Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Luận văn một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.76 KB, 52 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Mục lục
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG..........................................4
I. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG GIỮA CÁC NƯỚC......................................................................4
1. KHÁI NIỆM XKLĐ........................................................................................................................................4
2. NGUYÊN NHÂN CỦA HOẠT ĐỘNG XKLĐ..............................................................................................4

II: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC XKLĐ TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU Á- THÁI BÌNH
DƯƠNG............................................................................................................................................5
1: TÌNH HÌNH XKLĐ TRÊN THẾ GIỚI........................................................................................................5
2: CÁC NƯỚC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG.............................................................................................6

CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XKLĐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................7
I: CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH XKLĐ Ở VIỆT NAM...........................................................7
II: TÌNH HÌNH XKLĐ Ở NƯỚC TA..........................................................................................10
1: TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ XKLĐ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ.........................................................10
2: XKLĐ NHỮNG NĂM 1980- 1990...............................................................................................................14
3:XKLĐ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY.................................................................................................................18

III: TÁC ĐỘNG CỦA XKLĐ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM..............................................27
1: TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC..............................................................................................................................27
2: TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC..............................................................................................................................32

IV: NHỮNG VẤN ĐỀ SAU XUẤT KHẨU.................................................................................34

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XKLĐ
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM.....................................................................................36


I: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ...............................................................................................................36
1: NGUỒN LAO ĐỘNG...................................................................................................................................36
2: THỊ TRƯỜNG..............................................................................................................................................40
3: QUẢN LÝ LAO ĐỘNG................................................................................................................................42
II: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...............................................................................................................................44
1: ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC VÀ CÁC BỘ NGÀNH LIÊN QUAN.....................................................................44
2: ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XKLĐ..................................................................................................47
3: ĐỐI VỚI CÁ NHÂN XUẤT KHẨU............................................................................................................48
4:ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN THÔNG TIN- TUYÊN TRUYỀN....................................................................49

KẾT LUẬN..........................................................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................51

1


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nước ta sau khi giành được độc lập, thống nhất Tổ Quốc (năm 1975) đã bắt tay ngay
vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
nền kinh tế nước ta vẫn kiên định phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội dưới hình
thức là phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay, dưới sự tác
động của toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước
chuyển mình để phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Trong nền kinh tế cũng xuất hiện
nhiều xu thế nổi bật, trong đó có xu thế đưa người đi lao động ở nước ngoài, xu thế này chỉ
mới được bắt đầu từ những năm 80, nhưng đến nay việc xuất khẩu lao động đã trở thành

một chủ trương lớn của nhà nước ta, nhằm giải quyết vấn đề lao động - việc làm và tăng
nguồn thu cho đất nước.
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là vấn đề bức thiết trong xã hội, nó có tác động đến đời
sống nhân dân cũng như đến nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu vấn đền XKLĐ sẽ giúp
hiểu rõ hơn về thực trạng di cư lao động nước ngoài và những lợi ích mà XKLĐ mang lại.
Như chúng ta đã biết hàng năm XKLĐ góp phần giải quyết một lượng lớn lao động dư
thừa, đặc biệt là lao động ở nông thôn với đặc điểm nổi bật là trình độ lao động thấp.Bên
cạnh đó nguồn thu nhập mà người tham gia XKLĐ gửi về hàng năm đã cải thiện đáng kể
đời sống cho gia đình họ về vật chất lẫn tinh thần, đây cũng là lực lượng có sự đóng góp
không nhỏ vào gia tăng GDP hàng năm của nước ta. Đi sâu vào tình hình XKLĐ chúng ta
còn thấy được những mặt trái của nó để từ đấy khắc phục, tránh vấp phải những sai lầm có
thể, đồng thời đưa ra được những kiến nghị để nâng cao chất lượng XKLĐ hơn. Mặt khác
giúp chúng ta có thể dự báo tình hình XKLĐ trong những năm tiếp theo. Để XKLĐ được
hoàn thiện hơn thì Đảng và Nhà nước nên có những chính sách bảo vệ người lao động như:
kí hợp đồng chặt chẽ, ngăn chặn nạn lừa đảo đi XKLĐ cũng như có những ưu ái đến người
lao động hơn trong việc loại bỏ bớt những thủ tục rườm rà trong vấn đề vay vốn đi XKLĐ.
Với những tác động to lớn như vậy thì xuất khẩu lao động cần được quan tâm, chú ý đến
như một hướng phát triển kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế chung của
đất nước.
Hơn nữa, nước ta với đặc điểm là một nước đông dân, vì thế nguồn lao động nước ta
phần nào chiếm ưu thế hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để tranh thủ sự
thuận lợi này thì nước ta cần chú trọng phát triển lực lượng lao động và hoạt động xuất
khẩu lao động ra nước ngoài.
Hiện nay xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt
Nam, vấn đề hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu. Việt Nam phải hội nhập trên mọi lĩnh vực,
khi đẩy manh xuất khẩu lao động, Việt Nam cũng đã rút ngắn khoảng cách hội nhập với
lao động trong khu vực và trên thế giới, góp phần hội nhập toàn nền kinh tế.

