Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.5 KB, 30 trang )

LI M U
Hiện nay trong nền kinh tế thị trờng khi mà đất nớc ta đang bớc vào thời
kỳ hội nhập và quốc tế hoá đòi hỏi các sản phẩm của chúng ta phải có tính
cạnh trach cao mới đủ khả năng đúng vững trong thị trờng đầy biến động. Nó
sẽ góp phần cho hàng hoá nớc ta tiếp cận với nhiều loại thị trờng khác nhau và
nhiều khách hàng khác nhau trên thế giới. Điều này mang đến cho các doanh
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nhng cũng đầy thách thức: Sự
cạnh tranh khốc liệt về chất lợng, giá cả và khả năng cung cấp dịch vụđòi
hỏi các doanh nghiệp buộc phải đầu t để nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình. Tuy nhiên một vấn đề mang tính bản chất của toàn cầu hoá chính là
văn hoá tiêu dùng trong kinh tế thị trờng. Mỗi loại thị trờng khác nhau đều đợc quyết định bởi một nhóm khách hàng có nhu cầu tiêu dùng khác nhau.
Nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới có văn hoá tiêu dùng rất phát triển. Nhu
cầu tiêu dùng của họ không những đòi hỏi về tính hữu dụng, tính đẹp, tính bền
của sản phẩm mà còn đòi hỏi sản phẩm phải sạch và mang tính nhân văn
(không sử dụng lao động trẻ em)Trong các nhu cầu văn hoá tiêu dùng nêu
trên, tiêu chuẩn sạch có vai trò hết sức quan trọng vì nó không chỉ thể hiện
nhu cầu bảo vệ sức khoẻ cho ngời tiêu dùng mà còn thể hiện trình độ văn
minh trong sản xuất- tiêu dùng. Vấn đề VSATTP ở đây không chỉ là sạch ở
sản phẩm cuối cùng mà còn cả trong quá trình sản xuất. Nhờ có sự kế thừa văn
minh nhân loại mà đất nớc ta ngày càng phát triển mức GDP hàng năm tăng
nhanh. Cũng chính vì thế mà cuộc sống của rất nhiều ngời dân Việt Nam
chúng ta đã đợc cải thiện, để có bữa ăn no, đủ chất dinh dỡng trong mỗi gia
đình không còn khó khăn thì việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
( VSATTP) lại trở thành vấn đề nhức nhối. Nhất là trong giai đoạn hiện nay,
tình trạng vi phạm VSATTP, chất lợng hàng hoá đã gây nhiều thiệt hại cả về
vật chất, sức khoẻ ngời tiêu dùng, tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lợng đang đợc bán công khai.
Nhận thức đợc tình hình nền kinh tế nớc ta hiện nay có thể thấy đợc vai
trò to lớn của quản lý nhà nớc trong việc điều tiết nền kinh tế trong vấn đề
VSATTP. Vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài : Quản lý nhà nớc về
chất lợng vệ sinh an toàn thực phẩm( VSATTP).



1


Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hoá các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nớc về chất lợng và
chất lợng VSATTP
đánh giá hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nớc về kiểm tra an toàn
thực phẩm
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong công
tác quản lý nhà nớc về VSATTP
Đối tợng nghiên cứu là tình hinh hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nớc về VSATTP
Phơng pháp nghiên cứu là thu thập và phân tích số liệu, s dng
phng phỏp lun phõn tớch.
Kết cấu của đề tài
Chơng I: Lý luận chung quản lý nhà nớc về chất lợng VSATTP
Chơng II: Thực trạng của các cơ quan quản lý nhà nớc về chất lợng
VSATTP
Chơng III: Giải pháp cải thiện hoạt động quản lý nhà nớc về chất lợng
VSATTP
Để hoàn thành đề tài này đã có sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến rất nhiều
của GS.TS Nguyễn Đình Phan. Em xin chân thành cảm ơn thầy.

2


Nội dung
Chơng 1 Lý luận chung quản lý nhà n ớc về
chất luợng ATVSTP


I.Khái niệm,nội dung của chất lợng và quản trị chất lợng
1.Chất lợng
1.1 Khái niệm về chất lợng

Khái niệm chất lợng sản phẩm đã xuất hiện từ lâu và đợc phổ biến sử
dụng hàng ngày trong cuộc sống cũng nh trong sách báo. Chất lợng sản phẩm
là một phạm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế,
kỹ thuật, xã hội. Đứng trên những góc độ khác nhau và tuỳ theo mục tiêu,
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có thể đa ra những quan niệm
về chất lợng xuất phát từ ngời sản xuất, ngời tiêu dùng,từ sản phẩm hay thị trờng.
Từ bản thân sản phẩm: Chất lợng là tập hợp các tính chất của sản phẩm
để chế định tính thích hợp của nó nhằm thoả mãn nhu cầu xác định phù hợp
với công dụng.
Từ phía nhà sản xuất : Chất lợng là sự phù hợp và hoàn hảo của một sản
phẩm với một tập hợp các yêu cầu,tiêu chuẩn hay quy cách đó đợc xác định trớc.
Từ thị trờng: Chất lợng là sự phù hợp của sản phẩm ,dịch vụ phù hợp với
mục đích sử dụng của khách hàng.
Theo ISO : Chất lợng là sự thoả mãn một tập hợp các thuộc tính đối với
các yêu cầu đã nêu ra hay tiềm ẩn.
Những khái niệm chất lợng này xuất phát và gắn bó chặt chẽ với các yếu
tố cơ bản của thị trờng nh nhu cầu,cạnh tranh,giá cảNhững quan niệm theo
hớng thị trờng đợc đa số các nhà nghiên cứu và các doanh nhân tán đồng vì nó
phản ánh nhu cầu đích thực của ngời tiêu dùng, giúp doanh nghiệp đạt đợc
mục tiêu thoả mãn khách hàng, củng cố đợc thị trờng và giữ đợc thành công
lâu dài.
1.2 Yêu cầu và đặc điểm của chất lợng sản phẩm

Chất lợng là kết quả của các yếu tố công nghệ, kỹ thuật,kinh tế và văn
hoá xã hội. Trớc hết chất lợng là khả năng đáp ứng các yêu cầu về chức năng

kỹ thuật phản ánh giá trị sử dụng mà sản phẩm có thể đạt đợc.Các thuộc tính
chất lợng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố,nhiều thành phần,bộ phận hợp
thành nh nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc thiết bị, lao động sống, công nghệ,
kỹ thuật. Chất lợng không chỉ phản ánh trình độ điều kiện phát triển kinh tế xã
hội của mỗi nớc mỗi khu vực trong trong từng thời kỳ. Sản phẩm khi đua ra thị
trờng để trở thành hàng hoá cần phải thoả mãn khách hàng về cả hai mặt giá
trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng phản ánh công dụng tạo nên tính hữu ích
của sản phẩm..
Chất lợng sản phẩm đợc hình thành trong tất cả mọi hoạt động mọi quá
trình tạo ra sản phẩm. Chất lợng chính là kết quả của sự phối hợp thống nhất
giữa lao động với các yếu tố kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá. Các yếu tố tác
động đến chất lợng có yếu tố bên trong và bên ngoài, có yếu tố trực tiếp và
3


gián tiếp. Trên những thị tròng khác nhau có những yêu cầu khác nhau đối với
cùng loại sản phẩm. Chất lợng sản phẩm phải đợc xem xét trong mối liên hệ
chặt chẽ với điều kiện và môi trờng kinh doanh,tình hình và khả năng phát
triển kinh tế xã hội. Nó đợc hình thành trong tất cả mọi hoạt động mọi quá
trình. Vì vậy phải xem xét nó trong mói quan hệ chặt chẽ thống nhất trớc.trong.sau sản xuất.
Chất lợng đợc đánh giá trên cả hai mặt chủ quan và khách quan. Tính chủ
quan thể hiện thông qua chất lợng trong sự phù hợp hay còn gọi là chất lợng
thiết kế. Đó là mức phù hợp của thiết kế đối với nhu cầu của khách hàng. Nó
phản ánh nhận thức của khách hàng về chất lợng sản phẩm làm tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tính khách quan thể hiện thông qua
thuộc tính vốn có của sản phẩm để chất lợng có thể đợc đánh giá thông qua
chỉ tiêu,tiêu chuẩn cụ thể. Đồng thời nó đợc thể hiện thông qua việc tuân thủ
thiết kế. Các chỉ tiêu đánh giá chất lợng tuỳ thuộc vào tong loại thị trờng cụ
thể.Nó có thể đợc đành giá cao ở thị trờng này nhng không đợc coi trọng ở thị
trờng khác, phù hợp với đối tợng này nhng không phù hợp với đối tợng khác.

Chất lợng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong những điều kiện tiêu dùng xác
định phù hợp với mục đích tiêu dùng cụ thể. Không có chất lợng sản phẩm
chung cho tất cả mọi điều kiện mọi đối tợng. Vì vậy việc cung cấp thông tin
về sản phẩm cho ngời tiêu dùng là yêu cầu không thể thiếu đối với nhà sản
xuất.
1.3 Tầm quan trọng của chất lợng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh

Trong môi trờng kinh tế phát triển hội nhập nh ngày nay, cạnh tranh là
một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp thông qua hai chiến lợc cơ bản là phân biệt hoá sản
phẩm và chiến lợc chi phí thấp. Chất lợng trở thành một chiến lợc quan trọng
nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chất lợng tạo nên sức hấp dẫn thu hút khách hàng tạo lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp. Khách hàng lựa chọn mua sản phẩm có thuộc tính phù hợp
với nhu cầu sở thích khả năng điều kiện sử dụng của mình. Họ so sánh các sản
phẩm cùng loại và lựa chọn loại hàng nào có đặc tính kinh tế kỹ thuật thoả
mãn những mong muốn của họ cao hơn.
Chất lợng giúp doanh nghiệp tăng uy tín hình ảnh của mình. Điều này
cũng có ảnh hởng rất lớn tới quyết định mua hàng của khách hàng. Chất lợng
là cơ sở cho việc duy trì và mở rộng thị trờng tạo sự phát triển lâu dài bền
vững cho các doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm là phơng tiện sản xuất,
công cụ có sử dụng nguyên liệu năng lợng trong quá trình tiêu dùng thì chi phí
trong vận hành và khai thác sản phẩm là một thuộc tính chất lợng rất quan
trọng. Cho nên nâng cao chất lợng có ý nghĩa tơng đơng với tăng năng suất lao
động, giảm chi phí, giảm mức độ gây ô nhiễm môi trờng. Đồng thời giúp cho
ngời tiêu dùng tiết kiệm đợc súc lực và thời gian khi sử dụng sản phẩm do các
doanh nghiệp cung cấp với sự tiện lợi đáp ứng nhanh hơn đầy đủ hơn. Đây là
giải pháp quan trọng tăng klhả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi
nhuận. Trên cơ sở đó đảm bảo thống nhất lợi ích trong doanh nghiệp và ngoài
xã hội tạo động lực phát triển cho mỗi doanh nghiệp.

