Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

SKKN ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy các bài hình học lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.22 MB, 45 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân tộc Việt Nam ta có một truyền thống từ rất lâu đời đó là hiếu học và
trọng người tài. Đã có rất nhiều những tấm gương hiếu học đã trở thành nhà bác
học thiên tài và góp sức cho xã hội ngày càng giàu mạnh như Cao Bá Quát;
Lương Định Của hay gần đây có Ngô Bảo Châu …Để theo kịp với sự phát triển
của thời đại thì mục tiêu của giáo dục tiểu học hiện nay là nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, có hiểu biết
đơn giản về tự nhiên , xã hội và con người; có kĩ năng nghe - nói - đọc - viết và
tính toán… Nhà trường tiểu học là cái nôi cung cấp cho học sinh những tri thức
khoa học, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển nhân
cách. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu rất quan trọng.
Trong chương trình dạy học toán ở Tiểu học thì chương trình Toán lớp 3
đóng vai trò rất quan trọng. Lớp 3 là kết thúc giai đoạn đầu của bậc tiểu học,
phải chuẩn bị kiến thức cơ sở để học sinh học tốt giai đoạn cuối của bậc tiểu học
và tiếp cận các cấp học sau này.
Dạy học toán là một trong những con đường hình thành và phát triển
trình độ tư duy ở học sinh, xã hội càng phát triển thì đổi mới phương pháp giảng
dạy trong nhà trường đóng vai trò ngày càng quan trọng trong xu hướng phát
triển và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa để phù hợp với
tinh thần đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa. Trước những biến động
trên giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh một cách chính xác vào việc làm
toán, hình thành ở các em những kĩ năng cần thiết trong học toán cũng như học
tập các môn học khác.

1


1. Thực trạng:
Qua những năm trực tiếp giảng dạy lớp 3 tôi nhận thấy:


- Độ tuổi học sinh tiểu học còn thấp, năng lực chú ý và trí nhớ chưa ổn định.
- Trong sách giáo khoa, các kiến thức hình học được trình bày kết hợp cả
kênh chữ, kênh hình, học sinh quan sát vào đó rất khó hình dung, tưởng tượng, dẫn
đến việc nắm kiến thức trong mỗi tiết học chưa cao. Khả năng nhận thức được các
kiến thức mang tính tưởng tượng cao như hình học còn là một điều khó khăn.
- Đối với học sinh lớp 3 mảng kiến thức đếm hình, ghi tên đỉnh, cạnh, góc
của hình theo thứ tự bảng chữ cái còn sai nhiều, xác định góc vuông không chính xác.
- Với các bài toán về số học giáo viên có thể vận dụng các phương pháp
dạy học thông thường kết hợp một số đồ dùng dạy học học sinh chủ động tiếp
thu bài và nắm được kiến thức cơ bản của bài học. Còn các bài toán về hình học
đòi hỏi học sinh có trí tưởng tưởng, khả năng nhìn nhận khái quát tổng hợp cao
nếu giáo viên chỉ vận dụng các phương pháp dạy học thông thường học sinh sẽ
khó khăn trong việc chủ động tiếp thu bài.
Là giáo viên trực tiếp chủ nhiệm và được nhà trường phân công dạy lớp 3 đã
nhiều năm nên tôi đã có cơ hội được dạy các bài toán có liên quan đến yếu tố hình
học trong chương trình toán lớp 3 cho rất nhiều lứa học sinh và với nhiều đối
tượng trình độ khác nhau. Nhưng tôi rất băn khoăn vì thấy các học trò của mình
tiếp thu những bài học đó một cách không hào hứng, khi áp dụng vào làm bài tập
thì còn sai rất nhiều nhất là bài về “ Góc vuông , góc không vuông”; hay còn
nhầm lẫn khi áp dụng quy tắc tính “ Chu vi hình chữ nhật”; “ Chu vi hình vuông”
và đặc biệt là hầu hết các em không biết tính chu vi của một hình( hoặc một vật)
khi hình đó được ghép lại từ những hình chữ nhật hoặc hình vuông nhỏ hơn.
2. Nguyên nhân
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến có tình trạng như vậy?
Để trả lời cho câu hỏi trên, tôi đã gần gũi tiếp xúc, trò chuyện với các em,
trao đổi với đồng nghiệp. Cuối cùng tôi cũng tìm ra nguyên nhân
2.1. Hoạt động nhận thức của các em lớp 3 còn có những hạn chế nhất
định về khả năng phân tích , tổng hợp còn kém , việc tri giác các sự vật hiện
2



