Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

skkn rèn luyện kỹ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.88 KB, 27 trang )

GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ
ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là
tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện giáo dục dựa vào hoạt động tích
cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên, nhằm phát
huy tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.
Khoản 2, Điều 28 của Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù
hợp với đặc điểm của từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.”
Là giáo viên dạy môn Ngữ văn, bản thân tôi nhận thấy mục tiêu dạy học
môn Ngữ văn là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao
đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, và đặc biệt là khả năng thích
ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện nay.
Để đạt được những mục tiêu trên, người giáo viên cần tổ chức cho học sinh
học tập bằng các biện pháp nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói đọc, viết.
Trong đó rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các giờ học Ngữ văn là vô cùng
quan trọng. Bởi muốn học sinh nói sao cho rõ nghĩa, nói sao cho người nghe hiểu,
đồng thời thông qua ngôn ngữ nói, học sinh bày tỏ quan điểm, tình cảm, khả năng
giao tiếp của mình trước mọi người là điều không phải ai cũng thực hiện tốt.
Xuất phát từ những lý do trên, là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn,
tôi nhận thấy việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua giờ học Ngữ văn là việc
làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, vừa hình thành


phong cách cho học sinh, giúp các em trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong
cuộc sống.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã có sự tìm tòi học hỏi và vận dụng trong các
giờ dạy có hiệu quả, từ đó tôi rút ra vấn đề mang tính kinh nghiệm và lựa chọn vấn
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 1


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

đề “Rèn luyện kỹ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh THPT” làm đề tài
nghiên cứu.
Tuy đã cố gắng đầu tư nghiên cứu, nhưng đề tài chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những hạn chế. Xin chân thành kính mong và tiếp thu những ý kiến đóng góp
của quý thầy cô.

II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao
tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn
ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ
để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe,
nói, đọc, viết cho học sinh.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
Giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013) đã ghi “Đối với
giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực công dân, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho

học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức lối sống, ngoại ngữ tin học, năng lực và kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn.......”.
Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông
tin, thì nói, viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông
tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám
phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương thì học sinh phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết,
phải biết phát triển tư duy thành lời (ngôn bản). Muốn người nghe hiểu cho được
thì người nói phải nói phải nói cho mạch lạc, logic, phải đảm bảo các quy tắc hội
thoại, phải chú ý các cử chỉ, nét mặt, âm lượng....... Vì thế, rèn luyện kỹ năng nói là
việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp phần nâng cao
chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Rèn luyện kỹ năng nói tốt sẽ giúp
người học có một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.

2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong thực tiễn giảng dạy ở trường, đa số học sinh chưa có kỹ năng nói
trước tập thể, rất ngại nói, không tự tin nói trước đông người. Hơn nữa với thời
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 2


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

gian ít ỏi (45 phút) của một tiết học, không tạo điều kiện cho học sinh có nhiều cơ
hội nói. Vì vậy, trong một giờ học, chỉ những em học lực khá giỏi, mạnh dạn mới
dám nói, còn những em học sinh học lực trung bình, yếu lại thụ động, thiếu tự tin,

lười nói. Đa số giáo viên trong giờ dạy chỉ chú trọng khai thác trọng tâm kiến thức
của bài học, bỏ quên bước rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Một thực tế khác, khi tham gia nói trong các tiết học, lời nói của học sinh
không tự nhiên, học sinh thường nói lủng củng, ngập ngừng, không rõ ràng, có
nhiều em có dự kiến trong đầu nhưng không diễn đạt được rõ thành câu có nghĩa.
Trong khi nói, có em còn sử dụng từ địa phương, điều này ảnh hưởng đến hoạt
động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này.
Một thực trạng nữa trong các giờ học Ngữ văn là các em nói như đọc, không
kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng,… làm cho
quá trình nói của các em thiếu tự tin, thiếu tư thế, tác phong phù hợp. Đã có học
sinh chân thành phát biểu rằng: “Rất ngại và sợ phải nói trong các giờ học Ngữ
văn”.
Với những nội dung đã nêu ở trên, giáo viên gặp nhiều khó khăn khi trong
một giờ giảng vừa phải truyền đạt được đủ, đúng trọng tâm kiến thức bài học, vừa
rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh. Từ đó đặt ra vấn đề giáo viên phải tạo cho học
sinh sự tự tin, mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kỹ
năng nói, hình thành cho học sinh chuẩn mực khi nói, góp phần nâng cao chất
lượng môn học, đồng thời thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ văn.
Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ
văn của học sinh, trước hết, mỗi thầy cô giáo phải là người tìm ra được những biện
pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra điều mình tư duy, cảm thụ
trong những giờ học Ngữ văn.
Rèn luyện kỹ năng nói tốt, giáo viên vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày
tỏ suy nghĩ cảm xúc những điều các em cảm thụ, vừa giúp các em phân tích, đánh
giá một cách tự tin trước tập thể, đồng thời cũng là biện pháp khắc phục những
khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy
học môn Ngữ văn.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các giờ học Ngữ

văn, các biện pháp không thể tiến hành riêng lẻ và cũng không phải chỉ ở một số
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 3


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

tiết, một số giai đoạn. Nó phải có tính hệ thống kết hợp và liên tục. Bởi vậy, cũng
không có một mô hình chính thức cho việc phát triển giáo dục kỹ năng này mà đòi
hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong mỗi giờ dạy.
Các giải pháp tôi đưa ra đề tài này chỉ là những giải pháp trong từng tình huống cụ
thể.
 GIẢI PHÁP 1: Đưa học sinh vào tình huống trong các giờ học văn.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
Trong các giờ học giáo viên luôn phải biết đưa học sinh vào những tình
huống có vấn đề để các em thực sự suy nghĩ. Từ những kiến thức có sẵn, cộng với
sự nỗ lực của bản thân, các em chiếm lĩnh vấn đề rồi có nhu cầu và khả năng bộc
lộ suy nghĩ và tiếng nói của mình.
Bản thân tôi khi đảm nhiệm công việc dạy Ngữ văn ở trường THPT Lê
Hồng Phong, tôi luôn cố gắng xây dựng mối quan hệ giao tiếp trong giờ học Ngữ
văn, trong đó học sinh là chủ thể giao tiếp với tác phẩm, giáo viên là trung gian
hướng dẫn học sinh tiếp cận các tác phẩm trên phương diện cuộc sống của tác
phẩm, nhân vật, các thế hệ độc giả, nhà văn và giáo viên. Trong các giờ học tôi đưa
ra các tình huống giả định, khi phân tích tìm hiểu tác phẩm, tạo cho học sinh có cơ
hội phát biểu ý kiến, cảm nghĩ. Bên cạnh đó tôi kết hợp với các phương tiện nghe,
nhìn, có thể giúp học sinh hình tượng hóa nhân vật, bối cảnh, diễn biến để tạo sự
kích thích gây ấn tượng với học sinh giúp các em trình bày ý kiến của mình.

