BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
NGUYỄN THỊ THANH NHÀN
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN HIV
TẠI BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG
NĂM 2016
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG
TP.HỒ CHÍ MINH-NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
NGUYỄN THỊ THANH NHÀN
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN HIV
TẠI BỆNH VIỆN
TRƯNG VƯƠNG NĂM 2016
Người hướng dẫn
1. TS. BS Trịnh thị Hoàng Oanh
2. BS. Trần Thị Kim Tú
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG
TP.HỒ CHÍ MINH-NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu trong luận văn này là được ghi nhận, nhập liệu và phân
tích một cách trung thực. Luận văn này không có bất kỳ số liệu, văn bản, tài liệu đã được
Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh hay trường đại học khác chấp nhận để cấp văn bằng
đại học, sau đại học. Luận văn cũng không có số liệu, văn bản, tài liệu đã được công bố
trừ khi đã được công khai thừa nhận.
Đề cương nghiên cứu đã được chấp thuận về mặt y đức trong nghiên cứu từ hội
đồng phê duyệt đề cương Khoa Y tế công cộng số……..kí ngày.….//…//….........
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn
Hướng dẫn 1 :TS. BS Trịnh Thị Hoàng Oanh
Hướng dẫn 2: BS Trần Thị Kim Tú
MUC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................................................... 1
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ...................................................................................................... 3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................................... 3
DÀN Ý NGHIÊN CỨU........................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN Y VĂN .................................................................................. 5
1.1 Một số khái niệm, định nghĩa ........................................................................................... 5
1.2 Bệnh học HIV..................................................................................................................... 5
1.2.1 Đường lây truyền .................................................................................................. 5
1.2.2 Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV .................................................................... 5
1.2.3 Dự phòng lây nhiễm HIV .................................................................................... 6
1.3 Tình hình nhiễm và hệ thống giám sát, phòng ngừa HIV/AIDS trên thế giới và tại
Việt Nam. .................................................................................................................................. 7
1.3.1 Thế giới .................................................................................................................. 7
1.3.2 Việt Nam ................................................................................................................ 8
1.4 Các nghiên cứu liên quan................................................................................................ 11
1.4.1 Thế giới ................................................................................................................ 11
1.4.2 Việt Nam .............................................................................................................. 17
CHƯƠNG 2 : ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 21
2.1 Thiết kế nghiên cứu ......................................................................................................... 21
2.2 Thời gian-địa điểm........................................................................................................... 21
2.3 Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................................... 21
2.3.1 Dân số mục tiêu ................................................................................................... 21
2.3.2 Dân số chọn mẫu ................................................................................................. 21
2.3.3 Cỡ mẫu ................................................................................................................. 21
2.3.4 Kỹ thuật chọn mẫu .............................................................................................. 21
2.3.5 Tiêu chí đưa vào và loại ra ................................................................................. 22
2.3.6 Kiểm soát sai lệch lựa chọn ............................................................................... 22
2.4 Thu thập dữ kiện .............................................................................................................. 22
2.4.1 Phương pháp ........................................................................................................ 22
2.4.2 Công cụ................................................................................................................. 23
2.4.3 Kiểm tra sai lệch thông tin ................................................................................. 23
2.5 Xử lý dữ kiện .................................................................................................................... 23
2.5.1 Liệt kê và định nghĩa biến số ............................................................................. 23
2.5.2 Thống kê phân tích.............................................................................................. 39
2.5.3 Kiểm soát nhiễu ................................................................................................... 39
2.6
Y đức .............................................................................................................................. 40
2.7 Tính khái quát và ứng dụng cụa nghiên cứu ............ Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ ..................................................................................................... 41
3.1 Đặc điểm mẫu nghiên cứu .............................................................................................. 41
3.2 Kiến thức HIV của NVYT.............................................................................................. 43
3.3 Thái độ với người nhiễm HIV ........................................................................................ 48
3.4 Thực hành với người nhiễm HIV................................................................................... 49
3.5 Các mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành với thông tin nền .................. 50
3.6 Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành ........................................................ 64
CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN................................................................................................... 21
4.1 Đặc điểm mẫu nghiên cứu .............................................................................................. 21
4.2 Kiến thức về HIV............................................................................................................. 22
4.3 Thái độ với người nhiễm HIV ........................................................................................ 24
4.4 Thực hành với người nhiễm HIV(+) ............................................................................. 26
4.5 Mối liên quan giữa KAP với đặc tính nền .................................................................... 27
4.5.1 Mối liên quan giữa đặc tính nền với kiến thức về HIV cùa NVYT.............. 27
4.5.2 Mối liên quan giữa đặc tính nền với thái độ của NVYT với người nhiễm
HIV(+) ............................................................................................................................ 28
4.5.3 Mối liên quan giữa đặc tính nền với thực hành của NVYT với người nhiễm
HIV (+) ........................................................................................................................... 29
4.6 Mối liên quan kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT............................................. 29
4.7 Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu ........................................................................ 32
4.7.1 Điểm mạnh của nghiên cứu ............................................................................... 32
4.5.2 Điểm yếu của nghiên cứu................................................................................... 32
4.8 Điểm mới và tính ứng dụng của nghiên cứu ................................................................ 32
4.8.1 Điểm mới của nghiên cứu .................................................................................. 32
4.8.2 Tính ứng dụng của nghiên cứu .......................................................................... 32
PHỤ LỤC ................................................................................................................................. 4
CÔNG CỤ THU THẬP SỐ LIỆU ...................................................................................... 5
DANH MUC BẢNG
Bảng 3.1.1 Đặc điểm về giới tính, nghề nghiệp, số năm làm việc, trình độ học vấn,
nhóm tuổi, dân tộc, đào tạo về HIV của cán bộ tham gia nghiên cứu (n=105 ) ..... 41
Bảng 3.2.1 Kiến thức đúng về đường lây truyền HIV (n=105) .................................. 43
Bảng 3.4.1 Thái độ của NVYT với bệnh nhân HIV(+) (n=105) ................................ 48
Bảng 3.5.1 Thực hành của NVYT với người nhiễm HIV (+) (n=105) ...................... 49
Bảng 3.6.1 Mối liên quan giữa kiến thức đường lây truyền HIV với đặc tính mẫu
(n=105) .................................................................................................................................... 50
Bảng 3.7.1.1 Mối liên quan giữa kiến thức đường lây truyền HIV với thái độ của
NVYT với người nhiễm HIV (+) (n=105)....................................................................... 64
Bảng 3.8.1.2 Mối liên quan giữa kiến thức đường lây truyền với thái độ của NVYT
với người nhiễm HIV (+) kiểm soát đa biến theo các biến số đặc tính nền (n=105)
.................................................................................................................................................. 64
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS
HIV
Acquired Immune Deficiency
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
Syndrome
phải
Human Immunodeficiency Virus
Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở
người
UNAIDS
United Nation AIDS
Tổ chức phòng, chống AIDS Liên
Hiệp Quốc
WHO
NVYT
World Health Organization
World Health Organization
Nhân viên y tế
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
HIV/AIDS được xem như một đại dịch thế kỷ trên toàn quốc [12],[39]. Mặc dù,
trong thời gian qua, thế giới đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong cuộc chiến với đại
dịch AIDS, tuy nhiên dịch AIDS vẫn còn khá nặng nề [17]. Còn riêng Việt Nam, hơn 20
năm qua đang phải đương đầu với đại dịch HIV/AIDS, một đại dịch nguy hiểm, tàn phá
sức khỏe, kinh tế và ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội của nước ta [2] và là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật tại nước ta hiện nay [5].
