Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận xuất nhập khẩu của việt nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.01 KB, 32 trang )

Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

LỜI MỞ ĐẦU
Góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước, hoạt động thương
mại nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng đã giải quyết được những vấn đề
kinh tế, khai thác được nội lực và phát huy được tiềm năng, lợi thế so sánh
của đất nước. Tuy nhiên xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều tồn tại như quy
mô, khối lượng xuất khẩu thì nhiều nhưng trị giá thấp, dễ gặp rủi ro. Thị
trường xuất khẩu của ta chưa ổn định một trong những nguyên nhân là chất
lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã còn nghèo nàn, giá thành cao, nhiều trường
hợp phải buôn bán qua trung gian.Về cơ cấu hàng xuất khẩu có những thay
đổi rõ nét nhưng tỷ trọng hàng chế biến còn thấp hơn hàng thô. Về nhập khẩu,
thì tình trạng nhập siêu lớn .
Trong thời gian tới, cùng với lộ trình tham gia AFTA và trở thành thành viên
của WTO, chính phủ Việt Nam cần có những chính sách thương mại quốc tế
phù hợp và hữu hiệu để mở rộng thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá, đa dạng hoá sản phẩm, giảm bớt nhập siêu. Do vậy việc đánh giá hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam, tìm ra nguyên nhân của vấn đề để đề xuất
nhữnh giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế trong nước, đặc biệt là giai đoạn hiện nay- giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, có ý nghĩa quan trọng cả mặt lý luận và
thực tiễn vì vậy nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
những năm gần đây là hết sức cần thiết .
Đề án môn học bao gồm những nội dung chính sau:
-

Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây.

-

Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000


tới nay.

-

Một số đề xuất và kiến nghị.

Do quá trình nghiên cứu còn nhiều hạn chế, nên không thể tránh khỏi những
sai sót, mong thầy giáo và bạn đọc đóng góp thêm ý kiến để bài viết này đươc
hoàn chỉnh hơn.
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

3


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Em xin cảm ơn thầy giáo Nguyễn Như Bình đã tận tình giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu.

1.

Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 tới nay

1.1 Xuất khẩu
* Kim ngạch
Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay đều tăng lên cả về tốc độ và giá trị
tuyệt đối. Năm 2000 tổng kim ngạch đạt 14,45 tỷ USD tăng 24% so với năm
1999, tức là tăng 3,76 tỷ USD. So với chỉ tiêu tăng trưởng Quốc hội đặt ra từ
đầu năm thì chúng ta đã thực hiện gấp 2 lần, và như vậy ngành thương mại đã
về đích so với kế hoạch từ cuối tháng 11. Mặt khác, 3,76 tỷ USD tăng thêm đã

gấp 1,8 lần tổng kim ngạch năm 1991-năm đầu tiên thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế 1991-2000; và bằng 51,83% tổng kim ngạch năm 1996-năm đầu
tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000. Một chút so sánh như vậy để thấy
rằng ngành thương mại đạt kim ngạch xuất khẩu 14,45 tỷ USD là một thành
tích rất đáng tự hào, một sự cố gắng rất lớn góp phần cùng cả nước đưa tốc độ
tăng GDP năm 2000 lên 6,7% .
Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt 15,1 tỷ USD, bằng 90,1% kế hoạch, tăng
4,5% so với năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu đạt được thấp hơn nhiều so với
mục tiêu đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là do tình hình kinh tế thương mại thế
giới diễn biến không thuận lợi, nhất là vào những tháng cuối năm giá giảm
quá mạnh trên thị trường thế giới , đặc biệt là giá giầu thô.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2001. Khác với đồ thị giảm dần của năm 2001, tốc độ tăng trưởng luỹ kế trong
năm 2002 có diễn biến tăng dần (sau 3 tháng –12%, 6 tháng –4,9%, 9 tháng
+3,2%, 12 tháng +11,2%).
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2003 đạt khoảng 16,55 tỷ
USD, bằng 93% kế hoạch cả năm và tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2002.
Tuy tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng có thấp hơn so với kết quả của
các tháng đầu năm nhưng đã vượt khá xa so với mục tiêu tăng 7-8% đề ra cho
cả năm 2003. Xuất khẩu tăng một phần là nhờ được lợi về giá và quan trọng
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

4


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

hơn là do tăng nhanh khối lượng xuất khẩu. Số liệu thống kê cho thấy giá cả
hàng hoá xuất khẩu tăng góp phần làm cho kim ngạch xuất khẩu chung tăng
hơn 700 triệu USD. Trong khi đó, khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng cũng

giúp cho kim ngạch chung tăng 2,3 tỉ USD .
Như vậy kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay liên tục tăng trưởng với
tốc độ cao, một trong những yếu tố góp phần làm kim ngạch tăng trưởng cao
như vậy là thị trường .

* Thị trường
Tỷ trọng thị trường xuất khẩu của Việt Nam (%)
Thị trường

2000

2001

2002

6 tháng đầu

Tổng số
1.Châu Á
ASEAN
Trung Quốc

100
60,0
18,1
10,6

100
57,3
17,0

9,4

100
52,1
14,5
8,9

năm 2003
100
47,6
15,8
7,3

Nhật Bản
Hàn Quốc
2.Châu Âu
EU
Đông Âu
3.Châu Mỹ
Mỹ
4.Châu Đại

17,8
2,4
23,0
19,6
1,9
6,6
5,1
9,0


16,7
2,7
23,4
20.0
2,6
8,9
7,1
7,1

14,6
2,8
23,5
18,9
2,0
16,3
14,5
8,1

14,0
2,2
21,7
19,1
1,5
22,9
20,2
6,8

Dương
Australia

8,8
6,9
8,0
6,6
5.Châu Phi
1,0
1,1
0,8
1,1
(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166 – thứ 6 – 17/10/2003 –trang 6 –
tác giả Dương Ngọc)

Kim ngạch xuất khẩu từ năm 2000 tới nay đều tăng lên trước hết là do Việt
Nam thực hiện phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường xuất
khẩu cho tới nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 200 nước và vùng
lãnh thổ.
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

5


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Trong các châu lục, Châu Á-một thị trường gần với nhiều điểm tương đồng về
thị hiếu, nhu cầu, về chất lượng, chủng loại, mẫu mã-đã chiếm tỷ trọng lớn
nhất; Châu Âu vẫn duy trì được tốc độ tăng và tỷ trọng khá; Châu Mỹ đã vượt
lên chiếm vị trí lớn thứ 2; Châu Đại Dương vẫn là một thị trường lớn và Châu
Phi bước đầu được mở mang, được coi là thị trường tiềm năng .
Trong các nước và vùng lãnh thổ có 10 thị trường lớn nhất. Nhật Bản liên tục
dẫn đầu, chỉ nhường vị trí này cho Mỹ từ năm 2003; Mỹ đã vươn lên đứng

đầu, khả năng năm 2003 sẽ đạt trên dưới 4 tỷ USD; Trung Quốc-một thị
trường rất gần, rất rộng lớn- duy trì ở vị trí thứ 3; Australia đứng thứ 4;
Singapore đứng thứ 5; Đài Loan đứng thứ 6; Đức đứng thứ 7; Anh đứng thứ
8; Hàn Quốc đứng thứ 9; Pháp đứng thứ 10.
Diễn biến thị trường từng năm :
-

