Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1a

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.61 KB, 14 trang )

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHẢN HỒI NGƯỜI MẸ TRONG
GIỜ HỌC VẦN CHO HỌC SINH KHIẾM THÍNH LỚP 1A
I.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Một trong những mục đích học tập của trẻ khiếm thính khi đến trường là

học tiếng Việt. Môn Tiếng Việt giúp cho học sinh khiếm thính dần hình thành
các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết vốn rất hạn chế trước khi trẻ tới trường. Khi mới
vào lớp 1 trẻ khiếm thính rất hạn chế về vốn từ; thiếu kỹ năng dùng ngôn ngữ do
ít được lặp đi lặp lại, do giới hạn của trí nhớ, trẻ không được can thiệp sớm,
thiếu kinh nghiệm về ngôn ngữ. Vì thế trẻ phải đồng thời ghi nhớ từ nói, từ viết,
ý nghĩa của từ cũng như cách dùng từ, câu nên thời gian học tiếng Việt của trẻ
khiếm thính chậm hơn và khó khăn hơn so với trẻ bình thường.
Học vần là một phân môn rất quan trọng trong chương trình học của lớp
1. Muốn đọc được chữ đòi hỏi các em phải biết nhận diện vần, biết cách ráp vần,
dấu thanh để tạo tiếng, từ. Hạn chế về thính lực đã gây cho trẻ khiếm thính rất
nhều khó khăn trong việc nhận diện âm thanh, lời nói, cách phát âm vần, tiếng,
từ, câu. Hiện nay, tại Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật Đồng Nai thực hiện
chương trình lớp 1 trong 2 năm; năm học thứ nhất các em sẽ được học phần vần
gồm có 3 dạng cơ bản: làm quen với âm và chữ, dạy - học âm vần mới, ôn tập
âm và vần; nửa học kì 1 của năm học thứ hai các em sẽ học phần vần tiếp theo
của sách tập 2.
Phương pháp phản hồi người mẹ được giáo viên sử dụng phổ biến ở các
trường dạy trẻ khiếm thính nhưng chủ yếu trong giờ học hội thoại, chưa được sử
dụng nhiều trong quá trình dạy các môn học khác. Vận dụng phương pháp phản
hồi người mẹ trong dạy học giúp trẻ nhận thức được giá trị của công cụ ngôn
ngữ; tăng cường nhu cầu giao tiếp của trẻ; phát triển kỹ năng chú ý lắng nghe
lẫn nhau, nói theo kinh nghiệm, hiểu được điều vừa nói. Thực tế dạy học cho
thấy, các kỹ năng đó không những giúp trẻ khiếm thính khắc phục những hạn
1




chế trong giao tiếp mà còn giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, chủ
động. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn “Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ
trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A” nhằm giúp học sinh khiếm
thính hình thành và phát triển một số kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp để các
em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
II.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

1. Cơ sở lý luận
1.1 Thế nào là trẻ khiếm thính?
Trẻ khiếm thính là trẻ bị tổn hại cơ quan thính giác ở các mức độ khác
nhau. Do cơ quan thính giác bị tổn hại nên trẻ không tri giác được thế giới âm
thanh, không nghe được tiếng nói. Vì thế, không tự hình thành được ngôn ngữ.
Ngày nay, để giảm sự mặc cảm ở trẻ điếc, để cộng đồng xã hội hiểu và gần gũi
hơn đối với đối tượng khuyết tật này, người ta thường dùng thuật ngữ trẻ khuyết
tật thính giác, hay trẻ khiếm thính, trẻ có khó khăn về nghe.
1.2 Ảnh hưởng của khuyết tật thính giác đến sự phát triển ngôn ngữ
- Thính giác đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển ngôn ngữ ở trẻ em. Đối với trẻ khiếm thính, hậu quả không thể tránh khỏi
là chậm phát triển về ngôn ngữ và đặc biệt là ngôn ngữ nói.
- Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ theo mức độ điếc:
+ Trẻ điếc nhẹ (mất từ 20 đến 40 dB): Trẻ không nghe hoặc không nghe rõ nên
tiếng nói thường bị mất hoặc nói sai một số phụ âm cao. Tuy nhiên tiếng nói của
trẻ vẫn có thể tự phát triển.
+ Trẻ điếc vừa (mất từ 41 đến 70 dB): Trẻ có thể nói ngọng nhiều và nói những
câu không đúng ngữ pháp.
+ Trẻ điếc nặng (mất từ 71 đến 90 dB): Trẻ bị mất tiếng nói hoặc rất chậm phát

