Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn xây dựng hệ thống câu hỏi tích cực trong giờ đọc văn qua đoạn trích vĩnh biệt cửu trùng đài - nguyễn huy tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.76 KB, 27 trang )

Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm
thường xuyên và rất cần thiết đối với mỗi người giáo viên, nó
không chỉ có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng
giảng dạy cho học sinh trong mỗi giờ lên lớp mà còn tạo thói
quen say mê nghiên cứu khoa học cho mỗi thầy cô nhằm đáp
ứng được yêu cầu của giáo dục trong thời đại mới.
Hiện nay trong chương trình phổ thông, các tác phẩm văn
học được trích giảng chiếm một số lượng lớn. Do đó, việc tìm
tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp tìm hiểu, tiếp cận
văn bản có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp học sinh có
một phương pháp học tập, nghiên cứu chủ động, sáng tạo đúng
theo quan điểm đổi mới trong giáo dục của Đảng và nhà nước
ta hiện nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin mạnh dạn đề
xuất một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học tác
phẩm ngữ văn trong nhà trường phổ thông qua việc xây dựng
một hệ thống câu hỏi hợp lí, khoa học đúng theo tinh thần đổi
mới trong hoạt động dạy và học văn hiện nay, mong rằng sẽ
đem lại những hiệu quả thiết thực.

1
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Với vốn kinh nghiệm ít ỏi và thời gian có hạn, khó tránh


khỏi những khiếm khuyết trong quá trình thực hiện. Mong
rằng các đồng chí, đồng nghiệp sẽ có nhiều ý kiến đóng góp để
sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HỌC TÁC PHẨM NGỮ
VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG .
1.1. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông, một vấn
đề đặt ra đối với cả thầy và trò là việc tiếp cận, tìm hiểu các tác
phẩm văn học còn gặp phải nhiều khó khăn.
- Về phía thầy:
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học
văn không ngừng được cải tiến, tuy nhiên vẫn còn chịu ảnh
hưởng của phương pháp dạy truyền thống mang tính chất
thuyết giảng. Việc nêu câu hỏi trong giờ dạy đã được chú ý
hơn nhưng các câu hỏi trong giờ giảng văn thường mang tính
chất vụn vặt, chưa có tính hệ thống, chưa phát huy được tính
sáng tạo của chủ thể học sinh trong việc chiếm lĩnh tác phẩm.

2
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
- Về phía học sinh: nhìn một cách khách quan, hiện nay học
sinh có tâm lí chung là ngại học bộ môn Văn. Tâm lí thụ động,
trông chờ vào sự truyền thụ kiến thức của thầy vẫn còn phổ
biến, dẫn tới tình trạng học vẹt, thầy đọc trò chép, làm cho tác
phẩm văn học trở nên khô cứng, chưa thực sự thâm nhập vào
học sinh.

- Về giờ dạy trên lớp: tài liệu, trang thiết bị phục vụ cho
việc giảng dạy còn bị hạn chế (thiếu giáo cụ trực quan, thiếu
trang thiết bị hiện đại…).
1.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy trách nhiệm
của mình là phải làm gì để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đó
trong từng tiết học. Nhận thức rõ những vấn đề cụ thể của
riêng sách giáo khoa nhằm đảm bảo tốt kết quả giảng dạy, tôi
đã nhận thức được hệ thống văn bản và ý đồ nâng cao chất
lượng văn bản của sách giáo khoa Ngữ văn THPT qua việc đọc
và hiểu văn bản.Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả
tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung phương pháp tiếp
cận, tìm hiểu các tác phẩm văn học được chọn giảng trong nhà
trường phổ thông, nhằm giúp người thầy tìm ra được những

