Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Luận văn nghiên cứu thảm thực vật khô hạn ven biển huyện ninh hải – tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.31 MB, 155 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
--------------------

Thiều Lê Phong Lan

NGHIÊN CỨU THẢM THỰC VẬT KHÔ HẠN
VEN BIỂN HUYỆN NINH HẢI – TỈNH NINH
THUẬN

Chuyên ngành: Sinh Thái Học – Môi Trường
Mã số: 60 42 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN HP

Thành phố Hồ Chí Minh Tháng 6/2006


Các chữ viết tắt:

BTTN: Bảo tồn thiên nhiên
KHCNMT: Khoa học công nghệ môi trường
SHNĐ: Sinh học nhiệt đới
VQG: Vườn Quốc gia
WWF: Quỷ Quốc tế và bảo vệ thiên nhiên


MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề


Tỉnh Ninh Thuận thuộc miền duyên hải trung bộ Việt Nam. Đây là một
trong những tỉnh có điều kiện khí hậu khắc nghiệt vào bậc nhất trong cả nước:
nắng gió quanh năm, mùa khô hạn kéo dài, nóng như “rang”, lượng mưa thấp
nhất trên toàn quốc.
Huyện Ninh Hải ở ven biển phía Bắc tỉnh Ninh Thuận, với tổng chiều
dài 60km bờ biển, nơi đây hội tụ đầy đủ và đặc sắc nhất mọi điều kiện khắc
nghiệt của Ninh Thuận, biểu hiện bằng việc hình thành thảm thực vật khô hạn
đa dạng ven biển đặc trưng.
Thảm thực vật ven biển nhiệt đới, trong đó rừng khô hạn là một sinh
cảnh hết sức độc đáo, hấp dẫn với nhiều nhà khoa học thế giới. Chúng có
những đặc điểm sinh học rất đặc biệt, vừa thích ứng với môi trường đặc biệt
khô hạn vừa đa dạng về hình thái, dạng sống và sự phát triển. Chúng có vai
trò quan trọng trong đời sống của người dân trong vùng, là nơi cư trú, sinh
sống của nhiều loài động vật q hiếm. Đặc biệt rừng khô hạn ven biển huyện
Ninh Hải có vai trò to lớn trong việc tạo lập một sinh cảnh phong phú, bảo vệ
bền vững các vùng cát ven biển, cải thiện môi trường để mở rộng diện tích lục
đòa, làm bình phong chống gió bão, ngăn cản sự sa mạc hóa lấn vào đất liền.
Ngoài tác dụng to lớn gìn giữ sự cân bằng sinh thái tự nhiên và phát
triển bền vững của vùng ven biển. Rừng khô hạn ven biển còn chứa đựng
nhiều loài cây q hiếm, cây bản đòa có giá trò nghiên cứu khoa học và là nơi
bảo tồn các nguồn gen chòu hạn nhiệt đới ven biển.
Do đặc điểm đặc sắc này, chính phủ đã đồng ý để UBND tỉnh Ninh
Thuận thành lập Vườn Quốc gia (VQG) Núi Chúa, nhằm tạo điều kiện bảo tồn

1


nguồn đa dạng sinh học phong phú và đặc sắc có một không hai của cả nước
để nghiên cứu, bảo vệ và tôn tạo loại rừng khô hạn này.
Nhận thấy hệ thực vật vùng ven biển huyện Ninh Hải đặc trưng điển

hình cho một khu hệ sinh học khô hạn của tỉnh và cả nước, có đầy đủ các giá
trò về bảo tồn, đa dạng sinh vật và hệ sinh thái nên chúng tôi thấy có thể
nghiên cứu sâu hơn về các loại hình rừng trong bối cảnh thảm thực vật khô
hạn, để góp phần bảo vệ tốt sinh cảnh khô hạn và bảo tồn các loài thực vật
đặc hữu cũng như nguồn gen chòu hạn q hiếm nơi đây. Đề tài của luận văn
mang tên: “Nghiên cứu thảm thực vật khô hạn ven biển huyện Ninh Hải –
tỉnh Ninh Thuận”.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ quan điểm Thảm thực vật là tấm gương phản ánh trung
thành nhất của ngoại cảnh trong đó chế độ mưa, độ ẩm, đặc biệt là chỉ số khô
hạn là nhân tố quyết đònh các kiểu thảm thực vật, cùng với các khảo cứu bước
đầu, mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những đặc điểm về hình
thái của các loài cây vùng khô hạn ven biển, sự phân bố, sự ảnh hưởng của
điều kiện đặc biệt khắc nghiệt này đến sự hình thành các kiểu rừng khô hạn
đặc trưng. Trên cơ sở khảo sát các đặc điểm về dạng sống, về cơ quan dinh
dưỡng, đề tài cũng bước đầu tìm hiểu những đặc điểm thích nghi của hệ thực
vật với các điều kiện đặc biệt khắc nghiệt của môi trường: nắng, nóng, khô
hạn, cát trắng bạc màu, đất đai khô cằn.
Những đóng góp của luận văn:
- Xây dựng danh lục thực vật vùng khô hạn ven biển huyện Ninh Hải –
tỉnh Ninh thuận, sắp xếp theo họ, bộ trong hệ thống sinh tiến hoá.

2


- Mô tả theo các phiếu điều tra, đònh danh theo các danh pháp khoa học,
bổ sung bằng các bộ ảnh màu, bộ tiêu bản của các loài thực vật đặc trưng cho
vùng khô hạn ven biển huyện Ninh Hải – tỉnh Ninh Thuận.
- Khảo sát, xác đònh các đặc điểm thích nghi, sự biến đổi về hình thái
các loài cây trong hoàn cảnh khô hạn.