Thống kê của WHO, trên toàn thế giới đã có khoảng 78 triệu người nhiễm HIV,
trong đó ước tính 50% đã tử vong [3]. Chỉ tính riêng trong năm 2014, có khoảng 1,2 triệu
người chết vì các nguyên nhân liên quan đến HIV và khoảng 36,9 triệu người sống chung
với HIV, trên 2 triệu người mới bị nhiễm HIV trong năm trên toàn cầu [35].
Tại Việt Nam, năm 2014 với hơn 220.000 người nhiễm HIV, đây là quốc gia có
số người nhiễm HIV đứng thứ 5 trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương[16]. Đến cuối
năm 2015, toàn quốc có 227.154 người nhiễm HIV còn sống, 85.194 người nhiễm HIV
đang giai đoạn AIDS và trên 86.716 người nhiễm HIV đã tử vong. Ước tính, cả nước hiện
có khoảng 254.000 người nhiễm HIV trong cộng đồng, mỗi năm có khoảng 12.00014.000 trường hợp mới nhiễm HIV [5].
Mặc dù tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS còn cao nhưng không thể phủ nhận rằng trong
những năm qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc điều trị
và phòng chống HIV/AIDS. Đó là những thành quả của của các ngành, các cấp, các đoàn
thể và của toàn xã hội, bao gồm của cả người nhiễm HIV/AIDS và thành viên trong gia
đình họ. Đặc biệt, ngành y tế luôn có vai trò quan trọng, nòng cốt và phải gánh vác trách
nhiệm nặng nề trước Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cuộc chiến đầy cam go này [6].
Tuy vậy, sự thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong tư vấn, chẩn đoán, chăm sóc và
điều trị người nhiễm HIV/AIDS ở một bộ phận NVYT có thể làm giảm hiệu quả trong
các công tác phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng [ ]. Nghiên cứu từ 20 bệnh viện
Jordania cho thấy các y tá có kiến thức yếu về bệnh học, biểu hiện HIV, phương thức lây
truyền cũng như biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn HIV [28]. Một nghiên cứu khác tại
2
Nigeria cho thấy chỉ có 68,2% NVYT có thái độ tốt và 51,2% NVYT có thực hành tốt
với người nhiễm HIV(+) [24]. Còn tại Việt Nam, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nghiên
cứu nào khái quát chung về kiến thức, thái độ, và thực hành của các NVYT với bệnh
nhân HIV/AIDS mà chỉ có những nghiên cứu riêng biệt về kiến thức, thái độ, thực hành
trên đối tượng bác sĩ [32] hay những nghiên cứu về thái độ kỳ thị trên các NVYT[15],
kiến thức thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử trên đối tượng sinh viên y khoa[31]. Mặt khác,
các chỉ số đánh giá này cũng thay đổi từ giai đoạn này qua giai đoạn khác, nên việc áp
dụng kết quả từ các nghiên cứu khác trên thế giới hay các nghiên cứu trong nước có thể
dẫn đến những sai lệch nhất định.
Vì tất cả những lý do kể trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này tại Thành phố
Hồ Chí Minh nơi có tỷ nhiễm HIV cao đứng thứ 2 trên toàn quốc [18] với đại diện là
bệnh viện Trưng Vương, một bệnh viện đa khoa hạng I của thành phố Hồ Chí Minh [1]
và cũng là 1 trong 16 bệnh viện tuyến cuối phía Nam[20] nhằm tìm hiểu thực tế kiến
thức, thái độ, thực hành của NVYT với người nhiễm HIV. Kết quả nghiên cứu sẽ góp
phần tìm hiểu thực tế kiến thức HIV, thái độ cũng như thực hành của NVYT đối với
bệnh nhân HIV, để từ đó có cơ sở đề xuất xây dựng kế hoạch nhằm cải thiện và nâng
cao chất lượng chăm sóc sức khỏe đối với bệnh nhân HIV/AIDS, đồng thời góp phần
nâng cao hiệu quả trong công tác phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng.
3
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Tỉ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng của NVYT với người nhiễm HIV/AIDS
tại bệnh viện Trưng Vương năm 2016 là bao nhiêu? Có mối liên quan giữa kiến
thức, thái độ, thực hành, thông tin nền hay không?
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Xác định tỉ lệ kiến thức, thái độ, thực hành đúng của NVYT đối với người nhiễm
HIV/AIDS và các mối liên quan tại bệnh viện Trưng Vương năm 2016
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định tỉ lệ kiến thức đúng của NVYT đối với người nhiễm HIV/AIDS tại bệnh
viện Trưng Vương năm 2016
2. Xác định tỉ lệ thái độ (thái độ với bệnh nhân HIV dương tính và thái độ kỳ thị)
phù hợp của NVYT đối với người nhiễm HIV/AIDS tại bệnh viện Trưng Vương
năm 2016
3. Xác định tỉ lệ thực hành đúng của NVYT đối với người nhiễm HIV/AIDS tại bệnh
viện Trưng Vương năm 2016
4. Xác định mối liên quan giữa đặc tính mẫu nghiên cứu với kiến thức, thái độ , thực
hành của NVYT tại bệnh viện Trưng Vương năm 2016
5. Xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành với nhau của NVYT tại
bệnh viện Trưng Vương năm 2016
4
DÀN Ý NGHIÊN CỨU
Thông tin nền
Tuổi
Giới tính
Trình độ học vấn
Khoa phòng làm việc
Số năm làm việc…
Thực hành
Thái độ
Thái độ tốt
Thực hành chăm sóc
Thái độ kỳ thị
người nhiễm HIV
Kiến thức HIV/AIDS
Kiến thức đường lây
truyền.