2



Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Như vậy xét cả tầm nhìn vi mô và vĩ mô thì vấn đền xuất khẩu lao động của Việt Nam
không phải là một vấn đề mới, nhưng hiện nay nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc
thực hiện những mục tiệu quan trọng của đất nước như: Giảm thất nghiệp, xóa đói giảm
nghèo, tăng trưởng kinh tế…Vì vậy xuất phát từ thực trạng và tình hình đó chúng em đã
nghiên cứu và tiến hành viết đề tài” MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM”

2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
Như đã trình bày ở trên, xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế, tự bản thân nó là một vấn đề phức tạp, phụ thuộc nhiều yêu tố như: Chính sách lao
động, công tác quản lý, đào tạo lao động…Vì vậy đề tài này chủ yếu đi sâu tìm hiểu kỹ về
vấn đề thực trạng hoạt động trong và sau xuất khấu . Thông qua đó nêu lên xu thế vận
động của xuất khẩu lao động, những mặt tích cực và tiêu cực của nó và đưa ra một số giải
pháp dể khắc phục những hạn chế, nhằm tăng hiệu quả và những đóng góp của xuất khẩu
lao động vào sự phát triển kinh tế nước nhà.
Bằng phương pháp tiến hành điều tra đối tượng trên cơ sở tập hợp thu thập thông tin,
phương pháp thống kê, tính toán. Chúng tôi đã đưa ra những vấn đề cơ bản của XKLĐ với
những số liệu cụ thể về cơ cấu XKLĐ (cơ cấu thị trường, cơ cấu nghề, cơ cấu giới tính…)
và XKLĐ với những nội dung chủ yếu sau.
- Chương 1: Những vấn đề lý thuyết về xuất khẩu lao động
- Chương 2: Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở Việt Nam hiện nay
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Đề tài nghiên cứu gặp rất nhiều khăn khó trong vấn đề điều tra vì lao động xuất khẩu
sau khi trở về nước không tập trung ở một chỗ.Dù đã có rất nhiều cố gắng,song bài viết
không thể không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định,mong được sự đóng góp nhiệt

tình và chỉ bảo cụ thể của những người cùng quan tâm.
Qua đây chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến cô VŨ THỊ MAI đã giúp
đỡ và hướng dẫn chúng em hoàn thành tốt đề tài này.Đồng thời chúng em xin gửi lời cám
ơn chân thành đến các đối tượng điều tra đã giúp chúng em tìm kiếm thông tin quý báu.
Xin cám ơn.

3


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
I. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG GIỮA CÁC NƯỚC
1. KHÁI NIỆM XKLĐ
Xét về nguồn gốc của xuất khẩu lao động, XKLĐ bắt nguồn từ hình thức di cư lao
động quốc tế.
Di cư lao động quốc tế là di chuyển lao động từ nước này sang nước khác với mục
đích tìm việc làm, tiền lương cao và cuộc sống tốt hơn.
Di cư lao động quốc tế thường được thực hiện dưới 2 hình thức chủ yếu: Không chính
thức và chính thức.
Hình thức di cư lao động không chính thức (hay còn gọi là di cư lao động không theo
hợp đồng) là người lao động tự tìm cách ra nước ngoài để kiếm việc làm. Việc di cư này
thường được thực hiện bởi các tổ chức buôn lậu người hoặc qua con đường du lịch, thăm
thân nhân, du học…Sau đó ở lại nước sử dụng lao động. Do đó hình thức di cư này là bất
hợp pháp. Di cư lao động bằng con đường này không phải qua các thủ tục phức tạp của
việc xuất cảnh, nhập cảnh và đáp ứng yêu cầu thời gian của thị trường việc làm nên số
lượng lao động di cư bất hợp pháp lớn.
Hình thức di cư lao động chính thức (di cư lao động theo hợp đồng) là việc xuất khẩu

lao động thông qua các chính phủ, các tổ chức kinh tế hoặc các pháp nhân, các nhân dưới
sự đồng ý của chính phủ các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu lao động. Hình thức di cư
này là hợp pháp, do đó ngày càng tăng về số lượng và chủng loại.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, xuất phát từ nước xuất khẩu
cũng như nhập khẩu thì hình thức di cư lao động chính thức ngày càng phát triển, mà biểu
hiện nổI bật chính là hoạt động XKLĐ của các nước. Trong tình hình mới XKLĐ cũng
được hiểu theo đầy đủ nghĩa của nó. Ta có thể nói: Xuất khẩu lao động là hoạt động của
các chính phủ, tổ chức kinh tế, xã hội, các tổ chức pháp nhân nhằm đưa những người lao
động của nước mình đến tham làm việc tại những nước có nhu cầu về lao động nước ngoài
(gọi là nước XKLĐ và nước NKLĐ), nhằm đạt được những mục đích kinh tế, chính trị, xã
hội nhất định, dưới sự hợp tác, đồng ý của chính phủ cả hai nước XKLĐ và NKLĐ.
2. NGUYÊN NHÂN CỦA HOẠT ĐỘNG XKLĐ
Nguyên nhân tạo ra hoạt động XKLĐ có nhiêu nguyên nhân, nguyên nhân đó xuất
phát từ vấn đề lịch sử, vấn đề văn hóa, chính trị, xã hội…Nhưng nguyên nhân quan trọng
tác động mạnh mẽ đến hoạt động XKLĐ đó là xuất phát từ nguyên nhân kinh tế của cả
nước XKLĐ và nước NKLĐ.

4


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Trước hết, xuất phát từ lợi ích thu được của nước XKLĐ như: XKLĐ giúp giải quyết
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cả về vật chất và tinh
thần của người tham gia XKLĐ. Đây là một bộ phận có đóng góp quan trọng, chiếm tỷ lệ
lớn trong việc thu hút nguồn ngoại tệ, đóng góp lớn vào nguồn ngân sách quốc gia. Bên
cạnh đó XKLĐ còn giúp các nước tham gia tăng cường quan hệ ngoại giao của mình với
các nước khác, trên cơ sở đó phát triển một mối quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị, đôi