- Điều tra thu thập tài liệu trên toàn bộ đòa bàn rừng khô hạn, thu thập
tài liệu trên ô tiêu chuẩn, đònh hình cho các trạng thái rừng để có cơ sở nhận
đònh về cấu trúc và kết cấu của các kiểu rừng thuộc thảm thực vật rừng khô
hạn.
- Thống kê các loài cây đặc hữu, q hiếm, có giá trò kinh tế để góp
phần bảo tồn nguồn gen thực vật vùng khô hạn, bảo tồn đa dạng sinh học, của
hệ sinh thái rừng khô hạn ven biển cực Nam Trung Bộ.
- Tạo cơ sở cho việc tuyên truyền giáo dục, bảo vệ môi trường và tài
nguyên thiên nhiên. Đồng thời gợi ý một số sinh cảnh khô hạn, có cảnh quan
đẹp, có ý nghóa giáo dục, phục vụ tham quan, phát triển du lòch sinh thái.
Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Nghiên cứu thảm thực vật khô hạn ven biển huyện Ninh Hải –
tỉnh Ninh Thuận”. Chỉ khảo sát những sinh cảnh thuộc thảm thực vật khô hạn
nằm ven theo chiều dài bờ biển từ độ cao 300m trở xuống, dọc theo tỉnh lộ
702 về hướng Đông Bắc (có bản đồ khoanh vùng nghiên cứu).
Tính cấp thiết và thiết thực của đề tài
Trong những năm qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Ninh Thuận, VQG Núi Chúa, phối hợp với Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng
II, đã tiến hành điều tra, khảo sát, lập danh lục động vật, thực vật, như một tài

3


liệu khoa học ban đầu phục vụ công tác bảo tồn thiên nhiên (BTTN) và làm
cơ sở cho việc nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
Hệ sinh thái rừng khô hạn ven biển huyện Ninh Hải – tỉnh Ninh Thuận,
ít nhiều đã có sự tác động của con người ở những mức độ khác nhau, có nhiều
loài đang có nguy cơ bò tuyệt diệt, giảm số cá thể rõ rệt.
Hơn nữa, hệ sinh thái rừng khô hạn rất nhạy cảm, dễ bò hủy hoại và khả
năng phục hồi là rất khó.

Do đó việc nghiên cứu thảm thực vật nhằm hướng tới việc giáo dục,
bảo vệ các nguồn gen chòu hạn, phục hồi, tạo điều kiện phát triển những loài
q hiếm, đặc hữu, tiêu biểu cho rừng khô hạn tỉnh nhà là rất cần thiết.

4


Bản đồ khoanh vùng nghiên cứu thảm thực vật khô hạn ven biển huyện
Ninh Hải – tỉnh Ninh Thuận.

5


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Các nghiên cứu trước đây về thảm thực vật khô hạn, trong và ngoài
nước.
Với các giá trò đa dạng và độc đáo, kiểu rừng khô và bán khô hạn đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tập thể khoa học trong và ngoài
nước. Tại Châu phi, Châu Mỹ hay Châu Úc việc nghiên cứu các kiểu rừng khô
hạn thường được quan tâm đáng kể. Từ năm 1967, Cocheme và Franquin đã
có những nghiên cứu về cấu trúc rừng khô hạn tại Niger. Lamprecht (1989) đã
mô tả kiểu rừng khô rụng lá với thành phần loài thấp, chỉ có 1-2 tầng tán rừng
với lượng mưa từ 700-1000mm/năm. Mitloehner (1990, 1993, 1995, 1997) đã
liên tục tiến hành nghiên cứu sự thích nghi của thảm thực vật trong điều kiện
khô hạn tại Chaco thuộc Paraguay, Đông Caprivi thuộc Namibia. Schmid
(1974) đưa ra nhận xét rằng trong vùng khí hậu bán khô hạn, như trường hợp
của Ninh Thuận, thì chính do lượng mưa thấp (< 700mm) và không đều, cũng
như tầng đất mặt nông và nhiều cát, đã không tạo điều kiện cho việc hình
thành một kiểu thảm thực vật phong phú như vùng ven biển từ Ninh Hải đến
khu vực Cà Ná .[54]

Năm 1964, P.E. Odum, khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố khí hậu
lên quần xã cây bụi và rừng rụng lá đã mô tả: “Ở đâu mà điều kiện độ ẩm
chiếm vò trí trung gian giữa một bên là sa mạc – savan và rừng mưa thì ở đấy
có rừng cây bụi – cây gai nhiệt đới và rừng rụng lá nhiệt đới. Nhân tố khí hậu
cơ bản đó là lượng mưa . . .”[48]
Ở Việt Nam, trong luận văn tiến só, M.Schimid, đã mô tả khá kỹ một số
kiểu thảm thực vật tại vùng Ninh Thuận trong quyển “Végétation Du Việt
Nam – Orstom Paris – 1974”.[54]