b) Quá trình thực nghiệm:
Cụ thể khi dạy văn bản “Cảnh ngày hè” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp
10C1, Trường THPT Lê Hồng Phong, tôi đã trình chiếu trước học sinh một số hình
ảnh thiên nhiên có trong bài học như cây hòe, hoa thạch lựu, sen hồng, và yêu cầu
học sinh nhập vai người thưởng thức bức tranh và vẽ lại bức tranh ngày hè bằng
ngôn từ của mình.
Em Cao Thụy Bích Phượng học sinh lớp 10C1 đã vẽ lại được bức tranh ấy
bằng ngôn từ: “Thưa cô, bức tranh ngày hè nổi bật với những tán lá hòe xanh thẫm,
cành lá xum xuê, đùn lên thành chùm như chiếc ô căng tròn. Trong cành lá xanh
biếc những đóa hoa lựu như chiếc những chiếc đèn lồng bé xíu phóng ra những tia
lửa đỏ, sen hồng đã nở thắm ao làng”.
Em Bùi Công Nguyên Nam học sinh lớp 10C1 đã nhận xét phần trả lời của
bạn: “Bạn trả lời to, rõ ràng nêu bật được vẻ đẹp sống động của bức tranh, qua
những ngôn từ chính xác”.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 4


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

Hay khi dạy văn bản “Tấm Cám” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10C2,
Trường THPT Lê Hồng Phong, tôi có đưa ra tình huống: “Nếu em là Tấm, khi
được trở lại làm hoàng hậu em sẽ cư xử thế nào với Cám, vì sao?”.
Em Kiên Hồng Hạnh lớp 10C2 phát biểu: “Em đồng tình với hành động trả
thù của Tấm với mẹ con Cám vì sức chịu đựng của con người có giới hạn.”
Em Mai Thu Thảo lớp 10C2 lại có ý kiến: “Em sẽ bắt mẹ con Cám đi biệt
xứ vì em không nỡ giết Cám”.

Khi dạy học văn bản “Tỏ Lòng” (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10C5 ở
Trường THPT Lê Hồng Phong, tôi đặt tình huống: “Hãy nêu cảm nhận của em về
hình ảnh người anh hùng thời Trần mà em đã được học qua các tác phẩm văn học”.
Qua bài “Tỏ lòng”, em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp trang nam nhi thời Trần và ý nghĩa
vẻ đẹp đó trong đời sống hiện tại ?
Khi dạy bài "Tây Tiến'' của Quang Dũng tại lớp 12A6 ở trường THPT Lê
Hồng PHong, tôi có nêu tình huống'' Hãy nêu cảm xúc của tác giả trong đoạn thơ
cuối của bài thơ là gì"?
Em Khổng Mộng Tuyền lớp 12A6 có phần trả lời: " Theo em đó là lời thề
của những chàng trai ra đi bảo toàn sông núi với tinh thần nhất khứ bất phục hoàn.
"
c) Kết quả giải pháp:
Từ việc đưa học sinh vào tình huống trong các giờ đọc văn, học sinh các lớp
tôi dạy đã đó suy nghĩ, liên tưởng, so sánh và bộc lộ hiểu biết của mình qua ngôn
ngữ nói, giáo viên lắng nghe, đánh giá và uốn nắn nhằm đi đến một đáp án đúng
nhất. Bằng cách làm đó tôi đã phần nào rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua giờ
đọc văn mà vẫn đảm bảo thời gian và kiến thức trọng tâm của một giờ học.
 GIẢI PHÁP 2: Đặt hệ thống câu hỏi trong các giờ đọc văn.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
Trong quá trình soạn bài, tôi luôn ý thức rằng hệ thống câu hỏi được sử dụng
như một phương tiện để tổ chức, hướng dẫn quá trình nhận thức của học sinh. Hệ
thống câu hỏi phải đảm bảo tính chính xác của nội dung bài học, phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh, đồng thời giáo viên cũng dự kiến được mức độ trả lời
để kịp thời chỉnh sửa, uốn nắn cách dùng từ đặt câu của các em. Không những thế,
hệ thống câu hỏi trong các bài giảng của giáo viên phải là những câu hỏi kích thích
bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc khái quát của học sinh, tạo cơ hội để các em thể hiện
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 5



GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

năng lực nói rõ nhất, quá trình học sinh trả lời có sự điều chỉnh, nhận xét, uốn nắn
của thầy cô, và các bạn chính là rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh (gồm cả học
sinh phát biểu và học sinh nhận xét).
b) Quá trình thực nghiệm:
Trong những năm học 2011-2012 và 2012-2013 tôi đã áp dụng giải pháp
trên khi dạy giờ Ngữ văn ở các lớp 10C1, 10C2, 10C5, tại trường THPT Lê Hồng
Phong. Cụ thể khi dạy đọc văn một số văn bản sau:
Dạy bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp
10C2, tôi có hỏi các em một số câu hỏi để khai thác nội dung bài học và giáo dục
kỹ năng nói:
- Em có cảm nhận như thế nào về hai câu thơ:
“ Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
- Xuất phát từ quan niệm của tác giả về dại và khôn, em hãy giải thích rõ hơn
về triết lí nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ? Qua đó nhận xét gì về con người của
Nguyễn Bỉnh Khiêm ?
Hay khi dạy văn bản “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
(Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10C3, tôi có hỏi các em như sau:
- Em hãy phân tích hành động của An Dương Vương chém đầu Mị Châu khi
biết “kẻ ngồi sau lưng chính là giặc” ?
- Chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, rẽ nước đi xuống biển thể
hiện quan điểm thái độ gì của nhân dân ?
Hoặc khi dạy văn bản “Tấm Cám”(Ngữ văn 10, Tập một) tại lớp 10C1, tôi
hỏi :
- Em hãy nhận xét về những vật mà Tấm hóa thân ?