bên cùng có lợi.
Ngoài ra, sự mất cân đối giữa cung và cầu về việc làm trong mỗi quốc gia cũng là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến XKLĐ quốc tế. Tại một số nước phát triển có tỷ lệ tăng
dân số hàng năm cao, nguồn nhân lực dồi dào trong khi sản xuất trong nước còn chậm phát
triển, chưa thu hút được nhiều lao động. Do đó sức ép về việc làm tăng lên, đòi hỏi chính
phủ phải tìm đầu ra cho lượng lao động dư thừa để giảm tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc làm. Trong khi đó có nhiều nước đất rộng, người thưa, tài nguyên thiên nhiên phong
phú, mức tăng dân số tự nhiên thấp nên có nhu cầu về lao động. Đặc biệt là xu hướng
XKLĐ tập trung vào các nước có mức thu nhập cao, yêu cầu không quá khắt khe.
Tiếp theo, chính là do sự phát triển của nền thương mại quốc tế, mà đặc biệt là sự phát
triển của các doanh nghiệp XKLĐ. Những doanh nghiệp này ngày càng phát triển cả về
quy mô, chất lượng và số lượng, xâm nhập rộng ra khắp thị trường quốc tế. Đây chính là
những tổ chức trung gian, giúp xúc tiến nhanh hơn hoạt động XKLĐ, cũng như giảm bớt
chi phí về thời gian, tài chính, tránh những thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà.
Cuối cùng, do khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đổi mới và ngày càng phát triển trên
toàn thế giới. Nhiều quốc gia có nền khoa học công nghệ tiên tiến cần nhiều lao động có
tay nghề cao để đáp ứng nhu cầu sử dụng những thành tựu khoa học và công nghệ đó.
II: TÌNH HÌNH TỔ CHỨC XKLĐ TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU ÁTHÁI BÌNH DƯƠNG
1: TÌNH HÌNH XKLĐ TRÊN THẾ GIỚI
XKLĐ là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội cao. Vì vậy rất nhiều nước trên thế
giới tham gia XKLĐ. Chính phủ nhiều nước coi XKLĐ là chiến lược, là quốc sách lâu dài
nên đều có chương trình quốc gia về XKLĐ, coi đây là công việc thường xuyên của xã hội
và cũng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, kể cả hình thức di dân, đi
thăm thân nhân, tự tìm việc làm ở nước ngoài. Như vậy XKLĐ đã mang tính xã hội hóa rất
cao. Tất nhiên có nước chỉ nhập và có nước chỉ xuất, và cũng có một số nước vừa nhập
vừa xuất khẩu lao động. Hoạt động XKLĐ trên thế giới, hay còn gọi là “di dân lao động
quốc tế” đã diễn ra nhiều thập kỷ nay, nhưng có xu hướng ngày càng tăng ở mấy thập kỷ
gần đây và sẽ còn tiếp tục tăng nhiều hơn nữa trong những năm tới. Theo tổ chức lao động
thế giới (ILO) hiện nay có khoảng hơn 60 nước có di dân và đi lao động làm việc tại các
nước khác với gần 120 triệu người, trong đó các nước Châu Á chiếm 50% trong tổng số.

Tất cả các quốc gia tham gia XKLĐ đều nhận thức được vai trò của XKLĐ trong chiến

5


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

lược phát triển của mình do đó họ đã xây dựng một hệ thống chính sách, luật lệ, quản lý
nhà nước nhằm tăng cường XKLĐ trên quy mô lớn.
2: CÁC NƯỚC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG
Tình hình hoạt động XKLĐ ở các nước này ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Bởi lẽ,
về mặt địa lý, các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương ở gần Việt nam, bên cạnh đó lại có
sự tương đồng về khí hậu, phong tục tập quán, lối sống…Các nước trong khu vực Châu Á
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia…đã và đang nhập khẩu lao động Việt Nam trên nhiều
lĩnh vực, mang nhiều hình thức. Đồng thời họ cũng nhận lao động của các nước khác như:
Trung Quốc, Thái Lan, Philipin…cho nên sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động
không thể tránh khỏi. Các nước XKLĐ đều phát huy hết lợi thế của mình, khiến cho hình
thức và cách tiến hành XKLĐ hết sức đa dạng, phong phú. Một số nước yêu cầu nhập khẩu
lao động có trình độ cao, một số nước lại có nhu cầu sử dụng lao động dịch vụ, nhất là lao
động giúp việc gia đình, lao động giản đơn…Một số nước Châu Á vừa có chính sách nhập
khẩu và xuất khẩu lao động, nhập lao động của nước này rồi lại xuất lao động của mình
sang nước khác, tạo nên thị trường lao động thật sôi động nhưng cũng nhiều vấn đề mới
phát sinh. Ví dụ: Thái Lan cho phép hàng chục ngàn dân Myanmar sang làm thuê cho nông
dân Thái Lan, trong khi đó nông dân Thái Lan tràn vào thành phố tìm việc, còn dân thành
thị lại đi tìm việc ở nước ngoài có thu nhập cao hơn. Nhiều sinh viên, thanh niên Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan sang Mỹ, Newzeland, Úc để du học và tìm việc trong khi đất nước họ
lại tiếp nhận nhiều lao động của các nước khác đến làm việc.
Các nước ở khu vực Thái Bình Dương, chủ yếu là có nhu cầu nhập khẩu lao động ở

một số ngành may mặc, xây dựng, lao động giản đơn…Tuy nhiên việc sử dụng lao động
cũng gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt phong tục tập quán, bất đồng ngôn ngữ…

6


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN XKLĐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I: CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH XKLĐ Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một nước ở khu vực Đông Nam Á với đặc điểm xã hội là một nước nông
nghiệp với số dân đông đúc. Theo thống kê, trung bình năm 2007 dân số nước ta khoảng
84,089 triệu người mà với diện tích đất nước chỉ có khoảng 331.000 km 2, mà đại bộ phận
nhân dân sống ở nông thôn và làm nông nghiệp (hơn 70%) (theo số liệu thống kê của bộ
LĐ – TB – XH). Với đặc điểm như vậy nước ta luôn đứng trước tình thế: tỷ lệ thất nghiệp
và thiếu việc làm cao, hàng năm lại có thêm hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động. Đặc
biệt trong xu thế phát triển kinh tế toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay, đòi hỏi nước ta
phải sắp xếp lại cơ cấu, tổ chức sản xuất vì vậy lượng lao động dư thừa ngày càng cao.
Đứng trước những thách thức khó khăn như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ
trương cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, là đẩy mạnh xuất khẩu lao động và
chuyên gia, và xác định đây là một chiến lược phát triển lâu dài – quan trọng trong phát
triển kinh tế.
Sớm nhân thức được tầm quan trọng của việc xuất khẩu lao động và chuyên gia, ngay
từ những năm 80 vấn đề này đã được Bộ chính trị và Chính phủ đưa ra những quyết định,
nghị định và chỉ thị rất quan trọng:
Quyết định của Hội đồng chính phủ số 46/CP ngày 11/12/1980 viết: “Trước yêu cầu,
nhiệm vụ mới của cách mang nước ta là đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng một đội ngũ
công nhân lành nghề và cán bộ kĩ thuật, nghiệp vụ, quản lý giỏi, phù hợp với nhiệm vụ xây