Kiến thức dự
phòng HIV.
Kiến thức kỳ thị
và phân biệt đối
xử HIV
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN Y VĂN
1.1 Một số khái niệm, định nghĩa
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “ Human Immunodeficiency Virus” là
vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các
tác nhân gây bệnh [11].
AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficiency
Syndrome” là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu
hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong [11].
Kỳ thị người nhiễm HIV là thái độ khinh thường hay thiếu tôn trọng người khác
vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với
người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm [11].
1
1.2 Bệnh học HIV
1.2.1 Đường lây truyền
-
Lây truyền qua đường tình dục: xảy ra khi các dịch thể (máu, dịch sinh dục) nhiễm
HIV (của người nhiễm HIV) xâm nhập vào cơ thể bạn tình không nhiễm HIV và tất
cả các hình thức quan hệ tình dục (dương vật - hậu môn, dương vật - âm đạo, dương
vật - miệng) với một người nhiễm HIV đều có nguy cơ lây nhiễm HIV [4].
-
Lây truyền HIV qua máu và chế phẩm của máu: HIV có mặt trong máú toàn phần và
các chế phẩm từ máu như khối hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương và các yếu tố đông
máu, dùng chung bơm kim tiêm, tiếp xúc vời máu người nhiễm qua da, niêm mạc,
vết thương trầy xước[4].
-
Lây truyền HIV từ mẹ sang con: trong quá trình mang thai, khi sinh, cho con bú [4].
1.2.2 Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV
Nhiễm HIV ở người lớn được chẩn đoán trên cơ sở xét nghiệm kháng thể HIV.
Một người được xác định là nhiễm HIV khi có mẫu huyết thanh dương tính cả ba lần xét
nghiệm kháng thể HIV bằng ba loại sinh phẩm khác nhau với nguyên lý phản ứng và
phương pháp chuẩn bị kháng nguyên khác nhau (theo quy định của Bộ Y tế) [21].
6
Đối tượng có nguy cơ nhiễm HIV cao (như người tiêm chích ma tuý, người có
hành nghề mại dâm, nam có quan hệ tình dục đồng giới, người bệnh nhân bị lao,…) cần
phải đi xét nghiệm HIV thường xuyên [21].
Xét nghiệm kháng thể HIV: Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất,
gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV [21].
Xét nghiệm trực tiếp: Phát hiện chính bản thân HIV, bao gồm các xét nghiệm
kháng nguyên (p24), nuôi cấy HIV và phản ứng chuỗi polymerase (PCR) [21].
Xét nghiệm đếm số lượng tế bào CD4 trong máu: giúp đánh giá mức độ suy giảm
miễn dịch. Bình thường số lượng tế bào CD4 ở người khoẻ mạnh vào khoảng 8001000/mm3 máu. Nếu số lượng tế bào CD4 < 200/mm3 tức là bị suy giảm miễn dịch nặng
[21].
Xét nghiệm đo tải lượng virus HIV: Là xét nghiệm hiện đại cho phép xác định số
lượng bản sao (copies) của virus HIV/1 ml huyết tương của bệnh nhân [21].
1.2.3 Dự phòng lây nhiễm HIV
Phòng lây nhiễm HIV qua đường tình [21]
-
Sống lành mạnh, chung thuỷ một vợ một chồng và cả hai người đều chưa bị nhiễm
HIV.
-
Áp dụng các biện pháp an toàn trong quan hệ tình dục với người chưa rõ có bị nhiễm
HIV hay không.
Phòng lây nhiễm HIV qua đường máu [21]
-
Không tiêm chích ma tuý
-
Phải coi máu và tất cả các dịch sinh học đều có nguy cơ lây nhiễm HIV. Chỉ truyền
máu và các chế phẩm máu khi thật cần thiết, và chỉ nhận máu và các chế phẩm máu
đã xét nghiệm HIV. Đảm bảo 100% các chai máu được sàng lọc HIV trước khi truyền,
cũng như kiểm tra tình trạng nhiễm HIV của những người cho máu trước khi lấy máu.
-
Hạn chế tiêm chích trên người có HIV. Chỉ sử dụng bơm kim tiêm vô trùng dùng 1
lần. Sử dụng dụng cụ đã tiệt trùng khi phẫu thuật, xăm, xỏ lỗ, châm cứu...
-
Tránh tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể của người nhiễm HIV. Khi tiến hành các
thao tác có liên quan đến máu và dịch đều phải đeo găng tay. Rửa tay sạch sẽ bằng
7
xà phòng sau khi thay chiếu, chăn, quần áo hoặc sau khi tiếp xúc với dịch tiết của cơ
thể người bệnh.
-
Dùng riêng đồ dùng cá nhân: dao cạo, bàn chải răng, bấm móng tay,...
Phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con [21]
-
Nếu phụ nữ mang thai không bị nhiễm HIV thì không thể truyền HIV sang cho con
của họ được. Để tránh lây truyền HIV, thanh niên trong độ tuổi sinh đẻ không nên
quan hệ tình dục trước hôn nhân, chung thuỷ một vợ - một chồng và sử dụng bao cao
su đúng cách khi quan hệ tình dục. Tất cả phụ nữ có thai cần đến cơ sở y tế để được
khám thai và tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện.
-
Khoảng 30% các trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV sẽ bị lây từ mẹ. Nếu được uống
thuốc dự phòng, tỷ lệ lây này sẽ giảm chỉ còn 0,3%. Thông thường đứa trẻ sinh ra
phải sau 18 tháng mới có thể xét nghiệm để biết có lây từ mẹ hay không.