Năm 2000: Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì thị trường cũ đồng thời mở thêm
nhiều thị mới: xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường Đông Á và
Đông Nam Á tăng mạnh cụ thể là xuất khẩu sang Nhật Bản tăng 60%,
Trung Quốc tăng 87%, Australia tăng 75%, Malaysia tăng 54%, Hồng
Kông tăng 46%, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Á
chiếm trên dưới 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó thị trường
Nhật Bản và ASEAN chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng hàng xuất khẩu sang
Châu Âu tới nay đã đạt 23% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với khu
vực Bắc Mỹ mà chủ yếu là Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng
có bước tăng trưởng khá, chiếm trên dưới 5% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu, mặc dù Việt Nam chưa được Mỹ cho hưởng quy chế thương mại
bình thường với quốc gia này. Tuy vậy hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vẫn
chưa có chỗ đứng vững chắc ở thị trường này bằng chứng là kim ngạch
xuất khẩu vào Mỹ bằng 28% so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang
Nhật Bản và 20% sang EU. Hàng hoá xuất khẩu vào các khu vực thị
trường khác như Liên Bang Nga, các nước khác trong cộng đồng các quốc
gia độc lập (SNG) và Đông Âu chiếm trên 3%, Australia chiếm trên 5%,
Châu Phi và Nam Phi hơn 1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

6



Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Việt Nam đã hình thành một số thị trường chủ lực xuất khẩu hàng hoá,
hiện có 40 thị trường nhập khẩu hàng Việt Nam có giá trị từ 8 triệu USD
trở lên, trong đó 23 thị trường trên 100 triệu USD, đặc biệt là 8 thị trường
nhập khẩu hàng Việt Nam trên 500 triệu USD trong đó 3 nước đạt trên 1 tỷ
USD là Nhật Bản, Trung Quốc và Australia. Với Trung Quốc đây là năm
đầu tiên kim ngạch 2 chiều đạt gần 3 tỷ USD trong đó Việt Nam xuất khẩu
là 1,6 tỷ USD , còn Nhật Bản vẫn đứng vị trí hàng đầu với việc nhập khẩu
hàng Việt Nam trong năm 2000 đã lên tới 2,621 tỷ USD tăng 46,77% so
với năm 1999.
Hoạt động thương mại năm 2000 đã góp phần nâng tầm Việt Nam trên thế
giớI, đó là chúng ta đã ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ tháng 7/2000
mở ra thời kỳ mới trong quan hệ buôn bán với một cường quốc kinh tế
mạnh. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 vì
vậy quan hệ thương mại giữa Việt và Mỹ bắt đầu phát triển .
-

Năm 2002 nổi bật là xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng mạnh, cả năm ước đạt
2,42 tỷ USD, bằng hơn 2 lần so với năm 2001. Tỷ trọng của Hoa Kỳ trong
tổng kim ngạch đã tăng từ 7,1% lên 14,5% và riêng phần đóng góp đối với
tốc độ tăng trưởng chung năm 2002 là 9% .
Xuất khẩu vào Hoa Kỳ tăng nhanh nhưng xuất khẩu sang Nhật Bản và
ASEAN lại giảm, xuất khẩu vào EU và Trung Quốc tăng chậm. Xuất khẩu
vào Nhật Bản giảm 3%, chủ yếu do giảm kim ngạch dầu thô và hàng dệt
may. Thị trường ASEAN vẫn trì trệ do giảm kim ngạch linh kiện vi tính và
sự chuyển hướng xuất khẩu dầu thô sang khu vực khác. Xuất khẩu vào EU
tăng 4,5 % nhưng trong đó xuất khẩu hàng dệt may giảm 9% do sức mua
năm nay yếu, Trung Quốc lại được EU bãi bỏ hạn ngạch đối với một số

Cat hàng dệt may mà ta có hạn ngạch nên cạnh tranh gay gắt hơn.

-

10 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng
gấp đôi so với năm 2002, trong khi đó các thị trường khác cũng có chuyển
biến tích cực. 20/40 thị trường xuất khẩu chủ lực có tăng trưởng cao, thị
trường đang dẫn đầu tốc độ tăng trưởng là Bồ Đào Nha (105%), các Tiểu

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

7


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Vương Quốc

Ả Rập Thống Nhất là (43,5%), Myanma (78,7%),

campuchia (52,8%), Thái Lan (41%).Tuy nhiên vẫn có 6/40 thị trường
không có tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2002, một số thị trường giảm là
Nga (25%), Ailen(20%), Đài Loan (13%), Lào (9%), Irăc (59%).
Trong khi tập trung xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh, thì ở các thị
trường truyền thống khác lại sụt giảm như Hàn Quốc, Đài Loan …đặc biệt
là thị trường EU giảm 31% so với cùng kỳ năm 2002, riêng mặt hàng dệt
may 10 tháng đầu năm đạt khoảng 2 tỷ USD chủ yếu do tăng xuất khẩu
sang thị trường Mỹ, EU khoảng trên 200 triệu USD và Nhật Bản khoảng
270 triệu USD, từ nay đến cuối năm 2003 có thể khó thay đổi tình thế này.
Có thể nói yếu tố thị trường có nguyên nhân khách quan và chủ quan, một mặt

nếu không có thị trường Mỹ với kim ngạch xuất khẩu tăng thêm con số hơn 1
tỷ USD so với năm 2002 thì cũng khó có tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao trong
năm 2003; mặt khác nếu không có sự chuẩn bị tốt thực hiện hiệp định thương
mại Việt –Mỹ sẽ bỏ qua thời cơ khách quan đem lại.
Về thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng có một số điểm lưu ý :
Châu Á - một châu lục duy nhất mà nước ta nhập siêu – thì tỷ trọng xuất khẩu
vào châu lục này liên tục giảm xuống, trong đó giảm mạnh là Nhật Bản và
Trung Quốc. Cần phải tận dụng cơ hội giảm thuế suất nhập khẩu vào ASEAN,
tranh thủ thị trường gần là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc để cải thiện cán
cân thương mại với nước này.
Đông Âu vốn là thị trường truyền thống, nhưng hiện tỷ trọng còn ở mức rất
thấp và giảm trong 3 năm liền. Tới đây, 10 nước ở khu vực này gia nhập EU
sẽ vừa tạo thuận lợI, đồng thời cũng xuất hiện những khó khăn nhất định, cần
khai thác mặt thuận và hạn chế mặt nghịch .
Châu Phi là thị trường rộng lớn, nhất là đối với hàng nông sản và các loại
hàng chưa đòi hỏi cao về chất lượng, nhưng quy mô xuất khẩu vào thị trường
này còn nhỏ bé.

