Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Luận văn một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở VN trong quá trình hội nhập AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.54 KB, 59 trang )

LI M U
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia
trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế, không có quốc gia
nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là
ngoại thơng. Xu hớng khu vực hoá và toàn cầu hoá càng thể hiện một cách rõ nét
chẳng hạn nh sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO,
EU, ASEAN, APEC ... Thêm vào đó, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế
giới diễn ra hết sức sôi động và phát triển nh vũ bão . Sự phát triển của khoa
học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới.
Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự
phát triển đi lên cửa mỗi quốc gia.
Hoà nhập với xu thế trên, trong công cuộc phát triển kinh tế ,xây dựng đất
nớc, đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới kinh tế xã hội, Đảng và Chính phủ Việt
Nam rất coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một chiến lợc phát
triển kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng chiến lợc công nghiệp hoá hớng về xuất
khẩu, là một yêu cầu thực sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lợc
kinh tế hớng về xuất khẩu của Việt Nam phải hớng vào không ngừng mở rộng
phân công và hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật,
khai thác tối đa và có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nớc để phát triển kinh tế
thông qua con đờng xuất khẩu.
Để thực hiện chiến lợc trên, trong những năm qua Việt Nam đã không
ngừng mở rộng quan hệ kinh tế với các nớc trên thế giới, các tổ chức kinh tế khu
vực và thế giới. Việc gia nhập ASEAN (07/1995) đánh dấu một bớc khởi đầu cho
Việt Nam trong tiến trình hội nhập với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Là thành
viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết thực hiện CEPT/AFTA. Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA) đặt cho Việt Nam những cơ hội và thách thức mới
đối với hoạt động ngoại thơng. Những cơ hội và thách thức này đỏi hỏi trong tiến
trình thực hiện chiến lợc công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu, Việt Nam cần đặt
ra cho mình các chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sao cho phát huy đợc những mặt lợi thế và khắc phục những mặt hạn chế.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên và dới sự tận tình hớng dẫn của giáo
viên, tôi chọn đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở Việt Nam trong


quá trình hội nhập AFTA cho luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn từ
sự phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA,
1


sẽ là cơ sở đánh giá các mặt u nhợc điểm trong hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam.Từ đó đề ra một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với Việt Nam trớc
thềm thế kỷ mới.
Kết cấu luận văn trừ phần mở đầu và kết luận đợc chia làm ba chơng chính:
Chơng 1: Xuất khẩu với xu thế hội nhập AFTA.
Chơng 2: Phân tích thực trạng xuất khẩu trong quá trình hội nhập AFTA.
Chơng 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu trong quá trình hội
nhập AFTA.

2


Chơng 1
Xuất Khẩu Với Xu Thế Hội Nhập AFTA
1.1-/ Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.

1.1.1-/ Nguồn gốc hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu và nhập khẩu là nội dung quan trọng và cốt lõi của thơng mại
quốc tế. Vì vậy nghiên cứu nguồn gốc ra đời của hoạt động xuất khẩu trớc hết ta
nghiên cứu về nguồn gốc của thơng mại quốc tế.
Thơng mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nớc thông
qua mua bán. Hoạt động trao đổi giữa các quốc gia có vai trò vô cùng quan trọng
đổi với nền kinh tế bởi thơng mại quốc tế mở rộng khả năng sản xuất và tiêu
dùng của một nớc. Thơng mại quốc tế cho phép một nớc tiêu dùng tất cả các mặt
hàng với số lợng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng so với đờng giới hạn khả năng

sản xuất trong nớc khi thực hiện chế độ đóng cửa, tự cung, tự cấp.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội, sự khác biệt về
điều kiện tự nhiên và khả năng sản xuất. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm
vi chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng, số sản phẩm và dịch vụ thoả mãn nhu cầu
con ngời ngày một dồi dào,sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng.
Điều này là tất yếu bởi thơng mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều
kiện tự nhiên sản xuất giữa các quốc gia dẫn tới việc chuyên môn hoá sản xuất
một số mặt hàng có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng từ nớc ngoài
mà kém lợi thế khi sản xuất trong nớc.
Tuy nhiên, vì sao một quốc gia hoàn toàn kém lợi thế hơn trong việc sản
xuất các sản phẩm mà vẫn duy trì đọc hoạt động thơng mại quốc tế ? Quy luật
lợi thế tơng đối của David Ricardo đã trả lời cho câu hỏi này. Lý thuyết này
khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá vào sản xuất các sản phẩm mà nớc đó có lợi thế tơng đối hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thơng mại
quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các nớc. Nền tảng của quy luật lợi thế tơng đối
là chi phí cơ hội.
Chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lợng các sản phẩm khác mà ngời ta
phải từ bỏ để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm đó. Sự chênh lệch giữa các nớc
về chi phí cơ hội trong việc sản xuất ra một mặt hàng là cơ sở quyết định phơng
thức thơng mại quốc tế. Và sau nay phát triển lên thành lý thuyết H-O. Lý thuyết
3


H-O còn đợc gọi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có.
Đây cũng chính là lý thuyết hiện đại giải thích về nguồn gốc thơng mại quốc tế
nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Lý thuyết này đợc các nhà kinh tế
nổi tiếng khác nh T.M Rubczyuski, Wolfgang Stolper, Paul A Samuelson, James
William...tiếp tục mở rộng và phát triển hơn để khẳng định những t tởng khoa
học và giá trị thực tiễn to lớn của định lý H-O, hay còn gọi là quy luật H-O về tỷ
lệ cân đối các yếu tố sản xuất mà trớc đó đã đợc Hecksher và Ohlin đa ra với nội
dung là: một nớc sẽ xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều

yếu tố rẻ và tơng đối sẵn có của đất nớc đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản
xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tơng đối đắt ở nớc đó.
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trớc thực tiễn phát triển phức tạp
của hoạt động thơng mại quốc tế ngay nay. Xong quy luật này vẫn đang là quy
luật chi phối động thái phát triển của thơng mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo
thực tiễn quan trọng đối với các nớc đang phát triển, đặc biệt đối với nớc cha
phát triển. Vì nó chỉ ra rằng đối với những nớc này, đa số là nớc đông dân, nhiều
lao động, nhng nghèo vốn. Do đó, trong giai đoạn đầu công nhgiệp hoá đất nớc,
cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động. Sự lựa chọn các
sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất
vốn có, sẽ là điều kiện cần thiết để đa các nớc đang phát triển và cha phát triển
có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác thơng mại
quốc tế. Trên cơ sơ lợi ích thơng mại thu đợc sẽ thúc đẩy sự tăng trởng và phát
triển kinh tế đất nớc
1.1.2-/

Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế

Đối với các quốc gia trên thế giới hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò
quan trọng, không thể thiếu đợc trong mục tiêu phát triển kinh tế đất nớc. Mỗi
quốc gia trên đều có điều kiện sản xuất, tài ngyên, thiên nhiên và trình độ kỹ
thuật khác nhau ...vì thế một quốc gia không thể sản xuất các mặt hàng để đáp
ứng nhu cầu của ngời dân, mà sẽ tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất các mặt
hàng đem lại lợi thế cao hơn. Hoạt động xuất khẩu sẽ giúp quốc gia đó khai thác
triệt để lợi thế so sánh và mở rộng khả năng tiêu dùng của nớc nhập khẩu. Xuất
khẩu là cơ sơ của nhập khẩu, là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, và
là phơng tiện thúc đẩy phát triển kinh tế . Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại
tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cớ sở hạ tầng. Luôn luôn coi trọng
và thúc đẩy các ngành kinh tế hớng vè xuất khẩu, khuyến kích các thành phần
kinh tế mở rộng xuất khẩu còn giải quyết việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế .

Vì vậy, vai trò của xuất khẩu thể hiện ở những điểm sau:
4


a, Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và
tích luỹ phát triển sản xuất phục vụ công nghiệp hoá đất nớc.
Công nghiệp hoá đất nớc theo những bớc đi thích hợp là con đờng tất yếu
để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển. Để công nghiệp hoá đất
nớc trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết
bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể đợc hình thành
từ nhiều nguồn nh: liên doanh đầu t nớc ngoài , vay nợ , viện trợ, thu từ hoạt
động du lịch, từ hoạt động xuất khẩu. Xong các nguồn vốn này rồi cũng phải trả
nợ bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Vì vậy xuất khẩu là nguồn
vốn quan trọng nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu những t liệu sản xuất thiết
yếu phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại háo đất nớc. Bài học kinh nghiệm
của một số nớc trên thế giới tăng trởng chri dựa trên nguòon vốn vay nợ, viện trợ
và đầu t nớc ngoài đã phải trả một giá đắt đã ming chứng cho điều này. Hơn nữa,
trong thực tế xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa là
kết quả vừa là tiền đề của nhau. Đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cờng nhập khẩu
để nó mở rộng, tăng nhanh khả năng xuất khẩu.
b, Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế h ớng
ngoại:
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tấe sang nền kinh tế hớng ngoại trong quá
trình công nghiệp hoá ở nớc ta hiện nay là phù hợp với xu hớng phát triển kinh tế
thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vợt
quá nhu cầu nội địa. Trong trờng hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển

nh ở nớc ta, sản xuất về cơ bản cha đủ để tiêu dùng nếu chỉ thụ động ở sụ d thừa
của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và chậm chạp. Hơn nữa, nó không góp
phần chuyên môn hoá sản xuất và thuíc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng có lợi.
Hai là, coi thị trờng và đặc biệt là thị trờng thế giới là hớng quan trọng để
tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thể hiện ở:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho ngành liên quan có điều kiện phát triển thuận
lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho việc
5


phát triển ngành sản xuất nguyên liệu nh bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển
của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (dầu thực vật, chè...) kéo theo sự
phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị để sản xuất ra các sản phẩm đó.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nớc.
Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm đổi mới thờng xuyên
năng lực sản xuất trong nớc. Nói cách khác, xuất khẩu là điều kiện tạo thêm vốn
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại
hoá nền kinh tế nớc ta.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trờng thế giới về giá cả và chất lợng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ
chức lại sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trờng. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị
trờng thế giới về quy cách, chất lợng sản phẩm, muốn thắng lợi trong cạnh tranh
thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác ngời lao
động phải nâng cao tay nghề học hỏi kinh nghiệm sản xuất tiên tiến trên thế giơí.
Hơn nữa, nhu cầu sở thích của ngời tiêu dùng ngày càng đa dạng và hết sức
phong phú, muốn xuất khẩu đợc hàng hoá đoì hỏi phải có sự đổi mới về mẫu mã,
chất lợng, kiểu dáng, kích thớc của hàng hoá.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện

công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lợng sản phẩm hạ giá thành.
c, Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm. Các ngành
công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến hàng xuấ khẩu, các khu công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu đã tác động tích cực đến đội ngũ lao động không chỉ gia
tăng về số lợng lao động có việc làm mà từng bớc nâng cao chất lợng đội ngũ lao
động để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trờng quốc tế đối với mặt hàng xuất khẩu đã khiến cho Việt nam cũng đã bắt đầu
hình thành và đang có xu hớng phát triển ngày càng mạnh đội ngũ lao động gồm
cả trí thức, công nhân kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại
nh dầu khí, điện tử tin học, cơ khí chính xác, bu chính viễn thông ... Phát triển
các ngành sản xuất hàng xuất khẩu cần nhiều lao động là một trong những con
đờng chắc chắn nhất để tạo nên nhiều công ăn việc làm và thu đợc nhiều ngoại tệ
mà không phải sử dụng tài nguyên quí hiếm. Dựa vào việc lập hàm hồi qui về
mối quan hệ giữa xuất khẩu và việc làm cho thấy nếu xuất khẩu tăng lên 1% so
6


với năm gốc thì chỗ việc làm cho ngời lao động sẽ tăng lên ít nhất 0,4% so với
năm gốc. Xuất khẩu tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập cho ngời lao
động không chỉ ở các vùng đô thị, các khu chế xuất, các xí nghiệp công ty liên
doanh đầu t nớc ngoài mà đã lan rộng đến nhiều vùng nông thôn. Do vậy, xuất
khẩu đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân và từng bớc xoá bỏ chênh
lệch mức sống thực tế giữa các tầng lớp dân c ở nhiều khu vực lãnh thổ khác
nhau. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn nhập khẩu về vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu phục vụ cho đời sống, và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân.
d, Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nớc ta.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nền kinh tế nớc

ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thờng hoạt động xuất khẩu ra
đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ
này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan
hệ tín dụng đầu t vận tải quốc tế ... Đến lợt nó chính xác các quan hệ kinh tế đối
ngoại lại tạo điều kiện tiền đề mở rộng xuất khẩu. Nh việc ký kết các hiệp định
và tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực lại khuyến khích hoạt động xuất
khẩu.
Nh vậy, nhận thức đợc vai trò của xuất khẩu, đối với nớc ta, một quốc gia
đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc thì hoạt động
xuất khẩu đợc đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy toàn
bộ nền kinh tế xã hội. Không thể nào xây dựng đợc một nền kinh tế hoàn chỉnh
nếu chỉ dựa trên nguyên tắc"Tự cung tự cấp", vì nó đòi hỏi rất tốn kém về vật
chất, thời gian và cũng rất khó mà đạt đợc hiệu quả nh mong đợi. Vì vậy, cần
phải đẩy mạnh nâng cao hiệu quả của hoạt động mở rộng ngoại thơng, trên cơ
sở" Hợp tác bình đẳng không phân biệt thể chế chính trị và đôi bên cùng có lợi"
nh nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định.
Hơn nữa, nớc ta còn đang là một trong những nớc có trình độ phát triển
kinh tế thấp, những nhân tố thuộc tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao
động rẻ. Còn những nhân tố thiếu là: vốn, kỹ thuật, thị trờng và khả năng quản lý
thì việc mở rộng quan hệ buôn bán giữa nớc ta với nớc ngoài là điều kiện quan
trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế. Muốn phát triển nền kinh tế ta phải dựa
vào sự đầu t về vốn, kỹ thuật từ nớc ngoài, trong đó kết hợp tận dụng nguồn lao
động dồi dào, giá rẻ cùng với nguồn tài nguyên phong phú để tăng hiệu quả sản

7


xuất, hấp thụ khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm hớng tới xuất khẩu các sản phẩm
có lợi thế đa ra thị trờng quốc tế thu đợc ngoại tệ, tạo công ăn việc làm cho ngời
lao động, ổn định và phát triển nền kinh tế, biến nớc ta trỏ thành một mắt xích

quan trọng trong sự phân công và chuyên môn hoá lao động trên thế giới hiện
nay.
1.2-/ Xu thế hội nhập AFTA

1.2.1-/ Xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế khu vực
Trong mấy thập niên qua, thế giới trải qua khong ít biến động to lớn mà hệ
quả là diện mạo đời sống kinh tế chính trị, xã hội trên trờng quốc tề đã và đang
có những thay đổi hết sức căn bản, toàn diện và sâu sắc, trật tự kinh tế thế giới
cũng đã có những biến đổi so với thời kỳ trớc "Chiến tranh lạnh". Hiện tợng này
đa đến xu thế hội nhập và toàn cầu hoá giữa mọi quốc gia, dân tộc, đặc biệt là sự
giao thoa về kinh tế ngày càng bức xúc. Một mặt, luôn tạo thêm nguồn lực cần
thiết thúc đẩy toàn cầu hoá, mặt khác, cũng làm nảy sinh không ít trở ngại cho
quá trình này. Việc xem xét trên bình diện chung nhất quá trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới của từng quốc gia, trong đó có Việt Nam, dới sự tác động của
toàn cầu hoá là vấn đề không kém phần bức xục hiện nay.
Trớc hết, kể từ sau thời kỳ "Chiến tranh lạnh" với dấu mốc quan trọng là sự
tan rã của Liên Xô cũ và sự suy yếu trên một số mặt của Hoa Kỳ (so voí các
quốc gia đối thru và đồng minh khác), thế gới đã chuyển từ hai cực luôn đối đầu
sang xu thế đối thoại, tìm điểm tơng đồng cần thiết, sẵn sàng thoả hiệp để gắn
hết mọi lợi ích kinh tế, chính trị và văn hoá theo mục đích chung. Theo đó việc
truyền bá văn hoá, tri thức thông tin và mọi phơng thức sinh tồn ngày càng mang
tính toàn cầu. Hơn nữa, sản xuất và dịch vụ có xu thế quốc tế hoá rõ rệt. Cuộc
cánh mạng khoa học và công nghệ đạt tới giai đoạn cao đã và đang thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia làm cho
lực lợng sản xuất đợc quốc tế hoá cao độ. Thực ra sự xuất hiện rất sớm của các
công ty xuyên quốc gia ở một số nớc phát triển đã khởi động cho sự ra đời hệ
thống sản xuất toàn cầu vào nửa đầu thế kỷ XX, phát triển nhanh vào sau chiến
tranh thế giới thứ hai và đến cuối thập niên 70 thì trở thành làn sóng lớn, dần dần
loại trừ, thay thế cơ cấu sản xuất trong nớc. Đến nay chính các công ty xuyên
quốc gia cũng luôn phải đổi mới hàng ngày đểv mở rộng ảnh hởng trực tiếp, thúc