dựng và phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, đi
đôi với việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước, Hội đồng chính phủ chủ
trương đưa một bộ phân công nhân và cán bộ đang công tác ở các xí nghiệp cơ quan nhà
nước sang các nước XHCN…”. Quyết định này là chủ trương về việc đưa công nhân và
cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao trình độ và việc làm có thời hạn tại các nước XHCH, thực
hiện quyết định này nhà nước ta đã thu được một số kết quả nhất định.
Cùng năm 1980, Hội đồng chính phủ đã phê duyệt Nghị quyết số 362/CP ngày
29/11/1980 về việc sử dụng lao động với các nước XHCN, xác định 2 mục tiêu hợp tác lao
động là: giải quyết việc làm cho một bộ phận thanh niên, bồi dưỡng đào tạo một đội ngũ
lao động có tay nghề vững vàng, đáp ứng được yêu cầu phát triển nền kinh tế nước ta sau
này.
Đến năm 1983 – 1984, Chính phủ chủ trương tiếp tục đưa lao động đi làm việc ở các
nước ngoài hệ thống XHCN, mở rộng thị trường sang các nước Irắc, angeri.
Tháng 12/1986. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định “mở rộng việc đưa lao
động ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của
chương trình lao động nói chung”. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, từ năm
1987 chính phủ đã cho phép ký các hiệp định, nghị định thư đưa hàng chục vạn lao động đi

7


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Liên Xô, Đông Âu, LiBi, Irắc, đồng thời để phát triển thêm loại hình mới về XKLĐ, chính
phủ đã có Quyết định số 398/CT ngày 26/12/1987 giao cho bộ xây dựng chủ trì hợp tác lao
động kĩ thuật xây dựng với nước ngoài, nhằm tổ chức lực lượng xây dựng đồng bộ đi nhận
thầu ở nước ngoài và ban hành chỉ thị số 108/HĐBT ngày 30/06/1988 cho phép mở rộng
hợp tác lao động và chuyên gia với nước ngoài theo các hình thức hợp tác trực tiếp.

Ngày 22/09/1998, Bộ chính trị ban chấp hành trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số
41-CT/TW về xuất khẩu lao động và chuyên gia khẳng định: xuẩt khẩu lao động và chuyên
gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc
làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại
tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước khác.
Chủ trương về XKLĐ đã được quy định trong bộ luật lao động được Quốc hội thông
qua năm 1994, Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua năm 2002.
Chính phủ đã cụ thể hóa Bộ luật lao động về xuất khẩu lao động bằng việc ban hành các
nghị định số 07/CP ngày 20/01/1995 và nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999
sau đó chính phủ đã ban hành nghị định số 81/2003 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Bộ luật lao động về người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài. Đến năm 2005,
Nghị định 141/2005/NĐ-CP được ban hành về việc quản lí lao động Việt Nam làm việc ở
nước ngoài. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ( Luật
XKLĐ) đã được ban hành năm 2006 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/07/2007.
Trong năm 2007 Cục Quản lý Lao động Ngoài nước và Trung tâm Lao động Ngoài nước
đã soạn thảo 18 văn bản hướng dẫn thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, trong đó có 2 nghị định của Chính phủ, 1 quyết định của thủ
tướng Chính phủ, 5 thông tư liên tịch và 8 quyết định của Bộ; đến nay đã trình các cấp có
thẩm quyền ban hành được 11 văn bản chủ yếu, 7 văn bản đang được hoàn thiện để trình
ban hành trong quý I năm 2008.
Bên cạnh việc đề ra những chủ trương để nhằm chỉ đạo hướng dẫn việc thực hiện
XKLĐ. Nhà nước ta cũng nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý và ra nhiều chính
sách nhằm quy định, bảo vệ về lợi ích của những người tham gia XKLĐ cũng như hỗ trợ
họ trong những vấn đề: nguồn kinh phí đi lại, đào tạo, ứng trước.
XKLĐ giải quyết khó khăn về việc làm cho một bộ phận cán bộ, công nhân viên chức
trong cơ quan nhà nước, trong các DN và một bộ phận thanh niên ngoài xã hội. Đặc biệt
chú ý đến các đối tượng chính sách, bộ độ phục viên, xuất ngũ. Song song với việc giải
quyết việc làm là tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho bản thân người lao động và gia đình họ.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài trước năm 1991 được nhà nước bao cấp

bằng nguồn kinh phí ngân sách. Thực hiện chủ trương đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật
để sau này về xây dựng đất nước, chính phủ đã đầu tư ngân sách cho sự nghiệp XKLĐ từ
khâu tuyển chọn đến tổ chức đưa đi, quản lý lao động ở nước ngoài và đưa họ về nước. Từ