* Mặt hàng
Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu (triệu USD)
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

8


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Mặt hàng chủ yếu

2000


2001

2002

10 tháng đầu

2003
1.Dệt may
1.892
1.978
2.756
3.155
2.Dầu thô
3.496
3.140
3.274
3.110
3.Giầy dép
1.402
1.600
1.871
1.847
4.Thuỷ sản
1.473
1.827
2.021
1.808
5.Gạo
664

619
718
679
6.Điện tử,mt
780
709
484
550
7.SP gỗ
289
332
434
446
8. Cà phê
505
392
317
374
9.TC,MN
289
317
334
285
10.Cao su
158
166
267
273
11.Dây,CĐ
0

181
183
233
12.Hạt điều
173
151
217
221
13.SPnhựa
101
120
150
149
14.Than đá
86
120
150
147
15.Rau quả
216
347
200
127
16.XĐ $ PT
0
0
150
121
17.Hạt tiêu
144

90
100
89
(Nguồn: Bộ thương mại; Tính toán dựa trên số liệu trong thời báo kinh tế Việt Nam số
66 –thứ 6 - 17/10/2003 trang 6 tác giả Dương Ngọc )

Nhìn chung số loại mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu đã gia tăng qua các năm.
Đến năm 2002 Việt Nam đã có 17 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD
và 3 mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD ( dệt may, dầu thô, thuỷ sản) trong
đó Dầu thô đạt trên 3 tỷ USD; Khả năng năm 2003 này sẽ có thêm mặt hàng
nữa là giầy dép đạt trên 2 tỷ USD và 2 mặt hàng có khả năng vượt 3,5 tỷ USD
Trong 4 mặt hàng trên cũng đang có sự rượt đuổi để thay đổi ngôi thứ, hàng
dệt may đang vị trí thứ 2 đã vượt lên vị trí thứ nhất vào đầu năm 2003. Hàng
dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 170 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có
những thị trường lớn sau.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào các thị trườngchính(%)
1 . Mỹ
2 . EU
3 . Nhật Bản
4 . Đài Loan
5. Hàn Quốc

2,6
33
32,4
13,8
3,6

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42


2,4
31
29,9
13,3
4,1

35,5
20
17,84
8,5
3,4

9


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-trang 6- Dương Ngọc)
Trong khi tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sút giảm mạnh ở các
thị trường khác thì thị trường Mỹ lại tăng vọt qua các thị trường đứng trên để
vươn lên đứng thứ nhất, vượt xa thị trường đứng thứ 2 và xu hướng này còn
tiếp tục vào 10 tháng đầu năm 2003 này.
Dầu thô trong nhiều năm qua đứng vị trí số một về kim ngạch xuất khẩu, chỉ
nhường vị trí này trong 10 tháng đầu năm 2003 cho đệt may. Trong 11 nước
và vùng lãnh thổ nhập khẩu dầu thô của Việt Nam thì 5 thị trường sau đây là
lớn nhất.

Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dầu thô lớn nhất của Việt Nam (%)
Các nước
1. Au stralia

2 .Trung Quốc
3. singapore
4. Nhật Bản
5. Indonêsia
Cộng 5 thị trường

2000
31,5
22,2
15,4
15
4,8
88,9

2001
28,4
17,9
23,0
12,3
4,8
86,4

2002
34,6
21,0
19,8
7,6
3,6
86,8


(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 166-17/10/2003-tác giả Dương Ngọc)

Giầy dép Việt Nam đã có mặt ở 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó lớn
nhất là EU (70%), tiếp đến là Mỹ (11%) , Nhật Bản (3%) .
Hàng thuỷ sản đã có mặt ở 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó Mỹ là thị
trường tăng nhanh nhất, hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất (tăng từ 26% năm 2001
lên 33% năm 2002 và 36% trong 6 tháng đầu năm 2003);tiếp đến là EU, Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan .
Ngoài 17 mặt hàng vượt trội trên, còn có 13 mặt hàng khác, trong đó có 4 mặt
hàng mới tham gia vào danh sách các mặt hàng chủ lực, đó là sản phẩm gỗ,
dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, xe đạp và phụ tùng xe đạp .
Diễn biến mặt hàng xuất khẩu qua các năm :
* Năm 2000: đi qua để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp về một nền kinh tế Việt Nam
đã bước đầu khởi sắc, vượt qua cơn khốn khó từ sau cuộc khủng khoảng tài
chính tiền tệ khu vực. Đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế, kim ngạch
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

10


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

xuất khẩu năm 2000 đạt 14,308 tỷ USD, tăng 52,8% so với năm 1998, 24% so
với năm 1999 và vượt mức kế hoạch trên 1 tỷ USD. Với mức xuất khẩu như
hiện nay, tính bình quân đầu người là 180 USD, Việt Nam đã vượt qua
ngưỡng tối thiểu của một nước đang phát triển (quy định là 170 USD). Sở dĩ
xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong năm qua nhờ vào việc gia tăng đáng
kể kim ngạch xuất khẩu ở một số mặt hàng như dầu thô, thuỷ sản, rau quả …
Hiện có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Trước hết nói về dầu thô, chủ yếu là do giá dầu thế giới tăng (tới 88%) chứ

còn lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 1,4% so với năm 1999, nhờ đó giá trị xuất
khẩu mặt hàng này đã đạt tới 3,496 tỷ USD, tăng 71,5% so với năm 1999,
điều này chưa thực đáng mừng vì rằng hoàn toàn do yếu tố khách quan mang
lại.
Lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đạt ngoài dự kiến là 1,473
tỷ USD, tăng 51,9% so với năm 1999, vượt mức kế hoạch 34,1%, có được
thành công là do thời gian qua ta đã chuẩn bị tốt được nguồn hàng xuất khẩu
từ đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến bảo quản, hiện nay hải sản Việt Nam đã
có mặt trên 40 nước và lãnh thổ ,đặc biệt trong số đó sáu bạn hàng lớn nhất là
Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan, riêng thị trường khu
vực này đã chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 1,892 tỷ USD nhưng tốc độ tăng
trưởng chỉ ở mức 3,9% so với năm 1999, chưa đạt được kế hoạch năm (1,95
tỷ USD ). Tình hình trên đây là do trong các hợp đồng của khách hàng xuất
hiện nhiều chủng loại mới và khó may nên ta chưa chuẩn bị được đủ hàng để
giao nhận mặc dù EU đã tăng thêm hạn ngạch cho Việt Nam. Do giá gia công
quá thấp, nhiều doanh nghiệp có xu hướng chuyển dần hình thức tự doanh nên
bước đầu còn đang gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm đầu ra cho
sản phẩm. Bên cạnh đó, hàng dệt may Việt Nam đã gặp phải sự cạnh tranh
quyết liệt của một loạt các nước trong khu vực như Trung Quốc,Thái Lan…
Xuất khẩu giầy dép các loại của Việc Nam năm 2000 dường như dậm chân tại
chỗ chỉ tăng có 0,7% so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu cả năm chỉ đạt
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