tượng chủ yếu vẫn dựa vào hình dạng bên ngoài chưa biết phân tích để nhận ra
những thuộc tính đặc trưng của các sự vật hiện tượng đó.
2.2. Tri giác của học sinh Tiểu học còn gắn với những hình ảnh, đồ vật cụ
thể, khả năng tưởng tượng của các em tuy đã phát triển nhưng vẫn còn hạn chế,
còn phụ thuộc vào mô hình, vật thật, việc thật. Nhưng nhiều khi mô hình vật thật
đó cũng chưa mang lại hiệu quả cao đối với khả năng tư duy, tưởng tượng vốn
chưa phát triển nhiều và chưa bền vững của các em học sinh lớp 3.
2.3.Các bài có liên quan đến yếu tố hình học trong chương trình lớp 3 chưa
có nhiều, chưa liền mạch và mang tính giới thiệu nhiều hơn.
3. Ý nghĩa:
- Góp phần nâng cao chất lượng học Toán của học sinh.
- Nâng cao hứng thú và động lực học tập ở học sinh.
- Tạo cơ hội tốt hơn để học sinh tham gia và hợp tác cùng nhau, phát triển
kỹ năng xã hội và con người.
- Học sinh cũng có thể xử lý và nắm bắt được nhiều thông tin thông qua
bài giảng rõ ràng, hiệu quả và linh hoạt.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Tăng cường hoạt
động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, nâng cao hiệu
quả việc dạy học các bài toán có yếu tố hình học ở lớp 3.
- Thiết kế hệ thống các bài giảng toán có yếu tố hình học ở lớp 3 bằng
phần mềm PowerPoint.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm ra phương pháp tối ưu để nâng cao chất lượng học những bài liên
quan đến yếu tố hình học cho học sinh lớp 3.


3


IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, các sách , báo
tham khảo toán tiểu học, các tài liệu sách báo tạp trí giáo dục có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thực tế: Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung
phương pháp dạy học toán tiểu học, đặc biệt là phần mềm toán có nội dung hình
học, tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Nghiên cứu các dạng bài về hình học trong chương trình Toán 3.
- Tìm hiểu các khó khăn khi triển khai thực hiện, trao đổi ý tưởng cùng
đồng nghiệp, tổ chuyên môn.
- Lập kế hoạch, soạn bài, thiết kế bài kiểm tra.
- Tìm hiểu về thiết kế bài giảng điện từ và phần mềm PowerPoint.
- Dạy hai lớp đối chứng và thực nghiệm.
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để tiến hành kiểm chứng tác động của ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học hình học tôi đã nghiên cứu và thực hiện tại hai lớp 3D (lớp đối chứng) và
lớp 3E (lớp thực nghiệm) trường Tiểu học Hiến Nam .Đây là hai lớp với sĩ số và
trình độ tương đồng đều có nhiều điểm tương đương về học lực và giới tính.
Lớp
Lớp 3E
Lớp 3D

Sĩ số
38
37

Giới tính
Nam

Nữ
19
19
17
10

Năng lực

Phẩm chất

Đạt
Đạt

Đạt
Đạt

PHẦN NỘI DUNG
4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Toán là bộ môn mà hầu hết các em học sinh tiểu học nói chung và học sinh
lớp 3 nói riêng đều yêu thích. Các tuyến kiến thức toán học đưa vào dạy ở trong
trường tiểu học được chia thành các tuyến chính là: số học và các phép tính, đại
lượng và đo đại lượng, giải toán có lời văn, các yếu tố thống kê và yếu tố hình
học. Các tuyến kiến thức này có liên quan mật thiết với nhau hỗ trợ và bổ sung
cho nhau góp phần phát triển năng lực Toán cho học sinh Tiểu học. Căn cứ vào
sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán
rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh nhất là yếu tố hình học. Ở