4


Trong điều kiện ngày nay, nâng cao chất lợng là cơ sở quan trọng cho
việc giao lu trao đổi thơng mại và hội nhập quốc tế. Chất lợng sản phẩm có ý
nghĩa quyết địnhđến nâng cao khả năng cạnh tranh, khẳng định vị thế của
hàng hoá Việt Nam và sức mạnh kinh tế của đất nớc trên thị trờng thế giới.
Chính vì tầm quan trọng của chất lợng đòi hỏi phải có sự quản lý tốt để
đảm bảo chât lợng sản phẩm dịch vụ phù hợp với yêu cầu thoả mãn tốt nhất
nhu cầu của khách hàng.
2.Quản lý chất lợng
2.1 Khái niệm quản lý chất lợng

Chất lợng không tự nhiên sinh ra, nó là kết quả của sự tác động của hành
loạt các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt chất lợng mong
muốn phải quản lý tốt các yếu tố này. Quản lý chất lợng là một khía cạnh của
chức năng quản lý để xác định và thực hiện chính sách chất lợng. Hoạt động
quản lý trong lĩnh vực chất lợng là quản lý chất lợng. Có nhiều quan điểm
khác nhau về quản lý chất lợng nhng theo Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế
ISO9000 cho rằng: Quản lý chất lợng là một hoạt động có chức năng quản lý
chung nhằm mục đích đề ra chính sách,mục tiêu,trách nhiệm và thực hiện
chúng bằng các biện pháp nh hoạch định chất lợng, kiểm soát chất lợng, đảm
bảo chất lợng và cải tiến chất lợng trong khuôn khổ một hệ thống chất lợng.
2.2 Vai trò của quản lý chất lợng

Quản lý chất lợng giữ một vị trí quan trọng trong công tác quản lý và
quản trị kinh doanh. Theo quan điẻm hiện đại thì quảnlý chất lợng là hoạt
động quản lý có chất lợng. Nó giữ vị trí then chốt đối với sự phát triển của nền
kinh tế, đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong cơ chế thị trờng thì cơ cấu sản phẩm chât lợng sản phẩm, giá cả

và thời gian giao hàng là yếu tố quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp mà các yếu tố này phụ thuộc rất lớn vào quản lý chất lợng.
Khi i sng ca ngi đợc nâng lên v sc mua ca h c nâng cao,tin
b khoa hc công nghệ c tng cng thì cht lng sn phm l yu t
quyt nh n kh nng cnh tranh.
Do vậy chất lợng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Tầm
quan trọng của chất lợng ngày càng đợc nâng cao do đó phải không ngừng
nâng cấp trình độ quản lý chất lợng và đổi mới không ngừng công tác quản lý
chất lợng. Nó là trách nhiệm của các cấp quản lý trớc hết là doanh nghiệp mà
ngời chịu trách nhiệm trớc hết là giám đốc doanh nghiệp.
II.Quản lý nhà nớc về chất lợng VSATTP
1.Vai trò của quản lý nhà nớc
Quản lý nhà nớc về chất lợng sản phẩm, hàng hoá là hoạt động của các
cơ quan quản lý nhà nớc nhằm định hớng phát triển, nâng cao và kiểm soát
chất lợng sản phẩm, hàng hoá đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng
thời kỳ. Công tác quản lý chất lợng ra đời và phát triển cùng với các hoạt động
của đời sống kinh tế và xã hội, công tác quản lý chất lợng có vai trò quan
trọng, tác động nhiều mặt và sâu sắc đến hầu khắp các lĩnh vực, từ sản xuất
kinh doanh, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cho đến việc bảo vệ
5


môi trờng, an toàn sức khoẻ con ngời, đảm bảo công bằng và lợi ích quốc gia.
Trong nền kinh tế phát triển sôi động nh hiện nay thì vai trò quản lý của nhà
nớc ngày càng trở lên quan trọng. Vai trò của quản lý nhà nớc về chất lợng trớc hết phải là vai trò định hớng và đảm bảo cho hoạt động chất lợng có tác
động tích cực đối với sự phát triển kinh tế mang tính dẫn dắt và chỉ hớng.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế phải dựa vào đẩy mạnh xuất
khẩu, mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải dựa vào tăng cờng khả năng cạnh
tranh của hàng hoá dịch vụ. Nh vậy, định hớng cơ bản về công tác chất lợng
hiện nay là đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Làm tốt công tác này sẽ giúp hàng

hoá của Việt Nam đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng trong nớc và quốc tế. Cơ
quan nhà nứơc là nơi tập hợp, đề xuất và ban hành các tiêu chuẩn này cho các
doanh nghiệp.
Vai trò không thể thiếu của quản lý nhà nớc về chất lợng là việc đảm bảo
lợi ích quốc gia,dân tộc.Thông qua việc quy định và kiểm soát về vệ sinh, an
toàn, môi trờng, Nhà nớc đảm bảo hàng hoá sản phẩm, nguyên vật liệunhập
khẩu vào Việt Nam phải bảo đảm vệ sinh, an toàn cho ngời tiêu dùng, an toàn
cho môi trờng tự nhiên và xã hội.Bằng các hoạt động kiểm tra giám sát thờng
xuyên ở các khu vực cửa khẩu các khu vực buôn bán để kịp thời phát hiện và
xử lý những vi phạm.
Có thể thấy rằng quản lý nhà nớc về chất lợng là hoạt động tổng hợp
mang tính kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Các hoạt động này nhằm mục tiêu là
để đảm bảo nâng cao chất lợng hàng hoá, hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo
vệ quyền lợi lợi ích của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và ngời tiêu
dùng, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ
môi trờng, thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cờng năng lực quản
lý nhà nớc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác kỹ thuật, kinh tế và thơng
mại quốc tế(Pháp lệnh Chất Lợng hàng hoá 1999). Trong những giai đoạn
khác nhau thì mục tiêu của hoạt động quản lý này cũng khác nhau nhng đều
thông qua các cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức chung thống nhất.
Các cơ quan quản lý nhà nứơc điều hành các hoạt động trên thị trờng
bằng các văn bản luật. Đây là các văn bản hớng dẫn việc thực thi ATVSTP của
các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá , dịch vụ đảm bao lợi ích cho ngời tiêu
dùng và cho xã hội. Nội dung của quản lý nhà nớc về VSATTP bao gồm (Pháp
lệnh năm 2003):
Xây dựng và thực hiện chiến lợc, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về
VSATTP;
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
VSATTP, các quy định và tiêu chuẩn về VSATTP;
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa, khắc phục ngộ độc

thực phẩm và bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm;
Quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thử nghiệm về VSATTP;
Quản lý việc công bố tiêu chuẩn VSATTP, chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP;
Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực VSATTP;
Đào tạo, bồi dỡng nghiệp vụ về VSATTP;
6


Tổ chức công tác thông tin,tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về
VSATTP;
Hợp tác quốc tế về VSATTP;
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý các vi phạm
pháp luật về VSATTP;
Nhờ có sự quản lý của nhà nớc về VSATTP đã tạo niềm tin đối với ngời
tiêu dùng giúp cho ngời tiêu dùng cảm thấy yên tâm hơn khi sử dụng sản
phẩm dịch vụ trên thị trờng.
2.Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nớc
Hiện nay ở Việt Nam quản lý an toàn thực phẩm và chất lợng thực phẩm
là trách nhiệm của Bộ Y tế, Bộ Khoa học-Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Công nghiệp. Bên cạnh đó còn có sự tham
gia của Bộ Thơng mại và Bộ Tài chính. Dới đây là trách nhiệm của hai bộ
chính có liên quan trực tiếp đến vấn đề quản lý VSATTP. Để thi hành pháp
lệnh về VSATTP số 12/2003/PL-UBTVQH11 ngày 26/07/2003 và nghị định
số 163/2004/NĐ-CP ngày 07/09/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều lệnh của pháp lệnh VSATTP, Liên tịch Bộ Y tế- Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn hớng dẫn phân công thực hiện chức năng quản
lý nhà nớc về VSATTP nh sau: (Thông t Hớng dẫn phân công phối hợp thực
hiện chức năng quản lý nhà nớc về VSATTP)
2.1 Trách nhiệm chung


2.1.1Bộ Y tế có trách nhiệm
Chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng
và tổ chức thực hiện chiến lợc,chính sách,kế hoạch về VSATTP đợc phê duyệt;
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu
chuẩn, quy định, quy trình, quy phạm về vệ sinh an toàn với thực phẩm đã qua
chế biến lu thông trên thị trờng;
Quy định d lợng tối đa cho phép hoá chất độc hại, phụ gia thực phẩm,
giới hạn tối đa ô nhiễm vi sinh vật đối với thực phẩm đa qua chế biến;
Quy định chung về điều kiện vệ sinh,an toàn đối với các cơ sở sản xuất
kinh doanh chế biến thực phẩm bao gồm điều kiện cơ sở vạt chất,trang thiết
bị,dụng cụ;yêu cầu về sức khoẻ, kiến thức, thực hành vệ sinh, an toàn thực
phẩm của ngời sản xuất kinh doanh thực phẩm;
Tổ chức thực hiện xác nhận công bố tiêu chuẩn VSATTP đối với sản
phẩm thực phẩm trong cả nớc;
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác thông tin, tuyên
truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật, kiến thức pháp luật; nghiên
cứu khao học, công nghệ, đào tạo, bồi dỡng nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế
về VSATTP; tổ chức xác nhận nội dung thông tin quảng cáo đối với thực
phẩm;
Tổ chức thực hiện quản lý nhà nớc về VSATTP đối với thực phẩm đã
qua chế biến sản xuất, lu thông trong nớc cho tiêu thụ nội địa;
Tổ chức thực hiện kiểm soát ô nhiễm vi sinh vật và tồn d hoá chất độc
7


hại(bao gồm cả phụ gia thực phẩm) đối với thực phẩm trừ thực phẩm có nguồn
gốc động vật ở dạng tơi sống và sơ chế lu thông trên thị trờng.
2.1.2 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm
Hớng dẫn chi tiết việc thực hiện chiến lợc, chính sách, quy hoạch, kế

hoạch về VSATTP của ngành nông nghiệp;
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật,tiêu
chuẩn,quy định,quy trình,quy phạm bảo đảm VSATTP đối với:
- Quá trình sản xuất từ nuôi trồng, khai thác, thu hái, sản xuất, giết mổ,
sơ chế, bảo quản, vận chuyển nông sản thực phẩm cho đến khi đa ra lu thông
trên thị trờng
- Sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc động vật ở dạng tơi sống và sơ chế
lu thông trên thị trờng,
- Nông sản thực phẩm xuất khẩu và nhập khẩu;
Quản lý VSATTP đối với thực phẩm có nguồn gốc động vật và sơ chế lu
thông trên thị trờng, xuất khẩu và nhập khẩu;
Quy định cụ thể về điều kiện VSAT đối với cơ sở sản xuất kinh doanh
thực phẩm có nguồn gốc tơi sống và sơ chế;
Xây dựng và tổ chức thực hiện thông tin, tuyên truyền, phổ biến các văn
bản quy phạm pháp luật, kiến thức pháp luật; nghiên cứu khoa học, công
nghệ, đào tạo, bồi dỡng nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế về VSATTP đối với
thực phẩm có nguồn gốc động vật;
Tổ chức thực hiện kiểm soát ô nhiễm vi sinh vật tồn d hoá chất độc hại
đối với thực phẩm;