-
Nếu phụ nữ đã bị nhiễm HIV, cần phải phòng tránh mang thai ngoài ý muốn. Nếu
vẫn muốn sinh con thì họ sẽ được NVYT tư vấn về chăm sóc thai nghén, dùng thuốc
ARV vào thời điểm thích hợp và áp dụng biện pháp sinh đẻ an toàn (mổ đẻ, không
cho con bú) tránh lây truyền cho con.
1.3 Tình hình nhiễm và hệ thống giám sát, phòng ngừa HIV/AIDS trên thế giới và
tại Việt Nam.
1.3.1 Thế giới
Lịch sử trên thế giới:
Mẫu máu có HIV dương tính được phát hiện đầu tiên vào năm 1959 tại Zaize châu Phi. Mãi đến năm 1981, bệnh AIDS trên lâm sàng được phát hiện đầu tiên tại Mỹ.
Đó là 5 trường hợp đồng tính luyến ái nam bị viêm phổi nặng ở Los Angeles ( Califonia,
Mỹ) do P. Carini phát hiện [7].
Tháng 6/1983, khi sinh thiết hạch cho bệnh nhân AIDS, Luc Montagnien và Barré
Sinousi đã phân lập được virus gây bệnh và đặt tên là LAV ( virus liên quan đến bệnh
hạch). Sau đó 1 năm, Robert Gallot ở Trung tâm ung thư của Mỹ đã khẳng định công
trình của L. Montagnien. Năm 1986, nhóm của L. Montagnien lại phân lập thêm một
virus tương tự ở Trung Phi. Cuối năm 1986, tại Hội nghị quốc tế tại Giơnevơ các nhà
8
khoa học đã thống nhất tên gọi của hai loại virus này là HIV [7].
Dịch HIV/AIDS tuy mới xuất hiện từ đầu năm 1980 nhưng đã nhanh chóng lan
ra toàn cầu. HIV tấn công mọi đối tượng nhưng chủ yếu là thanh niên, phụ nữ, trẻ em[7].
Tình hình nhiễm:
Kể từ khi khởi đầu của đại dịch, trên thế giới khoảng 80 triệu người đã bị nhiễm
virus HIV và khoảng 40 triệu người đã chết vì HIV tính đến năm 2014 [19].
Tỷ lệ người chung sống với HIV qua các năm từ 2012 đến 2014 tăng lên. Năm
2012 là 35,3 triệu người, 2015 là 35 triệu người, đến năm 2014 là 36,9 triệu người. Tuy
nhiên số người nhiễm mới HIV và số người chết do AIDS giảm dần từ 2012 đến năm
2014
theo thứ tự 2,3 ; 2,1 ; 2,0 và 1,6 ;1,5 ; 1,2 triệu người. Điều này có thể thấy các biện pháp
can thiệp HIV/AIDS ngày càng có hiệu quả [19].
1.3.2 Việt Nam
Lịch sử
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở nước ta được phát hiện vào tháng 12 năm 1990
tại thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng thực sự dịch HIV/AIDS đã bắt đầu bùng nổ từ năm
1993 trong nhóm những người nghiện chích ma túy tại thành phố Hồ Chí Minh [8].
Tình hình nhiễm
Dịch HIV ở Việt Nam vẫn tập trung ở những quần thể có nguy cơ cao nhất (như
người tiêm chích ma túy, người bán dâm và nam quan hệ tình dục đồng giới) [10].
Đến cuối tháng 12/1998, toàn bộ 61 tỉnh, thành trực thuộc Trung ương (sau đây
gọi chung là tỉnh) trong cả nước đều đã phát hiện có người bị nhiễm HIV [8].
Độ tuổi bị nhiễm HIV cao nhất là ở nhóm tuổi 20 -29. Nam giới chiếm 53%. Đối
tượng bị nhiễm chủ yếu hiện nay là người nghiện chích ma túy (60%) song tỷ lệ lây
nhiễm qua đường tình dục đang tăng. Kết quả giám sát trọng điểm tại 21 tỉnh, cho thấy
tỷ lệ nhiễm HIV đang tiếp tục gia tăng trong nhóm nghiện chích ma túy, mại dâm, người
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục và bắt đầu gia tăng trong nhóm tân binh,
phụ nữ có thai. Điều đó chứng tỏ HIV có xu hướng đang lan dần vào cộng đồng [8].
Trong năm 2015 cả nước xét nghiệm phát hiện mới 10.195 trường hợp nhiễm
9
HIV, số bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS 6.130, số bệnh nhân tử vong 2.130
trường hợp [5].
Trong năm 2015 các tỉnh triển khai rà soát lại người nhiễm HIV, có thêm 5524
trường hợp HIV, 10.144 bệnh nhân AIDS và 13.254 người tử vong trong nhiều năm
trước nay được báo cáo bổ sung. Tính đến cuối năm 2015, toàn quốc có 227.154 người
nhiễm HIV đang còn sống với HIV được báo cáo, 85.194 người nhiễm HIV đang giai
đoạn AIDS và đã có trên 86.716 người nhiễm HIV đã tử vong. Trong số 227.154 người
được báo hiện nay đang còn sống, nhưng có 24.717 người nhiễm HIV không xác định
được trên thực tế, những người này có thể trùng với những người quản lý được nhưng
thông tin cá nhân không chính xác nên không loại trừ được, hoặc sợ kỳ thị họ cung cấp
thông tin chưa đúng cho NVYT, do đó số quản lý được theo dõi được ở các
tỉnh chỉ có
202.437. Theo ước tính, cả nước hiện có khoảng 254.000 người nhiễm HIV trong cộng
đồng, mỗi năm có khoảng 12.000-14.000 trường hợp mới nhiễm HIV. Như vậy ước tính
hiện nay có khoảng 80% người nhiễm HIV biết được tình trạng HIV của họ [5].
Hệ thống giám sát phòng ngừa
Hệ thống giám sát trọng điểm huyết thanh học HIV được bắt đầu triển khai tại Việt
Nam từ năm 1994, và tính đến nay đã có 10 tỉnh có báo cáo về tỷ lệ nhiễm hiện HIV ở
cả sáu nhóm đối tượng đích [10].
Từ năm 1996 hệ thống giám sát trọng điểm HIV đã được triển khai ở 20 tỉnh/thành
phố, đến năm 2001 triển khai tại 30 tỉnh/thành phố và từ năm 2003 tăng lên 40 tỉnh/thành
phố [10].