3
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
phương pháp giảng dạy tích cực, khoa học theo hướng đổi
mới. Đối với học trò khi đã nắm được phương pháp học tập,
hiểu văn bản kĩ hơn sâu hơn sẽ tạo được niềm hứng thú say mê
trong học tập, khơi dậy tính tích cực chủ động sáng tạo, dần
dần làm thay đổi phương pháp học cũ “thầy đọc- trò chép”
mang tính thụ động.
2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Căn cứ vào thực trạng trên, để việc tìm hiểu văn bản đạt
kết quả hơn, tôi xin nêu ra một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản (đọc

sáng tạo):
Trong quá trình tìm hiểu văn bản, việc đọc văn bản cần
được chú ý đúng mức. Lâu nay, trước khi hướng dẫn cho học
sinh tìm hiểu văn bản, thầy cô thường gọi một, hai học sinh
đọc bài và chỉ yêu cầu đọc rõ ràng, lưu loát là đủ. Tuy nhiên
với quan điểm đổi mới hiện nay ta cần thấy được bản thân việc
đọc đã có nhiều cấp độ: cấp độ thứ nhất là đọc thông thường
(đọc thuộc không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng
giọng đúng chỗ). Cấp độ thứ hai là đọc kĩ, đọc sâu, biết được
cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu. Cấp

4
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
độ thứ ba là đọc - hiểu cái thông điệp mà văn bản gửi đến cho
người đọc. Nhưng quan trọng hơn đọc văn còn là để cảm, để
thưởng thức, để tự phát triển bản thân, trong quá trình đọc, học
sinh phải tìm được cái nghĩa mà tác giả thể hiện kín đáo trong
văn bản, tiến thêm một bước, tìm thấy điều mà người đọc
trước chưa thấy, đó mới thực sự là đọc sáng tạo. Khi tìm hiểu
văn bản phải bắt đầu từ hiểu từ, hiểu câu, hiểu đoạn, hiểu liên
kết, hiểu nghĩa toàn bài. Có hiểu đúng thì mới nói đến việc
hiểu sáng tạo, muốn hiểu đúng đầu tiên phải tôn trọng tính
chỉnh thể toàn vẹn, tính liên kết của văn bản. Việc cắt xén, suy
diễn hiểu sai nghĩa là những việc làm phản khoa học. Do đó
cần rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc theo từng cấp độ
từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp thì mới có kết quả.
Từ việc nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của khâu đọc

văn bản, trước khi đi vào tìm hiểu văn bản, ta cần hướng dẫn
cho học sinh đọc kĩ văn bản để có những cảm nhận đầu tiên.
Giải pháp 2: Đổi mới hoạt động dạy và học theo hướng
tích cực.

5
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Theo giải pháp này, phải lấy học sinh làm trung tâm, giáo
viên đóng vai trò là người hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh các
đơn vị kiến thức. Để giờ dạy trên lớp thực sự có hiệu quả,
trước hết cần phát huy tối đa tính chủ động sáng tạo, tích cực
của học sinh trong việc chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh có thể
vận dụng những hiểu biết, những kiến thức đã được trang bị ở
cấp dưới để làm cơ sở cần thiết trong việc tìm hiểu tác phẩm.
Có thể sử dụng phương pháp đàm thoại, nêu câu hỏi có tính
chất gợi mở, đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề để
phát huy tính sáng tạo và khả năng phát hiện của học sinh vừa
nhằm phát triển năng lực tư duy, vừa tạo hứng thú trong học
tập cho học sinh. Trong việc nêu câu hỏi vấn đáp có ba
phương pháp (mức độ) vấn đáp là: vấn đáp tái hiện, vấn đáp
giải thích minh hoạ và vấn đáp tìm tòi, ta có thể sử dụng một
cách linh hoạt với từng đối tượng học sinh cụ thể để đạt hiệu
quả cao nhất.
Có thể kết hợp với phương pháp đàm thoại là việc phân
tích giảng giải (đặc biệt là những từ ngữ còn mơ hồ khó hiểu),
bình giảng những chỗ cần thiết để học sinh có thể hiểu sâu
hơn, đồng thời tạo ra những rung động thẩm mĩ cần thiết khi