6


Trong quyển “Các điều kiện đất đai tại đồng bằng Ninh Thuận” – Nha
Khảo Cứu – Bộ Canh Nông xuất bản năm 1965 của tác giả Thái Công Tụng,
đã mô tả khá chi tiết đồng bằng ven biển thuộc miền duyên hải Trung Việt
Ninh Thuận, những đồi cát Ba Ngòi Cam Ranh của Khánh Hòa, những đồi cát
khô khan của vùng Cà Ná – Vónh Hảo. Cùng với việc mô tả các điều kiện đất
đai, Thái Công Tụng đã mô tả một số cây gai đặc sắc của vùng khô hạn như
các giống Capparis, Zizyphus, Randia; những cây lá mướt như Tephrosria,
Triumphetta . . ., ngoài ra còn mô tả thảo mộc thiên nhiên ở những vùng cát
dọc duyên hải, trên các đồi cát di động, gần bờ,. . .[23]
Năm 1961, “Khảo cứu niên san khoa học đại học đường – Viện Đại học
Sài Gòn” Lê Công Kiệt, Phạm Hoàng Hộ và Vũ Văn Cương đã có những bài
viết về thảm thực vật ở những quần đảo vònh Cam Ranh – Nha Trang “Les
association végétales de la presqúile de Cam Ranh (Région de Nha Trang)”
[50, tr.101-128] và bài “La végétation de plages vaso sablonneuses de la
presquile de Cam Ranh” [51,tr.129-140]. Cũng trong tạp chí này Lê Công Kiệt
và Nguyễn Văn Thủy đã thành lập bản đồ phân bố thảm thực vật ven biển ở
vònh Cam Ranh tỷ lệ 1/50.000.[52,tr.141-154]
Năm 1962 trong tạp chí “Khảo cứu niên san khoa học đại học đường –

viện Đại học Sài Gòn” Lê Công Kiệt đã có bài viết về thảm thực vật trên đất
xám bạc màu ở vònh Cam Ranh [53, tr.367-434] “La végétation psammophile
de la presqle de Cam Ranh”. Cũng trong tạp chí này, năm 1966 – 1967,
Phùng Trung Ngân và Lê Công Kiệt đã khảo sát và lập danh lục thực vật cảnh
ở các đồi cát của bán đảo Quy Nhơn thông qua bài viết “Góp phần vào sự
khảo sát thực vật cảnh các đồi cát của bán đảo Qui Nhơn” [16, tr.345-358].

7


Năm 1970, Thái Văn Trừng mô tả về kiểu trảng cây to, cây bụi và cỏ
cao khô nhiệt đới ở miền Nam nước ta là kiểu trảng nguyên sinh thiên nhiên
đã tồn tại ở vùng khô hạn giữa Phan Rang và Phan Thiết . . . với đặc điểm về
hệ thực vật ở đây là các cây gỗ thưa thớt, nhỏ bé, khẳng khiu, những cây bụi
phân tán . . .[21], [22]
Năm 2004, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Viện Quy hoạch
và Thiết kế nông nghiệp [36], đã có chương trình điều tra xây dựng bản đồ đất
tỉnh Ninh Thuận tỷ lệ 1/50.000. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để nghiên
cứu các thảm thực vật khô hạn trên cơ sở các điều kiện đất đai, khí hậu. Đây
cũng là tài liệu đất chi tiết đầu tiên của Ninh Thuận từ năm 1975 đến nay.
Theo kết quả của Viện Điều tra Quy hoạch rừng II [39], đã ghi nhận
Khu BTTN rừng khô hạn Núi Chúa có 1265 loài thực vật bậc cao, có mạch
trên cạn, xếp trong 85 bộ, 147 họ và 596 chi thuộc 7 ngành thực vật khác nhau:
+ Ngành Thạch tùng (Lycopodiophyta): có 5 loài, thuộc 2 bộ, 2 họ và 3 chi.
+ Ngành Lõa tùng (Psicotophyta): có 1 loài thuộc 1 bộ, 1 họ và 1 chi.
+ Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta): có 23 loài thuộc 6 bộ, 10 họ và 16 chi.
+ Ngành Thông (Pinophyta): có 7 loài thuộc 1 bộ, 2 họ và 4 chi.
+ Ngành Tuế (Cyadophyta): có 4 loài thuộc 1 bộ, 1 họ và 1 chi.
+ Ngành Gắm (Gnetophyta): có 2 loài thuộc 1 bộ, 1 họ và 1 chi.
+ Ngành Ngọc lan (Magnoliophyta): có 1223 loài thuộc 67 bộ, 130 họ

và 570 chi.
Song song với việc điều tra thực vật, Phân viện đã thiết lập bản đồ phân
bố thực vật rừng của Khu BTTN rừng khô hạn Núi Chúa– tỉnh Ninh Thuận,
đây cũng là cơ sở ban đầu cho việc điều tra, phân loại thực vật vùng khô hạn
này.