8


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

năm 1991 đến nay theo cơ chế mới, người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải tự trang
trải một phần chi phí về làm hồ sơ, khám sức khỏe, hộ chiếu, visa…và nộp cho doanh
nghiệp đưa đi một khoản phí dịch vụ.
Các hiệp định và nghị định thư trước năm 1991 đã quy định cụ thể các chính sách, chế
độ cho người lao động. Trong thời gian làm việc ở nước ngoài, người lao động được hưởng
mọi quyền lợi như công dân sở tại, được nhà nước bảo hộ quyền lợi, đồng thời người lao
động có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội và đóng góp xây dựng Tổ Quốc.
Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ người lao động như: Quyết định số
26/2005/QĐ-BTC ngày 13/05/2005 về việc ban hành quy chế tài chính về quản lý, sử dụng
quỹ hỗ trợ XKLĐ nhằm hỗ trợ về tài chính cho những người muốn làm việc ở nước ngoài
nhưng không đủ kinh phí dưới hình thức cho vay với lãi suất thấp; quyết định 114 của thủ
tướng chính phủ ngày 31/08/2007 về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ việc
làm ngoài nước; rồi ban hành chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa mà người
lao động mang về nước, khuyến khích lao động mang ngoại tệ về nước, giải quyết chế độ
trợ cấp thôi việc theo chính sách mới quy định riêng cho lao đông đã làm việc ở nước
ngoài.
Như vậy, trong xu thế phát triển kinh tế mới hiện nay thì Đảng và Nhà nước ta cũng
ngày càng cải thiện, đổi mới để ngày càng hoàn chỉnh hệ thống cơ chế chính sách để đảm
bảo công bằng và có lợi nhất cho những người làm việc ở nước ngoài, qua đó cũng khuyến

khích nhiều người tham gia vào việc XKLĐ (đặc biệt là lao động nhàn rỗi) để từ đó cải
thiện đời sống nhân dân, thực hiện được mục tiêu kinh tế của nhà nước.

9


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

II: TÌNH HÌNH XKLĐ Ở NƯỚC TA
1: TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ XKLĐ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ

10


Bộ ngành liên quan

ti nghiờn cu khoa hc

H ni- 2008

Bộ ngoạigiao
Bộ tài chính
Bộ công an
Bộ y tế
Bộ KH&ĐT
Bộ TM&NH

Bộ lao động- thơng binh XH


Bộ VHTT

Sở tài chính

Bộ t pháp

Sở LĐTBXH
Sở công an

UBND các
tỉnh

Sở KHĐT
NHNN tỉnh
Sở VHTT
Sở t pháp
Phòng quản lý

Cục quản lý
lao động
ngoài nớc

Phòng CSLĐ
Phòng TTLĐ

11


ti nghiờn cu khoa hc


H ni- 2008

Theo điều 18 nghị định số 152/CP/1999/NĐ-CP quy định B Lao ng - Thng
binh v Xó hi cú trỏch nhim :
1. m phỏn, ký kt cỏc Hip nh Chớnh ph v hp tỏc s dng lao ng vi nc
ngoi theo y quyn ca Th tng Chớnh ph;
2. Xỏc nh ch tiờu k hoch hng nm v 5 nm v a lao ng i lm vic nc
ngoi; phi hp vi cỏc B, ngnh, on th trung ng v a phng ch o thc hin;
3. Nghiờn cu cỏc chớnh sỏch, ch liờn quan n vic a ngi lao ng Vit Nam
i lm vic cú thi hn nc ngoi trỡnh Chớnh ph ban hnh hoc ban hnh theo thm
quyn v hng dn thc hin cỏc chớnh sỏch, ch ú;
4. Nghiờn cu th trng lao ng ngoi nc v quy nh cỏc iu kin lm vic, sinh
hot cn thit cho ngi lao ng, quy nh cỏc danh mc cỏc ngh cm, cỏc khu vc cm
a lao ng Vit Nam i lm vic nc ngoi;
5. Hng dn cụng tỏc bi dng ngh, to ngun lao ng i lm vic nc ngoi;
quy nh cỏc chng trỡnh o to, giỏo dc nh hng cho ngi lao ng trc khi i
lm vic nc ngoi. Thnh lp cỏc trung tõm quc gia o to ngun lao ng cú k
thut, tay ngh cao v ngoi ng ỏp ng yờu cu ca th trng lao ng ngoi nc;
6. Cp, ỡnh ch v thu hi giy phộp hot ng chuyờn doanh, nhn ng ký hp
ng v thu l phớ, phớ qun lý theo quy nh;
7. T chc cụng tỏc thanh tra, kim tra cỏc c quan v doanh nghip cú liờn quan n
vic thc hin a ngi lao ng Vit Nam i lm vic nc ngoi; tm ỡnh ch hoc
ỡnh ch thc hin hp ng theo quy nh ti khon 3 iu 6 v khon 3 iu 24 ca
Ngh nh ny;
8. nh k bỏo cỏo vi Th tng Chớnh ph v tỡnh hỡnh lao ng Vit Nam lm vic
cú thi hn nc ngoi;
9. Phi hp vi B Ngoi giao v cỏc B, ngnh cú liờn quan gii quyt cỏc vn
phỏt sinh trong vic qun lý ngi lao ng Vit Nam lm vic nc ngoi ;
10. Phi hp vi B Ngoi giao v Ban T chc - Cỏn b Chớnh ph nghiờn cu t

chc b phn qun lý lao ng trong c quan i din Vit Nam nhng nc v khu vc
cú nhiu lao ng Vit Nam lm vic hoc cú nhu cu v kh nng nhn nhiu lao ng
Vit Nam vi s lng biờn ch, chc nng, nhim v v quyn hn phự hp vi Phỏp lnh
v c quan i din nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam nc ngoi.
Theo điều 19: Nghị định số 152/1999/NĐ- CP quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên liên quan nh sau
1. B Ti chớnh ch trỡ phi hp vi B Lao ng - Thng binh v Xó hi quy nh
chi tit vic thu v s dng l phớ, phớ qun lý v phớ dch v; mc v th thc gi tin t
cc ca ngi lao ng.