- Em thích lần hóa thân nào của Tấm nhất ? Vì sao ?
- Tại sao khi ẩn mình trong quả thị Tấm không bị mẹ con Cám phát hiện ?
- Mâu thuẫn của Tấm với mẹ con Cám có phải là mâu thuẫn trong gia đình
giữa dì ghẻ - con chồng?
Khi dạy văn bản “ Đọc Tiểu Thanh Ký” tại lớp 10C5, tôi có hỏi:
- Em cảm nhận gì thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa và tấm lòng nhân
đạo của Nguyễn Du ?

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 6


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

- Năm học 2013-2014 khi dạy bài " người lái đò sông Đà'' ở lớp 12A6 tôi có
hỏi học sinh: Đoạn văn " Còn xa lắm mới đến cái thác dưới...........hòn nào cũng
nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này"
- Đoạn văn trên viết theo phương thức nào là chính? Vì sao?
- Nội dung chủ yếu của đoạn văn là gì?
- Nguyễn Tuân đã sử dụng tổng hợp tri thức của những nghành nào?
c) Kết quả giải pháp:
Trong quá trình giảng dạy một số tiết Ngữ văn lớp 10 tại trường THPT Lê
Hồng Phong, khi giáo viên đưa ra những câu hỏi gợi mở như vậy học sinh đã có rất
nhiều đáp án trả lời khác nhau. Cụ thể :
Ở lớp 10C2, các em trả lời câu hỏi liên quan tới hai câu thực của bài “Nhàn”
như sau:
- “Em hiểu nơi vắng vẻ là nơi ít người, chốn lao xao là chỗ nhiều người”, có

em lại trả lời “nơi vắng vẻ là nơi vắng lặng, chốn lao xao là chốn kinh thành”, giáo
viên nhận xét, điều chỉnh, nhắc nhở:
- “Khi trả lời thầy cô các em phải thưa gửi để thể hiện văn hóa lễ độ, kính
trọng thầy cô. Theo cô “nơi vắng vẻ” là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái
trong tâm hồn, “chốn lao xao” là chốn đô hội cửa quyền, nơi con người bon chen
danh lợi, lắm âm mưu, nhiều sát phạt. Em thấy cách nói nào hay ? Bằng cách đặt
câu hỏi, lắng nghe và uốn nắn học sinh trong quá trình trả lời, giáo viên đã phần
nào rèn luyện kỹ năng nói cho các em qua các giờ đọc văn.
 GIẢI PHÁP 3: Tạo hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong các giờ học văn.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
Ở giải pháp này, trước khi tiến hành mỗi giờ dạy trên lớp tôi thường trăn trở
“ Văn học là nhân học”. Từ xưa tới nay, trong việc giáo dục con người, văn
chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ nhận tầm
quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã hội. Người
giáo viên chính là những kỹ sư tâm hồn, điều đó rất đúng với các thầy cô dạy Văn,
vì Ngữ văn bồi đắp cả kiến thức, tâm hồn, lẫn kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ
năng nói.
b) Quá trình thực hiện:
Nếu trước đây một giờ dạy tốt trong môn Ngữ văn đồng thời là một giờ dạy
hay, học sinh có thể say mê đọc sách, say sưa nghe giáo viên bình văn thầy và trò
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 7


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

là những người tri âm đồng cảm, người thày rót vào tai trò những điều thầy tâm

đắc thì giờ đây, khi giảng dạy ở một ngôi trường trong nội thành tôi nhận thấy học
sinh được tiếp xúc với xã hội từ rất sớm có những điều người dạy cho là chuẩn
mực thì học sinh lại không nhất trí. Vì thế trong giờ Ngữ văn học sinh không chỉ
tiếp nhận kiến thức, trải nghiệm cảm xúc mà còn được bày tỏ ý kiến quan điểm cá
nhân của mình, rèn luyện kỹ năng sống trong đó có kỹ năng nói. Để làm được điều
này người giáo viên phải tạo ra không khí giờ học thân thiện bằng một thái độ thân
tình cởi mở. Trước giờ dạy, tôi thường xác định với học sinh mục tiêu chung mà cô
trò sẽ thực hiện trong tiết học để khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm, thống nhất với
học trò sẽ phối hợp nhịp nhàng trong giờ học, động viên khích lệ để các em tự tin,
hăng hái phát biểu xây dựng bài, bằng kiến thức suy nghĩ và tư duy ngôn ngữ của
các em, tránh tạo khoảng cách quá xa giữa thầy cô và học sinh, khơi gợi không khí
học tập hào hứng sôi nổi, thái độ sẵn sàng hợp tác của học sinh với giáo viên và
ngược lại, tránh những phê bình áp đặt khiến học sinh hụt hẫng, xấu hổ không
muốn tiếp tục bộc lộ tiếng nói của mình, từ đó dẫn đến tâm lý e dè, ngại, thậm chí
sợ thầy cô hỏi đến mình .
c) Kết quả giải pháp:
Khi người giáo viên tạo ra một không khí học tập thân thiện, nhẹ nhàng, có
hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi, học sinh dễ dàng bộc lộ suy nghĩ, kiến thức của các
em. Thông qua đó, tôi cũng nắm bắt được kỹ năng nói của từng em và kịp thời uốn
nắn, giáo dục. Vấn đề này tương đối khó, phụ thuộc vào nghệ thuật, vào năng lực
sư phạm và sự dẫn dắt trong bài giảng của mỗi giáo viên.
 GIẢI PHÁP 4: Tổ chức thảo luận nhóm trong các giờ học văn.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
Thảo luận nhóm cũng là một cách rèn luyện kỹ năng nói. Ở đó có ba thời
điểm các em được luyện nói: đóng góp ý kiến, đại diện nhóm trình bày kết quả, các
nhóm khác nhận xét bổ sung.
Trong một tiết Ngữ văn, tôi thường thiết kế 2-3 câu hỏi thảo luận nhóm, thời
gian thảo luận từ 2-3 phút, thường là dạng câu hỏi mở, câu hỏi ngắn, học sinh tư
duy trả lời .
Trước hết, cá nhân trình bày quan điểm của mình trước nhóm. Từ các ý

kiến, nhóm trưởng khái quát lại nội dung mà nhóm nhất trí, rồi trình bày ý kiến của
nhóm trước lớp. Sau cùng tôi nhận xét: Nội dung nói đáp ứng yêu cầu của câu hỏi