triển ngay từ nhỏ, tiếng nói của trẻ khó nghe và không có thanh điệu.
+ Trẻ điếc sâu (mất từ trên 90 dB): Tiếp thu tiếng nói chủ yếu bằng cách nhìn
hình miệng, không dùng thính giác; mất khả năng giao tiếp bằng tiếng nói nên
tiếng nói và ngôn ngữ không thể tự phát triển được.
2


1.3 Học âm – vần đối với học sinh khiếm thính
- Làm quen với âm và chữ: yêu cầu cơ bản là học sinh đọc được âm, thanh và
viết được chữ ghi âm, dấu ghi thanh của bài kế trước; học sinh làm quen với nề
nếp học tập, mạnh dạn tự tin trong môi trường học tập mới.
- Dạy - học âm, vần: yêu cầu cơ bản là học sinh đọc được âm, vần và viết được
chữ ghi âm, vần; đọc và viết được tiếng, từ ứng dụng; đọc được câu ứng dụng.
- Ở phần trọng tâm của bài làm quen với âm và chữ, học sinh thực hiện đạt được
mục tiêu cơ bản. Tuy nhiên ở dạng bài dạy âm - vần, trẻ khiếm thính gặp rất
nhiều khó khăn trong quá trình phát âm, thể hiện rõ ràng nhất khi trẻ đánh vần.
Vì thế, giáo viên chỉ cần cung cấp cho học sinh nắm được cấu tạo của vần và
đọc được vần bằng hình miệng, đọc trơn tiếng có vần mới nên bỏ qua giai đoạn
đánh vần.
1.4 Phương pháp phản hồi người mẹ
Phương pháp phản hồi người mẹ do linh mục Van Uden ở Viện dạy trẻ điếc
Sint.Michielsgesrel – Hà Lan nghiên cứu và phổ biến năm 1970.
Tên gọi “Người mẹ”: đây là cách mà một người mẹ giúp đứa con nghe được
bình thường của bà nghe và nói được tiếng mẹ đẻ cách suôn sẻ.
“Phản hồi”: ngay sau khi trẻ nói được một cách tương đối trôi chảy, đứa trẻ
được khuyến khích nhìn lại, nghĩ lại cấu trúc ngôn ngữ mà trẻ đang dùng.
Phương pháp này chú trọng đến sự nhấn nhá và lặp lại trong một thời gian
dài, đây là sự bù trừ thích hợp cho những khó khăn mà trẻ điếc sâu phải gánh
chịu. Thêm vào đó, phương pháp này sử dụng hội thoại như một nền tảng của sự
phát triển giao tiếp. Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong dạy học

người giáo viên đóng vai trò quan trọng như vai trò của người mẹ trong sự hồi
đáp, dẫn dắt cuộc trò chuyện tự nhiên với trẻ con. Phương pháp phản hồi người
mẹ được thực hiện theo bảy bước: chờ đợi, nắm bắt và làm rõ ý tưởng, cung cấp
ngôn ngữ và làm mẫu, yêu cầu trẻ thứ nhất lặp lại, những trẻ khác lặp lại, viết
bảng, liên hệ ý – từ.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
3