8


2.2. Trách nhiệm trong viêc phòng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm và bệnh
truyền qua thực phẩm

2.2.1 Bộ y tế có trách nhiệm
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa, khắc phục ngộ
độc thực phẩm; điều tra xác định cơ sở nguyên nhân, bữa ăn nguyên nhân,
thức ăn nguyên nhân và căn nguyên;

Triển khai các biện pháo phồng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm và
các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm;
tổ chức chỉ đạo việc xử lý, điều trị ngộ độc thực phẩm và các bệnh dịch
truyền qua thực phẩm;
Hớng dẫn và chỉ đạo thực hiên việc phân tích nguy cỏ ô nhiễm thực
phẩm; điều tra, khảo sát và lu trữ các ssố liệu về công tác phòng ngừa, khắc
phục ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm;
Công bố nguy cơ benẹh dịch có thể truyền qua thực phẩm;
Hớng dẫn và chỉ đạo thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức và
thực hành về phòng ngừa ngộ độc thực phẩm cho ngời sản xuất kinh doanh và
ngời tiêu dùng;
Quy định chế độ báo cáo về công tác phòng ngừa, khắc phục ngộ độc
thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm;
2.2.2 Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ biến kiến
thức và thực hành về phòng ngừa ngộ độc thực phẩm cho ngời sản xuất kinh
doanh thực phẩm ở dạng tơi sống, sơ chế;
Tổ chức quản lý và chỉ đạo thực hiện tốt quy trình sản xuất để bảo đảm
VSATTP đối với thực phẩm trớc khi đa ra lu thông trên thị trờng;
Công bố dịch bệnh động vật để phối hợp liên ngành, tổ chức kiểm soát
dịch bệnh trong phạm vi đợc phân công;
Quản lý và chỉ đạo việc sản xuất để đảm bảo vệ sinh an toàn đối với:
-Nông sản thực phẩm từ nuôi trồng, khai thác, thu hái, sản xuất, giết
mổ, sơ chế,bảo quản, vận chuyển trớc khi lu thông ra thị trờng;
Nông sản thực phẩm nhập khẩu, xuất khẩu;
Phối hợp với Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan trong việc xác định
nguyên nhân xảy ra ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm khi
xảy ra ngộ độc thực phẩm;
Khi xảy ra ngộ độc thực phẩm có trách nhiệm phối hợp với uỷ ban nhân
dân các cấp,Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan để khắc phục và giải quyết hậu

quả.
2.3 Trách nhiệm trong việc phối hợp kiểm tra thanh tra và xử lý các vi phạm trong
việc thực hiện các quy định về VSATTP

2.3.1 Bộ Y tế có trách nhiệm

9


Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra về VSATTP trên phạm
vi toàn quốc và xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật;
Chủ trì thẩm định,kiểm tra các cơ sở chế biến thực phẩm có nguy cơ
cao;
Chủ trì xử lý,thu hồi,xác định nguồn gốc đối với nông sản thực phẩm
không đảm bảo VSATTP lu thông trên thị trờng;
Thực hiện thanh tra,kiểm tra,xử lý các vi phạm pháp luật về VSATTP.
2.3.2 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm
Tổ chức chỉ đạo việc thanh tra, kiểm tra về vệ sinh an toàn nông sản
thực phẩm và xử lý các vi phạm đối với nông sản thực phẩm trong phạm vi đợc phân công;
Thanh tra,kiểm tra về vệ sinh an toàn đối với nông sản thực phẩm trong
quá trình trồng trọt,chăn nuôi, khai thác, thu hái, giết mổ ở dạng tơi sống, sơ
chế, bảo quản, vận chuyển, lu thông ra thị trờng và xuất khẩu;
Thanh tra kiểm tra việc xử lý thực phẩm nguyên liệu không bảo đảm
tiêu chuẩn VSATTP cha qua kiểm dịch thú y đã đa vào lu thông, sử dụng trong
chế biến thực phẩm;
Phối hợp với Bộ Y tế thanh tra,kiểm tra việc xử lý thu hồi truy xuất
nguồn gốc các sản phẩm nông sản thực phẩm, thực phẩm có nguồn gốc động
vật bị nhiễm các tác nhân vi sinh vật gây bệnh dịch.

10



Chơng2:Thực trạng của các cơ quan quản lý
nhà nớc về chất lợng VSATTP

I.Thực trạng về VSATTP ở Việt Nam hiện nay
1.Sự bất ổn trong tâm lý ngời tiêu dùng về ATVSTP trên thị trờng
hiện nay
Trong nền kinh tế thị trờng đầy biến động hàng hoá đa dạng phong phú ở tất cả
các lĩnh vực tạo cho ngời tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây
là các sản phẩm dịch vụ có đảm bảo vệ sinh an toàn cho ngời tiêu dùng không?VSATTP
đang là một trong những mối quan tâm chung của toàn xã hội. Tuy đợc các cơ quan chức
năng lên tiếng báo động nhng tình trạng này vẫn kéo dài và ngày càng trở lên cấp thiết.
Việc vi phạm các quy định về VSATTP trong thời gian qua diễn ra ở khắp mọi nơi mọi
lĩnh vực gây tâm lý hoang mang ảnh hởng rất lớn tới sức khoẻ con ngời.
Nớc ta là một đất nớc với nền kinh tế mang đặc trng của kinh tế nông nghiệp
trong đó phần lớn các sản phẩm đợc sản xuất, chế biến từ nông-thuỷ sản với công nghiệp
lạc hậu và việc tổ chức quản lý vẫn cha chặt chẽ, thiếu sự liên kết giữa nhà cung cấp
nguyên vật liệu với nhà sản xuất-chế biến và nhà phân phối sản phẩm. Chính vì vậy
việc quản lý kiểm soát VSATTP chỉ dừng lại ở từng khâu từng quá trình riêng lẻ thậm
chí còn chồng chéo giữa các ngành quản lý với nhau.
Hậu quả rõ nét nhất của vi phạm VSATTP là tình trạng ngộ độc thực phẩm. Số vụ
ngộ độc thực phẩm tăng đều qua các năm và trở thành con số đáng báo động. Năm 2003
cả nớc có 514 vụ ngộ độc với tổng số 4173 ngời bị nhiễm. Đến năm 2004 có 503 vụ với
5724 ngời bị nhiễm độc. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2006 có tới 19.636 cơ sở sản xuất
chế biến,kinh doanh thực phẩm vi phạm các quy định về VSATTP.Cả nớc đã xảy ra 22
vụ ngộ độc thực phẩm với 534 ngời bị ngộ độc(14 ngời chết). So với năm 2005 (có 144 vụ
ngộ độc thực phẩm với tổng số 4300 ngời trong đó có 53 ngời bị tử vong), tình hình ngộ
độc thực phẩm xảy ra trong tháng hành động năm 2006 tăng cao hơn. Tổng số ngời ngộ
độc từ ngày 1\1\2007 đến nay đã ở mức báo động 3140 ngời, 25 ngời bị tử vong.So với

cùng kỳ năm 2006, số vụ ngộ độc thực phẩm tăng 22,4%, số mắc tăng 6,1% và số chết
giảm 48%.

11


600
500
400
300
200
100
0
2003

2004

2005 2006

Biu s v ng c

Những con số trên là những dữ liệu đợc thống kê trên thực tế còn nhiều vụ ngộ độc
thực phẩm không đợc thống kê. Các vụ ngộ độc xảy ra thờng khó xác định nguyên nhân
cho nên không thể phòng ngừa để những vấn đề ngộ độc ấy không còn tái diễn. Các vụ
ngộ độc trong năm qua phần lớn ở các khu chế xuất. Hầu hết các công ty này đều khoán
cả cho các dịch vụ nấu thuê mà không quan tâm đến chất lợng vệ sinh thực phẩm có
đảm bảo an toàn hay không. Trong khi đó việc thực phẩm nhiễm bẩn xảy ra trong suốt
quá trình hình thành sản phẩm từ đầu vào là nguyên vật liệu đến quá trình chế biến
và thậm chí cả trong quá trình phân phối đến tay ngời tiêu dùng. Mặt khác nguồn gốc
nhiễm bẩn có thể ở dạng vật lý(vật thể rắn),dạng hoá học(thuốc trừ sâu, kim loại nặng,

phẩm màu...) và vi khuẩn, vi trùng gây bệnh dều có ở khắp mọi nơi. Tình trạng ô
nhiễm thức ăn đờng phố đã gây ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm. Tại chợ ở TP Hồ Chí
minh tình trạng ô nhiễm vi sinh vật trong một số thực phẩm ăn liền bán tại các chợ là rất
phổ biến. Gần 90% mẫu nớc giải khát bán lẻ không đảm bảo tiêu chuẩn. Mì sợi, chả lục
tại đây bị sử dụng hàn the chiếm tới 87-100%. Thị trờng Hà Nội thì đa số các món lòng
lợn luộc, rau sống, nem chua, nem chạo bị nhiễm vi khuẩn hiếm khí ở mức cao.
Trong sản xuất lơng thực, rau quả hiện tợng tồn đọng d lợng hoá chất độc hại, thuốc
bảo vệ thực vật vẫn nằm ở mức cao và phổ biến. Thật đáng sợ nếu nh theo thói quen ăn
uống thông thờng thì đâu biết đợc thực phẩm mua về có hoá chất ngời tiêu dùng không
thể kiểm nghiệm đợc điều này. Hoá chất độc hại có thể sẽ gây kích ứng tới cơ thể
con ngời ngay lập tức tạo nên hiện tợng ngộ độc nhng cũng có khi nó vẫn tiềm ẩn trong
cơ thể tích tụ dần đến mấy năm thậm chí hàng chục năm mới phát hiện ra bệnh. Theo
cục quản lý chất lợng VSATTP(Bộ Y tế), việc sử dụng hoá chất bảo quản độc hại nh
phẩm màu, peroxit...còn ở mức cao. Có tới 25,4% lợng hoa quả lu thông trên thị trờng bị
nhiễm các hoá chất bảo quản độc hại vợt quá tiêu chuẩn cho phép đặc biệt là hoa quả
12