11


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

1,402 tỷ USD mặc dù kế hoạch đặt ra là 1,65tỷ USD. Nguyên nhân là do có

một số lượng lớn hàng giầy dép đang bị tồn kho trên thế giới, do đó các bạn
hàng ra sức ép giá đối với ta đồng thời giảm số lượng hợp đồng kí kết dẫn đến
công nhân không đủ việc làm. Khó khăn lớn nhất của ngành giầy da là thiếu
nguyên liệu, phụ kiện, mọi thứ từ da, đến phụ liệu trang trí và kiểu dáng đều
phải nhập từ bên ngoài.
Hàng rau quả tuy chỉ mới đạt kim ngạch xuất khẩu là 216 triệu USD nhưng là
ngành hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong năm qua (tới 95,5%). Các
bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của hàng rau quả là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, EU.
Ngoài ra xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp khác như điều nhân, trà, cao su
của Việt Nam cũng tăng hơn so với năm 1999. Tuy nhiên xuất khẩu hai sản
phẩm nông nghiệp là cà phê và gạo lại bị giảm sút nghiêm trọng.
Hàng thủ công mỹ nghệ cũng có bước tăng trưởng khá, đạt 39,7% với kim
ngạch xuất khẩu là 289 triệu USD.
Xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính cũng có bước tăng trưởng khá,
tăng 35% so với năm 1999 và đạt ở 780 triệu USD, thị trường chủ yếu của các
mặt hàng này là Philippin, Thái Lan, Nhật Bản…
Nhìn chung cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 được đánh
giá là phong phú đa dạng hơn.Tuy nhiên đây chỉ là những bước đi ban đầu thử
nghiệm, thăm dò thị trường, còn làm ăn lâu dài là phải có mặt hàng xuất khẩu
quy mô lớn, ổn định, sản phẩm đồng nhất với chất lượng cao .
*Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 15,1 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm
2000 thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra, chủ yếu do tình hình kinh tế
thương mại thế giới diễn biến không thuận lợi. Có 9 mặt hàng chủ lực là lạc
nhân, cà phê, chè, gạo, hạt điều, hạt tiêu, dầu thô, thủ công mỹ nghệ và điện tử
bị giảm kim ngạch, chủ yếu do giá giảm quá mạnh trên thị trường thế giới, đặc
biệt là giá dầu thô. Tuy nhiên đa số các mặt hàng nông sản chủ lực đều được
tổ chức tiêu thụ tốt, mức tăng về lượng rất khá, cao su tăng gần 14%, cà phê
trên 25%, hạt điều 20%, hạt tiêu 5%…đã làm thị phần của ta trên thị trường
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42


12


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

thế giới được cải thiện. Kim ngạch của nhóm hàng khác ngoài 17 nhóm chủ
lực đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay là 28,2% làm tỷ trọng của
nhóm này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 26%. Điều này thể hiện tác
dụng của việc mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của mọi thương nhân,
khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế trong việc tạo ra các
mặt hàng xuất khẩu mới.
* Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm
2001, trong đó một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá là dệt may
(+39,3%), giầy dép (+19,7%), hàng TCMN (+40,7%), sản phẩm gỗ (+30%),
cao su (+61,4%), hạt điều(+38%). Khác với đồ thị giảm dần của năm 2001,
tốc độ tăng trưởng luỹ kế trong năm 2002 có diễn biến tăng dần (sau 3 tháng –
12%, 6 tháng –4,9%, 9 tháng +3,2%, 12 tháng +11,2%). Xuất khẩu các sản
phẩm phi dầu thô tăng 12,9%, cao hơn mức tăng 8,7% của năm 2001. Cơ cấu
xuất khẩu có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của nhóm hàng chế biến chủ
lực (dệt may, giầy dép, hàng điện tử và linh kiện máy tính, hàng TCMN, sản
phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, thực phẩm chế biến, cơ khí điện, đồ chơi ) đạt 39%
( năm2001 là 36,3%), trong đó mặt hàng có tốc độ tăng khá là dệt may, giầy
dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa và hàng TCMN. Riêng phần đóng góp của
2 nhóm hàng dệt may và giầy dép đối với tăng trưởng chung là 7,2% (dệt may
5,2%, giầy dép 2%). Về xuất khẩu nông sản mặc dù giá vẫn thấp nhưng có tới
5 mặt hàng có lượng tăng là lạc nhân, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè. Điều này
cho thấy thị trường tiêu thụ vẫn được bảo đảm, thị phần của ta đối với một số
mặt hàng tiếp tục tăng. Hai mặt hàng gạo và cà phê lượng xuất khẩu giảm
nhưng nguyên nhân chính là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của

hạn hán chứ không phải do thiếu thị trường .
* 10 tháng đầu năm 2003, trong số các mặt hàng chủ lực của Việt Nam thì
hàng dệt may và dầu thô đã xuất khẩu được 3,1 tỷ USD mỗi loạI, còn nếu tính
thêm hai mặt hàng thuỷ sản và giầy dép thì kim ngạch của 4 mặt hàng trên
chiếm đến 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta .
Tuy nhiên, về mặt hàng xuất khẩu cũng còn một số điểm bất cập: Mặc dù tỷ
trọng kim ngạch hàng thô hay mới sơ chế đã giảm nhưng vẫn còn cao, tỷ
13
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

trọng kim ngạch hàng chế biến hay tinh chế đã tăng lên, nhưng vẫn còn thấp.
Trong các loại hàng chế biến thì tỷ trọng hàng gia công còn lớn, kim ngạch
xuất khẩu khá cao nhưng phần thực thu ngoại tệ lại thấp. Tỷ trọng hàng gia
công trong nhóm hàng dệt may lên tới 90-95%, nguyên liệu giầy dép có tới
60% phải nhập khẩu. Hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, khâu thương hiệu
còn hạn chế nên phải bán qua trung gian.

Thành phần kinh tế
Đơn vị triệu USD
Thành phần kinh tế
Các DN 100% vốn

2000
7.641

2001
8.352


2002
8.937

10t đn 2003
8.284

trong nước
Các DN có vốn ĐTNN

6.809

6.748

7.769

8.266

(Nguồn: Ngoại thương 21-31 /1/2002 trang 9, 10; Thời báo kinh tế Sài Gòn 30/10/2003
trang 8; Tính toán dựa trên số liệu trong thương mại số 7/2003- trang 2)

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2000 khu vực kinh tế trong nước chiếm
tỷ trọng trên 50%, đạt 7641 triệu USD tăng 8% so với năm 1999; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) đạt khoảng 6809 triệu USD tăng
47,4%.
Sở dĩ tốc độ tăng của khu vực kinh tế trong nước chưa cao vì những mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản, rau quả, lâm, hải sản, thủ công mĩ nghệ,
có giá trị thấp. Hơn nữa năm 2000 lại là năm đặc biệt khó khăn với gạo và cà
phê (gạo: phẩm chất chưa cao, giá cả khong ổn định; Cà phê: giá xuống thấp
liên tục qua các tháng).

Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, sở dĩ xuất khẩu có mức tăng nhanh là nhờ
vào mặt hàng dầu thô. Năm 2000 khối lượng dầu thô ước tính đạt khoảng 15,5
triệu USD. Tuy lượng dầu xuất khẩu chỉ tăng 4,2% nhưng do giá dầu tăng cao
nên trị giá xuất khẩu tăng tới hơn 71,2% .Tuy nhiên một số nhóm hàng như:
Dệt may, giầy dép vốn là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao những
năm trước đây thì năm 2000 bị giảm sút mạnh. Cụ thể năm 1999 kim ngạch
hàng dệt may tăng 20,5%, giầy dép tăng 34,9% thì năm 2000 chỉ số tương ứng
đã giảm xuống chỉ còn tăng 3,9% và 0,7% .
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

14


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 15100 triệu USD, bằng
90,1% kế hoạch, tăng 4,5% so với năm 2000. Bao gồm, xuất khẩu của các
doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8352 triệu USD, bằng 89,2% kế
hoạch năm, tăng 9,3%; của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
6748 triệu USD bằng 91,2% kế hoạch, giảm 0,9%.
Năm 2002 các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8937 triệu USD, tăng
7% so với năm 2001; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7769
triệu USD, tăng 15,1%.
10 tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp 100% vốn
trong nước đạt 8284 triệu USD tăng 14,6%, kim ngạch xuất khẩu các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8266 triệu USD, tăng 32% so với cùng
kỳ năm ngoái
Như vậy nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của cả khu vực doanh nghiệp 100%
vốn trong nước và khu vực đầu tư nước ngoài từ năm 200 tới nay đều tăng
lên, trong đó tốc độ tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng

nhanh hơn là tốc độ tăng của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
1.2. Nhập khẩu
* Kim ngạch nhập khẩu
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 đạt 15,2 tỷ USD tăng khoảng 30,8% so
với năm 1999 (vượt 15,2% kế hoạch năm ). Cân đối giữa xuất và nhập thì
nhập siêu năm 2000 vào khoảng 750 triệu USD. Tuy gấp 11 lần mức nhập
siêu năm 1999 nhưng so với năm 1998 chỉ bằng 42% và so với năm 1997 chỉ
bằng 37,2%. Nhập siêu tăng do một trong những nguyên nhân là sự tăng giá
của các mặt hàng nhập khẩu và giảm giá đối với nhiều mặt hàng xuất khẩu
khác của nước ta. Hơn nữa cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất
như phân bón, xăng dầu, máy móc …
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2001 đạt 16 tỷ USD, bằng 89,9% kế
hoạch năm, tăng 5,3% so với năm 2000.

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

15


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Kim ngạch nhập khẩu năm 2002 đạt 19,3 tỷ USD, tăng 20,6% so vói năm
2000, vượt 1,4% so với kế hoạch năm, nhập siêu là 2,594 tỷ USD. Như vậy
nhập siêu năm 2002 đã tăng lên gấp 3 lần so với năm 2000 và năm 2001 .
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 10 tháng đầu năm 2003 là 20,316 tỷ USD,
gần bằng kế hoạch cả năm và tăng 29,9% so với cùng kỳ năm 2002.
Như vậy kim ngạch nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng với tốc độ cao. Hai yếu tố giá
cả và khối lượng hàng nhập khẩu đều góp phần làm kim ngạch chung tăng
lên, nó được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau.
Đơn vị tỷ USD & %

2000
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nhập siêu
Tốc độ tăng

14,45
15,2
0.75
30,8

2001
15,1
16
0,9
5,3

2002
16,706
19,3
2,594
20,6

10 tháng đầu
năm 2003
16,55
20,316
3,766
29,9


trưởng NK

* Mặt hàng chủ yếu
Đơn vị triệu USD
Mặt hàng chủ yếu

Năm 2000

Năm2001

Năm2002

10 tháng đầu

1, ô tô NC
2, Ôtô dạng linh kiện
3, Thép TP
4, Phôi thép
5, Phân bón
Phân ure
6, Xăng dầu
7, Xe gắn máy (linh

134
97
577
234
508
261
2058

787

197
225
627
309
409
212
1871
576

250
335
880
450
453
208
2022
360

năm 2003
218
432
960
427
434
223
1984
211


kiện LR)
8,Giấy cácloại
9, Chất dẻo Nliệu
10, Sợi các loại
11, Bông
12, Hoá chất Nliệu
13, Máy móc, thiết bị

142
480
231
101
307
2571

153
489
248
133
343
2706

193
617
312
94
404
3700

185

627
248
83
421
4475

khác

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

16


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

14, Tân dược
15, Linh kiện điện tử
16, Nguyên phụ liệu

308
748
1422

287
668
1606

312
650
1781


294
756
1619

dệt may
Hànghoá khác
4934
5153
6487
(Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn 30/10/2003-trang 8; Ngoại thương
21-31/1/2002-trang 10, 21-31/1/2003-trang 3)

Có 16 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong đó hàng tiêu dùng có
xu hướng giảm, các sản phẩm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, dầu thô,
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Hàng nhập
khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất như: hoá chất ,nguyên vật liệu, ling kiện điện
tử. Trong điều kiện một nước đang phát triển, chưa ổn định và cần tăng cường
mạnh đầu tư nước ngoài, trong nước, đôi khi sự gia tăng về nhập khẩu để đáp
ứng yêu cầu sản xuất trong nước lại là hết sức cần thiết .
Năm 2000 tốc độ tăng nhập khẩu cao, phải kể đến yếu tố tăng giá trên thị
trường thế giới ở một số mặt hàng như: sắt thép, sợi dệt, chất dẻo, xăng dầu .
Năm 2001 kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tăng cao so với
năm 2000: ôtô dạng linh kiện tăng 131,5%, ôtô nguyên chiếc tăng 47%, phôi
thép tăng 32%, bông tăng 31,7%…Các mặt hàng thiết yếu đối với nền kinh tế
như xăng dầu, sắt thép, hoá chất , bông, sợi …có mức tăng khá về lượng. Một
số mặt hàng chủ yếu giảm về giá trị: xe gắn máy (dạng ling kiện lắp ráp) giảm
26,8%, phân bón các loại giảm 19,4%, ling kiện điện tử giảm 10,7%, xăng dầu
giảm 9,1%, tân dược giảm 6,8%…
Năm 2002 các mặt hàng chủ yếu, quan trọng đối với sản xuất trong nước

được nhập khẩu với khối lượng khá và đều tăng mạnh nhất là thép, giấy, máy
móc, bộ linh kiện ô tô, hoá chất và sợi. Bộ linh kiện ô tô tăng 48,9%, máy
móc thiết bị và phụ tùng tăng 36,7%, sợi tăng 25,8%, giấy tăng 26,1%, thép
thành phẩm tăng 40,3%, chất dẻo nguyên liệu tăng 26,2%, phân bón tăng
10,8%, xăng dầu tăng 8,1% so với năm 2001, kể cả những mặt hàng không
nằm trong diện được chính phủ khuyến khích nhập khẩu cũng tăng như tân