Các quần thể được giám sát bao gồm người tiêm chích ma túy, nữ giới bán dâm,
bệnh nhân đến các cơ sở điều trị lây nhiễm qua đường tình dục (STI) và cơ sở điều trị lao,
phụ nữ mang thai đến khám ở các cơ sở sản khoa và nhóm thanh niên khám tuyển nghĩa
vụ quân sự. Việc bổ sung thêm các nhóm đối tượng khác để thực hiện giám sát trọng
điểm sẽ do chính quyền địa phương quyết định [10].
Từ năm 2011, nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đã được đưa vào là một trong
các nhóm đối tượng đích trong giám sát trọng điểm ở một số tỉnh/thành phố [10].
Chiến lược quốc gia
10
Chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030
theo Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ
với mục tiêu khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% năm 2020,
giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau [22]:
-
Tăng tỷ lệ người dân trong độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi có hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS
đạt 80% vào năm 2020.
-
Tăng tỷ lệ người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV đạt 80%
vào năm 2020.
-
Giảm 50% số trường hợp nhiễm mới HIV trong nhóm nghiện chích ma túy vào năm
2015 và 80% vào năm 2020 so với năm 2010.
-
Giảm 50% số trường hợp nhiễm mới HIV do lây truyền HIV qua đường tình dục vào
năm 2015 và 80% vào năm 2020 so với năm 2010.
-
Giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 5% vào năm 2015 và dưới 2%
vào năm 2020.
-
Tăng tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị thuốc kháng vi rút HIV đạt 80% trên tổng
số người nhiễm HIV đủ tiêu chuẩn điều trị vào năm 2020.
Tầm nhìn đến 2030:
-
Hướng tới ứng dụng các kỹ thuật mới có tính đặc hiệu cao về dự phòng, điều trị
HIV/AIDS.
-
Hướng tới can thiệp chủ động, toàn diện, tiếp cận phổ cập, nâng cao chất lượng và
bảo đảm tính bền vững của công tác phòng, chống HIV/AIDS.
-
Hướng tới tầm nhìn "ba không" của Liên Hợp quốc: Không còn người nhiễm mới
HIV, không còn người tử vong do AIDS và không còn kỳ thị, phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV.
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
Điều 17: Vi phạm quy định về thông tin, giáo dục, truyền thông trong phòng, chống
HIV/AIDS ( Phạt từ 1-20 triệu) [14].
Điều 18: Vi phạm quy định về tư vấn và xét nghiệm HIV: phạt từ 1-20 triệu [14].
11
Điều 19: Vi phạm quy định về điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV: phạt từ 1 -15 triệu
[14].
Điều 20: Vi phạm quy định về can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV:
phạt từ 50 nghìn đến 30 triệu [14].
Điều 21: Vi phạm quy định về chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV: phạt
từ 50 nghìn đồng đến 20 triệu [14].
Điều 22: Vi phạm quy định khác về phòng, chống HIV/AIDS: phạt từ 2- 20 triệu [14].
1.4 Các nghiên cứu liên quan
1.4.1 Thế giới
Theo nghiên cứu cắt ngang mô tả về thái độ và thực hành của NVYT với bệnh
nhân HIV tại trung tâm y tế liên bang Owo Ondo nước Nigeria đăng tải năm 2014 trên
tạp chí y tế công cộng Nam Mĩ được thực hiên trên 261 NVYT gồm các bác sĩ , y tá và
dược sĩ, xét nghiệm và các NVYT khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy 68,2% NVYT có
thái độ tốt với người nhiễm HIV(+). Không có mối liên quan giữa tuổi, giới tính, tình
trạng hôn nhân, tôn giáo với thái độ đối với người nhiễm HIV. NVYT có thực hành tốt
với người nhiễm HIV(+) chiếm 51,2% và không có mối liên quan giữa tuổi, tôn giáo,
tình trạng hôn nhân với thực hành chăm sóc người nhiễm HIV. Tuy nhiên, có mối liên
quan giữa giới tính và chuyên ngành làm việc của NVYT với thực hành đối với người
nhiễm HIV(+)[24]. Nghiên cứu đã sử dụng nguồn tài liệu tham khảo từ các nguồn
(Scholar, PubMed / Medline, các bài tóm tắt xã hội học, tìm kiếm các tài liệu học tập
hàng đầu, các bài nghiên cứu toàn văn và các báo cáo chính phủ của các quốc gia ) từ đó
có thể thấy nghiên cứu đã tìm kiếm và sử dụng những tài liệu tham khảo một cách nghiêm
ngặt, đáng tin cậy. Với phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đơn và chia theo tỉ lệ số NVYT
ở bảy nhóm gồm bác sĩ, y tá, xét nghiệm, dược sĩ, vật lý trị liệu, phục hình răng và cán
bộ quản lý thông tin, bên cạnh đó nghiên cứu có cỡ mẫu tương đối lớn (261 NVYT). Do
đó mang tính đại diện cao. Nghiên cứu còn đưa ra được thái độ cũng như thực hành tốt
của NVYT người nhiễm HIV (+) và mức độ phản ứng của NVYT đối với các biện pháp
chống kỳ thị với người nhiễm HIV(+). Tuy nhiên, bênh cạnh những mặt tích cực của
nghiên cứu thì cũng có những điều đáng lưu ý. Mặc dù nghiên cứu sử dụng những nguồn
12
tài liệu tham khảo đáng tin cậy, nhưng có một số nguồn tài liệu khá lâu ( nghiên cứu
những năm 1993, 1994, 1998…), chưa đánh giá được thực trạng thái độ và thực hành
của NVYT với bệnh nhân HIV hiện tại, ngoài ra còn có thể có những sai lệch thông tin,
sai lệch lựa chọn mà tác giả chưa đề cập đến.
Một nghiên cứu cũng thực hiện tại Nigeria nhưng tại miền Nam về kiến thức, thái
độ, niềm tin liên quan đến HIV và nguồn kiến thức của những NVYT chuyên nghiệp.