nhập từ Trung Quốc. Tại Nam Định, mấy tháng đầu năm đã phát hiện 5/12 mẫu nho,
6/12 mẫu quýt, 9/13 mẫu táo Trung Quốc, 8/13 mẫu lê Trung Quốc có hoá chất bảo vệ
thực vật. Hơn thế nữa ngời tiêu dùng không thể phân biệt đợc đâu là hàng thật đâu là
hàng giả đâu là hàng nông sản Việt Nam với hàng Trung Quốc nhập lậu. Đến chợ Long
Biên(Hà Nội) ngời ta không thấy khó khăn gì để tìm những hoa quả gian mác Tây nh
nho Mỹ, xoài Oxtraylia, me Thái...nhng có ai biết đây đúng là hoa quả nhâp ngoại
không? Còn rau xanh thì sao? Rau là món ăn thờng xuyên và không thể thiếu trong các
bữa ăn.Nhng có cơ sở nào đảm bảo rau sạch không có hoá chất? Theo kết quả điều tra
thực trạng d lợng thuốc bảo vệ thực vật rau quả trong thời gian gần đây của Cục bảo vệ
thực vật, số mẫu rau, quả tơi có d lợng thuốc bảo vệ thực vật ảnh hởng tới sức khoẻ con ngời chiếm 30-60%. Số mẫu rau kiểm tra ở Hà Nội và Hà Tây có hàm lợng asen cao hơn
giới hạn cho phép chiếm 22-23%. 100% mẫu đậu ở Hà Nội và Hà Tây, 66,6%mẫu rau
cải tại TP HCM và Đồng Nai có d lợng vợt giới hạn tối đa cho phép. Một số thuốc bảo vệ

thực vật bị cấm sử dụng nh Methamidophos vẫn còn d lợng trong rau. Với những hàng rau
bầy bán đầy rẫy ngoài chợ với những ngọn rau tơi xanh mũn mĩm nhìn thì ngon. Nhng
ngời ta đâu biết nó đợc nuôi trồng ra sao?Nhìn những cọng rau muống tơi ngon hẳn ngời tiêu dùng chẳng thể nào biết rằng chúng đợc trồng và thu hoạch bằng công nghệ siêu
tốc. Những hộ trồng rau đã rút ngắn tối đa thời gian thu hoạch để kiếm lời một cách
nhanh chóng. Bình thờng, để thu hoạch một lứa rau phải đợi ít nhất một tuần nhng ở
đây cứ 2 ngày cắt một lần. Những cây rau cắt sát gốc chỉ cần tới nửa kilogam thuốc
tăng trởng là chỉ sau 1 đêm đã dài cả tấc.
Thực phẩm ngoài chợ đã vậy nhng cả hàng trong siêu thị cũng không kém gì. Lâu
nay, khi nói đến hàng hoá siêu thị, ngời ta luôn nghĩ rằng nơi đây đảm bảo về chất lợng.Thế nhng, qua kiểm định của các cơ quan chức năng tại Hà Nội và TP HCM, đã phát
hiện ra nhiều kết quả bất ngờ: các mẫu nớc tơng lấy từ các siêu thị có tỷ lệ chất3MCPD khá cao:8/20 mẫu có chứa 3-MCPD(loại chất có thể gây ung th) vợt mức cho
phép;Các món giò lụa, giò lỡi, da chua, nem chua, bồn bồn, rau chuối xanh...đều có chứa
hàn the(ăn nhiều có thể bị ngộ độc mãn tính) và chất formol(là loại hoá chất độc hại
gây ung th)-từ năm 1951 Hội đồng Tiêu chuẩn Thực phẩm(FSC)đã cấm sử dụng chất
này nhng ở Việt Nam, nửa thế kỷ qua, nhà sản xuất vẫn ngang nhiên pha trộn nó vào
thức ăn để giữ độ lâu bền cho sản phẩm mà quên đi nguy cơ độc hại cho ngời tiêu
dùng. Thực chất nếu không kiểm tra thì chắc không ai biết có điều này xảy ra. Không
những thế sau khi bị phát hiện thì ngay lập tức tất cả những loại hàng đó và những
mặt hàng của cơ sở khác cung ngành cung bị dỡ bỏ mà cha kiểm nghiệm để biết loại
sản phẩm đó có vi phạm không. Nh là vụ nớc tơng của một số doanh nghiệp sản xuất khi
phát hiện ra chất 3-MCPD có quá nhiều so với quy định cho phép có trong thành phần
của sản phẩm thì ngay lập tức tất cả các loại nớc tơng hay xì dầu đều bị dỡ khỏi quầy
trng bày kể cả sản phẩm không vi phạm trả lại nhà cung cấp. Điều này gây hiểu lầm
cho ngời tiêu dùngchắc phải vi phạm nên siêu thị mới không bán nữa
Trong hoạt động chế biến, giết mổ gia súc gia cầm thì VSATTP cũng đang ở
trong tình trạng rất đáng ngại. Phần lớn các cơ sở giết mổ động vật không đáp ứng đ ợc
yêu cầu vệ sinh. Theo cục thú y, phần lớn các cơ sở giết mổ động vật không đáp ứng yêu
13


cầu vệ sinh, cơ quan thú y chỉ kiểm soát đợc dới 50% thịt lu thông trên thị trờng. Một số

thành phố lớn nh Hà Nội có tới 300 điểm giết mổ gia súc,trong đó chỉ có 7 điểm đợc
cấp giấy phép và chịu sự giám sát thờng xuyên, còn lại là các điểm giết mổ giải rác,
không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nớc. Chính vì vậy số lợng thịt đem bán
trên thị trờng khó có thể xác định có đợc kiểm nghiệm. ở lợn đã phát hiện một số bệnh
nh: nhiệt than, tụ huyết trùng, lở mồn long móng, tai xanh....Khi ngời tiêu dùng ăn phải sẽ
dễ bị nhiễm bệnh gây nguy hiểm đến sức khoẻ và tính mạng.
Trong thực tế không phải tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh đều vị phạm yêu
cầu về VSATTP. Ví dụ nh công ty Sao Việt đã áp dụng hệ thống quản lý đồng bộ
trong việc sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, từ khâu trồng trọt đến thu mua, chế biến và
phân phối. Hiện Sao Việt có thể cung cấp rau sạch tận nhà cho khách hàng là ngời tiêu
dùng ở TP HCM. Công ty đã thiết lập đợc mối quan hệ và hoạt động từ ngời trồng rau
đến ngời bán. Đồng thời việc lu trữ hồ sơ giúp công ty có thể dễ dàng truy lục hồ sơ để
xác định rõ trách nhiệm trong việc cung cấp sản phẩm rau các loại cho khách hàng. Điều
này tạo lòng tin của khách hàng về sản phẩm của công ty. Đã có một số doanh nghiệp
cung cấp thực phẩm áp dụng các phơng pháp quản lý VSATTP nh áp dụng tiêu chuẩn
HACCP(phân tích nguy cơ và thiết lập điểm kiểm soát).Đây là một tiêu chuẩn đợc
quốc tế thừa nhân rộng rãi về quản lý chất lợng ATVSTP. HACCP là một phơng pháp
quản lý nhằm giúp doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất,chế biến thực phẩm kiểm soát
đợc mọi khâu trong quá trình sản xuất từ đầu vào nguyên liệu đến đầu ra của sản
phẩm.Việc kiểm soát này nhằm tìm ra những nguy cơ có thể gây ảnh hởng đến
VSATTP trong suốt quá trình sản xuất chế biến. Từ đó giúp doanh nghiệp có thể khắc
phục phòng ngừa những nguy cơ đó.Toàn bộ việc kiểm soát này buộc phải ghi lại thành
hồ sơ để theo dõi và để xuất trình theo yêu cầu của khách hàng bao gồm các đối tác của
doanh nghiệp và khách hàng. Một ví dụ điển hình là công ty Cổ phần chế biến thực
phẩm Long Phụng đã mạnh dạn áp dung tiêu chuẩn nà trong việc sản xuất các loại giò,
chả, xúc xích, jambon để tiêu thụ ở thị trờng trong nớc...Hay Công ty Nestlé Việt NamNhà máy Ba Vì, Công ty Rợu-Nớc giải khát Thăng Long...

2.Tình trạng tràn lan của các loại hàng hoá trong và ngoài nớc

Việt Nam hiện nay đang là một thành viên của tổ chức WTO(tổ chức thơng mại

thế giới). Đây là một điều kiện rất thuận lợi để phát triển nền kinh tế trong xu thế
phát triển của thế giới. Nhờ hội nhập tạo điều kiện cho chúng ta tăng doanh thu xuất
khẩu, giảm rào cản thơng mại, tăng cờng nguồn vốn đầu t từ nớc ngoài...nhng nó cũng làm
cho ta khó có thể kiểm soát đợc hết các hoạt động diễn ra trên thị trờng. Mặt hàng thực
phẩm tràn lan khắp nơi mà cha rõ nguồn gốc không đợc kiểm định. Nhiều loại thực
phẩm đợc nhập lậu từ Trung Quốc đợc đa vào nớc ta với chất lợng rất kém ảnh hởng
đến sức khoẻ con ngời.Thực phẩm nhập lậu rất đa dạng và nhiều chủng loại, bao gồm
rất nhiều mặt hàng có nguy cơ ô nhiễm, gây ngộ độc cao. Mặt khác tình trạng nhập
lậu gia súc, gia cầm qua biên giới...hầu nh cha có biện pháp để ngăn chặn và không thể
kiểm soát đợc. VSATTP là vấn đề ảnh hởng đến quyền lợi, sức khoẻ, thậm trí là tính
mạng của ngời tiêu dùng. Cho nên nó đợc cả xã hội trú trọng. Gần đây nhất là vụ tiêu chảy
cấp đang gây xôn xao d luận. Chỉ trong một thời gian ngắn đã thành nạn dịch gây
14


nguy hiểm đến tính mạng con ngời. Dịch tiêu chảy đã xuất hiện ở Hà Nội và một số
tỉnh phía bắc. Đến tối 31/10/2007 đã có 111 ngời mắc bệnh phải nhập viện trong đó
90% số ngời bệnh này đã ăn các thực phẩm tơi sống chủ yếu mắn tôm, mắm tép. Đây
có thể coi là những món ăn truyền thống của ngời Việt Nam, đợc sử dụng thờng xuyên
không thể thiếu trong các bữa ăn mà từ trớc đến giờ vẫn ăn có sao đâu. Nguyên nhân do
đâu vẫn đang còn là một câu hỏi cha lời đáp rõ ràng.
Các nớc tiên tiến nh Nhật, Mỹ và các nớc Châu Âu quy định rằng chỉ những nớc có
đủ điều kiện vệ sinh chứng minh đợc rằng sản phẩm thực phẩm của mình hợp vệ sinh
an toàn với sức khoẻ thì mới đợc đa hàng hoá vào những nớc này. Theo hệ thống cảnh báo
và thông báo cua Châu Âu, năm 2004, trong số hàng thực phẩm Việt Nam xuất sang
Châu Âu, có 59 lô không đạt tiêu chuẩn chất lợng ( Việt Nam xếp thứ 13 trong số các nớc
bị cảnh báo), con số này là 124 và Việt Nam xếp thứ 7 trong năm 2005. Trong 6 tháng
đầu năm 2007, nhiều lô hàng nông thuỷ sản xuất khẩu bị Hoa Kỳ, Canada, Nhật, Nga,
Singapore từ chối. Những sự kiện ấy phản ánh phần nào những tồn đọng, bất cập trong
sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong khi đó đã vào WTO thì phải chấp nhận

cạnh tranh khốc liệt về chất lợng ngay cả trên sân nhà.
Một thực tế không thể phủ nhận đợc đó là ý thức của ngời tiêu dùng. Có lẽ còn rất
lâu mới đạt tiêu chuẩn nhà tiêu dùng thông thái nếu những thói quen và sự dễ dãi vẫn
còn tồn tại trong suy nghĩ của họ. Ngời ta biết đợc việc đó là rất bẩn nhng vẫn chấp
nhận. Ví dụ nh khi đi chợ một khách hàng yêu cầu xay thịt ngời bán thit vẫn cầm miếng
thịt vẫn còn dính lông chỉ cắt ra nhúng vào xô nớc nổi đầy váng mỡ và đỏ lòm rồi cho
vào máy xay. Nhìn thấy nh vậy nhng vẫn nói nh không có gì xay luôn cho tiện, nhà
mình ăn suốt, có ai bị làm sao đâu, cứ nấu sôi sùng sục là vi khuẩn chết hết. Không
những thế ở các nhà hàng cũng bẩn không kém, ngồi ngay bên xô nớc rửa bát và đợc tận
mắt chứng kiến cách làm bẩn thỉu, cẩu thả của nhà hàng, nhng vẫn làm ngơ nh không
có chuyện gì cả. Việc ngời tiêu dùng có thói quen thích hàng rẻ, thích mua hàng tơi
sống hàng ngày...cũng là một nguyên nhân gia tăng việc sử dụng các hoá chất bảo quản.