lớp 1, 2 các em được làm quen và nhận biết về các hình. Lên lớp 3, ở học kì 1,
các yếu tố về hình học dần dần được bổ sung, nâng cao, học sinh phải nắm được
đặc điểm của góc, hình, chu vi của một hình và sang học kì II thì học sinh phải
nắm được “điểm, trung điểm của đoạn thẳng hay chu vi, diện tích của hình
vuông, hình chữ nhật”. Tuy nhiên đối với học sinh tiểu học hoạt động nhận thức
còn có những hạn chế nhất định về khả năng phân tích , tổng hợp còn kém, việc
tri giác các sự vật hiện tượng chủ yếu vẫn dựa vào hình dạng bên ngoài chưa
biết phân tích để nhận ra những thuộc tính đặc trưng của các sự vật hiện tượng
đó. Tri giác của học sinh tiểu học còn gắn với những hình ảnh, đồ vật cụ thể, khả
năng tưởng tượng của các em tuy đã phát triển nhưng vẫn còn hạn chế, còn phụ
thuộc vào mô hình, vật thật, việc thật . Qua quá trình giảng dạy và trao đổi với
đồng nghiệp, tôi nhận thấy học sinh lớp 3 khả năng tư duy cụ thể chiếm ưu thế,
nắm kiến thức một cách máy móc, rất chóng nhớ nhưng lại mau quên. Đồng
thời, các em còn nhỏ, nhất là những em có lực học trung bình và yếu khả năng
tư duy trừu tượng, khái quát tổng hợp còn hạn chế. Chính vì vậy mà việc nhận
biết và xác định góc vuông, điểm ở giữa, trung điểm còn lúng túng; tìm chiều
dài, chiều rộng hay tính chu vi của hình chữ nhật (ghép bởi nhiều hình vuông
lại) khi biết chu vi của một hình vuông còn nhầm lẫn, tính toán sai, dẫn đến hiệu
quả tiết dạy chưa cao.Đây cũng chính là khó khăn cho giáo viên khi dạy bài có

5


yếu tố hình học. Dạy các yếu tố về hình học là nội dung tương đối khó và trừu
tượng với học sinh lớp 3.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay công nghệ thông tin phát triển rộng rãi, ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học toán là một trong những vấn đề cần thiết đối với mỗi giáo viên
trong các trường học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán là
quá trình sử dụng một cách hợp lý phương tiện dạy học : máy tính, máy chiếu, máy

soi, bài giảng điện tử…. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là sự gợi ý, hé
mở và là hướng để giáo viên có thể vận dụng giải quyết những vấn đề, những nội
dung khó mà phương pháp dạy học truyền thống khó thực hiện được.
Nhưng làm thế nào để việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các tiết
dạy đạt hiệu quả cao nhất ? Đó là một vấn đề mà không phải người giáo viên
nào cũng giải quyết một cách hoàn hảo.
Theo quy định của Sở Giáo dục và Đào tạo thì tất cả giáo viên đều phải
biết sử dụng máy vi tính. Tuy vậy chỉ sử dụng thành thạo máy vi tính nhưng khi
áp dụng soạn giáo án điện tử lại là một điều không đơn giản.
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy vì
cho rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị bài giảng. Để tạo được những hình ảnh
đẹp, sống động trên các Slide đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị và đây
chính là điều mà giáo viên rất ái ngại.
Khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với
cách dạy truyền thống với phấn trắng bảng đen, đó là giáo viên phải mất thời
gian tìm hình ảnh minh họa, âm thanh, tư liệu dẫn chứng phù hợp với nội dung
bài giảng... khi sử dụng giáo án điện tử ngoài những kiến thức cơ bản về vi tính,
sử dụng thành thạo phần mềm PowerPoint giáo viên cần phải có tính sáng tạo,
tính thẩm mỹ và sự nhạy bén để tìm kiếm tư liệu phục vụ cho bài dạy và nhất là
phải có niềm đam mê, vì khi có lòng đam mê thì chúng ta mới thực hiện được
những việc được coi là vất vả như nêu ở trên.
Chính vì những khó khăn gặp phải khi sử dụng giáo án điện tử mà các
giáo viên chủ yếu chỉ ứng dụng Công nghệ thông tin trong các tiết thao giảng,
6


còn ngoài ra rất ít khi sử dụng nó trong các tiết dạy thông thường. Vì vậy giáo
viên chưa phát huy được khả năng xử lí thông tin của học sinh trong các tiết học
nhất là khi dạy các bài có yếu tố hình học.
Tôi đã soạn một phiếu kiểm tra 15 phút cho 2 lớp tôi chọn làm đối tượng

khảo sát sau khi học sinh học xong bài “ Điểm ở giữa. Trung điểm của một
đoạn thẳng” theo phương pháp truyền thống như sau:

ĐỀ KIỂM TRA (Thời gian làm bài 15 phút)
Bài 1: Chọn câu đúng:
Cho hình bên: Điểm nằm giữa hai điểm D và F là:
I

A. Điểm D
B. Điểm E

D

E

F

C. Điểm I
D. Điểm F
Bài 2: Đúng ghi Đ sai ghi S
Trong hình bên có :

A

a, I là điểm giữa hai điểm B và C

H

b, B là điểm giữa hai điểm A và C
c, H là điểm giữa hai điểm A và C


B

I

C

Bài 3: Vẽ đoạn thẳng AB dài 12cm rồi xác định trung điểm O của
đoạn thẳng AB.