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 8


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

thảo luận hay không, học sinh khi trình bày có lưu loát mạch lạc, làm nổi rõ vấn đề
hay không, giọng nói quá nhỏ, cách nói ê a....
b) Quá trình thực nghiệm:
Một số câu hỏi thảo luận nhóm tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy
Ngữ văn lớp 10 tại trường THPT Lê Hồng Phong ở năm học 2012-2013 trong tiết
đọc hiểu văn bản. Thời gian thảo luận từ 1-3 phút.
Ở bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy”, khi học sinh
học đến bi kịch nước mất, nhà tan và bi kịch tình yêu tan vỡ, giáo viên cho học
sinh thảo luận câu hỏi:
Nhóm 1: Việc Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần có hai cách
đánh giá:
- Mị Châu làm như vậy là chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa
vụ đối với đất nước .
- Mị Châu làm theo ý chồng là lẽ tự nhiên, hợp đạo lí.
Ý kiến của em thế nào ?
Nhóm 2: Theo em Mị Châu nghĩ gì khi nàng quỳ gối, không phải để xin vua
cha tha chết mà quỳ khấn “ chết biến thành ngọc” ?
Nhóm 3: Chi tiết “ ngọc trai giếng nước” thể hiện thái độ tình cảm gì của

nhân dân ta đối với Mị Châu ?
Ở bài “Tấm Cám”, khi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa những lần biến hóa của
Tấm. Học sinh thảo luận câu hỏi:
- Tấm phải nhiều lần hóa thân mới trở lại cuộc đời. Qua đó dân gian muốn
nêu triết lí gì về cuộc sống ?
Ở bài “Nhàn”, để củng cố bài học tôi cho học sinh thảo luận nhóm câu hỏi:
- Em hãy phác họa bức chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn” ?
- Năm học 2013-2014 khi dạy tác phẩm '' Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô
Hoài ở lớp 12A3. Học sinh học đến chi tiết nhân vật Mỵ cắt dây cởi trói cho
A Phủ tôi có cho học sinh thảo luận:
- Nhóm 1 : Các từ láy ''rón rén", hốt hoảng", "thì thào" đạt hiệuquả nghệ thuật
như thế nào khi diễn tả quá trình Mị cởi trói cho A Phủ?
- Nhóm 2: Tại sao câu văn Mị đứng lặng trong bóng tối được tách thành dòng
riêng?
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 9


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

- Nhóm 3: Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ về tình yêu thương con
người của tuổi trẻ hôm nay?
- Nhóm 4; Xác định ý nghĩa nghệ thuật của hình ảnh cái cọc và dây mây
trong văn bản?
(Đối với một số tiết dạy làm văn nghị luận xã hội giáo viên có thể áp dụng
cách làm này. Thầy cô đưa ra những đề văn mở có thể tạo ra những hướng lựa
chọn khác nhau như “Tình yêu hay tình bạn tuổi vị thành niên”, “Sống ích kỉ hay

vị tha”, “Nữ sinh nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại đến trường”.
Giáo viên chia lớp thành hai hoặc bốn nhóm, mỗi nhóm theo một hướng lựa chọn
và tranh luận với nhóm kia để bảo vệ quan điểm của mình).
c) Kết quả giải pháp:
Trong quá trình giảng dạy tôi nhận ra rằng: việc áp dụng hình thức thảo luận
nhóm trong các giờ học văn tạo nên một sự hứng thú rất lớn cho học sinh. Thông
qua thảo luận nhóm, học sinh thể hiện được quan điểm của riêng mình, được trình
bày những suy nghĩ của mình, đồng thời đưa ra những lập luận để bảo vệ quan
điểm của mình. Những giờ học tổ chức thảo luận nhóm là những giờ học vô cùng
tích cực, sôi nổi, phát huy tính chủ động sáng tạo trong tư duy học sinh, đồng thời
góp phần định hướng rèn luyện cho học sinh những kỹ năng lập luận, kỹ năng
tranh biện, ..... và hơn hết là kỹ năng nói cho học sinh.
 GIẢI PHÁP 5: Tổ chức thuyết trình theo nhóm trong các giờ học văn.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
Giáo viên tổ chức lớp thành bốn nhóm học tập, giao cho mỗi nhóm một vấn
đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học) yêu cầu các nhóm chuẩn bị nội dung
thuyết trình (nội dung này các nhóm có thể tìm hiểu ở trên lớp, hoặc ở nhà). Thầy
cô sẽ là người ấn định thời gian và thời lượng để các nhóm thuyết trình.
b) Quá trình thực nghiệm:
Tôi đã từng áp dụng hình thức này trong quá trình giảng dạy các tiết tìm
hiểu về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tư cách là tác gia văn học dành cho học sinh
lớp 10 trường THPT Lê Hồng Phong năm học 2011-2012, 2012-2013.
Cụ thể với giờ học về tác gia Nguyễn Trãi, theo phân phối chương trình giờ
học này được dạy trong một tiết. Tôi chia lớp thành bốn nhóm và yêu cầu các
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 10