đẩy chu chuyển vốn đầu t đi kèm sát nhập và hợp nhất để lớn mạnh lên nhanh
chóng. Thập niên 80 và 90 đợc ghi nhận bởi hiện tợng nổi trội về đầu t quốc tế vợt quá mức tăng trởng mậu dịch quốc tế.
Đáng chú ý là thị trờng tài chính quốc tế phát triển hết sức nhanh chóng đã
8


trở thành một sức mạnh kinh tế xuyên quốc gia. Từ cuối thập niên 70, kỹ thuật
tin học bắt đầu đợc ứng dụng rộng rãi làm cho việc chuyển tải thông tin đợc dễ
dàng và nhanh chóng; giúp cho nghiệp vụ tài chính quốc tế phát triển mạnh mẽ,
thu hẹp dần phạm vi quản chế cứng nhắc thị trờng tiền tệ theo từng quốc gia
năng lực khống chế của ngân hàng trung ơng đối với gía trị đồng bản tệ ngày
càng gảim sút. Thị trờng tài chính thế giới phát triển mạnh cũng thúc đẩy mạnh
theo quá trình quốc tế hoá sản xuất và dịch vụ, bởi lẽ các công ty xuyên quốc gia
có thể tập trun và di chuyển một cách thuận lợi trên thị trờng tài chính thế giới
mà khộng bị khống chế. Các ngân hàng và các công ty giao dịch chứng khoán
thờng tổ chức thành công ty độc quyền dạng Xanh-đi-ca, giúp đỡ nhau và cạnh
tranh nhau. Các ngân hàng lớn đều đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở các
trung tâm tài chính chủ yếu cuả thế giới.
Cuối cùng, vấn đề môi trờng cũng trở thành nan giải, mang tính toàn cầu do
hậu quả của công nghiệp hoá mang tính toàn cầu phát triển đến mức khó kiểm
soát gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng đáng báo động
còn ở chỗ không một quốc gia nào có khả năng một mình giải quyết đợc vấn đề
ô nhiễm môi trờng mang tính toàn cầu này.
Rõ ràng, trong khung cảnh mang tính toàn cầu hoá nh vậy, hội nhập kinh tế
thế giới bằng cánh hình thành các liên bang kinh tế khu vực và toàn cầu là một
tất yếu khách quan đối với bất kỳ một nớc nào trên con đờng phát triển trong
điều kiện mới ngày nay.
Liên kết kinh tế khu vực là bao gồm các mối liên kết kinh tế và vị trí địa lý
để hình thành các khối liên kết kinh tế, các khu vực kinh tế hay còn gọi là khu
vực hoá nền kinh tế nh khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực mậu

dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), liên minh châu Âu (EU), hiệp ớc thị trờng chung
Nam Mỹ (MERCOSUR)...
Đặc điểm chung nhất của các tổ chức kinh tế khu vực là quan hệ láng giềng
gần gũi, có hệ ngôn ngữ và truyền thống văn hoá tơng tự, có tài nguyên, lao
động, trình độ kinh tế kỹ thuật gần giống nhau. Trên cơ sở gia nhập một cách tự
nguyện, các tổ chức kinh tế này lập ra quy chế và thủ tục cần thiết bảo đảm mối
quan hệ giữa các thành viên trong khu vực và quan hệ với nền kinh tế thế giới.
Tính u việt của các tổ chức kinh tế khu vực là; thực hiện chính sách u đãi
trong nội bộ các thành viên về đầu t tài chính, phát triển kỹ thuật, giải quyết việc
làm, đào tạo tay ngề trao đổi hàng hoá... Tổ chức kinh tế khu vực còn thực hiện
chế độ mậu dịch tự do giữa các nớc hoặc giảm thuế đối với các lĩnh vực sản xuất
mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển cho mọi thành viên, bảo đảm lợi ích cho từng
9


thành viên và sự vững mạnh của cả cộng đồng. Từ các mối liên kết kinh tế khu
vực sẽ tạo điều kiện cho các nớc hình thành các thị trờng thơng mại, đầu t, các
trung tâm công nghiệp khu vực. Từ đó sẽ làm hàng rào thuế quan và phi thuế
quan cản trở buôn bán nội bộ khu vực bị triệt tiêu, hàng hoá lu chuyển giữa các
nớc không bị hạn chế. Trong khu vực buôn bán tự do FTA, các nớc thành viên
vẫn duy trì hàng rào buôn bán riêng đối với các nớc thứ ba không nằm trong khu
vực liên kết. Những sản phẩm buôn bán trong khu vực FTA muốn đợc hởng u đãi
phải đáp ứng yêu cầu một tỷ lên nhất định đợc tất cả các nớc thành viên chầp
thuận về xuất xứ đợc sản xuất ở bất kỳ nớc thành viên nào. Trong gian đoạn liên
kết này, các nớc tham gia vẫn duy trì hàng rào buôn bán quốc gia riêng đối với nớc thứ ba.
Nh vậy xu hớng hình thành liên kết kinh tế khu vực của các nớc để ngăn
chặn sự tác động từ bên ngoài, tạo điều kiện ổn định kinh tế khu vực, ổn định thị
trờng để các nớc trong khối kinh tế có thể bổ sung cho nhau những thế mạnh của
mình về kỹ thuật, tài nguyên, lao động bảo đảm hiệu quả kinh tế trong trao đổi.
Chính vì vậy, vai trò của ngoại thơng, đặc biệt là xuất khẩu đều đợc các nớc hết

sức quan tâm, do không một quốc gia nào muốn bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy
phát triển, nên phải xây dựng cho mình chính sách kinh tế, nhất là kinh tế đối
ngoại, tạo lập môi trờng thông thoáng để khuyến khích đầu t và buôn bán quốc
tế. Do đó Việt Nam không phải là trờng hợp ngoại lệ trong việc hội nhập kinh tế
khu vực. Vấn đề là phải lựa chọn tiến trình hội nhập ra sao để phù hợp với hoàn
cảnh đất nớc đồng thời phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế khu
vực diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên thế giới.
1.2.2-/ Sự ra đời của AFTA
Lịch sử hình thành tổ chức ASEAN (The Association of South East Asia
Nations, 1967) trớc hết bắt nguồn từ lý do chính trị và an ninh khu vực vào thập
kỷ 60. Trong bối cảnh tồn tại của cuộc chiến tranh lạnh và ở khu vực ASEAN đã
thực sự là một thực tế mang tầm cỡ quốc tế khiến thế giới phải quân tâm trên
diễn đàn chính trị thế giới. ở Việt Nam, cuộc chiến tranh đang diễn ra và một số
nớc trong khu vực bớc vào trận. ở Trung Quốccách mạng văn hoá ảnh hởng sâu
rộng đến đời sống tinh thần của cộng đồng ngời Hoa ở Đông Nam á. Trong khi
đó, Liên Xô cũ hình thành hệ thống an ninh tập thể Châu á ...Trớc hàng loạt
thách thức kinh tế chính trị của khu vực đồng thời phải giải quyết những khó
khăn về sức ép từ bên ngoài, nhu cầu liên kết khu nhằm tập trung sức mạnh tiềm
lực để đối phó là cần thiết với các dân tộc Đông Nam á.
Trong bối cảnh đó, ngày 8/8/1967, tuyên bố Băng Cốc đã đợc bộ trởng
10


ngoại giao của năm nớc: INDONESIA, MALAYSIA, PHILIPIN, SINGAPORE
và THAILAND ký kết. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á chính thức đợc
thành lập. Mời bảy năm sau 8/8/1984, BRUNEI là thành viên thứ sáu của
ASEAN. Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN. Đến năm 2000, Lào và
MYANMA và năm 2002 CAMPUCHIA tham gia vào tổ chức này nâng tổng số
thành viên của ASEAN thành 10 thành viên.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đẫ đợc chú trọng trở lại với kế

hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực u tiên là cung ứng và sản xuất hàng hoá cơ
bản, các xí nghiệp công nghiệp lớ, các thoả thuận thơng mại u đãi và các quan hệ
kinh tế đối ngoại nh thoả thuận thơng mại u đãi PTA, kế hoạch hợp tác công
nghiệp ASEAN AIC, kế hoạch hợp tác từng khu vực BBC, liên doanh công
nghiệp AIJV... Tuy đã cso rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong
ASEAN, nhng kết quả của các nỗ lực đó không đạt đợc mục tiêu nh mong đợi.
Đồng thời, vào đầu những năm 90, môi trờng chính trị, kinh tế quốc tế và khu
vực đã có những thay đổi quan trọng do chiến tranh lạnh kết thúc. ở kỷ nguyên
hậu chiến tranh lạnh, vị trí của ASEAN trong chiến lợc khu vực và quốc tế bị hạ
thấp. Nên đến năm 1992 khi các nớc thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về
khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA (ASEAN Free Trade Area) thì hợp tác
kinh tế các nớc ASEAN mới thực sự đa lên một tầm mức mới.
Từ đây khu vực mậu dịch tự do ASEAN chính thức ra đời và đi vào hoạt
động. Bằng cách tạo dựng nền tảng thuế quan chung trong khuân khổ AFTA, các
quốc gia thành viên sẽ có thể tạo ra sự tơng hợp và phát huy đợc lợi thế so sánh
của mình trong quá trình tổ chức sản xuất và phân công lao động khu vực.
Tuy thế, sự ra đời của AFTA là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các
nhân tố bên trong và bên ngoài sau:
Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong hai thập kỷ
qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế
AESAN. Ngời ta tính rằng, vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ
ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nớc này đẫ đạt tới khoảng
20% và điều đó chứng tỏ khuynh hớng liên kết thơng mại khu vực đã ngày càng
trở lên mạnh mẽ. Các nền kinh tế ASEAN mang tính hớng ngoại dựa vào xuất
khẩu và hơn bao giờ hết, chúng có nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên
kết thị trờng, trớc hết là các thị trờng láng giềng. Điều này càng đợc thúc đẩy
nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trởng kinh tế khu vực và các biện
pháp tự do hóa thơng mại. Các chính phủ của từng nớc ASEAN cũng đã thấy rõ
sự trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lợc phát triển và đi đến đề
11



xuất về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN nhằm tự do hoá thơng mại giữa các
thành viên một cách hiệu qủa.
Về các nhân tố bên ngoài, sự kết thúc chiến tranh lạnh và sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trờng của hàng loạt các nớc nh Trung Quốc, các nớc Đông
Âu dẫn đến các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều các đối thủ cạnh tranh mới
về thu hút đầu t nớc ngoài và thơng mại. Hơn nữa, trong thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh, các nền kinh t ế ASEAN còn phải đứng trớc những thách thức mới do sự
xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và
trình đọ phát triển nh EU, NAFTA. Nói cách khác, trớc sức ép cảu chủ nghĩa khu
vực với sự xuất hiện của EU, NAFTA và những biến đổi của nền kinh tế thế giới
theo hớng ngày càng cso nhiều dấu hiệu làm mất đi lợi thế cạnh tranh đòi hỏi
các nớc ASEAN phải có sự thống nhất để đi đến những biện pháp thúc đẩy
nhanh chóng buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ thơng mại giữa khu vực với
các khối liên kết kinh tế khác. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự
cấp thiết thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Sự hình thành AFTA nhằm
giải quyết hai mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, liên kết thị trờng khu vực với t cách là
một trung tâm sản xuất và thơng mại quốc tế nhằm cải thiện lợi thế cạnh tranh
của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài - một nhân tố đợc
coi là động lực tăng trởng và tạo ra sự năng động của châu á trong những năm
gần đây. Thứ hai, thôgn qua AFTA, sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các nớc thành viên
tự do hoá thơng mại nội bộ khu vực, xoá bỏ các rào chắn thơng mại, kể cả các
biện pháp bảo hộ mậu dịch tiêu cực nhằm rut ngắn quá trình hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu.
Tóm lại, xuất phát từ tổng thể các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động,
AFTA ra đời đã trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá th ơng mại
rộng lớn ở khu vực châu á - Thái Bình Dơng và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA
cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng cho sự phát
triển của ASEAN trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá.

1.2.3-/ Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phơng hoá và
đa dạng hoá, với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nớc trong cộng
đồng thế giới . Nên chính sách đối ngoại cũng đợc đổi mới, phù hợp với cải cách
kinh tế trong nớc và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới.
Với đờng lối đổi mới và hội nhập đúng đắn, Việt Nam đã thu đợc những kết
quả quan trọng bớc đầu về ổn định và phát triển kinh tế, tăng trởng kinnh tế cao
liên tục trong nhiều năm liền, ổn định về chính trị, chính sách kinh tế không thay

12


đổi lớn. Chính phủ đã thực hiện một số chính sách khuyến khích mọi thành viên
tham gia hoạt động kinh tế, thu hút đầu t nớc ngoài vào sản xuất để xuất khẩu,
từng bớc thực hiện tự do hoá thơng mại dẫn đến tự do hoá tài chính, ổn định
đồng tiền, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nhằm tạo một môi trờng đầu t hấp dẫn các
nhà đầu t. Quan hệ kinh tế - chính trị đối ngoại cũng đợc mở rộng, vị thế quốc tế
cũng đợc nâng cao tạo nhiều thế và lực, khả năng và cơ hội để tiếp tục phát triển
trong những năm tới. Sau khi đã khai thông đợc quan hệ với các tổ chức tài chính
- tiền tệ quốc tế nh IMF, WB, ADB, ngày 17/10/1994, Việt Nam chính thức gửi
đơn xin gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (ASEAN), từ ngày
28/7/1994 đã chính thức tham gia tổ chức này và từ ngày 01/01/1996, Việt Nam
bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên theo AFTA. Tháng 12/1994, Việt Nam đã
gửi đơn xin gia nhập tổ chức thơng mại thế giới (WTO). Tiếp đó, tháng 03/1996,
Việt Nam đã tham gia với t cách thành viên sáng lập Diến Đàn hợp tác á - Âu
(ASEM). Ngày 15/06/1996, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác
Châu á - Thái Bình Dơng (APEC) và trở thành thành viên chính thức của tổ chức
này từ tháng 11/2001. Đối với WTO, Việt Nam đã gửi văn bản giới thiệu về
chính sách thơng mại, từ tháng 07/1996, đữ tiến hành trả lời các cau hỏi dành
cho thành viên WTO về thơng mại hoá và đã đàm phán vòng đầu với tổ chức

này.
Do đó, muốn tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới thì trớc hết Việt Nam
đã phải tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực, hội nhập với khu vực tạo tiền
đề cũng nh tạo cho Việt Nam trở thành khu vực hấp dẫn hơn để có điều kiện
tham gia ngày càng rộng hơn vào thị trờng khu vực và toàn cầu.
Nên việc hội nhập vào ASEAN, thực hiện AFTA thể hiện thiện chí trong
việc gia nhập vào khối kinh tế kyhu vực của Viện nam đồng thời đáp ứng đợc
yêu cầu của nền kinh tế trong nớc và nớc ngoài. Vì đây là lần đầu tiên các nớc
ASEAN đã có sự nhất trí cao về tiến trình tự do hoá thơng mại khu vực. Điều này
không chỉ thể hiện ở những điều khoản trong Hiệp định u đãi thuế quan có hiệu
lực chung (CEPT) mà còn cho thấy nhận thức sâu sắc của từng thành viên về tính
cần thiết của liên kết kinh tế khu vực. Trong điều kiện của xu hớng toàn cầu hoá,
khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, vấn đề đặt ra là kinh tế Việt Nam
không thể tách rời hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu. Muốn vậy, Việt Nam
hội nhập vào kinh tế khu vực đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách mở cửa,
thực hiện tự do hoá thơng mại theo hớng xuất khẩu nhằm thích ứng với nhu cầu
phát triển của các nớc trong khu vực và xu hớng phát triển chung của thế giới.
Thông qua tự do hoá thơng mại sẽ kích thích khả năng cạnh tranh trong các
13


thành phần kinh tế ở Việt Nam. Cạnh tranh là động lực của tăng trởng đòi hỏi
Việt Nam phải cố gắng dàn xếp những khiếm khuyết và nhanh chóng cải tổ cơ
cấu kinh tế, giảm dần khoảng cách tụt hậu nhằm đa chất lợng sản phẩm đạt bằng
các tiêu chuẩn quốc tế quy định. Nhờ thế hàng xuất khẩu của nớc ta mới có khả
năng tiêu thụ và cạnh tranh với các sản phẩm của các nớc trong khu vực và quốc
tế.
Hơn nữa, tham gia vào khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam có khả năng
tận dụng các lợi thế sẵn cso về tài nguyên thiên nhiên, nhân công, thị trờng đồng
thời cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tạo ra những động lực hấp dẫn mới trên cơ

sở hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu các phơng pháp quản
lý và tiếp thị trớc các đối thủ khác có điều hấp dẫn hơn, nh các nớc ASEAN,
SNG, Đông Âu...
1.3-/ Chiến lợc phát triển kinh tế hớng mạnh vào xuất khẩu và
kinh nghiệm của các nớc ASEAN.