II.Những tác động tích cực và hiệu quả trong quản lý nhà nớc
về chất lợng VSATTP

Trong những năm gần đây nớc ta đã có nhiều thay đổi với một nền kinh tế phát
triển.Việc thông thơng hợp tác với các nớc trên thế giới đã làm tăng lợng hàng xuất khẩu
và nhập khẩu của chúng ta. Những mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn về GDP với
những loại hàng nông sản nh gạo (đứng thứ 2 trên thế giới), cà phê, chè....và thuỷ sản nh cá
tra, cá basa, tôm...., những hàng thủ công, mỹ nghệ nh gốm sứ, may mặc công nghiệp ....
Đồng thời cũng tăng lợng hàng nhập khẩu vào nớc ta về đủ các mặt hàng. Điều này tạo ra
sự cạnh tranh rất cao giữa hàng trong nớc và nớc ngoài, các mặt hàng trong nớc cạnh tranh
với nhau... Chính vì vậy không thể tránh khỏi tranh chấp, cạnh tranh không lành mạnh,
các tổ chức cá nhân kinh doanh vì lợi nhuận mà làm tổn hại đến con ngời và xã
hội...Cho nên cần có sự quản lý can thiệp của nhà nớc.
Trên thị trờng xuất khẩu hàng hoá đang rất gay gắt do những vụ kiện bán phá giá
về cá tra, cá basa, hàng may mặc xuất khẩu... của ta trên thị trờng Mỹ. Chúng ta phải
mất rất nhiều thời gian mới giải quyết xong. Để hạn chế tình trạng này các cơ quan nhà
15



nớc đã làm hết sức của mình để bảo vệ quyền lợi cho những mặt hàng xuất khẩu. Để
hạn chế tình trạng trên nhà nớc đã ban hành các văn bản luật và hớng dẫn thi hành đối với
các mặt hàng thạm gia xuất khẩu. Thờng xuyên kiểm tra giám sát các cơ sở sản xuất kinh
doanh giúp họ nắm bắt đợc thực trạng của tình hình hiện nay. Đồng thời hớng dẫn thực
hiện đúng quy trình sản xuất. Các cơ quan nhà nớc đóng vai trò rất quan trọng trong
việc bảo hộ quyền lợi cho những nhà xuất khẩu trong nớc.Các cơ quan quản lý nhà nớc
về VSATTP là nơi có quyền và trách nhiệm đảm bảo chất lợng ATTP trên thị trờng. Các
cơ quan này chịu trách nhiệm xây dựng, ban hành và hớng dẫn thi hành luật. Đã có
nhiều văn bản luật đợc thi hành nh Pháp lệnh về Thú y, Pháp lệnh về VSATTP, Luật
về thuỷ sản, Pháp lệnh về chất lợng hàng hoá và sắp tới đây là Luật về Chất lợng sản
phẩm hàng hoá và các nghị định hớng dẫn thi hành. Nh Cục thú y năm 2006 đã xây
dựng chơng trình Bộ ban hành 12 văn bản quy phạm pháp luật và 31 quy chuẩn kỹ thuật
có liên quan đến công tác VSATTP, kiểm soát giết mổ động vật, kiểm tra vệ sinh thú
y: quản lý và sử dụng thuốc thú y. Đã tổ chức phát hành đợc 2000 cuồn tài liệu tập hợp các
văn bản QPPL và quy chuẩn kỹ thuật liên quan tạo thành hành lang pháp lý trong công tác
quản lý nhà nớc và đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập; Tập huấn cho các đơn vị
trực thuộc Cục thú y và Chi cục thú y các tỉnh về hiệp định SPS, hội nhập kinh tế quốc
tế và các yêu cầu vệ sinh thú y trong buôn bán động vật, sản phẩm động vật; Tăng c ờng
hợp tác với các nớc về công tác thú y, ký kết hiệp định thoả thuận với các nớc; chỉ đạo các
đơn vị trực thuộc Cục, chi cục Thú y các tỉnh, thành phố Trung ơng phối hợp với chính
quyền các ban ngành tại địa phơng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo chơng
trình hoạt động hàng năm đối với các cơ sở giết mổ, buôn bán động vật; thanh tra và
chỉ đạo công tac kiểm dịch tại các cửa khẩu, ngăn chặn tình trạng buôn lậu; Nhà nớc
đã ban hành các văn bản luật, Thủ tớng Chính phủ đã ra Chỉ thị 08/1999/CT-TTg ngày
15/04/1999 về việc Tăng cờng công tác đảm bảo chất lợng vệ sinh an toàn thực phẩm
và Quyết định số 43/2006/QĐ-TTg ngày 20/02/2006 phê duyệt kế hoạch bảo đảm
VSATTP giai đoạn 2006 -2010. Để công tác quản lý VSATTP đợc thực hiện thống nhất,
có hiệu quả đòi hỏi sự lỗ lực của các cơ quan có trách nhiệm và toàn xã hội. Hiện nay,

hành lang pháp lý về VSATTP ở nớc ta cơ bản đã đợc thiết lập và củng cố; công tác phối
hợp liên ngành đợc tăng cờng và ngày càng có hiệu quả. Công tác giáo dục truyền thông
đợc đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo
của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và ngời tiêu dùng. Đó là những bớc tiến quan
trọng trong công tác đảm bảo VSATTP ở nớc ta.
Các cơ quan , đơn vị có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kiểm dịch.
Thờng xuyên kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh với những biện pháp chế tài hợp lý.
Chỉ đạo phối hợp với các đơn vị tổ chức kiểm tra, giám sát chất lợng một số chủng loại
thuốc thú y đang lu hành trên thị trờng; giám sát các chất tồn d trong thực phẩm nh trong
thịt, trứng, sữa, mật ong( kháng sinh, kim loại nặng, hoóc- môn, sudan) hay trong hoa
quả....Các cơ quan đã cử ngời đi học tâp công tác ở nớc ngoài nh Cục thú y năm 2006 đã
cử 112 lợt ngời đi học tập/ công tác ở nớc ngoài về phòng chống dịch bệnh, kiểm soát
giết mổ gia súc, gia cầm và VSATTP; Phối hợp với tổ chức FAO, WB và các địa phơng
tổ chức 1 lớp huấn luyện về kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y
16


động vật, sản phẩm động vật cho 883 học viên tại 18 Chi cục Thú y các tỉnh, thành phố;

III.Những tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nớc về chất lợng VSATTP

Hiện nay bộ máy hoạt động trong các cơ quan quản lý nhà nớc của chúng ta còn rất
nhiều bất cập nhiều vấn đề cần giải quyết.

1.Hệ thống bộ máy quản lý nhà nớc về VSATTP còn yếu, phân tán
và thiếu sự đồng bộ.

Thực tế hiện nay có khá nhiều bộ, ngành tham gia quản lý VSATTP nhng sự phối
hợp còn thiếu đồng bộ, không có đơn vị chuyên trách thực hiện việc quản lý VSATTP
nên hoạt động không hiệu quả. Theo quy định hiện hành, Bộ Y tế chịu trách nhiệm trớc

Chính phủ quản lý nhà nớc về Chất lợng VSATTP trong khâu lu thông nhng đội ngũ cán
bộ còn quá mỏng, lại thiếu những phơng tiện hoạt động cần thiết, cha có cơ quan chuyên
trách quản lý VSATTP. Việc đánh giá,cảnh báo nguy cơ và kiểm soát nguy cơ gây ô
nhiễm thực phẩm hiện còn cha đợc thờng xuyên.
Sự chồng chéo trong việc phân công trách nhiệm quản lý. Đây là vấn đề gây
tranh cãi và bức xúc trong hoạt động của hệ thống các cơ quan chức năng có trách nhiệm
trong vấn đề VSATTP. Có ngời đã phát biểu rằng việc đăng ký của các cơ sở kinh
doanh này là đúng theo các quy định hiện hành. Còn những sai phạm của họ thì...không
thuộc quyền quản lý của chúng tôi. Quản lý thông tin quảng cáo là trách nhiệm của Bộ
Văn hoá Thông tin. Đến nay trách nhiệm thuộc về cơ quan nào vẫn cha rõ ràng và còn
chồng chéo. D luận rất bất bình về việc các cơ quan chức năng ngành Y tế không thừa
nhận yếu kém trong khâu quản lý. Cụ thể là trách nhiệm của thanh tra Sở Y tế
TPHCM đã xem nhẹ với những lập luận những lý do thiếu quyết đoán. Còn lãnh đạo
Thanh tra Bộ Y tế và Cục ATVSTP cũng nhân lúc đó đổ hết mọi tội lỗi cho Sở Y tế
TPHCM. Trong khi ngời tiêu dùng đang cần những thông tin chính xác và nhanh chóng
thì các cơ quan từ chối với lý do tất cả các kết quả đều đợc chúng tôi báo cáo với cục
ATVSTP. Cục mới là cơ quan chức năng đủ thẩm quyền công bố... Tuy nhiên ông Cục
trởng Cục ATVSTP lại cho biết rằng, cục chỉ nhận đợc thông tin nớc tơng chứa chất 3MCPD vợt tiêu chuẩn cho phép thông qua báo chí. Ngoài ra, ông Chánh thanh tra Bộ Y
tế cũng cho rằng, cơ quan này đã 2 lần gửi công văn yêu cầu Thanh tra sở Y tế TPHCM
công bố kết quả đợt thanh tra nớc tơng vào quý I/2007 nhng cũng không nhận đợc hồi
âm. Nhng sự việc không chỉ dừng lại ở đó mà sau khi cục ATVSTP nhân đợc báo cào
kết quả kiểm nghiệm cũng không công bố cho ngời tiêu dùng biết mà lại là trách nhiệm
của Sở Y tế TPHCM. điều này làm ngời ta nghi ngờ không hiểu vậy thì trách nhiệm
của Cục ATVSTP là gì?