6
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
học tác phẩm. Cần xác định người thầy không phải làm người
thưởng thức văn chương hộ rồi giảng lại cái hay cho học sinh
chép, mà chỉ đóng vai trò định hướng cho học sinh thâm nhập
vào tác phẩm.
Giải pháp 3: Sử dụng thiết bị dạy học vào bài giảng.
Môn Ngữ Văn là một trong những môn rất ít sử dụng
phương tiện dạy học (ngoài một vài tranh ảnh, tư liệu đơn
giản, nghèo nàn). Việc sử dụng các thiết bị dạy học phù hợp
đối với môn Ngữ Văn là cần thiết, nó sẽ giúp cho bài giảng trở
nên sinh động hơn, tạo thêm sự hứng thú trong học tập cho học
sinh, tạo điều kiện để thầy và trò có nhiều thời gian hơn để trao
đổi, thảo luận. Hiện nay, với các phương tiện dạy học hiện đại
như: máy chiếu đa năng, băng đĩa video cùng với tranh ảnh
minh hoạ, người dạy có thể thực hiện bài dạy của mình trên
giáo án điện tử, đây là một trong những điều kiện tốt để chúng
ta nâng cao hiệu quả giờ dạy.
3 . CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Yêu cầu của chương trình sách giáo khoa mới hiện nay,
trong mỗi bài dạy không chỉ đảm bảo kiến thức đủ, đúng,
chính xác, có trọng tâm mà phải có mở rộng, nâng cao, nghĩa

7
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha


.
là cùng việc hình thành cung cấp kiến thức cơ bản phải thực
hiện bồi dưỡng đội ngũ học sinh giỏi ngay trong từng giờ học.
Vì vậy dạy học theo quan điểm tích hợp là vô cùng cần
thiết.Theo tôi có một số hình thức tích hợp cơ bản đòi hỏi
người đứng lớp phải nắm chắc:
-Tích hợp ngang: Văn-Tiếng Việt- Tập làm văn.
-Tích hợp dọc: Lớp 10 (đã học) với lớp 11 (đang học) và
lớp 12 (sẽ học).
-Tích hợp chéo: giữa các bộ môn Văn- Sử-Địa-
GDCD…….
Nhưng dù tích hợp ngang hay dọc, chéo… nhất định phải
được cụ thể hoá bằng một hệ thống những tình huống sư
phạm đã được giáo viên tính toán kĩ lưỡng cả về nội dung và
cách thức thực hiện. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu văn
bản trong sách giáo khoa cũng đã thực hiện được yêu cầu tích
hợp.
Phát huy sách Ngữ văn lớp 10, sách giáo khoa lớp 11,12
tiếp tục phấn đấu theo hướng tích cực, song vai trò của giáo
viên là vô cùng quan trọng, bằng hệ thống câu hỏi, giáo viên

8
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
giúp học sinh khai thác kiến thức để từ đó nhận thức được giá
trị của văn bản đúng với tư cách là một tác phẩm văn chương.
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách Ngữ

văn, tôi xin mạnh dạn trình bày những suy nghĩ của mình về
hệ thống câu hỏi mang tính tích cực trong một giờ đọc hiểu
văn bản của phân môn văn học lớp 11.
3.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm văn chương
theo hệ thống câu hỏi.
Để giúp học sinh nắm chắc một tác phẩm văn chương đòi
hỏi người giáo viên phải thể hiện rõ thuần thục các phương
pháp giảng dạy bộ môn bằng các hoạt động cụ thể hướng dẫn
học sinh tiếp cận, phân tích, đánh giá, bình giá để chiếm lĩnh
văn bản.Các phương pháp ấy phải đảm bảo yêu cầu phù hợp
với đặc trưng bộ môn, với đặc điểm loại thể của từng loại văn
bản. Các phương pháp được coi là có hiệu quả khơi dậy sự tích
cực, chủ động của học sinh trong tiếp nhận, cảm thụ văn bản.
Phương pháp đọc diễn cảm, phương pháp đàm thoại, gợi
mở bằng hệ thống câu hỏi, phương pháp bình giảng, phương
pháp nêu vấn đề để học sinh trao đổi thảo luận.Phương pháp