12


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

2. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện quản lý Nhà nước đối với lao
động Việt Nam ở nước sở tại; thông qua Bộ Ngoại giao cung cấp kịp thời cho Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thông tin về tình hình thị trường lao động ngoài nước và tình hình
người lao động Việt Nam ở nước sở tại; liên hệ với các cơ quan chức năng của nước sở tại
để giúp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thiết lập quan hệ hợp tác sử dụng lao động;
phối hợp với các tổ chức, cơ quan hữu quan của nước sở tại và các tổ chức quốc tế để giải
quyết các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động và của
doanh nghiệp Việt Nam.
3. Bộ Công an trong phạm vi trách nhiệm của mình phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội trong việc quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tạo
điều kiện để người lao động được cấp hộ chiếu một cách thuận lợi theo quy định của pháp
luật, đáp ứng yêu cầu về thời gian thực hiện hợp đồng với bên nước ngoài.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa
nội dung hợp tác lao động với nước ngoài vào các kế hoạch phát triển kinh tế đối ngoại,

các chương trình hợp tác quốc tế, cùng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định chỉ
tiêu kế hoạch về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hàng năm, 5 năm.
5. Bộ Thương mại và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu trình Chính phủ ban
hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các chính sách tạo điều kiện để người lao động và
doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thực hiện
các quyền quy định tại khoản 3 Điều 8, khoản 1 Điều 10 và Điều 17 của Nghị định này.
Và theo điều 20, Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương các Đoàn thể, ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm :
1. Thống nhất với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định số lượng các
doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý được phép đưa người lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật.
2. Chỉ đạo, quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động của các doanh nghiệp đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài thuộc phạm vi quản lý, đồng thời phối hợp với các Bộ,
ngành có liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh;
3. Báo cáo tình hình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của các doanh
nghiệp thuộc phạm vi quản lý; lập kế hoạch hàng năm, 5 năm về việc đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp báo cáo Chính
phủ.
Ngoài ra theo điều 20 : Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan quy
định chi tiết việc người lao động thuộc các đối tượng chính sách có công với nước và
người lao động nghèo được vay tín dụng để nộp tiền đặt cọc và lệ phí trước khi đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài.

13


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008


Và theo điều21: Trong trường hợp bất khả kháng phải khẩn cấp đưa người lao động
Việt Nam về nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài có trách nhiệm chỉ đạo doanh nghiệp tổ chức đưa người lao động về nước;
trường hợp vượt quá thẩm quyền và khả năng thì cơ quan chủ quản phối hợp với Bộ Ngoại
giao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính lập phương án trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
Những năm gần đây, cùng với đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, công tác XKLĐ
cũng đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Quy mô XKLĐ hàng năm liên tục gia tăng
với tốc độ nhanh. Năm 2007, số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài đạt đến con số
85.020 người vượt 6.3% kế hoạch năm, so với nhiều quốc gia khác thì con số này là khiêm
tốn song tự bản thân nó đã minh chứng cho những nỗ lực của các ngành các cấp, các doanh
nghiệp XKLĐ. Bên cạnh đó, hiện vẫn còn tồn tại hạn chế trong công tác quản lý hoạt động
XKLĐ, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng XKLĐ.
Trước hết là về công tác quản lý XKLĐ trong nước vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém.
Doanh nghiệp không đủ năng lực khai thác thị trường, tuyển dụng và đào tạo lao động. Đã
có những hợp đồng ký kết với nội dung không chặt chẽ gây bất lợi cho người lao động.
Hợp đồng tuyển dụng lao động chưa được thực hiện đồng bộ, việc thực hiện hợp đồng còn
bị buông lỏng: Có trường hợp lao động không được làm việc theo đúng hợp đồng, trường
hợp lao động Việt Nam bị hành hung. Tất cả nhưng rủi ro, thiệt thòi đó của người lao động
Việt Nam ở nước ngoài có thể ngăn chặn và xử lý kịp thời nếu như công tác quản lý lao
động được thực thi tốt tại nước ngoài. Hiện tại Việt Nam mới chỉ có 5 cơ quan đại diện về
vấn đề XKLĐ ở Nga, Cộng Hòa Séc, Đức, Hàn Quốc và Đài Loan. Còn ở các thị trường
khác thì người lao động bị phó mặc cho doanh nghiệp các nước sở tại. Thực tế ở Việt Nam
hiện nay, những vụ lừa đảo trong XKLĐ diễn ra rất phức tạp gây tâm lý hoang mang của
người lao động khi có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài. Đây chính là khuyết điểm
trong công tác quản lý XKLĐ.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được hoạt động XKLĐ của nước ta hiện nay đang
bộc lộ một số vấn đề cần giải quyết để có thể tạo dựng một hình ảnh lành mạnh về lao
động Việt Nam. Đó là vấn đề lao động Việt Nam tự ý phá vỡ hợp đồng, trốn khỏi nơi làm

việc để ra làm ăn bên ngoài với hy vọng có thu nhập cao hơn. Trong thời gian gần đây, vấn
đề bỏ trốn đang diễn biến phức tạp, Tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn cao nhất là ở Nhật
Bản (chiếm 30-40%), tiếp đến là Hàn Quốc (25-30%), tại Đài Loan là 9%, trên thực tế con
số này còn cao hơn. Điều này đã tác động xấu đối với hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trang trên, trong đó phải kể đến nguyên nhân cơ bản là
công tác giáo dục, định hướng người lao động đi xuất khẩu còn yếu kém. Nhiều doanh
nghiệp quá thiên về tuyển dụng và tăng nhanh số lượng lao động xuất cảnh vì lợi nhuận
kinh tế mà không chú ý đến chất lượng lao động và vấn đề giáo dục ý thức. Thậm chí có
những đơn vị còn phó mặc cho đối tác Đài Loan tự thực hiện toàn bộ việc tuyển lao động
xuất cảnh, doanh nghiệp này chỉ cung cấp giấy phép. Một nguyên nhân khác là ngay bản