8


Cũng theo kết quả điều tra của Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng II,
năm 2001 – 2002 về sự phân bố của động vật hoang dã cho thấy có 306 loài
động vật có xương sống thuộc 9 bộ 29 họ và 4 lớp, trong đó: [39]
+ Lớp thú (Manmalia): có 72 loài thuộc 23 họ và 8 bộ.
+ Lớp chim (Aves): có 181 loài thuộc 49 họ và 17 bộ.
+ Lớp bò sát (Reptilia): có 36 loài thuộc 13 họ và 3 bộ.
+ Lớp lưỡng thê (Amphibia): có 17 loài thuộc 4 họ và 1 bộ.
Năm 2004, dự án “Bảo tồn thực vật Việt Nam”, do Viện sinh thái và
Tài nguyên sinh vật tổ chức theo quỹ Henry luce Hoa Kỳ, tổ chức khoá đào
tạo thứ 3 “Về điều tra tiềm năng và hiện trạng nguồn cây thuốc ở Vườn Quốc
gia Núi Chúa” do Nguyễn Tập (Viện dược liệu) hướng dẫn – Theo nhóm điều
tra cây thuốc đã thống kê được 718 loài, 481 chi, 139 họ, thuộc 7 ngành thực
vật được sử dụng làm thuốc ở các mức độ khác nhau.[19]
Năm 2002, báo cáo kết quả khảo sát khu hệ động vật Khu BTTN rừng
khô hạn Núi Chúa do Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng II, Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật, cùng với Khu BTTN rừng khô hạn Núi Chúa tỉnh Ninh
Thuận do Lê Xuân Cảnh phụ trách – Theo kết quả báo cáo này đã ghi nhận
được 306 loài động vật hoang dã, thuộc 89 họ, 29 bộ, 4 lớp tại Khu BTTN rừng
khô hạn Núi Chúa, bao gồm 72 loài thú, 181 loài chim, 36 loài bò sát và 17
loài ếch nhái. Báo cáo có kèm theo danh lục và hình ảnh.[39]
Từ năm 1998 đến nay, UBND tỉnh Ninh Thuận cùng với Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học công nghệ môi trường
(KHCNMT), phối hợp với Viện Sinh học nhiệt đới (SHNĐ)TP.HCM, Phân
viện Điều tra Quy hoạch Rừng II và VQG Núi Chúa, đã có một số nghiên cứu
mô tả sơ bộ các kiểu thảm thực vật, lập danh lục và tiêu bản thực vật rừng.

9


Tuy nhiên, chưa có một công trình nào mô tả kỹ phân bố của chúng, cũng như
chưa có những nghiên cứu có hệ thống đặc trưng và khả năng thích nghi để tồn
tại trong điều kiện khí hậu lập đòa khô hạn của đòa bàn nghiên cứu.
Trong những năm qua đã có một số nghiên cứu ban đầu:
- Phát triển du lòch sinh thái tại Khu BTTN Núi Chúa do q hỗ trợ phát
triển của Canada, WWF và Sở KHCNMT Ninh Thuận thực hiện nhằm xây
dựng luận cứ cho phát triển du lòch sinh thái tại Khu BTTN Núi Chúa – huyện
Ninh Hải.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu
BTTN Núi Chúa Ninh Thuận do Khu BTTN Núi Chúa thực hiện (2002 - 2003).
- Nghiên cứu tính đa dạng sinh học Khu BTTN Núi Chúa do Viện
SHNĐ tiến hành (1999-2000). Quỹ NAGAO Nhật Bản tài trợ .
- Xây dựng bộ tiêu bản thực vật Khu BTTN Núi Chúa do Phân viện
Điều tra và Quy hoạch rừng II thực hiện (2001-2002).
- Dự án bảo tồn rùa biển giai đoạn I vàII ( tháng 9/2000 – 12/2002) do
quỹ quốc tế về Bảo vệ thiên nhiên (WWF), Sở KHCNMT, và Khu BTTN Núi
Chúa thực hiện. Nhằm bảo tồn và nâng cao nhận thức, năng lực và quy đònh
về bảo tồn đa dạng sinh học biển và bảo tồn rùa biển.
- Quy hoạch, phân vùng bảo tồn biển (2001 - 2002) do WWF phối hợp
với Viện Hải dương học Nha Trang và Sở KHCNMT Ninh Thuận thực hiện
nhằm giúp cho đòa phương (xã Vónh Hải – huyện Ninh Hải) sử dụng và khai
thác bền vững các tài nguyên biển trên cơ sở khoa học.

- Di trú, trồng trọt một số loài dược liệu trên vùng đệm tại Khu BTTN
Núi Chúa do tổ chức phát triển Việt Nam – Hà Lan và Sở KHCNMT Ninh

10


Thuận thực hiện nhằm xây dựng mô hình sản xuất cây dược liệu trên khu vực
nương rẫy.
- Khảo sát bổ sung và đề xuất giải pháp quản lý, bảo vệ nguồn lợi rạn san
hô tỉnh Ninh Thuận do Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện (2001 - 2002)
nhằm đề xuất giải pháp quản lý, bảo vệ nguồn lợi rạn san hô tỉnh Ninh Thuận.
- Xây dựng mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ san hô (2002 - 2003)
do Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản thực hiện nhằm nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của san hô và lập tổ tự quản cho cộng đồng ngư dân ven biển
thuộc xã Nhơn Hải , Vónh Hải – huyện Ninh Hải.
1.2 Khái quát các nhóm nhân tố sinh thái phát sinh quần thể của thảm
thực vật khô hạn.
1.2.1 Nhóm nhân tố tự nhiên
1.2.1.1 Vò trí đòa lý
Huyện Ninh Hải nằm về phía Bắc tỉnh Ninh Thuận có tọa độ đòa lý:
+ Kinh độ Đông từ 106o 27’33” đến 109o 14’00”.
+ Vó độ Bắc từ 11o 37’05” đến 11o 61’10”.
¾ Vò trí và ranh giới:
- Phía Đông giáp với biển Đông.
- Phía Tây giáp huyện Ninh Sơn
- Phía Nam giáp thò xã Phan Rang – Tháp Chàm.
- Phía Bắc giáp huyện Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa.
¾ Tổng chiều dài bờ biển: 60km.
- Được giới hạn bởi 2 vó tuyến từ 11o 22’ đến 11o48’.
- Phía Bắc giáp vònh Cam Ranh.

- Phía Nam giáp vònh Phan Rang.