9
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
trắc nghiệm để củng cố, kiểm tra kiến thức vừa tiếp thu của
học sinh để huy động được sự tham gia tự giác, chủ động, tích
cực của học sinh.Theo tôi nghĩ là sự thiết kế một hệ thống câu
hỏi tối ưu trong một bài dạy, hệ thống câu hỏi đó thể hiện rõ
nét các phương pháp để học sinh nắm chắc và cảm thụ được
một tác phẩm văn chương.
3.1.1 Câu hỏi phát hiện:
Mỗi đơn vị kiến thức đều có những câu hỏi phát hiện:

- Phát hiện những nét khái quát nhất về tiểu sử, thân thế,
sự nghiệp của tác giả.
- Phát hiện thể loại văn bản:Thơ, truyện ngắn, kí, văn
nghị luận….
- Phát hiện bố cục văn bản.
- Phát hiện những đơn vị kiến thức cần phân tích, bình
giảng (từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hình tượng văn
học… trong văn bản)
- Phát hiện những giá trị nghệ thuật mà tác giả sử dụng
trong từng đơn vị kiến thức của văn bản (so sánh, nhân hoá, ẩn
dụ, điệp từ, nói quá…)
-Phát hiện phương thức biểu cảm của văn bản.

10
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Dạng câu hỏi phát hiện là dạng câu hỏi dễ nên dành cho
đối tượng học sinh trung bình và yếu.
3.1.2. Câu hỏi tạo ấn tượng thẩm mỹ:
Cảm xúc về văn bản hay chi tiết, hình ảnh trong văn bản
nhằm định hướng tạo tâm thế thâm nhập, tìm hiểu văn bản và
thường được dùng sau câu hỏi phát hiện hoặc để dùng mở đầu
trong hệ thống câu hỏi phân tích, bình….
3.1.3. Câu hỏi phân tích - bình:
Sau khi học sinh phát hiện những đơn vị kiến thức cần
thiết, giáo viên đưa ra những câu hỏi phân tích và bình những
đơn vị kiến thức đó.
- Phân tích hình ảnh (a), từ ngữ (b).

- Phân tích giá trị, tác dụng nghệ thuật (c) đối với văn
bản hoặc đối với đơn vị kiến thức đang phân tích.
Qua phân tích a,b,c nâng lên tư tưởng tình cảm của người viết
cũng như người đọc văn bản.
Dạng câu hỏi này nhằm phát huy khả năng tư duy của học
sinh, đồng thời cũng là dạng câu hỏi làm nổi bật kiến thức
trọng tâm của văn bản. Vì vậy giáo viên cần lưu ý có nhiều câu

11
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
hỏi dạng này trong quá trình khai thác kiến thức. Dạng câu hỏi
này đòi hỏi phải tư duy, tổng hợp, liên tưởng, liên hệ nên
thường dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi của lớp.
3.1.4. Câu hỏi tích hợp:
Dạng câu hỏi tích hợp sử dụng đan xen trong quá trình
khai thác kiến thức, kể cả trong các câu hỏi phát hiện, cảm thụ,
phân tích, bình…
- Câu hỏi tích hợp ngang: Tiếng việt- Tập làm văn.
- Câu hỏi tích hợp dọc: kết hợp các bài trước đã học nhằm
củng cố, ôn luyện và khắc sâu kiến thức.
3.1.5. Câu hỏi so sánh:
Dạng câu hỏi này so sánh kiến thức đang học với kiến
thúc đã học trước đó nhằm giúp cho học sinh ôn lại kiến thức
cũ, khắc sâu kiến thức mới. Từ hiện tượng văn học này mà nhớ
đến hiện tượng văn học trước đó để so sánh từ đó cảm nhận
cái hay, cái đẹp, cái riêng của từng văn bản, từng tác giả làm
cho việc tiếp thu kiến thức vừa sâu vừa rộng và toàn diện, có

hệ thống.
3.1.6. Câu hỏi khái quát, tổng hợp vấn đề văn học:

12
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Dạng câu hỏi này giúp học sinh khái quát, tổng kết lại các
đơn vị kiến thức vừa tiếp thu một cách tổng quát về giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật của văn bản.
3.1.7. Câu hỏi thảo luận:
Khi một vấn đề văn học đưa ra có rất nhiều cách hiểu,
nhiều cách lí giải, nhiều cách trả lời thì giáo viên đặt câu hỏi
cho học sinh thảo luận sau đó sẽ giúp các em thống nhất ý kiến
đúng.
Để có được một hệ thống câu hỏi tối ưu giáo viên cần
bám sách giáo khoa, hệ thống câu hỏi và hướng dẫn của sách
giáo khoa, sách giáo viên. Tùy theo đối tượng học sinh mà vận
dụng và đưa ra những câu hỏi phù hợp với trình độ học
sinh.Trong chương trình sách giáo khoa mới việc bám sách
giáo khoa, sách giáo viên là vô cùng quan trọng. Khi câu hỏi
đưa ra cho học sinh trả lời cần có lời dẫn của giáo viên, lời dẫn
được ghi đầy đủ, chi tiết trong giáo án, câu hỏi phải được gọt
giũa, trau chuốt, không vụn vặt và cũng đừng quá khái quát
gây sự nhàm chán hoặc khó hiểu trong học sinh, câu hỏi cần
sáng, rõ mới thu hút được sự tích cực xây dựng bài của học

13
Ph¹m Thanh S¬n

Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
sinh, từ đó sẽ tạo ra không khí học tập sôi nổi, gây hứng thú
học bộ môn cho các em.
3.2. Vận dụng hệ thống câu hỏi vào một văn bản cụ thể:
Văn bản : Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài ( Trích “Vũ Như Tô” -
Nguyễn Huy Tưởng )
I. Giới thiệu tác giả- tác phẩm.
Giáo viên gợi cho học sinh nhớ lại tác phẩm đã được học
trong chương trình của Nguyễn Huy Tưởng, từ đó hướng học
sinh tìm hiểu về tác giả và tác phẩm, đoạn trích.
1. Tác giả:
Hỏi:Căn cứ vào phần tiểu dẫn SGK, em hãy nêu những
nét chính về tác giả Nguyễn Huy Tưởng?
Hỏi: Qua chuẩn bị bài ở nhà, em hãy cho biết đâu là điều
vừa quen vừa lạ khi đọc trích đoạn kich Vũ Như Tô của nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng?
- Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) xuất thân trong gia
đình nhà nho của đất kinh Bắc xưa.

14
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
- Ông có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử để xây dựng
tác phẩm có qui mô lớn và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu
thuyết và kịch.
- Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong những tổ

chức văn hoá văn nghệ do Đảng lãnh đạo.
Hỏi: Nét đặc sắc trong phong cách viết văn của ông?
-Văn phong giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm
sâu sắc.
2. Tác phẩm:
Hỏi: Nêu hoàn cảnh sáng tác tác phẩm “Vũ Như Tô”?
Hỏi: Hãy tóm tắt thật ngắn gọn tác phẩm?
-Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử 5 hồi viết về một sự kiện
xảy ra ở kinh thành Thăng Long khoảng năm 1516-1517 dưới
triều Lê Tương Dực.Tác phẩm được hoàn thành 1941.
- HS khái quát chung về tác phẩm, đọc tóm tắt.
- GV giới thiệu bảng nhân vật bằng máy chiếu hoặc in
trên giấy khổ lớn.
Hỏi: Nêu vị trí đọan trích?
- Đoạn trích thuộc hồi thứ V của vở kịch.
II. Đọc hiểu văn băn bản

15
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
1. Đọc:
- GV hướng dẫn phân vai cho HS đọc đoạn trích
- Hướng dẫn HS chú ý dựa vào các chỉ dẫn sân khấu để
thể hiện giọng đọc cho phù hợp với tình huống kịch.
+ Giọng Đan Thiềm đầy lo lắng, hốt hoảng, cứng cỏi, đau
đớn.
+ Giọng Vũ Như Tô băn khoăn, chất chứa những câu hỏi
lớn vừa nhức nhối vừa da diết vừa khắc khoải.