2.1. Nội dung
Để thực hiện một giờ học thực sự có hiệu quả, trước hết giáo viên cần đầu
tư chuẩn bị cho một giờ học về đồ dùng trực quan, về việc lựa chọn hình thức
phương pháp dạy học, sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, đeo máy và kiểm tra máy
trợ thính cho học sinh; tiếp đến giáo viên vận dụng phương pháp phản hồi người
mẹ trong những hoạt động chính là giới thiệu từ khóa, từ ứng dụng; luyện đọc
câu ứng dụng; luyện nói.
2.2. Các biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
 Công tác chuẩn bị trong một giờ học vần
- Đồ dùng trực quan phục vụ cho giờ học: Do giảm sút hoặc mất khả năng thính
giác nên ở học sinh khiếm thính, thị giác được bù trừ và trở nên thành phần chủ
yếu, chủ đạo trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Nên đồ dùng trực quan
không thể thiếu trong giờ học, nhờ có đồ dùng trực quan mới thu hút được sự
chú ý của học sinh giúp học sinh thích học và dễ dàng tiếp thu bài. Đồ dùng trực
quan phải được làm to rõ đẹp, chính xác để hấp dẫn học sinh có thể là: vật thật,
tranh ảnh, thẻ từ, thẻ chữ, mô hình, rối… minh họa cho từ khóa, từ ứng dụng,
câu ứng dụng và các chủ đề luyện nói.
- Lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học phù hợp: Học sinh khiếm thính ở
nhiều mức độ khác nhau, nhiều loại khác nhau. Cho nên khi dạy học, việc lựa
chọn nội dung và định mức độ yêu cầu cần căn cứ vào khả năng và nhu cầu của
từng học sinh. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần được vận

dụng một cách linh hoạt trong mỗi bài học, mỗi tiết học nhằm khơi dậy sự tự tin
và hứng thú học tập cho học sinh, mang lại hiệu quả thiết thực.
+ Để dạy tiếng Việt một cách hiệu quả, cần sử dụng những phương pháp dạy
học đặc thù của việc dạy tiếng: phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp
giao tiếp, phương pháp luyện tập theo mẫu.
+ Kết hợp với các phương pháp dạy trẻ khiếm thính: phương pháp bắt chước,
phương pháp phương pháp phản hồi người mẹ, phương pháp dạy phát âm,
phương pháp luyện nghe, giao tiếp bằng chữ cái ngón tay và thủ ngữ điệu bộ.
4


- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí: Sắp xếp học sinh ngồi học theo hình vòng cung để
học sinh quan sát được lẫn nhau, khoảng cách giữa giáo viên với học sinh từ 1m
đến 1,5m. Học sinh có khả năng tập trung chú ý kém nên cho ngồi ở đáy vòng
cung trực diện với giáo viên sẽ dễ quan sát giáo viên nói cũng như các bạn trong
lớp nói.
- Đeo máy và kiểm tra máy trợ thính cho học sinh: Cách kiểm tra máy dễ nhất là
đặt núm tai gần micro khi máy đã mở, nếu có tiếng rít thì có nghĩa là máy đang
hoạt động. Sau đó giáo viên đeo máy cho học sinh, kiểm tra xem trẻ có phản
ứng với âm thanh hay không khi đeo máy, bằng cách thức là yêu cầu học sinh
giơ tay khi nghe giáo viên đứng phía sau vỗ tay hoặc nói /ba/.
 Tiến hành vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần
Các kỹ năng cần rèn cho học sinh trong phân môn Học vần là đọc âm/vần
mới, đọc tiếng/từ ngữ mới, đọc từ ngữ ứng dụng và bài đọc ứng dụng; tập viết
chữ ghi âm, vần, tiếng mới; luyện nghe – nói theo chủ đề. Mặt khác học sinh
khiếm thính lớp1 cần được hình thành và rèn luyện một số kỹ năng cần thiết như
kỹ năng lắng nghe người khác nói, nói xong chờ phản ứng của người khác; nói
ra ý nghĩ của mình; nhìn và nghe người khác nói; nhận xét người khác nói đúng
hay sai; lặp lại lời người khác nói; nói câu có ngữ điệu, tiết điệu; sử dụng từ ngữ
đúng ngữ cảnh. Do đó giáo viên cần vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ

một cách linh hoạt kết hợp với các phương pháp dạy học vần để có được giờ học
sinh động và đạt được những mục tiêu của phân môn Học vần. Phương pháp
phản hồi người mẹ được thực hiện theo bảy bước cụ thể:
Bước 1: Chờ đợi
Giáo viên quan sát lắng nghe những âm thanh, cử chỉ, thái độ… của trẻ
trong bầu không khí khuyến khích. Nếu học sinh phản ứng, không đưa ra được ý
tưởng thì giáo viên đặt câu hỏi kích ứng học sinh trả lời và nêu ý tưởng.
Bước 2: Nắm bắt và làm rõ ý tưởng
Đây là bước quan trọng nhất của phương pháp phản hồi. Giáo viên chọn
một ý tưởng để triển khai, nắm bắt và hiểu được ý nghĩa của những âm thanh, cử
chỉ, thái độ của trẻ có ý tưởng; làm rõ ý tưởng ấy cho cả lớp hiểu.
5