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

nhóm chuẩn bị ở nhà một vấn đề liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp văn chương
của Nguyễn Trãi xoay quanh những câu hỏi giáo viên đặt ra như sau:
Nhóm 1: Trình bày những nét chính về cuộc đời Nguyễn Trãi ?
Nhóm 2: Vì sao nói Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử vĩ đại ?
Nhóm 3: Vì sao nói Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận kiệt xuất ?
Nhóm 4: Tư tưởng nhân nghĩa yêu nước và nhân văn của Nguyễn Trãi được
thể hiện như thế nào trong thi ca ?
Năm học 2013-2014 khi dạy bài ' Tây Tiến " của nhà thơ Quang Dũng tôi có
yêu cầu học sinh thuyết trình những vấn đề sau:
Nhóm 1 : Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên miền Tây tổ quốc?
Nhóm 2 :Cảm nhận của em về vẻ đẹp kiêu hùng hào hoa của người lính Tây
Tiến?
Mỗi nhóm có 10 phút để thuyết trình về vấn đề đã được chuẩn bị. Khi
trưởng nhóm lên thuyết trình, các nhóm lắng nghe, đánh giá về nội dung, giọng
nói, cử chỉ, điệu bộ. Cuối cùng, cô là người chốt lại những vấn đề cơ bản, có thể
định hướng cho học sinh mở rộng hiểu biết về tác giả hơn. Bằng cách làm đó,
người giáo viên cũng phần nào rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói thông qua các
tiết đọc văn.
Cũng bằng giải pháp này, tôi còn áp dụng khi dạy bài phương pháp thuyết
minh, cũng là thời gian gần đến tết Nguyên đán. Tôi chia lớp học thành bốn nhóm,
mỗi nhóm 10 học sinh, các nhóm tự chọn và tìm hiểu một vấn đề khác nhau liên
quan đến ngày tết cổ truyền của dân tộc (tôi cho các em một tuần chuẩn bị). Đến
giờ học các em báo cáo bài thuyết trình của mình trong 7 phút. Sau mỗi phần
thuyết trình, các nhóm đều lắng nghe những lời góp ý chân tình cởi mở của giáo
viên .
c) Kết quả giải pháp:
Khi tổ chức lớp học thuyết trình theo nhóm, tôi thấy các em cảm thấy vui,

phấn khởi trước những lời góp ý của tôi, từ đó rút kinh nghiệm cho những bài học
sau. Cách làm trên của tôi cũng đã phần nào rèn luyện các em kỹ năng nói trong
giờ học Ngữ văn.
 Giải pháp 6: Tổ chức giờ dạy theo mô hình phỏng vấn chuyên gia.
a) Cách thức tổ chức thực hiện giải pháp:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 11


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

Thầy cô giao vấn đề, yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ ở nhà. Giờ học trên lớp,
thầy cô tổ chức thành một diễn đàn đối thoại, cử ra một học sinh làm phóng viên,
thầy cô giáo làm chuyên gia (có thể chọn một học sinh khá giỏi), để phóng viên
phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề xoay quanh bài học, tất cả học sinh còn lại
tham gia với tư cách người đối thoại với chuyên gia .
b) Quá trình thực nghiệm:
Tôi đã áp dụng mô hình này khi dạy bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế
kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Giờ học ở lớp, giáo viên tổ chức lớp thành một diễn đàn
đối thoại theo kiểu đối thoại với chuyên gia, giáo viên là chuyên gia và tất cả học
sinh là những người đối thoại. Thông qua trao đổi, kiến thức của bài học dần hiển
lộ trong đầu óc của học sinh. Sau khi đối thoại, chuyên gia dành một trò chơi ở
dạng trả lời câu hỏi nhanh, đúng, hay sẽ có thưởng. Với cách làm trên, tôi cũng đã
phần nào rèn luyện được kỹ năng nói cho học sinh qua giờ học .
c) Kết quả giải pháp:
Khi tôi áp dụng mô hình học tập này, trên thực tế, có những học sinh đã tư
duy và đặt câu hỏi hay như : “Tại sao Vũ Nương là người vợ, người mẹ mà tác giả

lại gọi nhan đề tác phẩm là người con gái Nam Xương”, hay một học sinh khác lại
hỏi “Tại sao lại đưa các tác phẩm lịch sử như Đại việt sử kí ... vào dạy trong môn
Ngữ văn ?”. Từ đó có thể thấy việc áp dụng mô hình dạy học này trong tiết Ngữ
văn có một ý nghĩa rất lớn, mở ra môi trường học tập cởi mở để học sinh tiếp thu
kiến thức chủ động tích cực, đồng thời giáo viên trực tiếp uốn nắn, rèn luyện kỹ
năng nói cho học sinh hiệu quả.
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Qua sáu năm được phân công giảng dạy môn Ngữ văn tại trường THPT Lê
Hồng phong, với những cố gắng của tôi trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho học
sinh qua giờ đọc văn (và một số tiết học khác), bằng những giải pháp đã nêu trên,
tôi nhận thấy đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh các lớp do tôi dạy tham gia
phát biểu sôi nổi, có chiều hướng ham thích học môn Văn hơn, có tinh thần tự
giác, ý thức được việc học tập. Những giải pháp trên tôi thực hiện giúp học sinh
mạnh dạn hơn khi nói trước đám đông, những em học sinh yếu, lười không còn ỷ
lại, trông chờ vào những em học khá. Từ em học khá đến em học yếu đều có thể
nói được trước lớp .
Qua quá trình thực hiện các giải pháp trên, kết quả chất lượng các bài kiểm
tra miệng và kết quả kiểm tra bài viết các lớp tôi dạy dần được nâng cao .
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 12


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

Năm học 2011- 2012, chất lượng khảo sát đầu năm môn ngữ văn ở các lớp
10C2, 10C5, 10C9, 10C10 do tôi giảng dạy có 60% học sinh đạt điểm trung bình
trở lên (không có điểm giỏi 8; 9).