1.3.1-/ Các quan điểm phát triển.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai quan điểm phát triển thơng mại; Thay thế
nhập khẩu - hớng nội và thúc đẩy xuất khẩu - hớng ngoại. Theo quan điểm của
những ngời theo chủ nghĩa bảo hộ, ủng hộ hớng nội, ban đầu, các nớc đang phát
triển cần thay thế nội địa về những sản phẩm đợc chế tạo phức tạp ở một phạm vi
rộng lớn hơn. Với chính sách bảo hộ chặt chẽ nền sản xuất trong nớc bằng thuế
nhập khẩu cao và hạn ngạch cho các mặt hàng nhập khẩu và với sự tiến bộ của
sản xuất trong nớc, các nớc đi theo mô hình này hy vọng sẽ xuất khẩu đợc những
sản phẩm với hiệu quả sản xuất cao có thể cạnh tranh với những sản phẩm đang
có trên thị trờng thế giới.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi đi theo mô hình hớng nội một số nớc đã
bộc lộ những nhợc điểm nh không đáp ứng nhu cầu ngaọi tệ cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá xoá đi cạnh tranh - một yếu tố cực kỳ quan trọng cho sự phát
triển. Trong bối cảnh các thực thể của nền khinh tế thế giới ngày càng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, mô hình này chính là hàng rào ngăn cản các nớc hớng theo xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá.
Còn với những ngời ủng hộ mô hình hớng ngoại cho rằng thúc đẩy xuất
khẩu, kể cả sản phẩm sơ cấp lẫn sản phẩm chế tạo. Bản chất của mô hình hớng
về xuất khẩu là căn cứ vào nhu cầu thị trờng thế giới và lợi thế so sánh của từng
quốc gia để điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu hàng hoá một cách hợp lý và hiệu quả.
Đây chính là sự thay thế thị trờng trong nớc nhỏ hẹp bằng các thị trờng quốc tế
14


rộng lớn.

Chính vì vậy, so với mô hình hớng nội - thay thế nhập khẩu, mô hình thúc
đẩy xuất khẩu - hớng ngoại tỏ ra hơn hẳn ở chỗ:
+ Thứ nhất, giải quyết sự thiếu hụt ngoại tệ nhờ xuất khẩu các sản phẩm
đặc biệt là các sản phẩm chế tạo có giá trị cao.
+ Thứ hai, từ thị trờng trong nớc mở rộng ra thị trờng quốc tế, mức độ tiêu
thụ tăng lên cho phép mở rộng quy mô sản xuất, giảm chi phí sản xuất do tạo đợc lợi thế nhờ quy mô, tạo thêm công ăn việc làm.
+ Thứ ba, thúc đẩy tốc đọ cạnh tranh buộc các xí nghiệp phải cải tiến quản
lý, không ngừng nâng cao trình độ cán bộ, luôn đổi mới công nghệ để thích nghi
với những đòi hởi gay gắt của thị trờng quốc tế.
1.3.2-/ Kinh nghiệm phát triển của các nớc ASEAN
Để thấy rõ hơn sự lựa chọn chiến lợc, ta xét tới quá trình lựa chọn chiến lợc
phát triển của một số nớc Đông Nam á - ASEAN. Từ đó, khẳng định vững chắc
quan điểm công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu mở rộng giao lu kinh tế với tất cả
các nớc trong khu vực cũng nh trên thế giới.
Xuất phát của các nớc ASEAN đều giống nhau đó là sự phát triển từ kinh tế
nông nghiệp, xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu thô. Các nớc ASEAN
đã sớm nhận ra giới hạn của thị trờng này do tính chất không ổn định và đặc
điểm kém co giãn theo thu nhập củn phẩm nông nghiệp, nên các nớc này đã chủ
trơng phát triển công nghiệp nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, tạo thế cân bằng mới
đồng thời tạo điệu kiện để cho nông nghiệp phát triển, giải quyết việc làm cho
lực lợng lao động sẵn có.
Để thực hiện điều này, từ những năm 1960, chính phủ các nớc này đã tiến
hành quá trình công nghiệp hoá và mục tiêu ban đầu chỉ nhằm vào thị trờng
trong nớc, đó là chiến lợc hoá thay thế nhập khẩu. Đặc trng của chiến lợc này là
tìm cách sản xuất để thay thế dần những sản phẩm tiêu dùng phải nhập khẩu, đi
đến chỗ hoàn toàn tự cung tự cấp. Sở dĩ các nớc ASEAN lựa chọn hớng đi này là
vì mong muốn đợc độc lập về kinh tế.
Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện mô hình thay thế nhập khẩu đã bọc
lộ những nhợc điểm nh sự thiếu hiệu quả, kém năng động, hạn chế sự hợp tác
trong khu vực và trên thế giới.

Bớc vào thập kỷ 70, do làn sóng mở cửa và tự do hoá trên thế giới tràn tới,
cùng với sự thành công của các nớc NICs đã áp dụng thành công mô hình hớng

15


ngoại, các nớc ASEAN đã mạnh dạn thay đổi mô hình thay thế nhập khẩu sang
mô hình hớng về xuất khẩu để tận dụng nguồn vốn của nớc ngoài có tính đến
kinh nghiêm của các nớc đi trớc. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể cảu mỗi nớc mà
quá trình chuyển đổi diễn ra tại các thời điểm khác nhau.
Nớc đi đầu trong quá trình chuyển đổi là Singapo do thị trờng trong nớc quá
nhỏ hẹp. Sau khi tách khỏi liên gbang Malayxia, chính phủ Singapo đã quyết
định lựa chọn mô hình này. Còn Indonexia, do thị trờng trong nớc rộng lớn, lại
thêm trình độ kinh tế thấp hơn và chỉ đến năm 1982, chính phủ nớc này mới
quyết định phát triển kinh tế theo chiến lợc hớng ngoại.
Chính phủ các nớc này đã tiến hành một số vấn đề sau:
a, Lựa chọn cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý.
Đối với các nớc ASEAN, một cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý sẽ cho phép phát
huy lợi thế so sánh của từng nớc, mà trớc hết dựa vào nguồn tài nguyên và lao
động sẵn có, Do đó từ chỗ xuất khẩu hàng sơ cấp bao gồm các nguyên liệu thô và
sản phẩm nông nghiệp là chủ yếu, các nớc ASEAN đã chuyển sang xuất khẩu các
sản phẩm công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động nh hàng dệt may, may mặc, giầy
dép, chế biến nông sản và sau này khi tích lũy đợc tơng đối nguồn t bản, trình độ
công nghệ và tay nghề nâng lên, một số nớc đã chuyển sang xuất khẩu một số sản
phẩm kỹ nghệ cao nh máy chính xác, đồ điện cao cấp.
Bảng 1 - Sự biến đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của
các nớc ASEAN.