Nghiên cứu được tiến hành trên 426 NVYT gồm y tá, xét nghiệm, bác sĩ từ ba bệnh viện
gồm bệnh viện đại học, bệnh viện chính phủ và các trạm y tế tuyến xã. Kết quả nghiên
cứu cho thấy có 46% NVYT có kiến thức đúng trên 50% các câu hỏi trong bộ câu hỏi
nghiên cứu. Kiến thức cao nhất ở các bác sĩ và thấp nhất ở các nhân viên phòng thí
nghiệm. Tuy nhiên không có sự khác biệt giữa các NVYT ở các bệnh viện khác nhau.
Riêng về thái độ, có những quan điểm cũng như cảm xúc tiêu cực của NVYT với người
nhiễm HIV, cụ thể như 100% các NVYT tại xã có thái độ tiêu cực trong chăm sóc bệnh
nhân HIV, bệnh viện chính phủ chiếm 85,1% và bệnh viện đại học chiếm 83% [36]. Nhìn
chung nghiên cứu nghiên cứu sử dụng những tài liệu tham khảo từ các trang wed
pubmed, tài liệu quốc gia…đáng tin cậy, tiêu chí đưa vào mẫu nghiên cứu đại diện ở các
cấp từ đại học, chính phủ và tuyến xã với cỡ mẫu lớn (426 NVYT do đó mang tính đại
diên cao). Tuy nhiên, chưa thấy tác giả nêu ra phương pháp lấy mẫu. Một số tài liệu tham
khảo khá lâu ( từ những năm 1992, 1997…).
Nghiên cứu cắt ngang về kiến thức, thái độ của y tá đối với bệnh nhân HIV được
tiến hành trên 922 y tá từ 20 bệnh viện tại Jordania trong năm 2010. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, các y tá có mức độ kiến thức yếu về các nhóm đại cương và miễn dịch học
(37,8%), biểu hiện HIV (26,6%) , phương thức lây truyền (32,6) và biện pháp phòng
ngừa và ngăn chặn HIV (33,87) . Riêng chỉ có nhóm những nguy cơ rủi ro phơi nhiễm
có thể xảy ra là các y tá có kiến thức tốt (47,35%). Hơn 2/3 y tá (84%) từ chối chăm sóc
cho những bệnh nhân HIV /AIDS dương tính và có hơn 2/3 y tá Jordania đã có một thái
độ tiêu cực đối với HIV /AIDS, cụ thể như thái độ tiêu cực trong chăm sóc trực tiếp
(97%), sự kỳ thị xã hội (78%), sợ lây lan (75,2%), và giáo dục và tư vấn (72,9%) và
58,8% y tá có thái độ tiêu cực đối với bệnh nhân tử vong là do HIV/AIDS [28]. Nghiên
13
cứu được tiến hành trên cỡ mẫu lớn (922 y tá) từ 20 bệnh viện miền Bắc, Nam, Đông,
Tây của Jordan và khu vực Amman đã cho thấy mức đại diện của kiến thức, thái độ, thực
hành của các y tá. Với công cụ thu thập là bộ câu hỏi được thiết kế dành cho y tá phát
triển bởi Eckstein (1987) đã được sử dụng để đánh giá kiến thức và thái độ của y tá đối
với bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS với phần kiến thức, thái độ có hệ số Cronbach alpha
lần lượt 0.67 và 0,95. Cách tính điểm theo thang điểm likert rõ ràng, cụ thể từ đó có thể
thấy kết quả nghiên cứu có tính tin cậy cao. Tài liệu tham khảo từ WHO, UNAIDS, các
trang wed chính thống..có tính giá trị cao. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng một số tài liệu
tham khảo đã lâu ( từ những năm 1993, 1994…) và HIV là một vấn đề khá nhạy cảm do
đó có thể có những sai lệch thông tin khi sử dụng phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt.
Còn nghiên cứu kiến thưc, thái độ, thực hành của y tá đối với bệnh nhân
HIV/AIDS tại Sicily trên 107 y tá tại một bệnh viện đại học. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, phần lớn số người được hỏi đều biết ý nghĩa của các từ viết tắt AIDS (87%) và ý
nghĩa của một xét nghiệm huyết thanh dương tính (78%), biết cách loại bỏ HIV ở môi
trường bên ngoài như lau các dịch tiết, máu (79%). Ngược lại, một tỷ lệ tương đối thấp
số người biết "giai đoạn cửa sổ" (62%) và phương thức lây truyền HIV (65%). Về thái
độ và hành vi cho thấy 98% y tá chưa từng từ chối khi được phân công chăm sóc bệnh
nhân HIV / AIDS. Các y tá lo ngại có nhiều nguy cơ nhiễm HIV cao hơn người bình
thường (41%) và chỉ có vài y tá (9%) điều trị tất cả các bệnh nhân nhiễm HIV dương
tính. Phần lớn các y tá (82%) y tá nói rằng nếu họ có bạn bè hoặc thành viên gia đình bị
nhiễm HIV họ sẽ có thái độ tiêu cực [30]. Trong nghiên cứu, mặc dù cách chọn mẫu theo
tỷ lệ đa dạng từ các khoa như phòng mổ, khoa sản , bệnh truyền nhiễm, khoa nội, bệnh
hô hấp và phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, với cỡ mẫu tương đối nhỏ (n=107) do đó có thể
chưa mang tính đại diện cho toàn bệnh viện. Bên cạnh đó, HIV là một vấn đề khá nhạy
và do tự khai báo của NVYT mà chưa có những quan sát thực tế do đó thông tin thu
được chưa đầy đủ, chính xác.