Hết học kỳ I: 70% học sinh nói suôn sẻ, diễn đạt gọn gàng, dễ nghe, trình
bày nội dung tương đối đầy đủ, dẫn tới điểm trung bình môn Ngữ văn đạt 85%
trung bình trở lên (cao hơn so với bài khảo sát chất lượng đầu năm) .
Hết học kỳ II: 85% học sinh khi trình bày một vấn đề tương đối gãy gọn,
rất tự tin trước tập thể, mạnh dạn, điểmn trung bình môn Ngữ văn đạt 96% trung
bình trở lên (cao hơn so với học kỳ I).
Năm học 2013 -2014, tôi được nhà trường giao nhiệm vụ bồi dưỡng học
sinh giỏi tỉnh môn Ngữ văn lớp 10. Đội tuyển do tôi bồi dưỡng được chọn lọc từ
những lớp tôi trực tiếp giảng dạy gồm có:
1. Mai Thu Thảo lớp 10C2
2. Kiên Hồng Hạnh lớp 10C2
3. Nguyễn Văn Dương lớp 10C1
4. Trần Thị Phương lớp 10C1
5. Nguyễn Thị Cẩm lớp 10C3
Các em đi thi đã mang về những kết quả đáng phấn khởi 2 giải ba, 2giải
khuyến khích. Kết quả các em đạt được qua các bài viết có phần góp sức của tôi
trong quá trình bồi dưỡng kiến thức và rèn luyện kỹ năng nói cho các em. Bởi khi
các em có kỹ năng nói tốt, biết lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt, sẽ bổ trợ có hiệu quả
cho quá trình viết của các em.
Bên cạnh nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi, Ban giám hiệu phân công cho
tôi giảng dạy 4 lớp: 10C1, 10C3, 12A6, 12A3 Trong quá trình giảng dạy, tôi đã
thực hiện các giải pháp rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong các giờ đọc văn.
Kết quả là học sinh đã nâng cao được kĩ năng nói, và một số phẩm chất khác, điều
đó được thể hiện qua bản thống kê sau:

Lớp
dạy

Sĩ số ( Tình trạng đầu
học

năm
sinh)

Tình trạng
cuối học kỳ I

Kết quả
khảo sát
chất
lượng

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Kết
Kết
quả bài quả bài
thi học thi học
Trang 13


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

đầu năm

kỳ I

kỳ II


10 C1

40

20 học sinh
tự tin trước tập
thể diễn đạt
khá, câu đủ nội
dung, đúng ngữ
pháp . Còn lại
20 học sinh e
dè, ấp úng khi
nói, diễn đạt
lủng củng, dài
dòng, câu
không rõ nghĩa,
không theo
trình tự nội
dung vấn đề.

32 học sinh
tự tin trước
tập thể diễn
đạt lưu loát,
trôi chảy, câu
đủ nội dung
đúng ngữ
pháp .

24 học

sinh
(
60% học
sinh) đạt
điểm từ
5 điểm
đến
7
điểm

30 học
sinh (
75%)
từ
5
điểm
đến 8
điểm

40 học
sinh (
100%)
từ
5
điểm
đến 8,5
điểm

10C3


42

18 học sinh
tự tin trước tập
thể diễn đạt
khá, câu đủ nội
dung, đúng ngữ
pháp . Còn lại
24 học sinh e
dè, ấp úng khi
nói, diễn đạt
lủng củng, dài
dòng, câu
không rõ nghĩa,
không theo
trình tự nội
dung vấn đề.

30 học sinh
học sinh) tự
tin trước tập
thể diễn đạt
lưu loát, trôi
chảy , câu đủ
nội dung,
đúng ngữ
pháp.

21 học
sinh

(50%
học sinh
đạt điểm
từ
5
điểm
đến
7
điểm

30 học
sinh
(71,4%
) từ 5
điểm
đến 8
điểm

36 học
sinh
(85,7%
) từ 5
điểm
đến 8,5
điểm

12A3

40


16 học sinh
tự tin trước tập
thể diễn đạt
khá, câu đủ nội

28 học sinh
tự tin trước
tập thể diễn
đạt lưu loát,

18 học
sinh
(45%
học sinh

28 học
sinh
(70%)
từ
5

34 học
sinh
(85%)
từ
5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 14



GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

dung, đúng ngữ
pháp. Còn lại
24 học sinh e
dè, ấp úng khi
nói, diễn đạt
lủng củng, dài
dòng, câu
không rõ nghĩa,
không theo
trình tự nội

trôi chảy, câu
đủ nội dung,
đúng ngữ
pháp .

đạt điểm điểm
điểm
từ
5 đến 7,5 đến 7,5
điểm
điểm.
điểm.
đến

7
điểm.

V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
1. ĐỀ XUẤT:
Về phía giáo viên:
Muốn đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng nói cho học sinh qua giờ học Ngữ
văn giáo viên cần:
Đầu tư vào các bài giảng, nghiên cứu kỹ các phương án, mô hình học tập
để có thể trực tiếp giáo dục kỹ năng nói cho các em trong mỗi giờ học, mà vẫn đảm
bảo kiến thức trọng tâm.
Ngay từ đầu xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những quy định
đối với học sinh về viêc học nói chung, môn văn nói riêng.
Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh, dẫn dắt học sinh thể
hiện quan điểm cá nhân của mình bằng ngôn ngữ nói .
Về phía học sinh:
Đầy đủ dụng cụ học tập, bảng phụ, chuẩn bị cả về ngôn ngữ để hành văn lưu
loát .
Mỗi cá nhân cần phải tự tin, thoải mái khi tham gia thảo luận hoặc nói trước
nhóm, trước lớp.
2. KHUYẾN NGHỊ:
Đối với giáo viên các cấp học dưới cần chú ý hơn đến việc giáo dục kỹ năng
nói, phát âm, dùng từ chuẩn cho học sinh .