+ Giọng quân lính hỗn hào, giọng lũ cung nữ bợ đỡ, lẳng
lơ…
2. Phân tích văn bản
a. Các mâu thuẫn cơ bản
GV hướng dẫn HS tóm tắt các sự việc chính, phát hiện
mâu thẫn và bước phát triển của xung đột cao trào trong hồi
cuối, từ đó phân tích các xung đột kịch:
Hỏi: Anh (chị) hãy tóm tắt nội dung hồi V của vở kịch?
Hỏi: Đan Thiềm hốt hoảng thông báo: “loạn đến nơi
rồi”và thở dài “Biến đến thế là cùng”, theo em “loạn” và
“biến” xảy ra trong hồi V xuất phát từ đâu? Liệu có cách giải
quyết nào khác ngoài “loạn” và “biến”?

16
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
- Xuất phát từ: mâu thuẫn giữa nhân dân và bọn hôn
quân bạo chúa.
- Quá trình phát triển của mâu thuẫn này đã chỉ ra tính
tất yếu của hồi V.(phân tích)
Hỏi: Theo anh (chị) vì sao lại có những ánh mắt và thái
độ khác biệt như vậy khi nhìn nhận và đánh giá Cửu Trùng
Đài?
Hỏi: Hãy liệt kê những lời thoại thể hiện sự khác biệt này.
Từ đó, anh (chị) hãy chỉ ra mâu thuẫn thứ hai trong vở kịch?
- HS lí giải, liệt kê và khái quát mâu thuẫn.
- GV chiếu bảng liệt kê, nhận xét, bổ sung.
Hỏi: Điều gì tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn

nhận và đánh giá về công trình mà Vũ Như Tô kì vọng?
- Ước mơ, khát khao ấy là rất đẹp, là chân chính, bởi nó
được xuất phát từ cái tâm tha thiết với dân tộc.
- Nhưng Cửu Trùng Đài càng xây cao, mạng người càng
rẻ mạt, nhân dân càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng
vơ vét.

17
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
=>Sự đối lập này đã chỉ ra mâu thuẫn thứ hai: mâu thuẫn
giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý muôn đời và lợi
ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
Hỏi: Kết thúc vở kịch, dân chúng đã hiểu gì về Vũ Như
Tô? Cách hiểu đó liệu có khác so với trước đây?
Hỏi: Liệu Vũ Như Tô khi ra pháp trường đã tự trả lời
được cho mình câu hỏi “ta tội gì?” hay vẫn một câu trả lời
không thay đổi “Vô lí. Ta không có tội”?
- HS trả lời.
b. Phân tích tâm trạng bi kịch của Vũ Như Tô và Đan
Thiềm.
*Đan Thiềm:
Hỏi: Nguyễn Huy Tưởng đã viết trong tựa đề: “cầm bút
chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Dựa vào đoạn
trích, anh (chị) hãy lí giải điều mà nhà văn gọi là “bệnh Đan
Thiềm”?
- HS trả lời:“bệnh Đan Thiềm” chính là bệnh đam mê,
trân trọng, nâng niu cái tài, cái đẹp, bệnh của kẻ “biệt nhỡn

liên tài”.