Bước 3: Cung cấp ngôn ngữ
Chuyển dịch ý tưởng của trẻ thành một lời nói chính xác về cấu trúc ngôn
ngữ nói theo một mẫu chuẩn.
Làm mẫu: Giáo viên nói 2 lần kết hợp, có ngữ điệu và tiết điệu, cường độ
và cao độ hợp lý, chậm rãi, diễn cảm, khoảng dừng giữa 2 lần là 3 giây.
Bước 4: Yêu cầu trẻ thứ nhất lặp lại
Chính trẻ có ý tưởng phải là người đầu tiên diễn tả ý tưởng của mình thành
lời, khi em ấy nói đòi hỏi các em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe.
Bước 5: Những trẻ khác lặp lại
Từng em một lần lượt cho đến hết lớp hay một số em nhất định nào đó lặp
lại. Khi một em nói đòi hỏi các em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe.
Bước 6: Viết bảng
Viết bảng chuẩn, rõ, theo qui ước… và viết cùng học sinh. Giúp học sinh
tập trung và nhớ từ, câu vừa nói.
Bước 7: Liên hệ ý – từ.
Kiểm tra ý nghĩa lời nói.

Trong mỗi môn học, mỗi tiết dạy giáo viên đều sử dụng những phương
pháp phù hợp với từng hoạt động để đạt được mục tiêu đặt ra. Trong giờ học vần
giáo viên vận dụng bảy bước của phương pháp pháp phản hồi người mẹ vào các
hoạt động:
- Giới thiệu tiếng, từ khóa:
Dạy trẻ khiếm thính bắt đầu từ từ ngữ có nghĩa, sau đó phân tích thành từ,
âm tiết và những đơn vị nhỏ hơn. Ở hoạt động này giáo viên vận dụng phương
pháp phản hồi người mẹ khi giới thiệu tiếng, từ khóa để phân tích âm/vần. Giáo
viên chỉ cần thực hiện các bước này trong thời gian ngắn cũng đủ giúp học sinh
hiểu và cung cấp từ mới cho các em.
Ví dụ:
Bài 10: ô, ơ (Tiếng Việt 1/ trang 22)
Giới thiệu tiếng khóa cô.
Giáo viên thực hiện các bước để giới thiệu bài:
6


+ Giáo viên cho học sinh quan sát tranh cô giáo, giáo viên chờ đợi học sinh thể
hiện ý tưởng. Đa số học sinh mới đi học đều chỉ biết chỉ cô giáo đang đứng lớp
hoặc diễn tả bằng kí hiệu mà các em không biết tiếng “cô” được nói như thế nào.
+ Từ những cử chỉ tự nhiên đó giáo viên nắm bắt và làm rõ ý tưởng cho cả lớp
cùng hiểu người trong bức tranh đó chính là cô giáo dạy học sinh học.
+ Sau khi học sinh hiểu thì giáo viên cung cấp và nói mẫu tiếng “cô” 2 lần rõ
hình miệng và chậm rãi.
+ Học sinh đầu tiên đưa ra ý tưởng sẽ được lặp lại đầu tiên.
+ Từng học sinh một lần lượt cho đến hết lớp hay một số em nhất định nào đó
lặp lại tiếng cô đúng hình miệng và rõ tiếng. Khi một học sinh nói yêu cầu các
em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe để nhận xét bạn nói đúng hay sai tiếng
cô.
+ Tiếp theo giáo viên viết bảng cùng học sinh bằng câu hỏi “Cô viết gì đây?”