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 15


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

Giáo viên dạy Ngữ văn trung học phổ thông cần có sự đầu tư giảng dạy
trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh và phải thực hiện thường xuyên
đồng bộ từ lớp 10 đến lớp 12.
Đối với các tổ bộ môn, cần tổ chức các hoạt động chuyên môn về việc rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh, để giáo viên được giao lưu, trao đổi, học hỏi.
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần cung cấp tài liệu, băng hình về việc rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh trong dạy học môn Ngữ văn.
Tóm lại, dạy Văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng
tạo. Do vậy người giáo viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng một cách
linh hoạt các mô hình dạy học. Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh qua các giờ
đọc văn là một hoạt động mang tính chuyên môn của người giáo viên dạy Văn.
Vấn đề tôi trình bày dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm, không có mong muốn
gì hơn là được bày tỏ những đóng góp nhỏ vào công việc giảng dạy môn Ngữ văn
trong trưong THPT, rất mong nhận được sự góp ý quý báu từ các thầy cô. Trong
quá trình giảng dạy, tôi sẽ nỗ lực nhiều hơn nữa để làm tốt nhiệm vụ của người
giáo viên dạy Văn.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Luật Giáo dục năm 2005.
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
3. Giảng văn Văn học Việt Nam - Lê Bảo, Hà Minh Đức - NXB Giáo dục
4. Lý luận Văn học - Phương Lựu - NXB Giáo dục.
5. Hướng dẫn học và thực hành Ngữ văn 10 toàn tập - Phạm Quang Vũ - NXB
tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
6. Dạy văn học văn - Đặng Hiển - NXB Sư phạm.
7. Nâng cao kỹ năng làm bài văn - Nhiều tác giả - NXB Giáo dục.
8. Văn học gần xa - Hoàng Ngọc Hiến - NXB Giáo dục.


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 16


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

NGƯỜI THỰC HIỆN.
NGUYỄN THỊ THỤY YẾN
PHỤ LỤC

Tuần : 13
Tiết : 38
Đọc văn :
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 17


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

CẢNH NGÀY HÈ
( Bảo kính cảnh giới, 43)

Nguyễn Trãi


I . MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
- Cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn của
Nguyễn Trãi.
- Nhận thức được đặc điểm của thơ Nôm Nguyễn Trãi.
II . TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG
1. Kiến thức
- Vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè được gởi tả một cách sinh động.
- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bức tranh trong cảnh ngày hè: nhạy cảm với
thiên nhiên và cuộc sống đời thường của nhân dân, luôn hướng về nhân dân với
mong muốn “Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
- Nghệ thuật thơ Nôm độc đáo, những từ láy sing động và câu thơ lục ngôn tự
nhiên.
2. Kĩ năng
Đọc – hiểu thơ Nôm Đường luật.
III. NỘI DUNG LÊN LỚP
1. Ổn định
2. Kiểm tra bài .
(?) Đọc thuộc bài thơ “ Tỏ Lòng ” và nêu suy nghĩ của em về hình ảnh nhân vật trữ
tình trong bài thơ?
(?) Kiểm tra vở bài tập phần câu hỏi luyện tập.
(?) Bài thơ “Cảnh ngày hè” trích trong tập thơ nào?
3. Dạy bài mới ( Lời dẫn vào bài )

Hoạt động của giáo viên và học sinh

Nội dung cần đạt

Hoạt động 1 : Tạo tâm thế tiếp nhận


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 18


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

cho học sinh.
? Là tác giả của bản tuyên ngôn độc lập
lần thứ hai của Đại Việt . Một nhà chính
trị , quân sự , nhà thơ , văn , một danh
nhân văn hóa thế giới nhưng cuộc đời
phải chịu một nỗi oan khiên thảm khốc
.Ông là ai.
a. Lí Thường Kiệt
b. Trương Hán Siêu.
c. Nguyễn Trãi .
d. Hồ chí Minh
 a . Nguyễn Trãi.
Hoạt động 2 : Hướng dẫn học sinh
tìm hiểu phần tiểu dẫn.( 3 phút)
? Phần tiểu dẫn trình bày những nội
dung cơ bản nào? Cụ thể từng nội dung
I . Tìm hiểu chung.
đó là gì.( Vđ tái hiện )
- Hs : 2 hs
- Gv : Nhận xét , củng cố lại .
1. Giới thiệu về QATT.

+ Dung lượng : 254 bài , tập thơ
Nôm sớm nhất .
+ Nội dung tập thơ : (…)
+ Nghệ thuật tập thơ ( …)
+ QATT chia làm bốn phần (…)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 19


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

? Cho biết xuất xứ bài “ Cảnh ngày hè”
Hs :

1. Giới thiệu về QATT

? Bài thơ được tác giả sáng tác trong
hoàn cảnh ntn.

2. Bài thơ “ Cảnh ngày hè”

Hs :

? Bài thơ được tác giả sáng tác theo thể
loại nào.
Hoạt động 2 : Đọc, phân tích , cắt

nghĩa.

- Xuất xứ : Nằm trong nhóm Bảo kính
cảnh giới – bài 43 trong số 61 bài.
- Hoàn cảnh sáng tác : Năm 1438 –
1439 NT xin về Côn Sơn ở ẩn , trông
coi ngôi chùa Tư Phúc , trong lúc thanh
nhàn ông sáng tác bài thơ.
- Thể loại : Thất ngôn xen lục ngôn.

? Hs đọc văn bàn.
Gv : Nhận xét.
? Đi phân tích bài thơ theo bố cục ntn .

II . Đọc – hiểu văn bản.
1. Nội dung – Nghệ thuật.

- Hs : 2 hs
- Gv : Đưa ra bố cục chung.
1. Câu : 1
2. Câu : 2,3,4,5,6
3. Câu 7,8.
Câu 5 ( Thời gian triển khai 3 phút)
? Câu thơ thứ nhất mang nội dung gì.(
Vđ)

a. Câu 1

- Hs : (…)
? Không gian hóng mát( Vđ)

Hs (…)

- Nội dung : Nhà thơ hóng mát của nhà
thơ.
- Không gian : Làng quê nông thôn Việt

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 20


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

? Nhận xét về thời gian ( Vđ)
- Hs : (…)
? Nhận xét cách ngắt nhịp
- Hs (…)

Nam.
- Thời gian : Ngày trường , không giới
hạn.
- Nhịp : 1,2,3 , khác thường

? Từ những chi tiết trên cho thấy cuộc
sống của tác giả khi về ở ẩn ntn.
- Hs : (…)
- Gv : Nhận xét , củng cố (…)
Đây chỉ là cách nói. Bởi chẳng lúc nào

nhà thơ nhàn rỗi cả. Ngay cả khi về ở ẩn
, sống ở Côn Sơn, ông đã bộc bạch.

 Cuộc sống rãnh rỗi , thanh nhàn khi
về ở ẩn.