14


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

thân các chế tải xử phạt hiện tại với việc lao động bỏ trốn chưa đủ mạnh để răn đe người
lao động. Nhiều khi các văn bản này lại nhằm vào các doanh nghiệp XKLĐ, cho rằng việc
lao động bỏ trốn là lỗi của doanh nghiệp chứ không phải lỗi của người lao động.
Qua nhìn nhận đánh giá trên, ta thấy công tác quản lý trong hoạt động XKLĐ là một
vấn đề khó khăn phức tạp vì nó liên quan tới nhiều phía. Việc đảm bảo đầy đủ quyền và
nghĩa vụ chính đáng của người lao động phải được quan tâm hơn nữa. Công tác quản lý là
một nhiệm vụ đóng vai trò then chốt trong toàn bộ các khâu của qua trình XKLĐ, vấn đề
quản lý có hiệu quả cao sẽ là động lực mạnh mẽ thu hút ngày càng nhiều lao động tham
gia, tạo được uy tín của XKLĐ Việt Nam trên trường quốc tế. Vì vậy vấn đề này càng cần
sự quan tâm chỉ đạo cương quyết hơn nưa của Đảng và Nhà nước để ngày càng phát triển
chất lượng của XKLĐ.
2: XKLĐ NHỮNG NĂM 1980- 1990

XKLĐ những năm 1980 – 1990 được thực hiện thông qua việc ký kết các hiệp
định hợp tác về lao động giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, trên
tinh thần hợp tác hữu nghị và cùng giúp đỡ lẫn nhau. Ta giúp bạn giải quyết những khó
khăn về thiếu hụt lao động, bạn giúp ta tạo việc làm, thu nhập và rèn luyện tay nghề cho
người lao động, vừa đồng thời giải tỏa bớt những khó khăn về tài chính cho chính phủ
trong chi tiêu và trả nợ.
Mục tiêu XKLĐ của Việt Nam trong giai đoạn này không phải đặt hiệu quả kinh tế
lên hàng đầu mà chỉ nhằm giải quyết vấn đề việc làm và đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn người lao động, có thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm bù đắp
một phần những thiếu hụt trong nước và nợ đến hạn.
Trong vòng 10 năm 1980 – 1990 nước ta đã đưa được 277.183 người đi lao động có
thời hạn ở nước ngoài, bình quân mỗi năm có trên 2.7 vạn người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Đây là giai đoạn có quy mô lao động đi làm việc ở nước ngoài có quy
mô tương đối lớn. Nhưng nó cũng mang những đặc trưng nhất định trong cơ cấu thị
trường, ngành nghề, giới tính…
Về thị trường, trong giai đoạn này nước ta chủ yếu đưa lao động sang Liên Xô và các
nước Đông Âu. Ngày 01/02/1980, chính phủ đã ra quyết định số 46-CP chủ trương đưa
một bộ phận lao động, kỹ thuật đi làm việc và bồi dưỡng tay nghề ở các nước XHCN. Sau
đó các hiệp định về hợp tác lao động lần lượt được ký với các nước: CHDC Đức
(14/04/1980), Bungari (03/10/1980) và Tiệp Khắc (27/11/1980).
Nước

Liên Xô

CHDC

Bungari

72.786


35.099

Đức
Người

112.338

Tiệp
Khắc
37.659

Bảng 1: Cơ cấu thị trường XKLĐ trong giai đoạn 1980 - 1990

15

Tổng số
257.880


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Ngoài thị trường chủ yếu là Liên Xô và Đông Âu, trong giai đoạn này Việt Nam còn
ký hiệp định chính phủ về hợp tác chuyên gia với một số nước Châu Phi. Trong tổng số
277.183 người đi lao động ở giai đoạn này chủ yếu ở Liên Xô và Đông Âu là 257.880
người chiếm 93% trong đó Liên Xô chiếm số lượng lớn 112.338 người, còn lại phân bổ ở
các nước như: CHDC Đức 72.186 người, Bungari 35.099 người, Tiệp Khắc 37.659 người.
Số còn lại được phân bổ ở các nước Irắc, Angieri, Cônggô (19.301 người). Trong đó riêng
Irắc đã chiếm 16.408 người.

Về giới tính, trong giai đoạn này tỷ lệ lao động Nam chiếm tỷ trọng cao, trung bình
trong cả giai đoạn là lao động Nam chiếm 61,6% với số lượng là 148.063 người trong tổng
số 240.301 người, trong khi đó lao động nữ chỉ có 92.238 người chiếm 38,4%. Nhìn chung
qua các năm tỷ lệ lao động nữ đều thấp hơn nam, dao động từ 27,6% đến 60,7%. Năm cao
nhất là năm 1985 chiếm 60,7% với lượng người 3.040 người. Đây cũng là một đặc trưng
cơ bản của giai đoạn này, nguyên nhân là do yếu tố chủ quan là lao động nữ còn nhiều ràng
buộc về gia đình, sức khỏe, trình độ nên tỷ lệ đi lao động nước ngoài không cao. Bên cạnh
đó còn có tác động do nhu cầu nghề nghiệp chủ yếu là các công việc nặng nhọc như: đánh
cá, xây dựng…Ngược lại, những đặc điểm này lại phù hợp với lao động là nam giới. Vì
vậy trong giai đoạn này ta thấy chủ yếu là lao động là nam giới tham gia XKLĐ. Chúng ta
thấy rõ điều này qua bảng 2, thể hiện đầy đủ cơ cấu giới tính biến động cụ thể qua các
năm.
Năm