2.Cha quan tâm đến việc đầu t xây dựng các cơ sở giết mổ gia súc gia
cầm tập trung,chế biến thực phẩm theo phơng pháp công nghiệp, đảm
bảo chất lợng VSATTP

Tình trạng chung hiện nay là việc giết mổ gia súc, gia cầm rất phân tán và cha

đợc kiểm soát chặt chẽ. Ngay ở thành phố lớn TP.HCM, đến tháng 4/2004 mới có
VISSAN là cơ sở giết mổ gia súc theo phơng pháp công nghiệp đợc xây dựng từ những
năm 70 của thế kỷ 20, mới cung chỉ cung cấp đợc 20-30% nhu cầu thực phẩm gia súc
17


chế biến đảm bảo chất lợng VSATTP của thị trờng. Hệ thống labo kiểm nghiệm so với
yêu cầu quá ít. Hiện nay mới có 16 labo trong tổng số 64 tỉnh, thành có máy sắc ký
lỏng. Năng lực xét nghiệm các chỉ tiêu về hoá chất, kháng sinh, hoóc-môn, độc tố...còn
rất hạn chế.
Trên thực tế, các kháng sinh tồn d trên thịt tơi vẫn rất cao, từ khâu giết mổ gia súc
đến khâu bảo quản, vận chuyển và phân phối kinh doanh cũng làm mỗi nơi một kiểu.
Hiện nay ngời ta còn phát hiện ra trong thịt lợn còn có chứa chất muốn diêm đây là
loại hoá chất gốc Nitric- NO2 và Nitrat- NO3 làm cho thịt luôn có màu tơi đỏ dù có để
từ ngày hôm trớc đến hôm sau. Chất này còn đợc sử dụng trong nghề bóc vỏ tỏi rất
nhanh chóng. Tỏi chỉ cần ngâm muối diêm 15 phút, lấy chân đạp cho bong vỏ sau đó
vớt ra và gọt đầu thế là xong. Nhng loại tỏi này chỉ cần để một thời gian ngắn sẽ bị
ngả sang màu vàng và bốc mùi nồng nặc.
Nhiều chi cục đã buông lỏng công tác quản lý kiểm dịch vận chuyển, cấp giấy
chứng nhận kiểm dịch sai quy định; Hệ thống trạm, chốt kiểm dịch đầu mối giao
thông trang thiết bị nghèo nàn, nhiều nơi không có trụ sở làm việc, hoạt động kém
hiệu quả, chủ yếu chỉ kiểm tra trên giấy tờ. Bộ Y tế vẫn cha có những văn bản cụ thể
quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật về việc xây dựng các cơ sở giết mổ chuyên dùng. Đến
nay, Pháp lệnh vè VSATTP (có hiệu lực từ tháng 11/2003) là văn bản pháp lý cao nhất về
quản lý trong lĩnh vực này.

3.Các văn bản, quy định phục vụ cho công tác quản lý nhà nớc ban
hành chậm, thiếu đồng bộ, nhiều quy định đã lạc hậu, đặc biệt là các văn
bản kỹ thuật.


Thực tế đòi hỏi phải có vài ngàn tiêu chuẩn về thực phẩm, song đến nay chỉ mới
ban hành đợc 717 tiêu chuẩn Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bất cập
trong việc thanh tra, kiểm soát thực phẩm trên thị trờng. Pháp lệnh VSATTP có hiệu lực
từ tháng 11/2003 nhng đến nay vẫn cha có nghị định hớng dẫn thi hành. Vấn đề
VSATTP liên quan mật thiết tới nhiều ngành sản xuất nhng khi ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, các Bộ, ngành cha quan tâm thích đáng đến vấn đề này, cha có sự
thống nhất chung về yêu cầu VSATTP đối với các sản phẩm thực phẩm. Bên cạnh đó,
việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về VSATTP còn chậm, một số tiêu chuẩn về
VSATTP không còn phù hợp với phơng thức quản lý thực phẩm hiện nay. Theo đánh gía
của uỷ ban KH, CN&MT của Quốc hội, phần lớn các tiêu chuẩn không đáp ứng đợc yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế (mức độ tơng thích của tiêu chuẩn VSATTP Việt Nam với
tiêu chuẩn quốc tế hiện nay ở mức 32,2%).
Mặc dù bộ Y tế- Ban chỉ đạo liên ngành đã có công văn gửi tất cả các địa phơng
trong cả nớc cũng nh các bộ ngành liên quan đề nghị đánh giá kế hoạch thực hiện chơng
trình hành đông quốc gia đến năm 2010 của Chính phủ, nhng đến cuối tháng 7/2007
mới chỉ có 30/64 tỉnh, thành phố và 8/13 bộ, ngành gửi báo cáo về bộ Y tế. Có thể thấy
rằng, ngay cả các cấp chính quyền vẫn còn thái độ thờ ơ, vô cảm với vấn đề có ảnh hởng trực tiếp đến sức khoẻ và đời sống của ngời đan nh thế thì việc chỉ có gần 38%
ngời sản xuất; 42,5% ngời kinh doanh thực phẩm và gần 40% ngời tiêu dùng có hiểu biết
và thực hành đúng về VSATTP.
18


Hiện nay việc bộ luật về VSATTP vẫn còn nhiều bất cập. Thực phẩm bị phát
hiện chứa hàn the nhng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đợc chỉ có thể xử lý
bằng hình thức thiêu huỷ bởi vì luật pháp nớc ta quy định việc vi phạm phải đợc chứng
minh là gây hậu quả nghiêm trọng trong khi đó phải 20 năm sau khi ăn, ngời tiêu dùng mới
bị hàn the gây tác động lúc đó thì lấy đâu ra chứng cứ để truy tố nữa.
Thiếu cơ sở pháp lý để thanh tra xử lý các đơn vị vi phạm là ý kiến chung của
nhiều nhà quản lý. ví dụ nh trong năm 2003 trên địa bàn TP.HCM đã xảy ra 22 vụ ngộ
độc trong đó có đến 17 vụ ngộ độc tập thể với hơn 1000 lợt ngời bị ngộ độc. Nguyên

nhân chính là do sử dụng thực phẩm không đảm bảo VSATTP. Trớc tình hình trên sở Y
tế đã tiến hành thanh tra và đã xử phạt vi phạm với hơn 200 triệu đồng. Tuy nhiên khi
phát hiện vi phạm lại thiếu quy chế xử phạt. Điều này khiến cho việc xử phạt rất lúng
túng

4. Công tác thanh tra, kiểm tra cha đợc thực hiện thờng xuyên hiệu
quả còn thấp.

Hiện nay cả nớc có hơn 200 thanh tra viên thuộc ngành y tế, thanh tra cả về
VSATTP. Chế tài xử phạt vi phạm còn thiếu cụ thể hoặc quá nhẹ, không đủ sức răn đe.
Có thể nói, công tác thanh tra về VSATTP cha đáp ứng đợc yêu cầu quản lý nhà nớc về
VSATTP. Do nguồn thanh tra chuyên ngành quá mỏng nh hiện nay không đủ nguồn lực
để kiểm tra và giám sát. Số cán bộ chuyên trách cấp của ngành y tế cấp tỉnh, thành về
vấn đề này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cấp quận huyện thì kiêm nhiệm, phờng xã
thì hầu nh không có kinh nghiệm. Do vậy mà hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm chỉ
thực hiện từng đợt. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý thờng chỉ bắt tay vào cuộc,
thanh tra và kiểm tra sau khi sự việc đợc báo chí phanh phui. Ví dụ nh năm 2003, Báo
Gia đình và Xã hội có bài điều tra về lợn chết do dịch bệnh, đã đợc chôn nhng một số
ngời ham lợi vẫn lén lút đào bới, chế biến thành patê, thịt lợn quay. Khi báo chí phất
hiện thì các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh mới xử lý. Hay khi báo Lao Động phản
ánh tình trạng sữa, bột dinh dỡng không rõ nguồn gốc và nhà sản xuất bán tràn lan tại một
số điểm ở Hà Nội. Sau đó sở Y tế Hà Nội và các cơ quan chức năng mới vào cuộc. Gần
đây nhất là tình trạng nớc tơng có chứa chất 3-MCPD một loại chất hoá học gây ung th
có chứa rất nhiều trong nớc tơng. Điều này đã làm ngời tiêu dùng vô cùng hoang mang, lo
ngại. Nó đã gây xôn xao d luận trong thời gian dài. Việc phát hiện chất 3-MCPD có
trong nớc tơng đã đợc tiến hành kiểm tra từ cuối năm 2001 nhng các cơ quan có chức năng
vẫn ém nhẹm vụ này và đến thời gian gần đây mới tiến hành công bố vì bị d luận
lên án quá gay gắt. Một đặc điểm tình hình hiện nay là cứ Bộ nào đ ợc giao quản lý
ngành là có xu hớng phải thành lập phòng kiểm nghiệm riêng, vừa tốn kém, vừa khó
tránh khỏi trùng lắp, vừa khó có đủ kinh phí để trang bị thật hoàn chỉnh, đáp ứng đợc

mọi yêu cầu kiểm nghiệm sẽ rất đa dạng và khắc nghiệt trong thời gian sắp tới. Việc
kiểm tra chất lợng hàng hoá vẫn gặp nhiều hạn chế do số phòng thử nghiệm có trình
độ và kinh nghiệm còn ít và việc moẻ rộng hoạt động kiểm nghiệm đánh giá, chứng
nhận chất lợng sản phẩm hàng hoá cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nớc cha đợc thật
phổ biến.

5. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và
19


ý thức chấp hành pháp luật về VSATTP còn hạn chế.
Mặc dù các cơ quan quản lý nhà nớc và các phơng tiện thông tin đại chúng đã trú
trọng tới việc thông tin, tuyên truyền về VSATTP nhng cha thờng xuyên, chỉ đợc đẩy
mạnh trong Tháng hành động vì chất lợng VSATTP. Các cơ quan chức năng cũng cha
thờng xuyên cung cấp các thông tin cảnh báo về các mối nguy hại do sử dụng thực phẩm
không đảm bảo chất lợng cũng nh các thực phẩm, chất phụ gia, chất bảo quản,...bị cấm
và hạn chế sử dụng để bảo vệ sức khoẻ ngời tiêu dùng. Thêm nữa, những ngời tiêu dùng
cũng cha nhận thức đúng hoặc có thái độ làm ngơ trớc những hành vi vi phạm VSATTP.
Một nghiên cứu đánh giá về nhận thức và thực hành VSATTP của các nhóm đối tợng
trong một số làng nghề sản xuất thực phẩm truyền thống cho thấy, ở nhóm ngời quản lý:
chỉ có 55,6% số ngời đợc phỏng vấn hiểu đợc về ngộ độc thực phẩm: 77,8% số ngời
hiểu đợc tác nhân gây ô nhiễm thực phẩm: hơn 90% số ngời không nhớ đợc một văn bản
quy phạm pháp luật về VSATTP. ở nhóm ngời sản xuất, kinh doanh thực phẩm: có 82,4%
số ngời cha đợc qua tập huấn về VSATTP; còn 25-85% số ngời thực hiện không đúng
các quy định VSATTP trong kinh doanh chế biến thực phẩm. Một nghiên cứu khác đánh
giá về hiểu biết của cong nhân sản xuất nớc giải khát ở Hà Nội cho thấy: năm 2000
có26.2% số công nhân biết về danh mục các chất phụ gia quy định trong chế biến thực
phẩm; đến năm 2004, tỷ lệ này là 32,7%; chỉ có 39,7% số công nhân đợc đánh giá đạt
về kiến thức VSATTP


20


Chơng III: Giải pháp cải thiện hoạt động quản
lý nhà nớc về chất lợng VSATTP

Từ những thực trạng trên cho thấy có nhiều vấn đề cấp thiết cần cải thiện
hoạt động quản lý nhà nớc về chất lợng VSATTP
1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nớc về VSATTP
Điều đầu tiên có lẽ phải là giải pháp về vấn đề hệ thống luật pháp về VSATTP ,
cần phải có những chế tài chặt chẽ, tiếp đó là xây dựng luật hoàn chỉnh. Dựa trên bộ
khung pháp luật đó mới có khả năng quản lý. Tuy nhiên việc quản lý không đồng nghĩa
với việc kiểm soát đợc hoàn toàn. Phối hợp với các bộ ngành liên quan tiếp tục hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật phục vụ công tác ATVSTP;
đẩy mạnh một bớc công tác tuyên truyền cho ngời trực tiếp sản xuất hiểu biết và thực
hành theo các quy chuẩn VSATTP.
Đối với các cơ sở giết mổ gia súc gia cầm cần sự phối hợp với các sở Nông nghiệp
thực hiện chỉ thị 30/2006- TTg của Thủ tớng Chính phủ, trong năm 2007, 100% các
tỉnh thành phố có quy hoạch hệ thống giết mổ; trên 70% số gia súc, gia cầm đợc kiểm
soát giết mổ trớc khi đa ra thị trờgn tiêu thụ. Phối hợp với các tổ chức triển khai thực hiện
dự án kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm chất tồn d trong nông sản thực phẩm đến 2010 và dự
án về VSATTP do Chính phủ Canada tài trợ; kiểm tra chất lợng một số chủng loại thuốc
thú y đang đợc tiêu thụ trên thị trờng; Hoàn thành kế hoạch giám sát chất lợng mật ong
xuất sang EC; Tăng cờng tài lực và nhân lực cho các trung tâm để phân tích các chất
tồn d, vi sinh vật trong sản phẩm động vật đảm bảo đựơc các yêu cầu xuất nhập khẩu
và tiêu dùng trong nớc. Tăng cờng hợp tác với các Bộ, Ngành trong việc ngăn chặn, kiểm
soát buôn lậu thịt, trứng, sữa qua biên giới; Thực hiện theo kế hoạch hành động của Ban
chỉ đạo Quốc gia ATVSTP;

Tăng cờng công tác đào tạo huấn luyện về VSATTP cho các cán bộ công

chức thực hiện công tác quản lý nhà nớc. Do đội ngũ cán bộ có hiểu biết về
vấn đề này còn thiếu và yếu nên nhà nớc phải có những chính sách khuyến
khích trợ cấp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn để họ có khả năng đáp ứng
đợc những yêu cầu ngày càng cao của thị trờng. Nhanh chóng phát triển và
kiện toàn hệ thống quản lý nhà nớc về VSATTP, nhất là hệ thống thanh tra
chuyên ngành về VSATTP. Thờng xuyên huấn luyện về VSATTP cho các cơ
sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, đặc biệt đối với các cơ sở thực
phẩm quy mô nhỏ, do quận huyện phờng xã quản lý. Chú ý giáo dục ý thức
chấp hành đúng các quy định pháp luật liên quan đến VSATTP
Thực hiện đúng các quy định của Bộ Y tế trong việc sản xuất, chế biến,
kinh doanh thực phẩm, dặc biệt là các quy định về VSATTP trong sản xuất rau
quả, chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm, thuỷ hải sản; quản lý chặt chẽ việc
kinh doanh hoá chất phụ gia thực phẩm trên nguyên tắc hoá chất phụ gia thực
phẩm chỉ đợc bán trong các cửa hàng thực phẩm; sắp xếp lại các khu vực kinh
doanh thực phẩm trong các chợ; thờng xuyên kiểm tra thanh tra, xử lý việc
chế biến thực phẩm ăn ngay tại khu công nghiệp và khu chế xuất, các trờng
học, các chợ, siêu thị, các khu du lịch, các nhà hàng, khách sạn, bếp ăn tập thể
và dịch vụ thức ăn đờng phố
Tăng cờng các biện pháp kiểm tra thanh tra, xử lý thật nghiêm các vi
21


phậm pháp luật; quy định rõ trách nhiệm của ngời đứng đầu các đơn vị khi để
xảy ra ngộ độc trong đơn vị mình. Trờng hợp để xảy ra hậu quả nghiêm trọng,
tái diễn do buông lỏng quản lý, không tuân thủ pháp luật thì phải xử lý kỷ luật
nghiêm khắc hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
Tăng cờng đầu t ngân sách, nhân lực và trang thiết bị để đáp ứng đợc yêu
cầu cơ bản kiểm soát VSATTP
Cần tăng cờng hơn nữa công tác giáo dục về VSATTP thờng xuyên, liên
tục. Đây là vấn đề cần đợc quan tâm trú trọng để nâng cao hiểu biết của tất cả

mọi ngời cả ngời sản xuất và ngời tiêu dùng. ở nhiều nớc Châu Âu, để đảm
bảo VSATTP, biện pháp hàng đầu của họ là giáo dục, giáo dục và giáo dục.
Giáo dục cho ngời tiêu dùng, ngay từ khi còn học trong trờng, khi lên đại học
và cả khi ra ngoài cuộc sống. Ngời tiêu dùng cũng phải thờng xuyên đợc bồi
dỡng các kiến thức về VSATTP và cập nhập thờng xuyên những thay đổi về
thực phẩm để bảo vệ sức khoẻ cho ngời tiêu dùng và cho xã hội. Tại
Singapore, khi mở một quán ăn hay một xe bán thực phẩm lu động, thì họ phải
qua một lớp tìm hiểu các quy định về VSATTP. Lớp này đợc tổ chức thờng
xuyên tại rất nhiều nơi, đến tận cấp phờng. Khi đã biết rồi mà vi phạm thì sẽ
bị xử lý rất nghiêm theo pháp luật và tất nhiên là hàng quán cũng đợc kiểm tra
và cấp giấy chứng nhận. Ngời dân cứ nhìn vào đó mà lựa chọn. Nhng điều
quan trọng hơn nữa là ngời dân tin tởng vào giấy chứng nhận đó bởi vì ngời ta
tin tởng vào cơ quan kiểm nghiệm. Còn ở Việt Nam nh chúng ta đã thấy bộ
máy quản lý chồng chéo chức năng không rõ ràng khi sự việc xảy ra không đợc giải quyết nhanh chóng triệt để thì đổ trách nhiệm lên nhau.
Quản lý VSATTP có nhiều công đoạn, tuy nhiên UBND thành phố là cơ
quan đứng đầu tiếp đó là trách nhiệm của Sở Y tế. Nhiệm vụ của sở Y tế là
bảo vệ sức khoẻ cho ngời dân. Nếu phía y tế không làm đợc việc đó thì xem
nh cha hoàn thành nhiệm vụ của mình với ngời dân. Những ngời có trách
nhiệm cần phải thấy đợc tầm quan trọng cũng nh thực trạng của vấn đề
VSATTP hiện nay, cần phải nhìn thẳng vào khuyết điểm của mình, tự kiểm
điểm bản thân; cần phải biết vì sao làm không đợc, phần nào là trách nhiệm
của mình, phần nào là trách nhiệm của ba ngành....thì mới cải thiện đợc tình
hình VSATTP đang bức xúc hiện nay. Điều cơ bản nữa là cơ quan chức năng
phải tiến hành những biện pháp quản lý lâu dài chứ không phải làm một hai
ngày, làm kiểu chiến dịch mỗi năm một lần rồi bỏ đó. Nếu ngành y tế kiểm
tra, phát hiện và không công nhận sản phẩm thực phẩm nào đó đảm bảo
VSATTP, không chấp nhận cho sản phẩm đó lu hành thì phải báo cáo với
chính quyền và công bố cho ngời dân biết thì chắc chắn sẽ không ai dám bán
cung chẳng ai dám mua. Vấn đề là lâu nay phía y tế cha hành xử hết quyền
của mình

Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm cho mọi ngời là vấn
đề cũng cần phải quan tâm. Động thái tích cực cho vấn đề này là mở rộng
truyền thông theo hớng phổ biến kiến thứuc, giáo dục ý thức và xây dựng hệ
thống văn bản pháp luật hoàn thiện. Báo chí sẽ đóng vai trò quan trọng trong
việc xây dựng các điều kiện cơ bản này. Báo chí cũng không nên đa những
thông tin không đầy đủ và một chiều gây tác dụng ngợc nh cung cấp các
22


thông tin quá chi tiết, mô tả quy trình sản xuất, cách sử dụng phụ gia không đợc phép. điều này sẽ giống nh hớng dẫn cho các đối tợng cha sử dụng biết
cách sử dụng. Hoặc những thông tin cha đợc xác định rõ nh trứng gà giả, xoài
giả, vải nhãn nhiễm virut viêm màng lão làm cho ngời tiêu dùng lo sợ không
dám sử dụng nữa trong khi không có cơ sỏ khẳng định kết luận đó. Nó dẫn
đến nhiều hậu quả cho ngời sản xuất làm cho họ có thể sẽ bị phá sản gây mát
ổn định nền kinh tế.
Để các hoạt động thực hiện hiệu quả thì xử phạt vi phạm thế nào là vấn
đề rất khó nhng nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả rất cao. Một vấn đề đáng báo
động là các cơ quan chức năng tỏ ra kém năng lực trong việc kiểm soát vấn đề
này. Nhiều ngời cho rằng không hiểu các cơ quan chuyên trách về vệ sinh
thực phẩm đã làm gì trớc những việc làm đáng sợ của các cơ sở chế biến thực
phẩm, từ chuyện hàn the đến phoóc- môn và những hoá chất độc hại mà ngời
tiêu dùng không thể biết bằng mắt thờng. Nhng sản phẩm vẫn đợc bày bán
trên thị trờng mà không có sự quản lý kiểm định. Thỉnh thoảng mới thấy có
một đợt ra quân rầm rộ( tất nhiên là các cơ sở chế biến đều biết và đối phó)
nhng cũng chỉ giải quyết đợc tức thời mà thôi sau đó thì đâu vẫn vào đó.
Ngoài việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ sở chế biến thực
phẩm đối với sức khoẻ con ngời thì các cơ quan chức năng cũng cần thực hiện
kiểm tra thờng xuyên và không báo trớc các cơ sở, nhà hàng kinh doanh ăn
uống, đồng thời có chế tài xử phạt thật nặng đối với những trờng hợp vi phạm
và không cho phép kinh doan ( việc này giao cho ban quản lý chợ nếu hộ kinh