Một nghiên cứu cắt ngang về HIV liên quan đến kiến thức, thái độ, thưc hành của
nhân viên y tế tại Montenegro của Zorana Gledović và các cộng sự thực hiện vào năm
2009 trên 422 NVYT bao gồm các bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên phòng xét nghiệm và
14
nhân viên các chuyên ngành khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy các NVYT vẫn còn thiếu
kiến thức về đường lây truyền HIV. Cụ thể, hầu hết tất cả NVYT đều trả lời HIV có thể
lây qua đường máu, trong khi đó chỉ có khoảng 2/3 cho rằng HIV có thể lây qua tinh
dich, dich tiết âm đạo. Chỉ có 36,0% NVYT đã trả lời một cách chính xác HIV và AIDS
khác nhau. Riêng về thái độ và thực hành, có 64,7% số người tham gia nghiên cứu cho
rằng tất cả các bệnh nhân nhập viện cần được xét nghiệm HIV, 6% NVYT sẽ từ chối
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân. Đa số những người được hỏi
(82,0%) cho rằng họ nên biết về tình trạng HIV (+) của bệnh nhân để có biện pháp bảo
vệ thích hợp [27]. Nghiên cứu thực hiện với phương pháp lấy mẫu ở tất cả các khoa
phòng chia thành 3 nhóm: phẩu thuật (phẫu thuật chung, chỉnh hình, sản phụ khoa, cấp
cứu, phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật nha khoa, tiết niệu…), phòng thí nghiệm ( phòng
thí nghiệm chẩn đoán, bệnh lý và pháp y), không phẩu thuật (bệnh truyền nhiễm, huyết
học, truyền máu, thận, gây mê, hồi sức, điều trị giảm đau) với cỡ mẫu lớn (422 NVYT
hoàn thành bộ câu hỏi) nghiên cứu đã cho thấy kết quả mang tính đại diện cao. Nghiên
cứu dụng bộ câu hỏi đã được đánh giá cronbach α=0,74, do đó kết quả nghiên cứu có
tính tin cây nội bộ khá tốt. Tuy nhiên, nghiên cứu có một số hạn chế vì đây là nghiên
cứu đầu tiên về kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT với bệnh nhân HIV tại
Montenegro và số liệu thu thập dựa trên tự nhận thức và tự báo cáo của NVYT, trong
đó có một số câu hỏi khá thực tế hỏi về những phơi nhiễm trong quá trình làm việc của
NVYT những năm trước đó, do đó có thể kết quả khai báo số trường hợp phơi nhiễm
không chính xác. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng một số tài liệu tham khảo khá
lâu ( từ những năm 1993, 1995…) do đó chưa phản ánh được thực tế hiện nay.
Theo một nghiên cứu cắt ngang về kiến thức, niềm tin và thái độ của những nhà
cung cấp dịch vụ trong chăm sóc sức khỏe về HIV /AIDS tại trường cao đẳng y tế và
bệnh viện Govt, Miraj, Maharashtra đăng trên tạp chí khoa học sức khỏe và nghiên cứu
quốc tế năm 2012. Nghiên cứu được tiến hành trên 395 NVYT gồm các bác sĩ, điều
dưỡng, xét nghiệm, NVYT khoa lâm sàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 90.13% NVYT
có kiến thức đúng về tác nhân gây bệnh, tuy nhiên có 24,56% nhân viên hỗ trợ trong
bệnh viện không chắc chắn về đường lây truyền qua vết muỗi cắn. NVYT có kiến thức
15
tổng thể về triệu chứng của bệnh đúng là 74,94% và 87,34% có hiểu biết đúng về dự
phòng sau phơi nhiễm, trong khi 66,67% trong số họ có thể có thể cho biết các loại thuốc
chính xác được sử dụng trong dự phòng sau phơi nhiễm và 90,89% cho biết một cách
chính xác về biện pháp phòng ngừa an toàn phổ quát. Kiến thức đúng về chẩn đoán
HIV/AIDS của NVYT là 96,96%. Có 89,11% NVYT biết HIV/AIDS không thể chữa
được và 96,2% có kiến thức đúng về công tác phòng chống HIV / AIDS. Về thái độ có
39,24% NVYT sợ nhiễm trong quá trình làm việc của họ và 25.57% nói rằng bệnh nhân
AIDS cần được ở một nơi tách biệt với các bệnh nhân khác và 12,66% NVYT nghĩ rằng
bản thân có quyền từ chối chăm sóc cho bệnh nhân HIV[33]. Nghiên cứu với cỡ mẫu lớn
(395 người) từ các khoa phòng lâm sàng do đó mang tính đại diện cao. Nghiên cứu đã
đưa ra được thực trạng kiến thức và thái độ cụ thể của các nhà cung cấp dịch vụ chăm
sóc y tế. Tuy nhiên, một số tài liệu tham khảo trong nghiên cứu đã lâu (từ những năm
1995, 1996) do đó khó so sánh với số liệu thực tế hiện nay.
Nghiên cứu cắt ngang về kiến thức và quan điểm rủi ro của NVYT trong chăm
sóc bệnh nhân HIV tại bệnh viện trường cao đẳng. Nghiên cứu được tiến hành trên 450
NVYT gồm các bác sĩ, y tá, xét nghiệm và các nhân viên khác. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nhìn chung các NVYT có kiến thức lây truyền tốt chiếm 95,7%. Tuy nhiên vẫn còn
13,2% cho rằng ho và hắt hơi có thể lây truyền HIV/ AIDS. Có 72% nhân viên y tá biết
các biện pháp phòng ngừa phổ quát có thể dự phòng lây truyền, nhưng 73% có quan
niệm rằng chăm sóc một bệnh nhân HIV dương tính có nguy cơ lây nhiễm HIV và 13,2%
NVYT khẳng định sẽ có nguy cơ cao bị nhiễm HIV khi bị dính máu chứa virus
HIV/AIDS và viêm gan B trong quá trình chăm sóc cho bệnh nhân. Chỉ 64% NVYT cho
rằng dự phòng phơi nhiễm là có hiệu quả trong khi có đến 16% cảm thấy nó không hiệu
quả. Gần 95% NVYT cảm thấy rằng tất cả bệnh nhân phẫu thuật và sản khoa nên được
kiểm tra thường xuyên lây nhiễm HIV và 4,1% NVYT nghĩ rằng họ nên được phép từ
chối để chăm sóc cho những người có HIV / AIDS [34]. Nghiên cứu được tiến hành với
cỡ mẫu lớn (450 NVYT) mang tính đại diện cao, đưa ra được tỷ lệ khái quát kiến thức
của NVYT với HIV. Tuy nhiên, nghiên cứu sử dụng một số tài liệu tham khảo khá lâu (
từ những năm 1987, 1999…) do đó khó có thể so sánh được với số liệu thực tế hiện nay.