7


Kết quả thu được như sau:
Nhận biết và
Sĩ số

Lớp 3E
Lớp 3D

38
37

phân biệt được
điểm ở giữa và
trung điểm
25
20

Xác định

được trung
điểm
19
20

Chưa phân
biệt được
điểm ở giữa và
trung điểm
13
17

Hứng thú
và tích cực
học tập
17
17

Với kết quả như vậy tôi thấy rất băn khoăn, lo lắng nên đã lựa chọn giải
pháp dùng công nghệ thông tin vào dạy các bài toán có yếu tố hình học đó.
2.1. Những yêu cầu đối với giáo viên dạy giáo án điện tử:
Để thiết kế được một giáo án điện tử phục vụ cho tiết dạy, người giáo
viên cần có những kiến thức cơ bản như:
- Biết sử dụng máy vi tính;
- Biết sử dụng phần mềm PowerPoint;
- Biết truy cập Internet;
- Biết cách sử dụng máy chiếu (Projector).
Lý do mà tôi đưa ra các yêu cầu trên vì:
Thứ nhất: Có biết cách sử dụng máy vi tính thì chúng ta mới có thể mở
máy, tắt máy, chọn những chương trình làm việc thích hợp với nhu cầu của

mình. Biết cách sao chép, lưu trữ, tìm kiếm tài liệu ...
Thứ hai: Để tạo được một giáo án điện tử nhất thiết phải biết cách sử
dụng phần mềm trình diễn PowerPoint (trong bản sáng kiến này tôi đề cập đến
phần mềm PowerPoint). Đây là phần mềm có sẵn trong bộ MS Office, dùng để
tạo các Slide trình diễn đa dạng trên máy tính. Nếu chỉ dừng ở mức gõ những
nội dung cần thiết cộng thêm những định dạng về Font chữ, màu sắc thì có lẽ
giáo viên nào cũng làm được. Nhưng nếu chỉ đơn giản thế thì chúng ta chưa thấy
được hết tính năng của phần mềm này, do đó chúng ta phải biết cách sử dụng và
sử dụng thành thạo thì mới phát huy được tính hiệu quả của việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy.
Từ những dòng chữ khô khan, từ những hình ảnh đơn giản được đưa vào
bài giảng người giáo viên phải biết cách làm cho nó sinh động, thu hút học sinh
8


bằng các hiệu ứng hoạt hình của phần mềm, bằng những kiểu bay, xoay, hướng
di chuyển của đối tượng, tính năng liên kết các Slide... kết hợp với các kiểu âm
thanh thật thú vị. Đặc biệt khi dạy bài có yếu tố hình học thì còn cần sử dụng
những thủ thuật sau:
2.2. Một số thủ thuật về công nghệ thông tin khi thiết kế bài dạy bằng
PowerPoint:
2.2.1: Thủ thuật vẽ hình:
Đây là một việc làm không thể thiếu khi dạy bài có yếu tố hình học.
– Với Wort 2007: Đầu tiên các bạn vào tab “Insert” ở
mục “Shapes” sau đó bấm vào biểu tượng mũi tên xuống để
chọn biểu tượng hình học thích hợp để vẽ.
Tiếp theo bạn di chuột để vẽ hình vừa chọn và lựa chọn kích thước
phù hợp với slide.

9



– Sau khi vẽ xong, các bạn có thể chỉnh lại màu cho hình
vẽ ở mục “Shape fill” và chỉnh màu cho đường viền ở
mục “Shape Outline”.
- Tạo hiệu ứng cho hình vẽ theo các bước giống như tạo hiệu
ứng cho trang .
- Bên cạnh đó chúng ta còn phải sử dụng kĩ năng xoay hình
( dùng e - ke đo góc vuông) .
2.2.2: Thủ thuật chèn chữ vào trong hình, kích chuột phải, chọn add text

2.2.3: Thủ thuật đổ màu cho hình:
Tại thẻ Drawing Tool:

Shape Fill: đổ màu cho hình
Shape Outline: chỉnh màu viền của hình
Shape Effects: chỉnh hiệu ứng cho hình

10


Kích chuột vào góc dưới bên phải của Shape Styles, hiển thị cửa sổ Format
Shape. Tại đây, bạn có thể điều chỉnh cụ thể hơn cho hình.