11


¾ Tổng diện tích tự nhiên là 57.118,2 ha, gồm:
+ Đất nông nghiệp: 15.439,0 ha chiếm 27%
+ Đất lâm nghiệp: 14.113,2 ha chiếm 24,78%
+ Đất chuyên dùng : 2.758,0 ha chiếm 4,82%
+ Đất ở : 834,0 ha chiếm 1,46%
+ Đất chưa sử dụng : 23.974,0 ha chiếm 41,97% [42]
1.2.1.2 Đòa hình – đòa mạo
Khu vực nghiên cứu đề tài nằm trong đòa phận của VQG Núi Chúa –
huyện Ninh Hải – tỉnh Ninh Thuận. Đòa hình của VQG Núi Chúa bao gồm một
hình thể núi hình thành gần như độc lập không dính liền với hệ thống của dãy
Trường sơn, có tên gọi chung là Núi Chúa.
Quần thể Núi Chúa bao gồm nhiều núi có độ cao khác nhau: Núi chúa
còn gọi là núi Cô Tuy là núi cao nhất của vườn quốc gia có độ cao tuyệt đối
1.039m (so với mặt nước biển) [39], nằm gần trung tâm của vườn quốc gia. Từ
núi Cô Tuy đòa hình chạy thấp dần nhưng không liên tục về cả 04 hướng với
các đỉnh núi cao đặc trưng như: [39]
- Hướng Bắc và Tây Bắc có các núi: núi Sưa 850m, núi Chúa 858m, núi
Nước Nhỉ 722m… và chạy thấp dần gồm nhiều đồi núi thấp ra vònh Cam Ranh
và quốc lộ 1A .
- Hướng Đông và Đông Bắc có các núi: núi Ông hay núi Chúa Anh 950m,
núi Chúa Em 725m, núi Hòn Tý 580m … và chạy thấp dần ra biển Đông.
- Hướng Tây và Tây Bắc có các núi: Ê Lâm Hạ 894m, núi Hòn Bà
896m, núi Chúa 2 cao 858m … và chạy thấp dần ra đường quốc lộ 1A
- Hướng Nam và Đông Nam có các núi : Ông Thỏ 778m, núi Chúa
3550m, núi Hòn Giồ 509m .


12


Huyện Ninh Hải bao gồm cả VQG Núi Chúa có 05 cấp đòa hình như
sau:[31], [39], [42]
- Đòa hình vùng đồi: có độ cao nhỏ hơn 300m so với mặt biển, chủ yếu
tập trung ở vùng biển phía Đông và Nam và vùng chân của khu quần hệ Núi
Chúa, thuộc các xã Công Hải, Lợi Hải, tuy có một số đỉnh núi cao từ 200 300m nhưng độ chia cắt ít và có độ dốc dưới 200.
- Vùng núi thấp: chủ yếu nằm ở phía Bắc của huyện, có độ cao từ 300 700m nằm ở vùng chân và sườn của các núi cao > 800m, nên có độ chia cắt
mạnh và độ dốc lớn từ 20 - 350.
- Vùng núi trung bình: có độ cao từ 800 – 1.039m, bao gồm các núi như:
Cô Tuy 1.039m, núi Chúa Anh 950m, núi Sưa 950m, Ê Lâm Hạ 900m, Hòn Bà
830m …. , có đòa hình chia cắt lớn bởi các khe suối lớn, có độ dốc từ 20 – 400, là
vùng chòu ảnh hưởng cả hai chế độ khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới ẩm.
- Đòa hình đồi cát ven biển: phần lớn nằm ở phía Đông và phía Nam của
huyện, thuộc các xã Vónh Hải, Tri Hải, Nhơn Hải, Phương Hải; loại đất chủ
yếu là đất cát đến cát pha, độ cao dưới 100m, tạo thành một dãy dài và hẹp
chạy dọc ven biển.
- Đòa hình đồng bằng: phần lớn đất dai có độ cao từ 100m đến 300m,
đòa hình tương đối bằng phẳng, hướng dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam và
dốc dần ra biển; là một vùng rộng lớn sản xuất lương thực chủ yếu của huyện;
gồm các xã Tân Hải, Xuân Hải, Hộ Hải.
1.2.1.3 Khí hậu
Đặc trưng của khí hậu Ninh Thuận mang tính nhiệt đới gió mùa, khô
hạn, nắng nóng và gió nhiều. Do đôï ẩm và lượng mưa thấp đã tạo nên sinh
cảnh rừng khô hạn đặc trưng VQG Núi Chúa. Theo số liệu thu thập từ trạm khí

13



tượng thủy văn tại Phan Rang và Nha Hố, dưới đây là một số chỉ tiêu chính về
khí hậu:[42]
- Nhiệt độ trung bình năm khoảng 270C; nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối
14,4cC; nhiệt độ cao nhất tuyệt đối: 41,70C; biên độ nhiệt ngày từ 7,6 – 9,60C,
cả năm là 80C .
- Độ ẩm: độ ẩm tương đối trung bình là 71% (là mức thấp nhất trong
tỉnh và cả nước); mùa khô hanh (tháng 1-2): độ ẩm trung bình < 65%; mùa
mưa (tháng 9-10-11): độ ẩm trung bình khoảng 80%.
- Lượng mưa: do đòa hình đồi núi dày đặc, các thung lũng bò che chắn
kín làm hạn chế ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam là nguyên nhân dẫn tới
lượng mưa thấp. Lượng mưa trung bình năm rất thấp (691,9mm), phân bố
không đồng đều. Lượng mưa thấp nhất 272,2mm, cao nhất là 1.231,2mm.
- Gió: mùa đông, gió chủ yếu từ hướng Đông và Đông Bắc và gió Tây;
mùa hè gió từ Tây và Tây Nam.