doanh tỏng chợ, đối với các cơ sở sản xuất thì giao cho xã phờng chịu trách
nhiệm...), dù chỉ vi phạm một lần. Cần quán triệt chủ chơng này tới từng hộ
chế biến kinh doanh. Nhất thiết cần xử lý với thái độ quyết liệt, không nhân
nhợng thì việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm là không quá khó. Tờt nhiên là
trong tình hình hiện nay, vấn đề nhân sự của các cơ quan chuyên trách là rất
khó khăn nhng không phải là không giải quyết đợc. Điều này phụ thuộc váo
năng lực, sự quyết đoán cũng nh trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bản thân
những cán bộ này cũng cần nhận thức rằng tính mạng của con em họ cũng
đang bị đe doạ bởi các laọi thực phẩm sử dụng hàng ngày. Chúng ta đang hớng tới xã hội văn minh mà ở đó con ngời đợc nhà nớc bảo vệ về sức khoẻ,
tính mạng. Điều này đồng nghĩa với việc ngời dân và các quan chức công
quyền cũng phải có ý thức cao trong từng hành động để có thể hình thành nên
một ý thức hệ bền vững trong xã hội để mà khi một ngời nào đó làm một việc
mà xã hội cho là sai thì họ sẽ tự cảm thấy hổ thẹn dù chẳng có ai phê phán gì.
Có nh vậy chúng ta mới có một xã hội văn minh thật sự
2. Một số giải pháp áp dụng các tiêu chuẩn về VSATTP
Hiện nay nhiều quốc gia, thị trờng chấp nhận tiêu chuẩn sạch ở mức đảm
bảo an toàn cho ngời tiêu dùng và đã đề ra nhiều biện pháp quản lý nhằm
kiểm soát một cách chặt chẽ vấn đề VSATTP nh GMP, GAP, SQF, HACCP,
ISO 22000...Đồng thời các tiêu chuẩn về VSATTP đã thực sự trở thành rào cản
kỹ thuật trong thơng mại. Thực tế đòi hỏi chúng ta phải có cai nhìn đầy đủ
hơn, nghiêm túc hơn về vấn đề VSATTP mà trớc hết cần phải đánh giá đúng
thực trạng, nguyên nhân để từ đó có quyết sách đúng đắn đáp ứng yêu cầu
23


phát triển trong tình hình mới.
Chúng ta cần có sự đổi mới trong công tác quản lý một cách chặt chẽ,
liên kết trong tất cả các khâu các quá trình từ nguyên liệu đầu vào đến sản
phẩm đầu ra, từ nhà cung cấp nguyên liệu với nhà sản xuất- chế biến và nhà
phân phối sản phẩm. Trớc đây việc quản lý, kiểm soát VSATTP chỉ dừng lại ở

từng khâu từng quá trình riêng lẻ ( trong toàn bộ dòng đời của sản phẩm) thậm
chí còn chồng chéo giữa các ngành quản lý với nhau. Điều này dẫn tới việc
quản lý, xử lý vấn đề VSATTP chỉ ở phần ngọn, không tìm thấy đợc nguyên
nhân và do đó không cải tiến đợc tình hình. Thực tế cho thấy, các vụ ngộ độc
thực phẩm xảy ra( đặc biệt ở nơi có bếp ăn tập thể, khu công nghiệp...) thờng
khó xác định nguyên nhân và nh thế không thể phòng ngừa những trờng hợp
ngộ độc ấy không còn tái diễn. Do vậy để kiểm soát đợc vấn đề VSATTP,
chúng ta cần nghiên cứu áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp quản lý tiên
tiến của quốc tế. Chính vì vậy UBND các tỉnh, thành phố cần có chủ trơng,
chính sách nhất quán, kiên quyết đồi hỏi các Sở, Ngành, các địa phơng,
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có liên quan đến vấn đề VSATTP phải áp dụng
triệt để có hệ thống các giải pháp này sao cho toàn bộ dòng đời của sản phẩm:
từ khâu nuôi trồng nguyên liệu, cho đến khâu sản xuất, chế biến và lu thông,
phân phối sản phẩm đều đợc kiểm soát chặt chẽ về VSATTP theo yêu cầu và
chuẩn mực quốc tế. Để lầm đợc điều này, mỗi một sản phẩm hoặc một nhóm
sản phẩm phải có một chơng trình quản lý thông nhất (chơng trình tiên quyết)
do một sở ngành đứng ra chủ trì, chịu trách nhiệm chính. Chơng trình này
ngoài việc áp dụng các giải pháp quản lý VSATTP của quốc tế, còn thể hiện
việc gắn kết giữa các nhà: cung cấp nguyên liệu, sản xuất- chế biến và tiêu thụ
sản phẩm( theo tinh thần Quyết định 80/TTg của Thủ Tớng Chính phủ), đồng
thời cũng là quá trình hình thành các vùng nuôi tròng chuyên canh, phát triển
các hợp tác xã trong nông nghiệp ( theo NQ TW 5, khoá IX). Bởi lẽ chỉ có thể
tổ chức quản lý dới dạng HTX vung nuôi tròng chuyên canh và gắn kết vùng
nguyên liệu với sản xuất- chế biến, tiêu thụ mới áp dụng có hiệu quả các Hệ
thống quản lý VSATTP quốc tế.
Sau đay là một vài Hệ thống quản lý chủ yếu mà chúng ta có thể áp
dụng:
* GAP, EUREP- GAP:
GAP: (good Agriculture Practice). Gọi là quy phạm thực hành nông
nghiệp tốt. Đợc áp dụng trong lĩnh vực nuôi tròng sản phẩm nông nghiệp ( kể

cả thuỷ sản). Quy phạm này đợc thực hiện dựa trên nguyên tắc áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật trong từng công đoạn của toàn bộ quy trình sảm xuất nằhm
loại bỏ các yếu tố không an toàn cho sản phẩm và đạt đợc kết quả tôt nhất
EUREP- GAP (European Retail Products Good Agriculture Practice):
Tháng 9/2003, Tổ chức bán lẻ Châu Âu (EUREP) công nhận GAP là tiêu
chuẩn để đánh giá nhà cung ứng các sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn
này (gọi là tiêu chuẩn EUREP GAP) để vào thị trờng Châu Âu (áp dụng ISO
Guide 65=EN 45011). Và chỉ những sản phẩm nông nghiệp đợc áp dụng theo
GAP mới đợc tiêu thụ trong EUREP. Do vậy, GAP đã trở thành TBT. Hiện nay,
ở Việt Nam tổ chức SGS đợc EUREP công nhận là tổ chức chứng nhận các
24


sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn này( gọi là tiêu chuẩn EUREP GAP) để
vào thị trờng Châu Âu.
* GMP, SSOP:
GMP ( Good Manufactu- ring Practice) gọi là quy phạm thực hành sản
xuất tốt. Nó đợc áp dụng cho nhà máy sản xuất thực phẩm, dợc phẩm. Nguyên
tắc của Quy phạm này cũng giống nh GAP, nhng trong môi trờng, điều kiện
nhà máy. Theo đó, để đảm bảo yêu cầu VSATTP, tất cả các yếu tố: môi trờng
trong, ngoài nhà máy; các máy móc, thiết bị; kho ( nguyên liệu, thành phẩm);
nguyên- vật liệu; các vật dụng trong nhà máy ( điện, nớc, cửa sổ, trần nhà...)
và vệ sinh của công nhân... đều đợc đánh giá khả năng nhiễm bẩn vào sản
phẩm, trên cơ sở đó đề ra biện pháp phòng ngừa, kiểm soát để việc nhiễm bẩn
không xảy ra. Có nh vậy sản phẩm mới đảm bảo khả năng an toàn.
SSOP ( Sanitation Standard Operating procedủe) gọi là Quy phạm thực
hành theo tiêu chuẩn vệ sinh gọi tắt là Quy phạm vệ sinh, là phần chủ yếu của
GMP. Sau khi đánh giá, ở những nơi có khả năng nhiễm bẩn sản phẩm, tổ
chức ( đơn vị áp dụng GMP) phải xây dựng SSOP( bao gồm tất cả các yêu cầu,
điều kiện, chuẩn mực, kế hoạch, phơng pháp, trách nhiệm...) để trong hoạt

động không xảy ra việc nhiễm bẩn.
* HACCP, SQF 1000,SQF 2000:
HACCP ( Hazard Analysis Critical Coltrol Point) gọi là Hệ thống phân
tích các mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn, gọi chung là Hệ thống quản lý
an toàn thực phẩm. HACCP đợc ra đời từ sự nghiên cứu của Công ty Pillsbury
trong việc chế biến thực phẩm đảm bảo an toàn cho các nhà du hành vũ trụ.
Công ty Pillsbury cho rằng kỹ thuật kiểm tra chất lợng mà họ đang áp dụng
không đủ đảm bảo việc chông gây ô nhiễm cho sản phẩm trong sản xuất sản
phẩm và thấy rằng phải kiểm nghiệm quá nhiều thành phần tới mức chỉ còn lại
rất ít thực phẩm có thể cung cấp cho các chuyến bay vào vũ trụ. Từ đó Công ty
Pillsbury kết luận: chỉ có cách xây dựng hệ thống phòng ngừa, không cho các
mối nguy xảy ra trong quá trình sản xuất mới đảm bảo đợc an toàn thực phẩm.
Hiện nay các nớc phát triển nh Mỹ, EU, Canada...bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn
này cho ngành sản xuất thực phẩm, cũng nh hàng hoá nhập khẩu vào nớc họ
và đặc biệt là các tổ chức quốc tế nh: Tổ chức Nông nghiệp và Lơng thực của
Liên Hiệp Quốc (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Quốc tế về
tiêu chuẩn hoá (ISO)...cũng đã khuyến khích cũng đã khuyên các doanh
nghiệp nên áp dụng tiêu chuẩn này. Hệ thống HACCP đợc xây dựng trên nền
tảng của các quy phạm sản xuất (GMP) và quy phạm vệ sinh (SSOP).
SQF 1000 ( Safety Quality Food 1000CM code): là Hệ thống quản lý dựa
trên HACCP áp dụng cho các nhà cung cấp nhằm đảm bảo ATTP nguyên liệu
đầu vào cho các nhà chế biến.
SQF 2000 ( Safety Quality Food 2000CM code): là Hệ thống quản lý dựa
trên HACCP áp dụng cho các nhà máy chế biến thực phẩm. Hiện nay SQF
1000 và SQF 2000 thờng đợc áp dụng trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thuỷ
hải sản và ở nớc ta có hai tổ chức đợc EU công nhận là tổ chức chứng nhận
các tiêu chuẩn này, đó là NAFIQUACENT Bộ Thuỷ sản và SGD (Tổ chức
chứng nhận của Thuỵ Sỹ, chi nhánh VN).
25



×