Học sinh sẽ nói tiếng cô và giáo viên viết bảng tiếng cô.
+ Kiểm tra nghĩa của tiếng cô, giáo viên có thể hỏi học sinh từ vừa viết trên
bảng nói về ai.
Sau đó giáo viên sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ, cùng học sinh
phân tích cô – ô cho các em nhận diện âm mới.
- Giới thiệu tiếng, từ ứng dụng:
Đối với học sinh bình thường thì luyện đọc từ ứng dụng thì giáo viên
hướng dẫn học sinh đọc từ ngữ có thể kết hợp giải nghĩa một số từ ngữ nếu giáo
viên thấy cần thiết. Nhưng với học sinh khiếm thính vốn từ rất hạn chế nên giáo
viên cần từ trực quan khi học sinh hiểu nghĩa của từ ngữ thì giáo viên mới cung
cấp từ ngữ đó cho học sinh. Sau khi cung cấp từ ngữ giáo viên mới tổ chức cho
học sinh luyện đọc hình miệng kết hợp với ngôn ngữ kí hiệu.
Giáo viên nên vận dụng bảy bước phương pháp phản hồi người mẹ khi giới
thiệu tiếng, từ ngữ ứng.
Ví dụ:
Bài 30: ua, ưa (Tiếng Việt 1/ trang 62)
Từ ứng dụng cà chua, tre nứa.
7


Giáo viên thực hiện các bước để giới thiệu bài:
+ Giáo viên cho học sinh quan sát quả cà chua, giáo viên chờ đợi học sinh đưa
ra ý tưởng. Đa số học sinh mới đi học đều không biết tên gọi quả cà chua, các
em thường nói hoặc diễn tả cử chỉ điệu bộ màu đỏ, vị chua, ăn được.
+ Giáo viên nắm bắt và làm rõ ý tưởng cho cả lớp cùng biết quả cà chua là quả
màu đỏ, dùng để chế biến các món ăn.
+ Sau đó giáo viên cung cấp cho học sinh biết tên gọi “cà chua”. Giáo viên làm
mẫu nói “cà chua” 2 lần rõ hình miệng.
+ Chính học sinh có ý tưởng trước phải là người đầu tiên diễn tả ý tưởng của
mình thành lời, lặp lại từ cà chua đúng hình miệng và rõ tiếng.

+ Từng học sinh một lần lượt cho đến hết lớp hay một số em nhất định nào đó
lặp lại từ cà chua đúng hình miệng và rõ tiếng. Khi một học sinh nói yêu cầu các
em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe để nhận xét bạn nói đúng hay sai từ cà
chua.
+ Tiếp theo giáo viên viết bảng cùng học sinh bằng câu hỏi “Cô viết gì đây?”
Học sinh sẽ nói “cà chua” và giáo viên viết bảng từ cà chua theo chữ in thường.
+ Kiểm tra nghĩa của từ cà chua, giáo viên có thể hỏi “Quả gì?” để học sinh trả
lời.
Thực hiện tương tự với từ tre nứa.
Sau bước giới thiệu, giáo viên cho học sinh luyện đọc từ khóa và tìm âm,
vần đang học có trong các tiếng, từ đó.
- Luyện đọc câu ứng dụng:
Nếu chỉ đơn thuần giáo viên cho học sinh phân tích tranh rồi luyện đọc câu
ứng dụng thì với học sinh bình thường có thể đánh vần và đọc tốt được câu ứng
dụng. Nhưng học sinh khiếm thính vốn từ vựng nghèo nàn và không thể đánh
vần mà chỉ đọc trơn nên các em gặp nhiều khó khăn khi đọc câu ứng dụng. Để
học sinh khiếm thính đọc và nhớ được trọn vẹn câu, cần thực hiện theo các bước
để cung cấp câu.
 Vận dụng phương pháp phản hồi để cung cấp câu ứng dụng đơn giản:
Ví dụ:
8


Bài 9: o, c (Tiếng Việt 1/ trang 20)
Câu ứng dụng bò bê có bó cỏ.
+ Giáo viên cho học sinh quan sát tranh minh họa câu ứng dụng như trong sách
giáo khoa, giáo viên chờ đợi học sinh đưa ra ý tưởng qua việc lắng nghe âm
thanh, cử chỉ, thái độ của học sinh trong bầu không khí khuyến khích. Trong vốn
từ học sinh đã có tiếng bò, bê, cỏ thì học sinh chỉ có thể nói những tiếng riêng lẻ
đó.