“ Nương thân dưới mái nhà tranh tưởng
yên lúc tuổi già.
Nhưng cứ nghĩ tới đám dân xanh đầu
lòng lai phải lo trước”
Ngôn nhàn nhưng tâm không nhàn.
? Câu 2, 3, 4, 5, 6 , mang nội dung gì.(
Vđ tái hiện)
Hs :
Gv : Củng cố (…)
? Trong bức tranh ngày hè có 2 bức
tranh , theo em đó là những bức tranh
nào ( Nêu vấn đề kiểu tái hiện)
- Hs :
- Gv : Nhận xét, củng cố lại

b.Câu 2, 3,4, 5,6 : Bức tranh ngày hè.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 21


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

+ Bức tranh thiên nhiên (2, 3,4)
+ Bức tranh cuộc sống ( 5, 6)
Câu 2,3,4 ( 12 phút)
?Bức tranh thiên nhiên được tác giả tái
hiện qua những hình ảnh thiên nhiên
nào ? Hình ảnh đó được tác giả miêu tả
cụ thể ntn.( vấn đáp tái hiện)
- Hs : 2hs
- Gv : Nhận xét , củng cố (…)

? Tác giả đón nhận bức tranh bằng giác
quan nào.( Vđ tái hiện)

b1 : Bức tranh thiên nhiên ( 2,3,4 )

- Thiên nhiên :

? Em có nhận xét gì về cảnh vật được tái
hiện trong bức tranh.( Nêu vấn đề kiểu
suy lí)

+ Cây hòe : Xanh , tươi ,dày đặc ,
gương ô che rợp cả không gian.
+ Cây lựu : Đang trổ hoa màu đỏ

? Tác giả đón nhận bức tranh vào thời
gian nào.( Vấn đáp tái hiện)
Hs : 2hs


+ Cây sen : Tỏa hương thơm ngát.
- Hình thức đón nhận : Thính giác ,
khứu giác.

Gv : củng cố
? Khi tái hiện bức tranh tác giả đã sử
dụng nghệ thuật nào? Nghệ thuật đó
nhằm miêu tả thiên nhiên ntn. ( Thảo

-

Cảnh vật : Gần gũi với đời thường ,
gắn bó với cuộc sống con người , không
xa lạ.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 22


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

luận nhóm)
Gv : cho hs xem hình ảnh bức tranh
ngày hè ( PP trực quan)
? Em có nhận xét gì về bức tranh thiên
nhiên.

Hs :
Gv : Nhận xét, củng cố lại

- Thời gian đón nhận : Cuối hè , cuối
ngày.

-

Nghệ thuật : Sử dụng động từ mạnh :
đùn đùn , gương , phun , tiễn . ( Thiên
nhiên bấy lâu nay như bị kìm nén bây
giờ mới có cơ hội tuôn trào ra )

? Để tạo được bức tranh đó phải xuất
phát từ tấm lòng gì của nhà thơ.
Hs :
Gv : Nhận xét, củng cố

? Ngoài “ Cảnh ngày hè” thể hiện tình
yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ ,
còn nhiều tác phẩm đã được tác giả tái
hiện tình yêu thiên nhiên , em hãy đưa
một vài dần chứng.( Nêu vấn đề kiểu
liên hệ mở rông)
Hs : Thảo luận nhóm, đại diện nhóm
trình bày sản phẩm.


- Một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp
rực rỡ, tràn dầy sức sống , mọi hình

ảnh đều sống động , màu sắc đậm đà.

- Thể hiện tình yêu thiên nhiên tha
thiết của nhà thơ.

Gv : Nhận xét, củng cố
“ Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 23


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm”
( Côn sơn ca – Nguyễn Trãi)
“ Ngại ở nhân gian lưới trần,
Thì nằm thôn dã miễn yên thân.
Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử,
Viên hạc đà quen bạn dật dân.
Hái cúc ương lan hương bén áo,
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn.
Đàn cầm suối trong tai dội,
Còn một non xanh là cố nhân”
( Thuật hứng bài 15- Nguyễn Trãi)

Câu 5, 6 ( 8 phút)
? Câu 5, 6 đã tái hiện lại một bức tranh
cuộc sống của con người nơi làng quê
nông thôn ồn ào nhọn nhịp, thanh bình.
Ý kiến của anh/chị ( PP thuyết trình)
Hs :
Gv : Nhận xét, củng cố lại
Bài thuyết trình của học sinh phải đảm
bảo các ý sau.
? Bức tranh cuộc sống được tái hiện
qua những hình ảnh nào.

? Tác giả đón nhận bằng giác quan nào.
? Phát hiện về nghệ thuật.

? Qua đó tác giả đã tái hiện một bức
tranh cuộc sống nơi làng quê ntn.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 24


GV: Nguyễn Thị Thụy Yến

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI QUA GIỜ ĐỌC VĂN CHO HỌC SINH THPT

? Em có nhận xét gì về bức tranh ngày b2. Bức tranh cuộc sống ( 5,6)
hè đã được tác giả tái hiện.
? Qua việc đón nhận bức tranh cuộc
sống em thấy tác giả là người ntn ?

Câu 7, 8 ( 8 phút)
? Trước vẻ đẹp đó tâm hồn của nhà thơ
sẽ khao khát và mong ước điều gì.( nêu
vấn đề kiểu khái quát)
- Hs :
- Gv : Nhận xét, củng cố
- Phát hiện nghệ thuât.
? Đây là một mong ước ntn.
- Hs :

- Chợ cá : Con người trao đổi , mua bán.
- Chốn lầu gác : Tiếng ve “ dắn dỏi ”
như một bản đàn.
- Hình thức đón nhận : Thính giác.

? Qua mong ước đó Nguyễn Trãi muốn
bộc lộ điều gì.( Nêu vấn đề kiểu suy lí)
- Hs :
- Gv : Nhận xét, củng cố

? Qua mong ước thấy tác giả là người có
tâm hồn ntn.( nêu vấn đề )

NT ( 2 phút)

- Nghệ thuật : Đảo ngữ , từ láy ( lao xao)

- cuộc sống ồn ào nhộn nhịp nơi làng
quê.
- Vẻ đẹp thanh bình của bức tranh dời

sống con người
-

==> Cả thiên nhiên và cuộc sống con người

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN – TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Trang 25


×