2.2.4 Hiệu ứng cho trang
-Di chuyển chuột chọn Animations .
-Dưới đó là các hiệu ứng chỉ cần chọn trang muốn làm.

Khung lựa chọn hiệu ứng


2.2.5: Hiệu ứng cho chữ
Bước 1: Quét chuột hết chữ bạn muốn làm slide->Animations-> Custom Animation.

11


Hiệu ứng cho chữ

Bước 2: Chọn Add Effect. Sau đó chọn các hiệu ứng muốn cho chữ chạy.

Chọn hiệu cho chữ
2.2.6: Thủ thuật group hình

Với những thủ thuật trên power point đem lại rất nhiều những tiện ích. Vì
vậy năm 2010- 2011 giáo án điện tử đã được nhiều giáo viên đón nhận một cách
tích cực, bởi nó tạo ra một không khí học tập sôi nổi thu hút sự chú ý của học
sinh, học sinh thực sự làm chủ trong tiết học. Nhờ những tính năng của phần
mềm mà khi dạy bằng giáo án điện tử giáo viên đỡ vất vả hơn nhiều. Thay bằng
thao tác gắn đồ dùng lên bảng giáo viên chỉ cần click chuột là có. Dạy bằng giáo
án điện tử còn tránh được tình trạng cháy giáo án do quá nhiều thao tác gắn và
tháo đồ dùng dạy học.

12


Khi sử dụng giáo án điện tử giáo viên có thể thiết kế bài học như sách giáo
khoa, không cần in tranh ảnh tốn tiền, mất thời gian mà hình ảnh lại nhỏ, không
rõ nét như khi đưa lên màn hình lớn.
Những từ ngữ trọng tâm trong bài ta có thể đổi màu hoặc gạch chân sẽ
giúp học sinh hiểu bài hơn. Hoặc khi tóm tắt đề bài toán ta có thể dùng những

hình ảnh, những hiệu ứng từ đó học sinh hiểu và có thể giải bài toán một cách dễ
dàng hơn.
Ngoài ra trong quá trình dạy học Toán lớp 3, tôi thấy việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học các dạng bài toán về hình học là cần thiết, ta có thể
đưa lên màn hình lớn , tô màu những phần trọng tâm. Đối với những bài về ghép
hình, mỗi bài toán có thể có nhiều cách ghép khác nhau cùng một lúc giáo viên
đưa các đáp án lên bảng sẽ rất vất vả và mất thời gian. Nhưng dạy bằng giáo án
điện tử thì chỉ cần thiết kế trong một slide là có đủ đáp án của bài dựa vào đó học
sinh biết được mình đã ghép được theo cách nào và còn có những cách ghép nào
khác nữa từ đó học sinh có thể vận dụng cách ghép hình cho các bài học sau.
Ví dụ:

Các kiến thức trong bài học được giáo viên thiết kế trên từng slide Giáo
án điện tử. Ngoài ra bài giảng điện tử còn là một công cụ hỗ trợ trong dạy học
giúp giáo viên cập nhật phương pháp dạy học hiện đại, lên lớp nhẹ nhàng, làm
chủ tiết dạy. Đồng thời giúp học sinh hứng thú nghe giảng, nắm được kiến thức
13


trọng tâm của bài. Điều này chứng tỏ giáo án điện tử là phương tiện hỗ trợ rất tốt
trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
Ví dụ dạy bài: Góc vuông, góc không vuông
Thay vì việc phải dùng đến 3 đồng hồ làm đồ dùng trực quan và vẽ các góc
minh họa cho học sinh nhận diện ra góc thì tôi chỉ cần cho học sinh quan sát các
hình ảnh minh họa trên các slide và dùng một vài hiệu ứng nhấp nháy ở các cạnh
của góc để phân tích cho học sinh hiểu về góc.

Khi hướng dẫn học sinh nhận biết góc vuông, góc không vuông bằng ê – ke
tôi cũng dùng hiệu ứng di chuyển ê – ke trên slide để học sinh dễ dàng phân biệt.


14


Khi chữa bài cho học sinh thay vì phải di chuyển ê- ke theo từng góc vuông
tôi đã vẽ các ê – ke vào vị trí các góc từ đó học sinh có thể nhận biết loại
góc dựa vào e – ke.