16
Một nghiên cứu cắt ngang về sự hiểu biết HIV liên quan đến kỳ thị của các y tá
Inđônêxia được tiến hành trên 396 người đồng ý tham gia từ 4 bệnh viện công giáo theo
đạo Bali Hindu. Kết quả nghiên cứu cho thấy. Kiến thức những người tham gia trả lời
đúng với điểm trung bình 12,5 dao động từ 4-18 câu trả lời đúng trong tổng số 18 câu
hỏi liên quan đến kiến thức HIV. Điểm số kỳ thị trung bình tương đối thấp (2,45 trong
tổng số 30) tại nơi làm việc. Tuy nhiên tại bệnh viện đa khoa và bệnh viện Hồi giáo có
thái độ kỳ thị là cao với điểm trung bình 78,6 (44-110) [38]. Nghiên cứu được tiến hành
bằng cách lấy mẫu cụm từ 4 bệnh viện, với cách lấy mẫu này giúp nghiên cứu tiến hành
nhanh và đơn giản hơn, kích thước cỡ mẫu tăng lên và được dàn đều ở 4 bệnh viện nên
mang tính đại diện cao. Đây là nghiên cứu đầu tiên tiến hành trên các y tá về thái độ của
họ có liên quan đến vấn đề tôn giáo và công việc, và trong nghiên cứu này tôn giáo là
yếu tố rất quan trọng liên quan đến vấn đề kỳ thị. Nghiên cứu sử dung một số tài liệu
tham khảo từ pubmed, Unaids, tài liệu quốc gia đáng tin cậy. Bên cạnh những ưu điểm
trên, nghiên cứu có một số hạn chế như tài liệu tham khảo sử dụng khá lâu (từ năm 1997.
1988…) khó so sánh với thực tế hiện nay, một số NVYT có thể trả lời chưa chính xác vì
đây là một vấn đề khá nhạy cảm, người tham gia sợ cách nhìn nhận của mọi người về
thái độ kỳ thị của bản thân với người nhiễm HIV.
Nghiên cứu cắt ngang của Maria L Ekstrand và các cộng sự về tỷ lệ và sự kiểm
soát của sự kỳ thị HIV trong cơ sở y tế trong đô thị Ấn Độ vào năm 2009. Nghiên cứu
tiến hành trên 305 bác sĩ, 369 y tá và 346 cán bộ phường. Kết quả nghiên cứu cho thấy
các NVYT đồng ý với việc phụ nữ nhiễm HIV không nên sinh con (55- 80%), nên kiểm
tra bắt buộc đối với phụ nữ mại dâm (94-97%) và bệnh nhân phẫu thuật (90- 99%) và họ
cho rằng những người nhiễm HIV do quan hệ tình dục hoặc dùng thuốc " đó là những
điều họ đáng phải nhận" chiếm (50-83%). Ngoài ra, 89% của các bác sĩ, 88% của các y
tá và 73% cán bộ phường nói rằng họ sẽ phân biệt đối xử người nhiễm HIV trong công
việc liên quan đến khả năng phơi nhiễm cao với các dịch tiết [25]. Nghiên cứu chọn cỡ
mẫu lớn (n=1020), có tính đại diện cao, bên cạnh đó nghiên cứu đã cho thấy được các vấn
đề về mức độ kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và các mối liên quan đối
với kỳ thị. Nhóm nghiên cứu tiến hành lấy mẫu với cách phỏng vấn mặt đối mặt, thời
17
gian phỏng vấn mỗi người trung bình là 1 tiếng đồng hồ, với phương pháp này người hỏi
có thể linh hoạt các câu hỏi và thu thập được thông tin đầy đủ hơn. Nghiên cứu sử dụng
tài liệu tham khảo từ các các trang wed đáng tin cậy ( pubmed, usaid, tài liệu quốc gia…).
Tiêu chí chọn mẫu rõ ràng (thời gian làm việc của họ ít nhất từ sáu tháng, có tiếp xúc trực
tiếp bệnh nhân, từ 18 tuổi trở lên, có thể nói chuyện và đồng ý tham gia nghiên cứu).
Tuy nhiên nghiên cứu có một số hạn chế như đây là thiết kế nghiên cứu cắt ngang, do đó
chưa thể xác định được nguyên nhân và hậu quả để có biện pháp can thiệp, do đó cần có
ngững nghiên cứu xa hơn tìm hiểu về vấn đề này. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu là
báo cáo lại từ các NVYT tế mà chưa có những quan sát do đó có thể bị sai lệch thông
tin. Cách chọn đối tượng tham gia nghiên cứu là những người ở hai thành phố có tỷ lệ
nhiễm HIV cao, do đó mức độ kỳ thị vẫn chưa thể hiện đại diện được mức kỳ thị chung
của NVYT tại các cơ sở có người nhiễm ít hơn.
1.4.2 Việt Nam
Theo nghiên cứu cắt ngang của Lien Quach, Kenneth Mayer và các cộng sự về
kiến thức, thái độ, thực hành của các bác sĩ đối với bệnh HIV tại Quảng Ninh được đang
tải vào năm 2005 trên trang chăm sóc bệnh nhân AIDS và STDs trên 151 bác sĩ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy hầu như các bác sĩ (95%) đã nhận thức một vợ một chồng, an toàn
quan hệ tình dục và kim tiêm tiệt trùng có thể ngăn chặn lây lan HIV cho người khác.
Tuy nhiên, có những quan niệm sai lầm về phương thức lây truyền HIV cụ thể như HIV
có thể lây khi dùng chung nhà vệ sinh với người sống chung với HIV / AIDS (12,1%),
muỗi đốt (6,9%) và 39,9% cho rằng dinh dưỡng tốt có thể bảo vệ việc lây nhiễm HIV /
AIDS. Chỉ có 41,6% các bác sĩ biết rằng có nhiều hơn một loại HIV. Riêng kiến thức về
bệnh học khá thấp chỉ từ 5-7 điểm. Về thái độ, khoảng 3/4 bác sĩ lo lắng về việc lây
nhiễm HIV nhiễm từ bệnh nhân của họ. Gần 1/2 số bác sĩ cảm thấy khác biệt khi chăm
sóc giữa các bệnh nhân nhiễm HIV so với bệnh nhân bị bất kỳ căn bệnh nào khác và
khoảng 40% các bác sĩ cảm thấy hơi khó chịu với bệnh nhân HIV /AIDS trong thời gian
kiểm tra, điều trị. Hơn 2/3 các bác sĩ đồng ý rằng bệnh nhân AIDS nên được điều trị
trong bệnh viện và phòng khám riêng biệt. Hầu như tất cả các bác sĩ nói rằng những
người chăm sóc sức khỏe nên được phép làm xét nghiệm HIV cho bệnh nhân mà không