Đơn vị: %
Các mặt hàng

Tên nớc
Singapo
Indonexia
Thái Lan
Malayxia
Philipin

Sản phẩm chế tạo
1960 1985 1993 1995
26,0 52,3 73,0 77,8
0
13,7 36,0 48,5
2,2
41,0 64,0 66,5
6,0
31,5 44,0 65,6
4,0
31,9 52,3 43,6

Sản phẩm sơ cấp.
1960 1985 1993 1995
74,0 47,7 27,0
22,2
100,0 86,3 64,0
51,5
98,8 59,0 36,0
33,5
94,0 68,5 56,0
34,4
96,0 68,1 48,0

56,4

Nguồn: Vụ kế hoạch - Bộ thơng mại - 1996
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nớc mà quá trình chuyển dịch cơ
cấu hàng xuất khẩu cũng diễn ra khác nhau.
Với tốc độ đầu t cao và sự can thiệp sâu của chính phủ, Singapo đã sớm lựa
chọn một cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý. Quá trình chuyển dịch diễn ra theo hai
giai đoạn:

16


Giai đoạn 1: từ 1960-1985: tập trung phát triển một số ngành u tiên nh: lọc
dầu, sản xuất giàn khoan, đóng sửa dàn, chế tạo phụ tùng , lắp ráp xe hơi, máy
kéo...
Giai đoạn 2: từ 1980 đến nay: Singapo chuyển sang đầu t mạnh vào các
ngành kỹ thuật cao nh thiết bị điện tử cao cấp, máy chính xác, hoá chất, công
nghệ sinh học...
ở Thái Lan, thời kỳ đầu chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô và sản phẩm
nông nghiệp và sau đó chuyển sang sản xuất các mặt hàng chế biến mà theo
chính phủ Thái Lan xác định là trong tâm phát triển . Do đó trong thập niên 80,
vốn đợc tập trung dành cho ngành công nghiệp chế biến thục phẩm. Ngoài ra
những nỗ lực trong sản xuất ngành tiêu dùng thông thờng không yêu cầu kỹ
thuật cao cũng đem lại cho Thái Lan những thành công đáng kể.
Indonexia, trớc những năm 80, chủ yếu là sản xuất dầu mỏ, khí đốt và lâm
sản. Sau đó, do có sự giảm giá mạnh các mặt hàng này trên thị trờng thế giới đã
buộc chính phủ nớc này phải chú ý đến những mặt hàng xuất khẩu khác nh hàng
dệt quần áo, nông sản chế biến... Nếu năm 1981 những mặt hàng này chỉ chiếm
17,7% tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu của Indonexia thì đến năm 1994, con số
này đã lên tới 63%.

Malaysia, từ các mặt hàng xuất khẩu quen thuộc là thiếc, cao su (chiếm 70%
tổng thu nhờ xuất khẩu vào năm 1970), họ đã chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm
cần nhiều lao động nh hàng dệt, quần áo, dày dép... Do lợi thế về giá nhân công rẻ
đang mất dần hơn nữa khi đã cso một nguồn vốn tích luỹ đợc suốt hai mơi năm qua,
chính phủ nớc này đã cho đầu t phát triển ngành xuất khẩu kỹ thuật cao nh sản xuất
các linh kiện và thiết bị điện tử, phụ kiện viễn thông.
Philippin, mặc dù đã lựa chọn mô hình hớng ngoại tơng đối sớm nhng họ
lại thực hiện chuyển đổi cơ cấu chậm do những hạn chế về điều kiện khí hậu bất
thờng, chính trị thiếu ổn định nên cơ cấu hàng chế biến của Philippin nhỏ hơn
các nớc khác và không ổn định.
b, Lựa chọn thị trờng chủ lực để xuất khẩu.
Đã từ lâu, các nớc ASEAN đều cho rằng thị trờng Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu là
những thị trờng quan trọng nhất. Đặc biệt với số dân hơn 250 triệu và sức tiêu
dùng vô cùng lớn, Mỹ thực sự trở thành một thị trờng lớn mà bất cứ nớc nào
cũng muốn thâm nhập. Cho đến năm 1993, có tới 21,2% hàng nhập khẩu vào
Mỹ, 19,6% vào EU là từ các nớc ASEAN. Những năm gần đây, do nhều biến

17


động của nền kinh tế thế giới gắn liền với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá,
ASEAN đã chủ trơng mở rộng ra các thị trờng NICs, Nga, Đông Âu, Trung
Quốc, Nam Mỹ, Trung Đông, trong đó NICs là một trong những bạn hàng quân
trọng hiện nay của ASEAN.
c, Chính sách thu hút vốn đầu t.
Ngay từ khi theo đuổi mô hình hớng nội, các nớc ASEAN đã đa ra mọt số
chính sách nhằm thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Cụ thể các nớc ASEAN cố gắng
tạo ra một môi trờng đầu t hấp dẫn nh nguồn lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên
phong phú , hệ thống pháp luật phù hợp với tập quấn và thông lệ quốc tế, có kết
cấu hạ tầng đủ tiêu chuẩn và tình hình chính trị ổn định, tạo điều kiện cho kinh

doanh và đầu t phát triển. Nhờ vậy, ở giai đoạn trớc 1993 nguồn vốn đầu t trực
tiếp của nớc ngoài vào các nớc ASEAN liên tục tăng, chủ yếu từ Mỹ, Nhật Bản,
Tây Âu. Trong vòng hai mơi năm (1967-1987), tổng số vốn đầu t trực tiếp nớc
ngoài vào ASEAN là 32,85 tỷ USD. Nh vậy mỗi năm các nớc này đã thu hút mọt
nguồn vốn t bản là 1,64 tỷ USD. Vào năm 1987, bình quân mỗi ngời nhận đợc
10USD là mức tiếp nhận đầu t thuộc hàng cao nhất so với các nớc đang phát
triển cùng thời kỳ.
Bớc qua những năm đầu của thập kỷ 90 NICs trở thành khu vực đầu t quan
trọng của các nớc ASEAN. Năm 1997, tổng đầu t cảu các nớc NICs đã chiếm tới
44,6% trong tổng đầu t của Indonexia, 21% của Philipin và 29,9% của Malaysia.
Tuy nhiên mức độ đầu t của Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu vào ASEAN lại không tăng
nhanh lắm. Nhìn chung, trong ba mơi năm qua, đầu t nớc ngoài vào ASEAN vẫn
giữ đợc tốc độ tăng trởng liên tục.
Nhờ những chính sách nh trên mà các nớc ASEAN đã đạt đợc những thành
tựu nhất định trong hoạt động xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng cả về
số lợng lẫn chất lợng, thị trờng, bạn hàng đợc mở rộng, lợng ngoại tệ thu về ngày
càng nhiều. Rõ ràng sau khi thay đổi hớng phát triển kinh tế các nớc ASEAN đã
đạt đợc những thành tựu đáng kể. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nớc đi
trớc, đặc biệt là các nớc ASEAN - những nớc có nhiều nét tơng đồng và có mối
quan hệ chặt chẽ với talà hết sức cần thiết trong việc định ra một hớng đi phù
hợp với tiềm lực, khả năng của Việt Nam để nhanh chóng xây dựng đợc hoạt
động xuất khẩu vững mạnh trong xu thế hội nhập vào khu vực.

18


Chơng 2
Phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam
trong quá trình hội nhập vào AFTA
2.1-/ Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam qua các thời kỳ.


2.1.1-/ Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam trớc năm 1986.
Những năm trớc thời kỳ đổi mới, trên t duy kinh tế , chính trị của ta đã nhận
thức đợc tầm quan trọng của việc phát triển mạnh các hoạt động kinh tế đối
ngoại trong đó có việc thực hiện một chiến lợc ngoại thơng đúng đắn, năng
động, phù hợp với thực tiễn đất nớc và bối cảnh quốc tế sẽ luôn luôn là động lực
trực tiếp cho nền kinh tế tăng trởng nhanh chóng. Xong do nhiều nguyên nhân
lịch sử ( trong nớc và trên thế giới) cộng với sự nóng vội mong đốt cháy giai
đoạn để đi nhanh đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhận thức và hành động sai
lầm về con đờng phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế đối ngoại và
ngoại thơng nói riêng. Đó là xây dựng quan điểm duy ý chí, tự lực cách sinh, biệt
lập khép kín cùng với việc duy trì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp. Điều này trở thành vật cản, làm triệt tiêu các động lực, kìm
hãm tốc độ phát triển kinh tế. Riêng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, mặc dù
ngay từ năm 1960 đã có hơn bốn mơi nớc ký kết quan hệ ngoại thơng với Việt
Nam (miền Bắc), nhng thực tế cả một thời gian dài trớc năm 1975, các hoạt động
thơng mại của Việt Nam với thế giới bên ngoài mới chỉ tiến hành với các nớc
khu vực I (khu vực XHCN). Xuất khẩu sang các nớc này thờng xuyên chiếm trên
70% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK).
Từ năm 1976, với chủ trơng không ngừng mở rộng phân công lao động
quốc tế trên lĩnh vực kinh tế khoa học, kỹ thuật và đẩy mạnh thơng mại quốc tế.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu đã mang tính chất của một hoạt động kinh tế vì
mục tiêu lợi nhuận. Thời kỳ này mọi hoạt động kinh doanh xuất khẩu đều do nhà
nớc đặt kế hoạch bằng các chỉ tiêu, pháp lệnh. Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu
hoàn toàn chỉ do các công ty và tổng công ty quốc doanh chuyên doanh xuất
khẩu thuộc Bộ ngoại thơng đảm nhận.
Bớc vào những năm đầu của thập kỷ 80, trớc những đòi hỏi của thực tế và
sức ép từ cơ sở, cơ chế quản lý thơng mại quốc tế và chính sách kinh tế đối ngoại
Việt Nam bắt đầu có sự thay đổi. Ngày 7/2/1980 chính phủ ra nghị điịnh 40CP
quy định chính sách và biện pháp hàng xuất khẩu. Trong đó có thu hẹp các chỉ