+ Giáo viên nắm bắt và làm rõ cho học sinh biết bức tranh vẽ cảnh một người
đang cho bò và bê ăn bó cỏ.
+ Giáo viên cung cấp từ bó cỏ cho học sinh lặp lại. Sau đó giáo viên cung cấp
câu hoàn chỉnh theo đúng nội dung của câu ứng dụng trong sách bò bê có bó cỏ.
Giáo viên làm mẫu nói 2 lần rõ hình miệng và chậm rãi.
+ Chính học sinh đưa ra ý tưởng trước phải là người đầu tiên diễn tả ý tưởng của
mình thành lời, lặp lại câu bò bê có bó cỏ đúng hình miệng và rõ tiếng.
+ Một số em nhất định nào đó lặp lại câu bò bê có bó cỏ. Khi một học sinh nói
yêu cầu các em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe để nhận xét bạn nói đúng
hay sai câu.
+ Giáo viên viết bảng câu bò bê có bó cỏ chuẩn, rõ, theo qui ước và yêu cầu học
sinh nói từ hoặc cụm từ của câu khi giáo viên viết để giúp học sinh có sự liên kết
giữa lời nói và chữ viết .
+ Kiểm tra nghĩa của câu. Giáo viên đặt câu hỏi: Con gì có bó cỏ? Bò bê có gì?
Học sinh trả lời theo nội dung câu ứng dụng.
Sau khi giới thiệu câu, giáo viên cho học sinh luyện đọc câu ứng dụng bò
bê có bó cỏ viết trên bảng và tìm tiếng có âm đang học.
Qua các bước rút ra được câu ứng dụng như vậy thì học sinh đã nhớ nội
dung nên sẽ đọc đúng được hình miệng kết hợp với ngôn ngữ kí hiệu từng từ,
cụm từ trong câu ứng dụng viết trên bảng cũng như câu ứng dụng trong sách
giáo khoa.
 Vận dụng phương pháp phản hồi để cung cấp các câu ứng dụng hay đoạn thơ
ứng dụng:
9


Ví dụ:
Bài 69: ăt, ât (Tiếng Việt 1/ trang 140)
Đoạn thơ ứng dụng:
Cái mỏ tí hon

Cái chân bé xíu
Lông vàng mát dịu
Mắt đen sáng ngời
Ơi chú gà ơi
Ta yêu chú lắm…
+ Giáo viên cho học sinh quan sát tranh hoặc con gà con thật, giáo viên gợi ý và
chờ đợi học sinh đưa ra ý tưởng qua việc lắng nghe âm thanh, cử chỉ, thái độ của
học sinh trong bầu không khí khuyến khích.
+ Giáo viên nắm bắt và làm rõ ý tưởng cho cả lớp cùng hiểu. Giáo viên cung cấp
cho học sinh câu hoàn chỉnh theo đúng nội dung của câu ứng dụng Cái mỏ tí
hon.
Giáo viên làm mẫu đọc 2 lần rõ hình miệng và chậm rãi.
+ Học sinh đầu tiên đưa ra ý tưởng sẽ được lặp lại đầu tiên.
+ Từng học sinh một lần lượt cho đến hết lớp hay một số em nhất định nào đó
lặp lại câu Cái mỏ tí hon. Khi một học sinh nói yêu cầu các em khác phải chú ý
quan sát - lắng nghe để nhận xét bạn nói đúng hay sai câu.
+ Giáo viên viết bảng câu Cái mỏ tí hon chuẩn, rõ, theo qui ước và yêu cầu học
sinh nói từ hoặc cụm từ của câu khi giáo viên viết để giúp học sinh có sự liên kết
giữa lời nói và chữ viết.
+ Kiểm tra nghĩa của câu. Đặt câu hỏi: Cái gì tí hon? Cái mỏ như thế nào? để
học sinh trả lời.
Giáo viên thực hiện lại các bước trên để cung cấp cho học sinh từng câu
cho đến hết đoạn thơ ứng dụng. Sau khi được cung cấp đoạn thơ ứng dụng thì
học sinh sẽ đọc tốt đoạn thơ và hiểu được nội dung.
- Luyện nói:
Giáo viên dựa vào chủ đề gợi ý trong trong tranh tiến hành tổ chức luyện
nói một cách linh hoạt theo trình độ học sinh, nhằm đạt được yêu cầu; phát triển
10