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

17


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

dược, vải…Các mặt hàng giảm là xe gắn máy (37,5%), bông (giảm 29,32%),
ling kiện điện tử giảm 2,8% so với năm 2001 .
10 tháng đầu năm 2003 hầu hết các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng
lên với tốc độ tăng trưởng nhanh về kim ngạch, chỉ có 2 mặt hàng giảm là sợi
các loại và bông với tốc độ giảm tương ưng là 4,2% và 3,5%.
Nhập siêu tăng mạnh qua các năm một phần là do giá nguyên liệu đầu vào
trên thế giới tăng cao, một phần hàng hoá nhập khẩu trong thời gian qua là
máy móc thiết bị để đảm bảo tiến độ cho những dự án sủ dụng vốn ODA được
triển khai, nếu không kịp thời tìm ra các giải pháp để hạn chế nhập siêu thì
mức thâm hụt thương mại sẽ không ngừng ở mức hiện tại. Dù có nhập thiết bị
máy móc dụng cụ phụ tùng, nhưng vấn đề là đầu tư sẽ đưa lại hiệu quả ra sao
trong giai đoạn tới. Hơn nữa đây còn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nước, khi mà tính gia công của sản xuất, xuất khẩu và tính đại lý trong
thương mại không giảm, mà ở một số địa phương còn gia tăng …nhất là sau
khi cắt giảm thế suất thế xuất khẩu, hàng nhập khẩu sẽ gia tăng. Vậy để kiềm
chế nhập khẩu cần có những biện pháp sau:

Loại giải pháp liên quan đến xuất khẩu, theo đó xuất khẩu ngoài việc tận dụng
các lợi thế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh (sức cạnh tranh không chỉ
nằm ở giá thành, chất lượng mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp thị và tiến độ
cung cấp), cần hết sức tận dụng thời cơ được giảm thuế để xuất khẩu vào các
thị trường lớn như EU, Mỹ. Xây dựng thị trường nội địa thế nào để tạo dựng
nguồn nguyên vật liệu trong nước cho hàng hoá xuất khẩu, tăng tỉ lệ thưc thu
thuộc về trong nước trong kim ngạch xuất khẩu .
* Thị trường
Nhìn chung từ năm 2000 tới nay thị trường nhập khẩu của Việt Nam có xu
hướng tăng dần cả về chiều rộng lẫn chất lượng hàng nhập khẩu. Có 5 thị
trường lớn đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapore .
Năm 2000 chưa xuất hiện thị trường mới, trong số thị trường cũ thì thị trường
Châu Á vẫn là khu vực có nhiều bạn hàng lớn của nước ta như Nhật Bản (kim
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

18


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

ngạch nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD ), Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng
Kông, Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Inđonexia, …kim ngạch 2 chiều với
nhiều nước gia tăng nhanh chóng như: Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, Itali,
Urraina…
Năm 2001 đã xuất hiện thêm nhiều thị trường nhập khẩu mới là Achentina,
Bồ Đào Nha, Mianma, Cata, Ailen. Trong khi các thị trường khác vẫn tiếp tục
duy trì và có tốc độ nhập khẩu tăng dần .
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ có hiệu lực 10/12/2001, từ đó quan hệ thương
mại giữa 2 nước phát triển mạnh mẽ: xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng

đáng kể thì nhập khẩu từ Mỹ cũng nhiều hơn và như vậy Việt Nam sẽ hạn chế
được việc nhập khẩu các công nghệ lạc hậu qua các nguồn trung gian .
Đối với Trung Quốc giao dịch ngoại thương gia tăng mạnh từ năm 1991, sau
khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hoá quan hệ ngoại giao, trao đổi
hợp tác và phát triển. Xu hướng gia tăng này nhìn chung là vững chắc. Điều
này thấy vai trò và tiềm năng to lớn của Trung Quốc trong chiến lược mở cửa
của Việt Nam. Tuy nhiên giao dịch với Trung Quốc đã bộc lộ những nhân tố
đáng lưu ý: nhiều doanh nghiệp Trung Quốc coi thị trường Việt Nam là nơi
tiêu thụ hàng hoá chậm luân chuyển của họ nên đã khuyến khích việc buôn
bán tiểu ngạch qua biên giới, gây rối loạn thị trường nhập khẩu và gây khó
khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2000 số hàng chậm luân chuyển
của Trung Quốc lên tới 350 triệu USD. Các thị trường nhập khẩu hàng cao
cấp như Nhật, Ý, Mỹ …đến những thị trường nhập khẩu hàng bình dân như
của Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, …với giá tương đối thấp đã làm cho
các ngành sản xuất trong nước lâm cào tình trạng trì trệ vì không tiêu thụ được
sản phẩm .

* Thành phần kinh tế
So với năm 1999, Năm 2000 về kim ngạch nhập khẩu của khu vực kinh tế
trong nước tăng 31,7%, đầu tư nước ngoài tăng khoảng 28,4% .
Năm 2001 nhập khẩu của các doang nghiệp 100% vốn trong nước đạt
11,241tỷ USD, bằng 88,5% kế hoạch, giảm 0,4% so với năm 2000; nhập khẩu
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

19


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,759 tỷ, bằng 93,3% kế

hoạch và tăng 9,4% so với năm 2000.
Năm 2002 các doanh nghiệp trong nước đạt 12,696 tỷ USD tăng 12,96% so
với năm 2001; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6,604 tỷ USD
tăng 38,7% .
6 tháng đầu năm 2003 nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt
7,983tỷ USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm ngoái; các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 4,215 tỷ USD tăng gần 43%.
Doanh nghiệp FDI nhập khẩu tốc độ tăng cao hơn doanh nghiệp trong nước,
số ngoại tệ nhập khẩu của FDI là do chính họ bỏ ra để thanh toán chứ không
phải nhà nước. Cái mà ta cần xem xét là ngoại tệ bỏ ra để nhập khẩu từ nguồn
ngân sách nhà nước do các doanh nghiệp quốc doanh quản lý và thực hiện có
lớn và lãng phí, kém hiệu quả hơn, còn ngoài ra các doanh nghiệp khác tự lo
có ngoại tệ để nhập khẩu, tất nhiên nhà nước cũng phải xem xét quản lý khi
cần thiết .
Như vậy từ năm 2000 tới nay về giá trị tuyệt đối kim ngạch nhập khẩu của các
doanh nghiệp trong nước cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhưng về tốc độ tăng trưởng thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng
nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước. Điều đó chứng tỏ hoạt động đầu tư,
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra
mạnh mẽ, tốc độ cao hơn các doanh nghiệp trong nước, không khí đầu tư sôi
động hơn khu vực trong nước.

1. 3 Đánh giá chung về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam từ
năm 2000 tới nay
*Thành công của xuất nhập khẩu .
Qui mô xuất khẩu đạt ở mức cao, nhờ qui mô khá nên tốc độ tăng cũng đạt
khá cao so với năm trước. Xuất khẩu tăng ở cả hai khu vực, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài không những sản xuất tăng trưởng cao hơn mà còn
tận dụng được cơ hội tốt hơn khi nước ta thực hiện cam kết mở cửa hội nhập
với Mỹ, với khu vực cũng như khi Việt Nam gia nhập WTO .