Hay khi hướng dẫn học sinh cách vẽ góc vuông học sinh được nhìn trực
diện trên màn hình và giáo viên không phải giữ thước khi hướng dẫn.
15


Hoặc minh họa cho việc kiểm tra góc vuông trong hình thì việc sử dụng
Powerpoint tôi thấy là rất hay và khoa học chỉ cần hiệu ứng di chuyển trên slide
học sinh được quan sát rất tốt vị trí các góc khi com - pa được đặt vào mà không
bị che khuất bằng thao tác của giáo viên.

16


Hay với bài : Diện tích của một hình
Để giới thiệu cho HS biết diện tích của một hình là toàn bộ phần bề mặt của
hình đó tôi dùng hiệu ứng tô màu toàn bộ bề mặt của hình. Nhờ đó biểu tượng về
diện tích sẽ tác động vào học sinh dễ dàng hơn và học sinh cũng nhớ lâu hơn.

Nhận thấy khả năng to lớn của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học, qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu các phần mềm thiết kế các bài giảng
17



điện tử cho môn Toán ở tiểu học tôi nhận thấy PowerPoint là một trong những
phần mềm cho phép thiết kế các bài giảng hiệu quả và dễ sử dụng. Đối với môn
Toán, đặc biệt là các bài toán có các yếu tố hình học ở tiểu học PowerPoint có
thể tạo ra những trang trình diễn thay thế cho giáo án và cách trình bày bảng,
thay thế cho các giáo cụ trực quan, những tài liệu minh họa kèm theo, những
hiệu ứng về âm thanh và hình ảnh.
Hơn nữa vấn đề tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành giáo dục cũng đang rất được quan tâm như trong Chỉ thị
số 55/2008/CT ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Bộ giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ
“ Công cụ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới quản lí giáo dục, góp phần
làm nâng cao chất lượng dạy học là rất có ý nghĩa và cần thiết.”
Trong những năm gần đây phòng giáo dục và đào tạo Hưng Yên cũng
tăng cường đẩy mạnh và khuyến khích giáo viên vận dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy, ngoài soạn giáo án máy ra thì mỗi giáo viên trong một năm phải
thực hiện được ít nhất 5 giáo án điện tử vào giảng dạy.
Chính vì điều này mà tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp “ Ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy các bài toán về hình học lớp 3”.

18


CHƯƠNG II. ỨNG DỤNG CNTT VÀO SOẠN GIẢNG. MỘT SỐ BÀI CÓ
YẾU TỐ HÌNH HỌC LỚP 3
Ngay sau khi được triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn
giáo án máy và áp dụng vào giảng dạy trên lớp để phù hợp với thế giới cũng như
việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây chính là đáp án
cho câu hỏi mà mình đã trăn trở bao lâu. Và tôi đã bắt tay vào làm quen và vận
dụng thực hành môn toán lớp 3 với các bài học liên quan đến yếu tố hình học.
Lớp thực nghiệm chọn giải pháp thay thế các hình thức dạy học cũ bằng
giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin khi dạy các bài có nội dung hình học.

Tất cả các em đều chăm ngoan, ý thức học tập tốt, tích cực, chủ động, hăng
hái phát biểu xây dựng bài. Tổ chức các hoạt động nhóm khá tốt.
1. Một số bài có nội dung hình học trong sách giáo khoa toán lớp 3:
Tôi đã chọn một số bài điển hình sau đó áp dụng vào thời gian và thực
nghiệm như sau:
Thứ/ ngày
Thứ hai
19/10/2015
Thứ năm
24/12/2015
Thứ sáu
25/12/2015
Thứ hai
28/12/2015
Thứ ba
29/12/2015
Thứ hai
18/01/2016
Thứ
ba
16/2/2016