19


tiêu pháp lệnh đối với hàng xuất khẩu chủ yếu và đồng thời mở rộng quyền xuất
khẩu trực tiếp cho các liên hiệp xí nghiệp, các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
do Bộ quản lý, các cơ sở sản xuất chế biến hành xuất khẩu thuộc thành phần
kinh tế tập thể, công ty hợp doanh, t nhân và cá thể đủ điều kiện cần thiết sẽ đợc
cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu thờng xuyên hay từng chuyến.
Trong thời kỳ này, ngoài các nớc khu vực I, Việt Nam đã tăng cờng quan hệ
thơng mại với các nớc khu vực II (các nớc TBCN và các nớc đang phát triển) nh
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Cộng hoà Liên bang Đức, Thuỵ Điển, ấn Độ,
Pháp, Thái Lan, Singapo... Nhờ đó tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực II đã
tăng lên đến 46,8% (năm 1999), trong đó nổi bật lên vai trò của Nhật Bản là một
trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ( sau Liên Xô cũ). Đáng lu ý là
mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang các nớc khu vực I thời kỳ này vẫn tiếp tục
tăng lên về tuyệt đối so với thời kỳ trớc nhng so với mức tăng tơng đối của kim
ngạch xuất khẩu sang các nớc khu vực II thì tốc độ tăng ở khu vực I lại thấp hơn
ở khu vực II (khu vực II tăng 3,3 lần trong khi khu vực II tăng 4,2 lần).

20


Bảng 2 - Xuất khẩu theo hai khu vực thời kỳ 1976-1986.
Khu vực I
Năm
1976
1977
1978
1979
1980

1981
1982
1983
1984
1985
1986

Giá trị
(tiền Rúp)
132,9
211,2
246,7
235,0
225,0
235,0
337,1
381,3
407,9
425,8
438,9

Tốc độ
tăng %
66,4
11,5
-4,7
-4,3
4,4
43,4
13,1

6,9
4,4
3,1

Khu vực II
Giá trị
(tiền Rúp)
89,8
101,3
86,1
85,5
112,7
165,6
189,5
235,2
241,7
272,7
384,1

Tốc độ
tăng %
12,8
-20,9
6,7
31,8
46,9
14,4
24,1
2,8
12,8

40,8

Tổng kim ngạch XK
Giá trị
(tiền Rúp)
222,7
322,4
326,8
320,5
337,7
400,6
526,6
616,5
640,6
698,5
823

Tốc độ
tăng %
44,7
1,4
-1,9
5,4
18,6
31,4
17,1
5,4
7,5
17,8


Nguồn: Niên giám thống kê - Nhà xuât bản Thống kê Hà Nội
Qua bảng số liệu trên cũng có thể thấy đợc hoạt động xuất khẩu trong thời
kỳ1976-1986 là không ổn định, tốc độ tăng không đều giữa các năm. Đặc biệt có
những năm, tốc độ tăng trởng xuât khẩu giảm. Điều này chứng tỏ mặt hàng xuất
khẩu của chúng ta thời kỳ này cha có chỗ đứng vững chắn trên các thị trờng. Cha
có nhiều thị trờng mang tính ổn định lâu dài. Những số liệu này cũng phản ánh
đúng với thực trạng xuất khẩu của thời kỳ này là chủ yếu xuất khẩu theo nghị
định th cho nên cha ký kết đợc hiệp định th thì không thể xuất khẩu. Trong các
năm 1979, 1980, mặc dù xuất khẩu sang khu vực II tăng lên nên tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu vẫn đợc tăng. Từ năm 1980 đến 1986, giá trị xuất khẩu liên tỵuc
tăng cả về giá trị và tốc độ. Tuy tốc độ tăng có không đều giữa các năm, tốc độ
tăng bình quân là 14,7% là một dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu
củat Việt Nam. Đáng chú ý nhất là năm 1986, xuất khẩu sang khu vực I và cả
sang khu vực II đạt giá trị cao nhất trong những năm trớc đó, riêng khu vực II,
giá trị xuất khẩu tăng 40,8% so với năm trớc đó.
Trong thời kỳ này, sản phẩm xuất khẩu vừa nhỏ bé về chất lợng, vừa đơn
điệu về cơ cấu chủng loại, chất lợng bao bì. Chiếm trên 80% tổng kim ngạch
xuất khẩu là hàng nông lâm sản, tiểu thủ công, mỹ nghệ và khoáng sản, nghĩa là
chủ yếu là sản phẩm thô hoặc sơ chế. Cùng với sự yếu kém về sản phẩm xuất
khẩu là sự ràng buộc phiền hà của cơ chế cũ đẫ khiến cho Việt Nam bị hạn chế

21


nhiều trong việc mở rộng thị trờng, tìm kiếm bạn hàng mới. Năm 1986 là năm
đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất so với các năm trớc đó, nhng cũng chỉ mới đạt
đến con số hơn 800 triệu rúp. Nếu đem con số này so với các nớc khác thì giá trị
XNK tính theo đầu ngời của Việt Nam (năm 1986) mói chỉ đạt 12 rúp, vào loại
thấp nhất thế giới.
2.1.2-/ Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam từ 1986 đến nay.

a, Thời kỳ 1986-1998
Từ cuối năm 1986, thực hiện đờng lối đổi mới kinh tế do đại hội VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, đờng lối kinh tế đối ngoại đợc coi là "mũi nhọn"
của sự đổi mới. Cùng với việc "bung ra của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, lần đầu tiên ở Việt Nam các thuật ngữ " mở cửa nền kinh tế", "đa dạng hoá
kinh tế đối ngoại" , "đa phơng hoá thị trờng" đã đợc đề cập đến trong các chủ trơng, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Quan niệm cứng nhắc coi "độc
quyền ngoại thơng" làbản chất kinh tês của Nhà nớc Xã hội chủ nghĩa đã đợc
xem xét lại và phần nào cũng đã đợc "vợt rào"trong thực tiễn. Đáng lu ý ngoại
thơng, đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu đã đợc đề cao,
coi đó là một trong ba chơng trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Nghị định
64/HĐBT ngày 16/6/1989 của Hội đồng Bộ trởng về chế độ tổ chức, quản lý
kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở chính sách thợng mại thời kỳ này,
về cơ bản đã thể hiện bớc ngoặt quan trọng đầu tiên của sự nới lỏng cơ chế quản
lýngoại thơng theo tinh thần đổi mới cơ chế trên đây. Với chính sách thông
thoáng nh vậy đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại cua nớc ta trong
thời kỳ này.
Hoạt động xuất khẩu nhờ đó có sự biến đổi tích cực, Nếu nh năm 19761980, tộc độ tăng của xuất khẩu hàng năm bình quân là 11%, những năm tiếp
theo từ 1982- 1985 là 15,6%, thì dù trong hai năm 1986-1987đã đạt tới mức
27%. Riêng năm 1989 so với năm 1988, tăng 75,3% (gần bằng mức tăng của cả
15 năm từ 1960-1975). Năm 1993, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đã vợt mức
2 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 1989 và gấp hai lần so với năm 1988. Khoảng
cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã rút ngắn lại từ tỷ lệ 1,7 giai
đoạn 1960-1975 xuống tỷ lệ đáng kể 1/1,3. Trong những năm này (1986-1993),
ngoài việc tiếp tục duy trì quan hệ thơng mại giữa Việt Nam với các nớc khu vực
I, quan hệ thơng mại giữa Việt Nam với các nớc khu vch II ngày càng đợc mở
rộng . Xuất khẩu sang khu vực II của 5 năm (1986-1993) đã đạt đợc 3,5 tỷ USD,
gấp
22