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

20


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng chủ lực, kim ngạch một số mặt hàng
tăng không chỉ do lượng xuất khẩu tăng mà còn do giá xuất khẩu tăng. Lượng
xuất khẩu tăng như gạo,hạt điều, than đá ,dầu thô…Giá xuất khẩu tăng như cà
phê, dầu thô, cao su.
Xuất khẩu tăng ở hầu hết các thị trường , Mỹ trở thành nước nhập khẩu lớn
nhất của Việt Nam nhờ tốc độ tăng cao. Tiếp đến là các nước khu vực EU,
ASEAN, Nhât Bản, Australia… Thị trường châu phi cũng tăng khá và trở
thành một trong những thị trường đầy hứa hẹn, nhất là đối với những mặt
hàng như lương thực, hàng nông sản…
Các doanh nghiêp tăng cường đầu tư, tiếp nhận công nghệ mới, hơp lý hoá tổ
chức sản xuất kinh doanh cải tiến mẫu mã, tăng sản lượng, nâng cao chất
lượng, giá cả cạnh tranh, năng động tiếp cận thị trường…nên có bạn hàng
mới, vươn tới thị trường xa, thoả mãn nhu cầu lớn, hợp đồng dài hạn và cả
đơn hàng nhỏ lẻ, đột xuất. Qua mỗi năm số lượt đơn vị được thưởng xuất khẩu
đều tăng và sau mỗi kỳ đó không ít doanh nghiệp được đối tác gia hạn hợp
đồng, thêm cam kết mới.
Sự vượt trội của xuất khẩu càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện xẩy ra
cuộc chiến tranh Irăc – một thị trường quan trọng về gạo, chè, các sản phẩm từ
sữa…trong điều kiện dịch Sars đã xẩy ra ở nước ta và ở một số nước trong
vùng; trong điều kiện kinh tế thế giới chưa hồi phục nhanh như dự báo của các
chuyên gia quốc tế.
Nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ sản
xuất tăng lên, nhập khẩu mặt hàng phục vụ tiêu dùng giảm xuống.

* Tồn tại .
Tuy đạt được sự vuợt trội, nhưng trên lĩnh vực xuất khẩu vẫn chưa thể chủ
quan thoả mãn, xuất khẩu đang đối mặt với những thách thức và nhập siêu đã
gia tăng mạnh cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỉ lệ. Phát triển xuất khẩu chưa
thật vững chắc. Gạo, ca phê, hạt tiêu đã đạt tới đỉnh cao, ít có khả năng đột
phá, còn các ngành hàng khác vẫn còn tự phát, chưa tập trung cao, nhưng
không thể có lượng hàng thật lớn và đồng đều chất lượng sẵn sàng cho xuất
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

21


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

khẩu. Khả năng cạnh tranh của một số loại hàng và của không ít doanh nghiệp
hạn chế, bị động ứng phó khi các thị trường nhập hàng đặt ra các rào cản. Cơ
sở vật chất kỹ thuật quảng bá xuất khẩu chưa được cải thiện nhiều. Tranh chấp
thương mại vẫn phức tạp. Các dịch vụ giao nhận, vận tải quốc tế, bưu chính
viễn thông, bảo hiểm … chưa hấp dẫn về thể thức, chất lượng, giá cả. Thiếu
thông tin qua xử lý, dự báo. Thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà, tốn chi phí
ảnh hưởng tới sức cạnh tranh.
Số đông doanh nghiệp nhỏ dễ len lỏi vào thị trường, song năng lực tài chính
và việc tiếp cận khoản tín dụng ưu đãi, các dự án đầu tư, phát triển … không
dễ dàng .
Về nhập khẩu thì nhập siêu ngày càng gia tăng, sẽ làm thâm hụt cán cân vãng
lai, đe doạ tới cán cân tổng thể, tăng vay nợ nước ngoài …,dù có nhập thiết bị
máy móc dụng cụ phụ tùng, nhưng vấn đề là đầu tư sẽ đưa lại hiệu quả ra sao
trong giai đoạn tới. Hơn nữa, đây còn là vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nước, khi mà tính gia công của sản xuất, xuất khẩu và tính đại lý trong
thương mại không giảm, mà ở một số địa phương còn gia tăng . Nhất là sau

khi cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu .

2. Những yếu tố ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu của Viêt Nam .
2.1 Yếu tố quốc tế .
* Lịch trình cắt giảm thuế quan để thực hiện AFTA của Việt Nam .
-Thuận lợi.
Việc tham gia AFTA sẽ giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
ASEAN được hưởng thuế suất ưu đãi CEPT thấp của các nước ASEAN, hạ
giá thành các sản phẩm xuất khẩu tăng cường khả năng cạnh tranh về giá cả
của các hàng hoá này, tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng lợi thế từ việc nhập khẩu nguyên
liệu, vật tư từ các nước ASEAN với mức thuế nhập khẩu thấp, góp phần làm
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

22


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Tham gia AFTA, Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài
không chỉ từ các nước ASEAN mà còn từ nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Đặc biệt với sự phối hợp với các chương trình hợp tác khác trong ASEAN,
các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn
và công nghệ sản xuất mới tiên tiến, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới .
Việt Nam tham gia AFTA là bước tập dượt để chuẩn bị cho việc hội nhập
sâu, rộng hơn vào thị trường quốc tế, đó là gia nhập tổ chức thương mại thế
giới WTO .

- Khó khăn:
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn yếu (về giá cả, chất lượng, mẫu
mã), do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng xuất lao động
thấp, công tác quản lý kém hiệu quả …
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam là các mặt hàng nông sản, nguyên
liệu thô và hàng công nghiệp nhẹ chiếm tỷ trọng lớn. Đây cũng là những mặt
hàng có ưu thế của các nước ASEAN, vì vậy nếu Việt Nam không có biện
pháp để nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm của mình thì sẽ không đủ
sức để cạnh tranh với các hàng hoá của các nước ASEAN tại các thị trường
EU, Bắc Mỹ và Đông Bắc Á.
Khả năng tự lập của các doanh nghiệp còn yếu do vẫn còn bị ảnh hưởng của
sự bao cấp. Nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh ổn định, lâu
dài vì vậy việc đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như tìm kiếm thị
trường cho đầu ra của sản phẩm còn hạn chế.
* Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
-Những cơ hội :
Hiệp định thương mại có hiệu lực vào ngày 10-12-2001, Việt Nam đã được
hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị
trường.
Như chúng ta đã biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương
23
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

mại Việt-Mỹ chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt Nam và hàng hoá của Việt
Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình
đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ,

đặc biệt là hàng hoá của Việt Nam phải chịu mức thuế rất cao .
Khi hiệp định được thực thi, các trở ngại trên bị dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt
Nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ
bởi lẽ Việt Nam có được đối xử tối huệ quốc từ phía Mỹ trong đó quan trọng
là hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể. Theo số liệu
của Bộ Thương Mại, tổng mức thuế đành vào hàng hoá Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường Mỹ (42 mặt hàng ) khi được hưởng MFN sẽ giảm từ 35%
xuống còn 4,9%, cũng theo thông tin của Bộ Thương Mại, kim ngạch xuất
khẩu dự kiến sẽ tăng 30-35%/năm vào đầu năm 2005, và đạt khoảng 2,8-3 tỷ
USD .
Tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước
tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng suất lao động, hạ
giá thành sản phẩm .
Hiệp định thương mại Việt –Mỹ sẽ làm cho các nhà đầu tư Mỹ yên tâm rằng ở
Việt Nam có hệ thống pháp luật, chính sách về thương mại và đầu tư đúng
luật chơi, đảm bảo và bảo vệ tốt lợi ích đối với các nhà kinh doanh trong và
ngoài nước.
Tạo tiền đề cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO.
Việc Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC và đặc biệt là hiệp định thương
mại Việt Mỹ có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ
trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với
nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ tối
huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn; tăng cường cạnh tranh
bình đẳng, công bằng, khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế .
Thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt là đổi mới kinh tế và hành
chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt Nam theo
Hiệp định sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

