bộ phận cấu thành
1.2.1 Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên

15


tắc tổ chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định

hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của
đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông
qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
1.2.1.1 Chức năng, nhiệm vụ của Đảng cộng sản Việt Nam
Từ khi chính quyền về tay nhân dân (1945), Đảng trở thành thành viên
của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, vừa
là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội.
Thứ nhất, Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng nắm giữ chính quyền, chi
phối tổ chức và hoạt động của chính quyền. Ý chí của Đảng là ý chí chung
của toàn xã hội. Thứ hai, phạm trù Đảng cộng sản lãnh đạo là có sự phân biệt
chức năng lãnh đạo Nhà nước về mặt chính trị của Đảng với chức năng quản
lý xã hội của Nhà nước.
Đảng ta là đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo Nhà nước, có nghĩa là
Đảng là tổ chức chính trị có chức năng dẫn dắt, tổ chức Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội. Theo nghĩa đó để dẫn dắt, tổ chức hệ thống chính trị,
để lãnh đạo được Nhà nước và xã hội Đảng phải có đường lối, chủ trương,
chính sách để các tổ chức đảng, các đảng viên trong cơ quan quyền lực nhà
nước và xã hội thực hiện. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị là lãnh đạo chính
trị đối với hệ thống chính trị.
16



Chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng khác với chức năng quản lý Nhà
nước. Quản lý là trực tiếp tổ chức, điều khiển hoạt động của toàn xã hội hay
các phong trào, công việc của cơ quan quyền lực nhà nước. Theo nghĩa đó,
quản lý còn có nghĩa là quản trị - là một bước cụ thể hóa các đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng cầm quyền thành các chủ trương, biện pháp cụ
thể và tổ chức thực hiện. Trên ý nghĩa đó, Đảng lãnh đạo nhà nước là lãnh
đạo về mặt chính trị, tức là lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, bằng công tác
tổ chức và cán bộ…Đảng lãnh đạo xã hội gián tiếp thông qua việc Đảng dẫn
dắt vai trò quản lý của Nhà nước. Đảng không có chức năng quản lý cụ thể,
không có chức năng của cơ quan công quyền. Đảng không được nhân danh
Nhà nước để thực hiện quyền lực. Còn Nhà nước có chức năng quản lý trực
tiếp xã hội. Khi nào chức năng của Đảng và của Nhà nước còn chưa có sự
phân định sẽ dẫn đến những tác động hạn chế trong hoạt động của hệ thống
chính trị.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là do sự tín
nhiệm, tôn vinh của nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng. Điều này được ghi vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Thế giới đương đại ít có luật pháp nước nào lại khẳng định một
đảng cụ thể là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước trong Hiến pháp. Do đó
đây là đặc điểm rất riêng của một đảng cầm quyền như Đảng ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (2011), Đảng ta đã nêu rõ: “Để đảm đương được vai trò lãnh
đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết
thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của
Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động
17



chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc”.
Hiện nay Đảng ta còn thực hiện chức năng lãnh đạo bằng một số nội
dung khác như: Đảng đề ra đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; chủ trương, đường lối, chiến lược về phát triển đất nước trên các
lĩnh vực chủ yếu (kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại);
những nội dung Đảng lãnh đạo công tác cán bộ của bộ máy nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội; nội dung Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng; nội dung Đảng giáo dục đảng viên, toàn thể nhân
dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2.1.2. Tổ chức bộ máy, phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
Tổ chức bộ máy của Đảng: Điều lệ Đảng quy định hệ thống tổ chức của
Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà
nước. Hệ thống tổ chức Đảng thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ
thống cơ bản, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở mỗi cấp và của toàn
Đảng. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của
Ban Chấp hành Trung ương. Hệ thống tổ chức của Đảng, các cơ quan tham
mưu giúp việc của cấp uỷ các cấp từng bước được sắp xếp, kiện toàn hợp lý
và hiệu quả hơn sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương ba, Trung ương bảy
(khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần
thứ 4, lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá X đã tiến hành kiện toàn hệ
thống tổ chức của Đảng theo hướng tinh gọn hơn, tập trung hơn đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ mới.
Tình hình hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay: Hệ
thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở, chi
18



×