14


TRẠM PHAN RANG:

Hình 1.1: Giản đồ vũ nhiệt Gaussen – Walter
Tháng

1

2

3


4

5

6

7

8

9

10

11

12

Tổng

Lượng mưa(mm)

6

1

3

19


61

45

40

49

126

185

192

51

695

Số ngày mưa

1

1

1

1

3


6

3

11

6

8

10

1

52

20

25.6

27.2

28.6

29.0

29.0

29.4


29.1

28.2

26.7

26.1

25.3

27.5

76.1

76.1

76.1

78.3

81.8

81.2

79.5

80.0

84.5


85.9

83.0

79.6

80.3

0

Nhiệt độ (0 C)
Độ ẩm (%)

Bảng 1.1: Bảng các yếu tố khí hậu Phan Rang (Nguồn: Trạm khí tượng
thủy văn Nha Hố 2001– Ninh Thuận)
1.2.1.4 Thủy văn

15


Tồn tại hệ thống nước ngầm và sông suối trong khu vực gồm các suối:
suối Nước Ngọt, suối Kiền Kiền, Đông Nha, Lồ Ồ. Ao hồ trên núi đá vách có
nước quanh năm.
- Hải văn: thủy triều mang tính bán nhật không đều. Độ lớn thủy triều
trong kỳ nước cường từ 2,0 – 3,5m. Sóng biển từ tháng 1 – 4: hướng Đông Bắc
– Đông, độ cao trung bình 9 -1m, cực đại 2,5m; từ tháng 5 - 9: hướng Tây - Tây
Nam, độ cao trung bình 1-1,1m, cực đại 2-2,5m; từ tháng 10 -12: hướng Đông
Bắc; độ cao trung bình 1,2m, cực đại 2,5m. Nhiệt độ trung bình nước biển
trong các tháng khoảng 250C, độ mặn trung bình năm khoảng 31 – 33%.
1.2.1.5 Đòa chất và thổ nhưỡng

VQG Núi Chúa nằm trong miền Trường Sơn Nam. Có tuổi đòa chất cách
đây hàng triệu năm, được cấu tạo trên nền đòa chất vững chắc của khối
Macma xâm nhập và phún xuất xen kẽ nhau với 03 loại đá mẹ chính đặc trưng
là:[35], [37], [39], [40], [42]
- Andelit thuộc nhóm Macma trung tính có hàm lượng Silic giao động từ
50-60%.
- Đá Liparit (Riolit) còn gọi là đá lưu vân có màu xám trắng hoặc hơi đen.
- Đá Granit hay còn gọi là đá hoa cương thuộc nhóm macma acit, là loại
đá chủ yếu, và là sản phẩm vật chất hình thành nhiều loại đất chính trong khu
vực.
Trên cơ sở 3 loại đá mẹ chính trên, qua quá trình phong hóa rửa trôi…
đã hình thành 4 loại đất chính đặc trưng thường thấy:
+ Đất bạc màu trên Macma acit và cát (Xa):
Có hầu hết ở các vùng đồi, núi thấp thường ở độ cao từ 200 -700m so
với mặt biển. Loại đất này được hình thành trên sản phẩm của đá mẹ Macma

16


acit và cát nên đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mỏng, có nhiều kết
von và đá ong trong đất cũng như trên mặt, có độ chua cao, dễ thoát nước và
nghèo chất dinh dưỡng.
+ Đất xám nâu vùng bán khô hạn (Xk):
Phân bố ở vùng bán sơn đòa, cũng được hình thành trên đá mẹ Macma acit
và phù sa cổ thuộc vùng khí hậu khô hạn. Đất có màu xám đen đến màu nâu
xám, có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mặt có nhiều sỏi, sạn và đá lộ đầu (tỷ lệ
đá lộ đầu có nơi tới 50-60%), hàm lượng dinh dưỡng thấp, chua, khô.[37]
+ Đất vàng đỏ trên đá mẹ Mac ma acit (Fa):
Có diện tích khá lớn, phân bố ở nhiều độ cao khác nhau, nhưng thường
tập trung nhiều ở vùng núi cao >700m có độ chia cắt và độ dốc lớn, tầng đất

khá dày, có thành phần cơ giới nhẹ, chua, nghèo mùn và chất dinh dưỡng, khả
năng giữ nước kém.[42]
+ Đất xói mòn trơ sỏi đá (E):
Thường ở các vùng sườn, dốc, đỉnh vùng đồi, núi có độ dốc lớn, đất bò
bào mòn rửa trôi mạnh, tầng đất mỏng < 50cm, tỷ lệ đá lẫn và lộ đầu khá cao
( 50% - 70%), nghèo chất dinh dưỡng, chua và khô, thảm thực vật nghèo nàn
(chủ yếu là cỏ và cây bụi).[35]
1.2.2 Nhân tố con người
1.2.2.1 Tình hình dân sinh kinh tế khu vực ven biển huyện Ninh Hải – tỉnh
Ninh Thuận.
+ Dân cư : tập trung ở các xã ven đồng bằng là chủ yếu, các xã miền
núi dân cư thưa thớt, sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp.
+ Dân tộc : chủ yếu có 3 dân tộc chính đó là dân tộc Kinh, Chăm, Rắc-lây.