Môn

Tiết theo
PPCT

Toán

41


Góc vuông, góc không vuông

Toán

84

Hình chữ nhật

Toán

85

Hình vuông

Toán

86

Chu vi hình chữ nhật

Toán

87

Toán

96

Chu vi hình vuông

Điểm ở giữa. trung điểm của đoạn
thẳng

Toán

141

Tên bài dạy

Diện tích của một hình

2. Cách thực hiện:
19


Để tiến hành dạy các bài toán liên quan đến yếu tố hình học ở môn toán
lớp 3 tôi tiến hành như sau:
- Nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, nội dung các bài về hình học để hiểu ý đồ của tác giả.
- Nghiên cứu tài liệu liên quan như sách thiết kế, sách giáo viên.
- Xác định mục tiêu bài học
- Xây dựng giáo án chi tiết.
- Thiết kế slide tương ứng với từng hoạt động trong bài soạn.
- Áp dụng những thủ thuật trên powerpoint
Dưới đây là một số bài soạn và slide tôi đã thiết kế và áp dụng vào giảng dạy.
* Bài : HÌNH CHỮ NHẬT( TIẾT 84)
I. Mục tiêu: Học sinh:
- Bước đầu có khái niệm về hình chữ nhật (theo yếu tố cạnh và góc ), từ đó
biết nhận dạng hình chữ nhật (theo yếu tố cạnh và góc ).
- Áp dụng để kẻ thêm đoạn thẳng vào hình đã cho để tạo ra hình chữ nhật.
- Tạo hứng thú ham học cho học sinh.

II Đồ dùng dạy học
- Mô hình (bằng nhựa, bằng bìa) có dạng hình chữ nhật, máy chiếu, máy soi.
III. Các hoạt động dạy học
1.Hoạt động 1 : Kiểm tra ( 3 - 5’)
- Bảng con :

- Vẽ một hình tứ giác, đặt tên hình.
- Đọc tên hình ?

2. Hoạt động 2 : Dạy bài mới (13- 15’)
*HĐ 2.1 Giới thiệu hình chữ nhật bằng trực quan và
hình vẽ.
- G nêu yêu cầu : Chọn trong bộ đồ dùng của em 1 hình
chữ nhật.

- Học sinh dùng ê ke

- Đo kiểm tra 4 cạnh và 4 góc và nêu nhận xét về hình KT góc, cạnh.
chữ nhật đó :

- 4 góc của hình chữ
nhật đều là góc vuông.
- 2 cạnh dài bằng nhau.
20


- 2 cạnh ngắn bằng nhau.
- GV có hình chữ nhật ABCD trên màn hình.

- H đọc tên hình.

- 4 góc : A, B, C, D

- Hình chữ nhật ABCD có mấy góc đó là những góc nào ?

- Quan sát.

- Hiệu ứng ê-ke kiểm tra 4 góc của hình chữ nhật.
- Các góc có đặc điểm gì ?

- 4 góc đều là góc vuông.

-> Hình chữ nhật ABCD có 4 góc vuông.
- Nêu các cạnh của hình chữ nhật ?

- Cạnh AB, BC, CD, AD

- Hai cạnh dài là những cạnh nào ?

- AB, CD

- Nêu tên hai cạnh ngắn ?

- AD, BC

-> Hình chữ nhật ABCD có 2 cạnh dài là AB và CD, 2
cạnh ngắn là AD và BC.
- GV kiểm tra 2 cạnh dài bằng cách đổi màu cạnh AB,
CD dùng hiệu ứng chạy cạnh AB xuống cạnh CD, tương - AB = CD, AD = BC
tự cạnh AD và BC để HS thấy được 2 cạnh dài bằng + 4 góc vuông
nhau, 2 cạnh ngắn bằng nhau.


+ 2 cạnh dài bằng nhau,

- Em hãy so sánh độ dài cạnh AB và CD, cạnh AD và BC ?

2 cạnh ngắn bằng nhau

-> Hình chữ nhật có hai cạnh dài bằng nhau

- Một số em đọc to KL

AB = CD, hai cạnh ngắn bằng nhau AD = BC

- Nêu y/c, quan sát

* Giới thiệu các yếu tố của hình chữ nhật

- Trả lời miệng.

- Hình chữ nhật có yếu tố nào ?
-> HCN có 4 góc vuông, có 2 cạnh dài bằng nhau, 2
cạnh ngắn bằng nhau. Nếu thiếu 1 trong 2 yếu tố trên
không phải là hình chữ nhật.
- GV đưa hiệu ứng nhấp nháy 4 góc vuông, 2 cạnh dài,
2 cạnh ngắn.
-> Độ dài cạnh dài gọi là chiều dài, độ dài cạnh ngắn
gọi là chiều rộng.

21



=> Kết luận : SGK

- Hình MNPQ, RSTU

*HĐ 2.2 : Luyện tập (17-20’)

là hình chữ nhật vì có 4

Bài 1/84(4 - 5’)

góc vuông, 2 chiều dài

* KT : Củng cố kĩ năng nhận biết hình chữ nhật và các bằng nhau.
yếu tố góc cạnh của HCN
- Hình nào là HCN ? Vì sao ? Không là HCN vì sao ?