18
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích tâm trạng của
Đan Thiềm trong đoạn trích
Hỏi: Hãy phân tích những biểu hiện của tấm lòng trân
trọng, hết mình bảo vệ cái tài, cái đẹp của Đan Thiềm?
- Bà là người đã khuyên Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài
giờ lại bằng mọi cách thuyết phục ông trốn đi. Cả hai việc đều
có nghĩa duy nhất: bảo vệ cái tài, cái đẹp.
- Bà đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn Cửu
Trùng Đài.Trong hồi 5 có đến 20 lần nàng thúc giục Vũ Như
Tô trốn đi, lánh đi, chạy đi.Tâm trạng lo lắng, hốt hoảng, van
xin tha tội cho ông cả .
* Vũ Như Tô:
- Giáo viên dẫn dắt: Đoạn trích là đỉnh cao của bi kịch Vũ
Như Tô. Mọi mâu thuẫn âm ỉ giờ trào ra thành sóng thác hành
động và kết thúc đầy bi thảm.
- Giáo viên đặt vấn đề: Trong lớp kịch thứ 5, Đan Thiềm
giục Vũ Như Tô trốn. Nàng cảnh báo “ông đừng mơ mộng
nữa”, phải chăng đó là tâm trạng đầy bi kịch của nghệ sĩ tài
hoa Vũ Như Tô?
- Giáo viên gợi mở để học sinh tìm hiểu:

19
Ph¹m Thanh S¬n

Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Hỏi: Cái tài của Vũ Như Tô trong lớp kịch được thể hiện như
thế nào?
Hỏi: Qua tóm tắt, anh (chị) thấy giấc mộng ảo vọng của
Vũ như Tô bắt đầu ra sao?
Hỏi: Trong thời khắc đầy biến động dữ dội, sự thật phũ
phàng dội xuống, họ Vũ có còn mơ?
Hỏi: Đâu là khoảnh khắc Vũ Như Tô nhận ra giấc mộng
lớn đã tan tành? Tâm trạng của ông trong khoảnh khắc ấy?
Hỏi: Nỗi đau vỡ mộng của bi kịch Vũ Như Tô thức tỉnh ở
chúng ta điều gì?
- HS trả lời từng khía cạnh câu hỏi.
- Giáo viên nhận xét, tổng hợp.
III. Tổng kết:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, đánh giá thành
công nghệ thuật của đoạn trích.
Hỏi: Anh (chị) hãy đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật
của đoạn trích?
- HS trả lời.
Hỏi: Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa của bi kịch Vũ Như Tô?
- HS trả lời và đọc phần ghi nhớ SGK.

20
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
Trên đây là hệ thống câu hỏi vận dụng trong quá trình

giảng dạy văn học. Tuy nhiên việc vận dụng của người giáo
viên trong từng bài dạy cần linh hoạt, sáng tạo giúp các em
tiếp cận văn bản, tích cực tìm đến được kiến thức bài học một
cách chủ động, lĩnh hội kiến thức một cách sâu hơn, rộng hơn
bằng chính năng lực tư duy sáng tạo của mình.
3.3. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học.
Để giúp học sinh học tốt bộ môn Ngữ văn cần chú ý:
100% học sinh phải có SGK. Phải đọc và trả lời câu hỏi phần
hướng dẫn học bài ( ít nhất phải đọc văn bản 2 lần trước khi
đến lớp)
Ngoài việc trả lời các câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị trong
SGK, giáo viên có thể nêu ra trước các câu hỏi nêu vấn đề
trong phần tổng kết của tác phẩm để học sinh suy nghĩ trả lời.
Đánh dấu những câu hỏi chưa hiểu, chưa rõ để lên lớp
cùng thắc mắc, trao đổi cuối mỗi buổi học.
Từ việc thấy được vai trò hỗ trợ hiệu quả của các thiết bị
dạy học, trong các giờ dạy văn bản chúng ta cần sử dụng các
thiết bị dạy học phù hợp, sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