17


+ Tôn giáo : có một bộ phận theo Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin
Lành, đạo Hồi,... còn lại chủ yếu không theo đạo.[42]
+ Dân số : Tính đến tháng 4/2004 có 22.498 hộ, 126.011 khẩu. Trong đó
dân tộc Kinh chiếm 74,76%, Rắc Lây chiếm 17,49%, Chăm chiếm tỉ lệ
7,75%.[42]
+ Tình hình kinh tế - Xã hội : là một huyện có nền kinh tế thuần nông,
chủ yếu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Công nghiệp,
dòch vụ-du lòch chưa phát triển ngang tầm với điều kiện sẵn có.[42]
1.2.2.2 Tình hình giao thông
Hiện nay, việc đầu tư các công trình giao thông đến các trung tâm xã
đã được cải thiện, một số đường liên xã như tỉnh lộ 702, 704, QL1, đã hoàn
thành, nhưng đầu tư chưa đúng mức, đã bò xuống cấp hư hỏng, khả năng mang
lại hiệu quả chưa cao. Giao thông nông thôn mức đóng góp của nhân dân còn

nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, việc đi lại của nhân dân còn
nhiều khó khăn. Khoảng cách từ xã đến trung tâm huyện lỵ còn quá xa, xã có
cự ly xa nhất đến trung tâm huyện là 40 km, chủ yếu là các xã phía bắc của
huyện.
1.2.2.3 Sản xuất nông nghiệp
Là nghề chính của cư dân sống trong vùng nghiên cứu. Do đất đai khô
cằn không chủ động được nguồn nước tưới tiêu nên hàng năm lương thực sản
xuất ra không đủ tự cung cấp. Do đó người dân thường dựa vào rừng để sinh
sống như: Săn bắt chim thú, đốt than, phát rừng làm rẫy. Trồng hoa màu, cây
ăn quả, đổi lấy các nhu yếu phẩm cần thiết. Bình quân thu nhập 170kg thóc/
năm, nếu tính cả giá trò cây công nghiệp có thể đạt 200kg thóc/năm [42]. Theo
đánh giá thì một người ở nông thôn có thu nhập như trên được xếp vào mức

18


nghèo (dưới 13kg gạo/tháng). Tỷ lệ các hộ đói nghèo chiếm 20% tổng số hộ,
con số này rơi vào hộ thuần nông và đồng bào dân tộc Raglay. Hai xã Lợi Hải
và Công Hải tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm 30% [42]. Nguyên nhân chính là do
diện tích canh tác đất nông nghiệp ít, chưa có trình độ thâm canh, phong tục
canh tác còn lạc hậu. Do đó đây cũng là điều mà các cấp cần quan tâm giúp
đỡ, tạo điều kiện cho người dân trong vùng sinh sống và phát triển kinh tế từ
rừng theo đònh hướng của ngành lâm nghiệp.
1.2.2.4 Lâm nghiệp
Hiện nay, huyện đang tiếp tục thực hiện công tác trồng rừng để nâng độ
che phủ, thực hiện giao rừng cho nhân dân và các tổ chức quản lý. Đặc biệt,
rừng khô hạn núi Chúa đã được nhà nước công nhận là VQG Núi Chúa nhằm
để lưu giữ nguồn gen, động thực vật quý hiếm cho tỉnh và cho cả nước.
Trong những năm qua, việc giao rừng cho nhân dân trên đòa bàn huyện
tập trung chủ yếu ở các xã phía Bắc của huyện và một phần của xã Vónh Hải.

Việc giao rừng, khoanh nuôi tái tạo rừng, chăm sóc, trồng rừng, chăn nuôi
dưới tán rừng trở thành một nghề của huyện.
1.2.2.5 Thủy sản
Vùng trọng điểm nuôi trồng của huyện là Đầm Nại, vùng sản xuất tôm
giống từ Tri Hải đến Nhơn Hải. Ngoài ra, đòa bàn của huyện Ninh Hải có vùng
đánh bắt hải sản tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, công tác đầu tư cơ sở hạ tầng
phục vụ cho nuôi trồng cũng như khai thác trong những năm qua chưa nhiều,
chưa mang lại hiệu quả thiết thực.[42]
1.2.2.6 Công nghiệp – Thủ công nghiệp
Phát triển chậm chưa ngang tầm với tiềm năng hiện có, chủ yếu sản
xuất muối tinh, khai thác đá chẻ, chưa có ngành công nghiệp chế biến. Mạng

19


lưới điện mới được đầu tư nên việc đưa điện vào sản xuất và tiêu dùng của
nhân dân còn hạn chế. Việc đầu tư phát triển làng nghề trong những năm qua
chưa được quan tâm, chưa tạo động lực phát triển.
1.2.2.7 Dòch vụ – Du lòch
Dòch vụ mang tính nhỏ lẻ, chủ yếu là các hộ tư nhân và tập trung ở thò
trấn và các xã đồng bằng. Nhiều xã chưa có điều kiện giao thông thuận lợi, xa
trung tâm huyện lỵ. Hiện nay đang phát triển khu du lòch Ninh Chữ, Vónh Hy Bình Tiên; tuy nhiên, việc phát triển này cũng chưa khai thác hết tiềm năng,
chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.
1.2.2.8 Về văn hóa – xã hội
- Y Tế : công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
nhân dân còn nhiều khó khăn. Toàn huyện chỉ có 1 trung tâm y tế đặt tại
huyện và 12 /12 xã đã có trạm y tế. Trong đó có 2 trạm y tế có phân trạm
(xóm Bằng - Phương Hải, Vónh Hy - Vónh Hải) nhưng đã xuống cấp, trang thiết
bò thiếu thốn.[42]
Tổng số cán bộ y tế của huyện là 130, trong đó tuyến huyện là 73 còn