24



Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các
hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập
quán quốc tế, cũng như nguyên tắc, quy định của WTO.
-Thách thức :
Khi Việt Nam và Mỹ cùng thực hiện việc cắt giảm thuế quan và giảm thiểu
các biện pháp phi thuế quan thì Việt Nam phải đối mặt với một vấn đề là
chính hàng hoá của Mỹ và các nước khác với chất lượng cao, giá hạ hơn và
mẫu mốt đẹp hơn sẽ đạt được ưu thế cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của
Việt Nam ngay tại thị trường Việt Nam .
Mặc dù khi Hiệp định thương mại được thực thi, hàng hoá của Việt Nam được
hưởng ưu đãi quốc gia NTR, nhưng vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với hàng
hoá của Trung Quốc, của các nước ASEAN và nhiều nước khác đang được
hưởng NTR trên thị trường Mỹ. Trong cuộc cạnh tranh này, chất lượng giá cả,
mẫu mốt có tính quyết định. Trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trên ba mặt này hầu như còn rất yếu.
Khi thực hiện NTR, các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào
Việt Nam, được hưởng những ưu đãi về nhập khẩu những nguyên vật liệu để
sản xuất, gia công, chế biến hàng xuất khẩu. Những vấn đề này sẽ tác động
không nhỏ đến việc tổ chức nguồn hàng cho việc sản xuất , chế biến và xuất
khẩu những mặt hàng truyền thống của ta .
Những quy định khó tính của Mỹ về hàng nhập khẩu, đó là những trở ngại phi
thuế quan, mặt khác để doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam được vào thị
trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt
Nam phải làm quyen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng
với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững chính sách ngoại
thương của Mỹ. Đây là quốc gia có hệ thống pháp luật, chính sách về thương

mại khá rắc rốI và phức tạp .
* Một số hiệp định khác:
Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với cộng đồng Châu Âu (EU)
vào ngày 22/10/1990, ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với liên minh
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

25


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

Châu Âu (EU) vào 15/12/1992 và ký hiệp định hợp tác với EU vào 17/7/1995.
Các sự kiện quan trọng này chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế
Việt Nam –EU phát triển mạnh trên cả 3 lĩnh vực (thương mại , đầu tư , viện
trợ ), đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Hiệp định buôn bán hàng dệt may có giá
trị hiệu lực từ năm 1993 vì vậy kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam từ năm
1993 tăng liên tục .
2.2.Nhân tố trong nước
-Thuận lợi
Chính sách thương mại phù hợp với cơ chế thị trường .Điều này có thể thấy
qua khía cạnh sau :
Mở rộng quyền tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày
30/7/1998 của chính phủ được ghi nhận là một bước tiến mới trong quá trình
đó. Theo quy định của Nghị định, mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế đều được tham gia xuất nhập khẩu trong phạm vi đăng ký kinh doanh
mà không cần bất kỳ loại giấy phép xuất nhập khẩu nào. Trước khi tiến hành
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp chỉ phải đăng ký mã số
doanh nghiệp kinh doanh tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Quyết định số
908/QĐ-Ttg ngày 26/7/2001của thủ tướng chính phủ đã cho phép các doanh

nghiệp vệ tinh (sản xuất bán thành phẩm để giao lại cho một doanh nghiệp
khác sản xuất hàng xuất khẩu ) . Đây là quyết định hết sức quan trọng, góp
phần thúc đẩy sự hình thành các chuỗi doanh nghiệp gắn kết với nhau, cùng
hướng về xuất khẩu và cùng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn. Quyết định
đã được bộ tài chính hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ. Cụ thể là chỉ có doanh
nghiệp nào đã có hợp đồng xuất khẩu bán thành phẩm nhưng không giao bán
thành phẩm ra nước ngoài mà giao thẳng cho doanh nghiệp Việt Nam khác để
sản xuất hàng xuất khẩu thì mới được hưởng ưu đãi. Việc hướng dẫn đầy đủ
các ưu đãi này đã được thủ tướng chính phủ tiếp tục chỉ đạo tại văn bản số
78/CP-KTTH của chính phủ ngày 20/1/2002, sẽ góp phần cân bằng chính sách

Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

26


Xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2000 đến nay và những vấn đề đang đặt ra.

ưu đãi giữa nguyên liệu nội và nguyên liệu ngoại, thúc đẩy các doanh nghiệp
sử dụng ngày càng nhiều hơn đầu vào sản xuất trong nước .
Thuế xuất nhập khẩu có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn. Thuế suất
của thuế xuất khẩu và nhập khẩu được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với
phần lớn hàmg xuất khẩu có thuế suất 0% trừ một số mặt hàng như dầu thô,
một số quặng và song mây. Thuế suất nhập khẩu có 3 loạI: thuế suất ưu đãi,
thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những
trường hợp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt
Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với quy
định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Số lượng mức thuế nhập khẩu có
xu hướng giảm. Biểu thuế nhập khẩu hiện hành có 18 mức thuế suất khác
nhau, dài trải từ 0% đến 100%. Các mức thuế cao nhất (100%; 60%) áp dụng

chủ yếu cho rượi bia, quần áo cũ, ôtô, xe máy…; mức thấp nhất 0% áp dụng
cho những nhóm hàng thuộc hoá chất cơ bản, máy móc thiết bị, cây giống,
con giống…
Về quản lý giá hàng nhập khẩu: số lượng các mặt hàng thuộc diện nhà nước
quản lý giá ngày càng giảm. Hiện nay chỉ còn 15 mặt hàng, ngoài ra nhà nước
quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của
các doanh nghiệp FDI. Nhà nước tiến hành nới lỏng kiểm soát hành chính đối
với hoạt động xuất nhập khẩu và các biện pháp hạn chế số lượng. Nhà nước
đã bãi bỏ việc cấp giấy phép chuyển đổi đối với mọi hàng hoá không thuộc
diện quản lý của các bộ chuyên ngành, bên cạnh danh mục hàng hóa được
quản lý bằng hạn ngạch giảm. Hiện nay, danh mục hàng hoá thuộc quyền
quản lý của nhà nước bao gồm: hàng hoá cấm xuất khẩu (gồm 6 nhóm hàng );
cấm nhập khẩu (gồm 10 nhóm hàng); hàng hoá xuất khẩu theo hạn ngạch (2
nhóm mặt hàng ); hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch (9 nhóm mặt hàng ).
Có thể nói rằng trong thời gian qua, chính sách thương mại được cải tiến theo
hướng ngày càng đơn giản hơn, thông thoáng hơn đã có tác dụng thúc đẩy sản
xuất, làm cho xuất khẩu tăng nhanh, nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và
đời sống, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng qua các năm .
Đào Thị Lan-Kinh tế quốc tế K42

27


×