kỹ năng giao tiếp cho học sinh theo các chủ đề, chú ý đến các từ ngữ có âm, vần
mới học, từ đó mở rộng sử dụng cả những từ ngữ có âm, vần chưa học.
Giáo viên tổ chức hoạt động luyện nói như một giờ học hội thoại, chỉ yêu
cầu học sinh nói được một hoặc hai câu đơn giản theo chủ đề. Trước khi cho học
sinh luyện nói, giáo viên cần chuẩn bị sẵn một số câu dự kiến theo chủ đề để
cung cấp cho học sinh từ những ý tưởng của các em. Ở hoạt động này phương
pháp phản hồi được sử dụng là phương pháp chủ đạo, tuy nhiên giáo viên có thể
bỏ qua bước viết bảng để học sinh có nhiều cơ hội phát triển ngôn ngữ nói.
Ví dụ:
Bài 15: t, th (Tiếng Việt 1/ trang 33)
Chủ đề luyện nói: ổ, tổ
Giáo viên chuẩn bị một số câu dự kiến nói theo chủ đề:
Con chim có tổ.
Con gà có ổ.
Em thấy tổ chim.
Em thấy ổ gà.
Tổ chim trên cây.
Giáo viên tiến hành cho học sinh luyện nói:
+ Giáo viên cho học sinh quan sát tranh, chờ đợi học sinh đưa ra ý tưởng liên
quan đến nội dung bức tranh là tổ chim và ổ gà. Với vốn kinh nghiệm sẵn có của
học sinh thì các em sẽ đưa ra được rất nhiều ý tưởng liên quan đến chủ đề.
+ Giáo viên nắm bắt và làm rõ ý tưởng đầu tiên liên quan đến chủ đề ổ, tổ. Nếu
học sinh nói “tổ”, giáo viên hỏi “Tổ của con gì?”, học sinh sẽ nói “chim”.
+ Giáo viên cung cấp từ “con chim” mà học sinh chưa biết, rồi mới cung cấp câu
hoàn chỉnh “Con chim có tổ” từ những ý tưởng của học sinh. Giáo viên nói mẫu
câu đó 2 lần.
+ Học sinh đầu tiên đưa ra ý tưởng sẽ được lặp lại câu “Con chim có tổ”.
+ Từng học sinh lặp lại câu “Con chim có tổ”. Khi một học sinh nói đòi hỏi các
em khác phải chú ý quan sát - lắng nghe để nhận xét bạn nói đúng hay sai câu.


11


+ Giáo viên kiểm tra ý nghĩa câu. Đặt câu hỏi “Con chim có gì?”hoặc “Con gì
có tổ?”, yêu cầu học sinh trả lời câu “Con chim có tổ”.
Giáo viên tiếp tục khuyến khích cho học sinh đưa ra ý tưởng để giúp học
sinh nói câu tiếp theo liên quan đến chủ đề ổ, tổ. Tùy vào ý tưởng và trình độ
của học sinh mà giáo viên cung cấp thêm một trong số những câu dự kiến tương
tự theo các bước. Sau đó giáo viên gợi ý cho học sinh rút ra tên chủ đề ổ, tổ.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI

Qua một năm học mạnh dạn triển khai “Vận dụng phương pháp phản hồi
người mẹ trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A” trong các giờ
học vần trên lớp tôi nhận được một số kết quả khả quan như sau:
- Tiến trình dạy – học của giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
- Đa số học sinh nhận biết những âm, vần được học; phát âm rõ tiếng, đúng hình
miệng. Vốn từ ngữ của học sinh tăng lên đáng kể.
- Học sinh có kỹ năng đọc hình miệng rất tốt, học sinh tích cực chủ động trong
học tập, mạnh dạn phát biểu ý kiến, biết nhận xét bạn nói đúng hay sai.
- Học sinh thích thú, có hứng thú trong học tập khi được tham gia giờ học với đồ
dùng trực quan sinh động.
- Đa số học sinh nhớ kí hiệu chữ cái ngón tay đã học, nhận biết được các chữ cái
đã học.
- Học sinh tự tin hơn trong giao tiếp với giáo viên, với bạn lúc ở trường cũng
như lúc ở nhà.
- So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện các giải pháp tôi nhận thấy học lực
môn Tiếng Việt của học sinh tiến bộ nhiều.
+ Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn Tiếng Việt lớp 1A:
Lớp
1A