Bảng 3 - Xuất nhập khẩu theo khu vực II thời kỳ (1981-1993)

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Cán cân

1981-1985

(triệu USD)
1104,7

(triệu USD)
2166,6

ngoại thơng
-1061,9

1986-1993

3506,3

3807,6

-301,2

1989-1993

2308,3


2081,7

226,6

Năm

Nguồn: Bộ thơng mại -1995
Theo bảng số liệu trên, cả xuất và nhập khẩu đều phát triển ngày càng tăng
và khoảng cách chênh lệch cán cân thơng mại giữa xuất và nhập khẩu ngày càng
thu hẹp, đặc biệt trong hai năm 1989-1993 cả xuất lẫn nhập đều tăng vọt và việc
tăng xuất khẩu hơn nhập khẩu đã khiến nớc ta lần đầu tiên xuất siêu. Từ năm
1994 đến nay, mặc dù hoạt động ngoại thơng đã diễn ra trong những điều kiện ,
hoàn cảnh khó khăn (do sự đổ vỡ của thị trờng Liên Xô và các nớc XHCN Đông
Âu trớc đây. Trớc tháng 3/1995, Mỹ vẫn thi hành chính sách cấm vận kinh tế với
Việt Nam). Việt Nam phải cùng một nớc chuyển hớng tìm kiếm thị trờng, bạn
hàng mới, vừa phải thay đổi phơng thức và nghệ thuật kinh doanh đúng với
thông lệ quốc tế nhng vẫn phải đạt kết quả khả quan trong hoạt động xuất nhập
khẩu.
Bảng 4 - Tình hình xuất khẩu qua các năm 1986-1998

Năm

Kim ngạch
XNK (triệu
USD)

1986
1987
1988

1989
1993
1994
1995
1996
1997
1998

1944,2
3309,3
3795,1
4511,8
5156,4
4425,2
5121,4
6909,2
8600,0
12800,0

Kim ngạch XK (chia ra)
Triệu USD

Triệu
USD

Tốc độ
tăng
XK(%)

789,1

854,2
1038,4
1946,0
2404,0
2087,1
2580,7
2985,2
3600,0
5300,0

350,1
3633,2
87,4
1138,2
1353,2
2009,8
2552,4
2952,0
3571,0
5300,0

8,2
26,1
87,4
23,5
-13,2
23,7
15,7
20,6
47,2


23

Tỷ trọng XK
trong tổng kim
ngạch XNK
(%)
26,8
25,8
27,4
43,1
46,6
47,2
50,4
43,2
41,9
41,1


Nguồn: Niên giám thống kê - NXB Hà Nội.
Nh vậy, qua bảng số liệu, năm 1994 là năm có kim ngạch xuất khẩu giảm
sút so với năm 1993, song sự giảm sút đó không đáng kể so với những khó khăn
hụt hẫng lơn do sự đổ vỡ cảu thị trờng Liên xô và Đông Âu gây ra. Kim ngạch
xuất khẩu năm 1994 giảm 13% so với năm 1993. Ngoài ra cũng phải nhận thấy
năm 1994 là năm đầu tiên Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu vợt hơn 2 tỷ USD.
Qua đó mới thấy đợc những cố gắng lớn của ngoại thơng Việt Nam trong công
cuộc đổi mới. Từ năm 1995 trở đi liên tục kim ngạch xuất khẩu của năm sau cao
hơn năm trớc với tốc độ tăng trởng khá mạnh và đều vợt kế hoạch dự kiến ban
đầu. Hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu có chiều hớng
tăng dần lên theo các năm. Năm 1986, xuất khẩu mới chiếm 26,8% trong tổng

kim ngạch thì đến năm 1989, đạt đợc 43,1% và liên tục từ năm 1989 trở đi, giá
trị xuất khẩu chiếm hơn 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, và đặc biệt năm
1995, xuất khẩu đã chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Điều này
chứng tỏ, xuất khẩu đã đáp ứng đợc một phần ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu
của đất nớc.
Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,58 tỷ R-USD , tăng 23,7% so với
năm 1994. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,98% tỷ R-USD, tăng 15,7% so
với năm 1995. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6% tỷ R-USD, tăng 20,6%
so với năm 1996, Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,3% tỷ R-USD, tăng
47,2% so với năm 1997. Tính chung cả kế hoạch 5 năm (1994-1998) tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt gần 16,5 tỷ USD, vợt 10% so với chỉ tiêu kế hoạch đã đợc
Quốc hội đề ra 12-15 tỷ USD, bình quân hàng năm tăng khoảng 18,7% (nếu
không tính sự sụt giảm xuất khẩu của năm 1994 thì tăng khoảng 21%). So với
giai đoạn 1986-1993, kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1994-1998 tăng gấp
hai lần, trong đó xuất khẩu tăng hơn 2,3 lần. Số liệu phân tích trên có thể thấy
rằng tốc độ tăng trởng ngoại thơng của nớc ta trong giai đoạn này là khá nhanh
và cao hơn tốc độ tăng trởng kinh tế (8%) là phù hợp với xu thế phát triển kinh tế
đã trở thành quy luật chung của thế giới, đặc biệt là các nớc có nền kinh tế mới
bắt đầu đi lên đang trong giai đoạn thực thi chính sách mở của nền kinh tế.
Những kết quả , thành tựu phát triển khả quan đó đã chứng tỏ ngoại thơng Việt
Nam đã từng bớc trở thành động lực trực tiếp cho quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hóa nền kinh tế và phần quan trọng cho sự tăng trởng và phát triển đất
nớc.
Cùng với tiến triển trên đây, cơ cấu giá trị các nhóm hàng xuất khẩu trong
kim ngạch xuất khẩu cũng đã có sự biến đổi phù hợp theo sự chuển dịch cơ cấu
kinh tế theo hớng công nghiệp hoá: tỷ trọng hàng công nghiệp tăng lên tơng đối
24


và tỷ trọng hàng nông - lâm - thủy - sản giảm xuống tơng đối trong khi cả hai

loại hàng này đều tăng tuyệt đối về quy mô khối lợng hàng hoá và giá trị xuất
khẩu. Cụ thể là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,8% (thời kỳ
1986-1993 là 16%), hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 18,1%
(thời kỳ 1986-1993 là 16%), hàng nông - lâm - thủy sản chiếm 41,9% (thời kỳ
1986-1993 là 54%). Sở dĩ hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có sự tăng
nhanh nh vậy là do sản phẩm dầu thô và than đá tăng vọt về quy mô và giá trị
xuất khẩu, xuất khẩu dầu thô từ con số 0 năm 1988 tăng lên 3,9 triệu tấn năm
1994 và đến năm 1998 con số tăng lên đến 7,7 triệu tấn, tăng gấp hai lần. Tính
chung cả 5 năm 1994-1998 sản lợng dầu thô xuất khẩu là 30,6 triệu tấn, tăng gấp
7,7 lần so với sản lợng năm 1994. Tơng tự nh vậy, năm 1994, than đá còn ở mức
1,17 triệu tấn nhng đến năm 1998 đã lên tới 2,2 triệu tấn, tăng gấp 1,9 lần. Tính
gộp giai đoạn 1994-1998 xuất khẩu than đá đạt tới 8,689 triệu tấn, tăng gần
7,5% so với sản lợng năm 1994.
Với sự gia tăng của hoạt động xuất khẩu và sự biến đổi cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu thì thị trờng xuất khẩu trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn.
Xuất khẩu sang hai thị trờng đều tăng nhanh, nhng sang khu vực II tăng mạnh
hơn. Cho đến năm 1988,1989, các nớc Liên Xô cũ và Đông Âu vẫn là bạn hàng
chính của Việt Nam thời kỳ 1993-1997. Các số liệu của bảng dới đây cho thấy
sự thay đổi phơng hớng thị trờng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1993-1997. Sự
thay đổi có tính chất tơng phản giữa các bạn hàng châu Âu và châu á cho thấy
sự chuyển hớng khá linh hoạt quan hệ buôn bán của Việt Nam sau khi Liên Xô
tan vỡ. Tỷ trọng của các nớc XHCN Đông Âu cũ trong xuất khẩu của Việt Nam
giảm từ 45% năm 1993 xuống còn 3,0% năm 1997. Trong khi tỷ trọng của các
nớc châu á trong xuất khẩu tăng từ43,3% lên 75,0%. Quan hệ buôn bán của Việt
Nam với các nớc khu vực khác còn ở mức độ hạn chế.

25



×