lại 57 là tuyến xã. Hiện nay đã có 12/12 xã có bác só. Tuy nhiên, do trung tâm
y tế huyện quá xa các xã, nên hầu hết các xã miền núi khám chữa bệnh đều
phải sang thò xã Cam Ranh (do đi lại gần hơn).[42]
- Giáo dục: hiện nay trên đòa bàn huyện đã có 2 trường THPT, đã có
11/12 xã có trường trung học cơ sở, riêng trường tiểu học hầu hết các thôn đã
có, với số lượng là 28 trường. Hiện có 1.279 cán bộ quản lý và giáo viên,
trong đó hệ mầm non 140 giáo viên, tiểu học 695 giáo viên, trung học cơ sở
444 giáo viên. Đến nay, công tác phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ
trong toàn huyện đã có 12/12 xã. [42]

20


- Chính sách xã hội : công tác chăm sóc sức khỏe cho người có công
cách mạng, các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuy đã được quan
tâm nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thật sự đáp ứng kòp thời. Đời sống đa
số đồng bào dân tộc miền núi khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo còn nhiều. Đặc biệt
là các xã phía Bắc là vùng khô hạn, tập trung chủ yếu là dân tộc thiểu số, đời
sống khó khăn, trình độ học vấn, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn
nhiều, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa được đầu tư đúng mức.

21


CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thu thập số liệu ở thực đòa
Có nhiều phương pháp để điều tra thảm thực vật và thực vật, trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn này tôi đã áp dụng phương pháp điều tra
theo hệ thống tuyến và ô tiêu chuẩn điển hình, phỏng theo phương pháp
nghiên cứu thảm thực vật rừng của Caiw S và Castro (1960) được GS. Thái

Văn Trừng cải tiến (1999) trong “Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới ở Việt
Nam”.[21], [22], đồng thời có bổ sung thêm một số phương pháp mới trong các
tài liệu [3], [40], [47].
2.1.1 Phương pháp điều tra theo tuyến
Việc thu thập mẫu để xác đònh tên taxon và xây dựng bảng danh lục
thực vật được tiến hành qua nhiều đợt khảo sát thực đòa, vào các mùa khác
nhau trong năm (đầu mùa mưa, giữa mùa mưa, cuối mùa mưa, đầu mùa khô,
giữa mùa khô) và tùy thuộc thời gian ra hoa của một số thực vật vào các thời
điểm khác nhau trong năm.
Dựa vào đặc điểm đòa hình và thừa kế những thông tin của các đợt điều
tra nghiên cứu trước của các chuyên gia thực vật. Thảm thực vật khô hạn ven
biển huyện Ninh Hải (thuộc VQG Núi Chúa) được chia thành 5 khu vực khảo
sát cơ bản: bãi Thòt, bãi Hõm, bãi Thùng, Đồng Tròn, khu vực ven biển Bình
Tiên. Tại mỗi khu vực từ 300m trở xuống, các tuyến điều tra thu thập được
thiết lập theo các đường mòn có sẵn (được xem như là tuyến chính), các tuyến
phụ theo kiểu xương cá được mở về hai phía và đi qua các quần xã khác nhau.

22


Trên mỗi tuyến tiến hành điều tra tất cả các loài thực vật nằm ở phạm
vi 10m – 20m mỗi bên. Mỗi loài lấy từ 5 – 6 tiêu bản. Điều tra tất cả các loài
thực vật bậc cao có mạch.
Trên tuyến, tiến hành ghi chép đặc điểm các kiểu thảm thực vật, các
sinh cảnh khác nhau, thống kê các loài thực vật đã gặp và các tác động tự
nhiên hay do con người lên thảm thực vật.
2.1.2 Phương pháp ô mẫu tiêu chuẩn.
Hệ thống các ô tiêu chuẩn sẽ đại diện cho tính chất của thảm thực vật,
của khu vực nghiên cứu, do đó ô mẫu tiêu chuẩn phải được chọn một cách
ngẫu nhiên và đảm bảo đại diện cho hầu hết các khu vực khác nhau (các sinh

cảnh khác nhau) trong phạm vi nghiên cứu.
Để đạt được những phân tích chính xác về thành phần loài và xác đònh
được các loài ưu thế trong cấu trúc thảm thực vật thì tất cả các loài được đo
đạc trong ô phải được thu mẫu để xác đònh chính xác tên khoa học của loài.
Các mẫu thu ưu tiên có đầy đủ hoa, quả, tuy nhiên trong nghiên cứu cấu
trúc thảm thì có rất nhiều loài cần thu mẫu để xác đònh nhưng lại không có
được các tiêu chuẩn này, do đó chấp nhận việc thu mẫu chỉ có cành và lá.
Trong trường hợp này, các mẫu thu nhiều tiêu bản để tiện cho việc phân tích
và xác đònh tên khoa học, điều đó sẽ đảm bảo tính chính xác cao hơn. Các
mẫu thu được ghi kèm các thông tin liên quan đến đòa điểm và những đặc tính
của thực vật cần thiết cho việc xác đònh, đồng thời cũng ghi những nhận đònh
tạm thời cho những loài có thể.
Kích thước ô tiêu chuẩn:
Kích thước ô phụ thuộc vào các kiểu thảm thực vật, các sinh cảnh.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi đã chọn các kích thước 40m x 40m, ở

23


×