- Các hình khác không
là hình chữ nhật vì thiếu
ĐK về góc…

=> G chốt : Nêu cách nhận biết về hình chữ nhật ?
Bằng cách nào ?
-> Bài này ta dựa vào các ô vuông để xác định góc - Dựa vào các yếu tố về
vuông, độ dài các cạnh…

góc…
22



Bài 2/85(4 - 5’) ( làm miệng)

- Bằng cách đo hay dựa

* KT : Củng cố đo độ dài các cạnh của hình chữ nhật đường kẻ ô vuông
và đọc các số đo độ dài.
- Nêu y/c, quan sát,
thực hành đo.
- Trả lời miệng

=> G chốt : Nêu nhận xét về các số đo của các cạnh em
vừa đo ? chỉ phải đo mấy lần ? vì sao ?
-> Với hình chữ nhật ta đo một chiều dài và một chiều
rộng rồi ghi số đo vào các cạnh.
Bài 3/85(5-6’)
* KT: Củng cố tính giá trị độ dài các cạnh HCN với các
số đo cho trước
- Dựa vào đâu tìm các cạnh còn lại ?
- Đọc số đo độ dài các
cạnh…
- Chỉ cần đo mỗi hình 2 lần
vì 2 chiều dài bằng nhau, hai
chiều rộng bằng nhau .

- HS đọc đề bài, làm vở
23


- 1 em làm bảng lớp –
NX…

- Dựa vào cạnh cho
trước và yếu tố về cạnh
hình chữ nhật MNCD :
CD = MN = 4cm
MD = NC = 2cm….

- GV hiệu ứng đưa hình vẽ SGK đổ màu các hình chữ
nhật giúp HS nhận biết các hình, đổi màu nhấp nháy
các cạnh có độ dài bằng nhau ….để học sinh quan sát
thấy rõ.
=> G chốt : Dựa vào đặc điểm của HCN và cạnh cho
trước…
Dự kiến sai lầm : H tính sai kết quả các cạnh của HCN
Bài4/85(4 - 5’)

- Nêu y/c, thực hành kẻ

* KT : Củng cố về kĩ năng nhận biết hình chữ nhật và
vẽ hình chữ nhật
=> G chốt: làm thế nào để các em vẽ ngay thêm một
đoạn thẳng vào hình đã cho tạo ra hình chữ nhật ?
- Dựa vào đường kẻ ô
vuông

3. Hoạt động 3 : Củng cố dặn dò (2-3’):
- Nhận xét tiết học.
24


Tương tự với tất cả các bài liên quan đến hình học tôi đều thiết kế và

soạn giảng bằng công nghệ thông tin và áp dụng dạy tại lớp 3E.
Để nghiên cứu về tác dụng của công nghệ thông tin với sự nhận thức của
học sinh sau mỗi tiết dạy bằng công nghệ thông tin tại lớp 3E tôi lại tiến hành
dạy tiết đó tại lớp 3D với hình thức dạy học cũ. Mặc dù có kết hợp cả đồ dùng
dạy học tôi thấy các em hiểu và vận dụng được vào làm bài tập nhưng hiểu sâu
và chắc chắn cũng như kích thích về tư duy thì chưa được như lớp 3E mặc dù
trình độ học sinh của 2 lớp là như nhau. Như bài “ Điểm ở giữa. Trung điểm
của một đoạn thẳng” sau khi học xong bài học sinh vẫn chưa phân biệt điểm ở
giữa với trung điểm của một đoạn thẳng. Hay ở bài “ Chu vi hình vuông” có
bài tập 3 yêu cầu học sinh tính chu vi viên gạch bông lát nền được ghép bởi 4
viên gạch hình vuông nhỏ như sau:
20cm

20cm

Tôi thấy hầu hết các em đều làm như sau:
Chu vi viên gạch nhỏ là: 20 x 4 = 80 ( cm)
Chu vi viên gạch bông là: 80 x 4 = 320 ( cm)
Như vậy các em đã không biết rằng làm như vậy thì một cạnh của các
viên gạch vuông nhỏ đã bị tính đến hai lần và khi nhìn vào hình phân tích học
sinh khó phát hiện nhưng bằng hiệu ứng ghép và tách hình trên slide thì dễ dàng
học sinh nhìn rõ ngay nên học sinh lớp 3E hoàn thành đúng bài là:
Cạnh viên gạch bông là : 20 x 2 = 40 ( cm)
Chu vi viên gạch bông là: 40 x 4 = 160 ( cm)

25


×