21
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
- Trước hết ở phần tiểu dẫn giới thiệu về tác giả, tác
phẩm có thể sử dụng các tranh ảnh, các băng hình giới thiệu
về chân dung, quê quán… của tác giả. Trong trường hợp cần
thiết, có thế sưu tầm văn bản (phóng to qua máy chiếu đa năng
để học sinh quan sát).
- Ở phần đọc - hiểu văn bản nên khai thác tối đa các tính

năng của máy chiếu đa năng, sử dụng hiệu quả giáo án điện tử
(đưa các nội dung của bài dạy vào các slide và trình chiếu -
các slide chứa các câu hỏi và các đơn vị kiến thức được trình
bày một cách sống động, hấp dẫn). Mục đích của việc làm này
là tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh có nhiều thời gian
hơn trong việc tìm hiểu văn bản (tổ chức trao đổi thảo luận),
tạo hứng thú trong học tập, phát huy tính tích cực chủ động,
tránh lối dạy đọc chép, gây sự thụ động cho học sinh.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:
1. Kết quả nghiên cứu:
Sau một thời gian vận dụng phương pháp dạy học bằng
hệ thống câu hỏi tối ưu tôi nhận thấy:
- Giờ dạy văn đã gây sự chú ý, cuốn hút các em tập trung
học tập, động não, suy nghĩ. Số học sinh tham gia phát biểu ý

22
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
kiến tăng lên. Nội dung câu trả lời tập trung vào kiến thức
trọng tâm không lan man, dài dòng.
- Giờ học sôi nổi, học sinh nắm được nội dung tác phẩm
ngay trên lớp.
So với phương pháp cũ, học sinh đã giảm được tình trạng hiểu
văn bản một cách hời hợt, cảm thấy khó hiểu dẫn đến tâm lí
ngại học, dần dần mất đi niềm hứng thú, say mê.
Với cách học này còn tạo cho học sinh một thói quen học
tập nghiêm túc, khoa học
Để kiểm nghiệm kết quả của cách học trên, tôi có tiến

hành khảo sát trên cùng một đối tượng học sinh, tôi đã thu thập
được các số liệu như sau:
Năm học 2011 - 2012 khi dạy ở hai lớp công lập là 11C3
và 11C7 với cách dạy cũ, tôi có tiến hành kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của học sinh qua một đề bài tự luận: Cảm nhận của
em về vẻ đẹp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Và kết quả cho
thấy: 40% đạt yêu cầu, 60% chưa đạt yêu cầu.
Năm học 2012- 2013 với đối tượng cũng là học sinh công
lập, ở hai lớp 11A5 và 11A9, sau khi áp dụng một số giải pháp

23
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
tích cực trên, qua một số đề bài kiểm tra tương tự, kết quả cho
thấy 80% đạt yêu cầu, chỉ có 20% chưa đạt yêu cầu.
Có thể nói đó là một kết quả khả quan, việc áp dụng
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới đã cho thấy số
lượng học sinh nắm được kiến thức cơ bản nhiều hơn, chứng
tỏ chất lượng dạy và học đã được nâng lên một bước.
2. Đề xuất:
Căn cứ vào thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông hiện
nay, tôi thấy cần phải đề xuất một số vấn đề sau:
2.1. Tăng cường thêm về cơ sở vật chất, đảm bảo về trang
thiết bị cho việc dạy và học, cụ thể là: tăng cường thêm tranh
ảnh, băng hình, các thiết bị máy móc như máy chiếu đa năng,
băng hình video, tranh ảnh…các công nghệ dạy học tiên tiến.
2.2. Cần tổ chức tốt các hoạt động ngoại khoá, hoạt động
ngoài giờ để học sinh có điều kiện mở rộng tầm hiểu biết, đa

dạng hoá các hình thức học tập, ví dụ như tổ chức cho học sinh
đi tham quan, giao lưu học hỏi…
Trên đây là một số đề xuất nhỏ, mong rằng những ý kiến
trên sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và

24
Ph¹m Thanh S¬n
Trường THPT Hoàng Lệ Kha

.
học các tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông. Tôi
xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 20 tháng 05
năm 2013
Tôi xin can đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
PHẠM THANH SƠN





25

×