Sĩ số/
12/4

Giỏi
SL
%
3
25.0

Khá
SL
4

%
33.3

Trung bình
SL
%
2
16.7

Yếu
SL
%
3
25.0

+ Kết quả học tập học môn Tiếng Việt sau khi thực hiện các giải pháp:

Lớp
1A1

Sĩ số/
12/4

Giỏi
SL
%
5
41.7

Khá
SL
4

%
33.3

Trung bình
SL
%
2
16.7

Yếu
SL
%
1
13.3


12


Với kết quả đạt được qua áp dụng kinh nghiệm ở lớp, tôi muốn góp phần
nhỏ vào việc nâng dần chất lượng giảng dạy – học tập trong phân môn học vần
đồng thời góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập các môn học khác ở
lớp 1A cũng như các lớp tiếp theo ở bậc tiểu học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG

Dạy Tiếng Việt cho học sinh khiếm thính là rất quan trọng, do hạn chế về
khả năng nghe nói nên các em gặp khó khăn trong quá trình học tập, nhất là học
ngôn ngữ. Trong đề tài nghiên cứu này, tôi đã nêu lên kinh nghiệm khi vận dụng
phương pháp phản hồi người mẹ trong giờ học vần để giúp các em tích cực tham
gia học tốt phân môn học vần chương trình Tiếng Việt lớp 1.
 Đối với giáo viên dạy trẻ khiếm thính:
- Giáo viên phải luôn tìm tòi, học hỏi những kiến thức thật vững chắc về trẻ
khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật mà mình đang phụ trách giảng dạy nói
riêng.
- Giáo viên cần đầu tư làm nhiều đồ dùng dạy học phong phú, tổ chức giờ học
phù hợp với học sinh lứa tuổi tiểu học.
- Giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi bước vào giờ học về đồ dùng
trực quan phục vụ cho giờ học vần phù hợp với nội dung bài học, lựa chọn hình
thức và phương pháp dạy học phù hợp, sắp xếp chỗ ngồi hợp lí và một công việc
rất quan trọng là kiểm tra máy trợ thính cho học sinh.
- Giáo viên cần phải vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ theo bảy bước
một cách linh hoạt. Giáo viên cần đóng vai trò quan trọng như vai trò của người
mẹ trong sự hồi đáp, dẫn dắt cuộc trò chuyện tự nhiên với con trẻ.
- Giáo viên không nên chỉ dừng lại ở việc dạy học bằng một phương pháp mà
phải trau dồi, rèn luyện việc sử dụng phối hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp

dạy học khác nhau để tránh nhàm chán. Giáo viên cần phối hợp linh hoạt giữa
các phương pháp, hình thức để giúp cho học sinh khiếm thính khắc phục được
khiếm khuyết về khả năng nghe nói.
 Đối với Ban Giám đốc:
13


- Đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất, phòng hỗ trợ phục hồi chức năng cho học
sinh khiếm thính.
- Phân công giáo viên dạy tiết cá nhân cho học sinh.
- Thường xuyên tổ chức các lớp giao lưu, học tập kinh nghiệm với các trường
chuyên biệt, trường hòa nhập, trường phổ thông.
- Cung cấp nhiều tài liệu về các dạng tật của học sinh để giáo viên tham khảo.
V.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hỏi – Đáp về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam – Viện
KHGD Việt Nam, Trung tâm Tật học – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – 1999.
2. Giáo trình tâm lí trẻ Khiếm thính – GS.TS Nguyễn Quang Uẩn - Đại học
Sư phạm – 2004.
3. Tiếng Việt 1 – Tập 1 – Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo dục – 2003.
4. Tài liệu Phương pháp phản hồi người mẹ.
5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học – Lê Phương Nga, Đặng
Kim Nga – NXB Đại học sư phạm Hà Nội – 2002.
Biên Hòa, ngày 10 tháng 5 năm 2012
Người thực hiện

Đinh Ngọc Vân


14



×