Tổng số

Nam

Nữ

Số
lượng

%

Số
lượng

%


1980

1.570

979

62.4

592

37.6

1981

20.230

14.644

72.4

5.586

27.6

1982

25.970

17.794


68.5

8.176

31.5

1983

12.402

7.768

62.6

4.634

37.4

1984

4.489

2.918

65.0

1.571

35.0


1985

5.008

1.968

39.3

3.040

60.7

1986

9.012

5.907

65.5

3.105

34.5

1987

46.098

22.161


48.1

23.937

51.9

1988

71.835

46.198

64.3

25.637

35.7

1989

40.618

25.608

63.0

15.010

37.0


1990

3.069

2019

65.8

1.050

34.2

Tổng

240.301

148.063

92.238

(1)
Bảng 2: Cơ cấu giới tính XKLĐ trong giai đoạn 1980 – 1990

16


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008


( không bao gồm 7.200 chuyên gia và gần 24.000 thực tập sinh, học nghề tại các nước
Đông Âu.)
Nguồn: Một số điều cần biết về xuất khẩu lao động – NXB Thanh niên 2003.
Trong giai đoạn này ta thấy một đặc trưng nổi bật nữa là: Đối tượng đưa đi XKLĐ
chủ yếu là: Bộ đội phục viên, đây là lực lượng chiếm tỷ trọng lớn, vì trong những năm
chiến tranh nước ta đã huy động một số lượng lớn người tham gia vào quân đội để phục vụ
cuộc chiến tranh vệ quốc. Vì vậy sau chiến tranh yêu cầu giải quyết việc làm cho lực lượng
này là một yêu cầu cấp bách. Tiếp theo là những lao động trong khu vực nhà nước thuộc
diện giảm biên và số thanh niên mới bước vào tuổi lao động – là con em của những đối
tượng được ưu tiên (con thương binh liệt sỹ, anh hùng lực lượng vũ trang, gia đình có công
với cách mạng). Đây chủ yếu là nguồn đáp ứng những nhu cầu lao động không cần tay
nghề, chuyên môn kỹ thuật, chủ yếu là lao động phổ thông.
Còn để đáp ứng về cầu lao động trong khu vực II thì nguồn của nước ta chủ yếu tuyển
chọn những lao động có tay nghề, có kinh nghiệm, đã làm việc lâu năm trong nghề.
Hình thức hợp tác lao động chủ yếu là làm xen ghép trong dây chuyền sản xuất với lao
động nước bạn. Những năm 1983, 1984 có thêm hình thức nhận thầu công trình và hợp tác
trực tiếp giữa các bộ, các ngành và các địa phương kết nghĩa của hai nước với nhau (Hà
Nội – Matxcơva, Nghệ Tĩnh – Ulianop…). Lao động Việt Nam thường được tổ chức thành
các đội (40 – 50 người), có một đội trưởng và phiên dịch phụ trách. Trên cấp quản lý đội
lao động, có cán bộ quản lý vùng, quản lý khu, quản lý chung về mặt nhà nước đối với
LĐXK.
Lao động Việt Nam thường được bố trí làm những công việc mà lao động nước bạn
không thích làm (những công việc không đòi hỏi chuyên môn cao, có lương thấp) hoặc
được phân công đến vùng xa xôi, hẻo lánh. Trong giai đoạn này cơ cấu lao động xuất khẩu
của Việt Nam được phân bổ vào các ngành: Hơn 40% vào công nghiệp nhẹ với 117.432
người mà chủ yếu là các nghề dệt, da, may mặc; 25,3% vào cơ khí với 71.077 người. Phân
bố vào ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng 22,9% là 64.247 người; vào các
ngành công nghiệp khác chiếm 4,2%, phân bố chủ yếu trong 2 ngành: ngành hóa chất 8329
người, ngành công nghiệp thực phẩm 3.542 người. Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp 6.160
người, chiếm 2,19%, các ngành khác gồm 10.119 người chiếm 3,58%.


Lao động phân chia theo
khu vực và ngành nghề

Cơ cấu
Số lượng người

17

%


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Tổng số

288.106

100%

Bao gồm
Chuyên gia

7.200

Lao động

280.906


Chia theo ngành nghề

280.906

Cơ khí

71.077

25,3

Hóa chất

8.329

2,97

Công nghiệp nhẹ

117.432

41,8

Công nghiệp thực phẩm

3.542

1,26

64.247


22,9

Nông nghiệp, lâm nghiệp

6.160

2,19

Các ngành khác

10.119

3,58

Xây dựng và SXVL xây
dựng

Bảng 3: Cơ cấu ngành nghề và khu vực của LĐXK những năm 1980 – 1990
Nguồn: Một số điều cần biết về xuất khẩu lao động – NXB Thanh niên 2003.
Mức thu nhập bình quân của lao động Việt Nam ở các nước như sau:
- Liên Xô: 160 – 180 rúp/tháng
- Đức: 800 – 900 DM/tháng
- Tiệp Khắc: 1800 – 2000 cuaron/tháng
- Bungari: 160 – 180 Leva/tháng
Trừ các khoản phải đóng góp và chi phí cho sinh hoạt hàng ngày, trung bình sau một
hợp đồng lao động ( 4 – 5 năm) mỗi lao động còn tiết kiệm được từ 3000 – 5000 rúp, chưa
kể các khoản thu ngoài lương. Lao động ở các khu vưc II, sau một hợp đồng lao động 2
năm, mỗi người còn tiết kiệm được bình quân từ 1500 – 2000 USD. Riêng trong ngành xây
dựng, một lao động có tay nghề bậc 3, sau 2 năm làm việc ở LiBi đã đem về được 5000

USD, lao động không có tay nghề cũng dành dụm được 3500 USD.
Nhìn chung XKLĐ của nước ta trong giai đoạn 1980 – 1990, do những điều kiện kinh
tế, xã hội, do hạn chế của chính sách đối ngoại, do những ảnh hưởng của thị trường kinh tế
quốc tế, nên XLKĐ có những nét đặc trưng nhất định: Thị trường chủ yếu là các nước phe
xã hội chủ nghĩa, tỷ trọng lao động không nghề lớn, phần lớn lao động trước khi đi không
qua đào tạo, khi đến nước tiếp nhận, lao động được phân phối về các đơn vị sản xuất, được
kèm cặp đào tạo tại chỗ, được trang bị tay nghề phù hợp với các xí nghiệp, nhà máy bạn
yêu cầu.
3:XKLĐ TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY

18


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Năm 1986 với tinh thần phê và tự phê, Đại hội VI của Đảng đã họp và thẳng thắn
nhận ra sai lầm của mình và sớm đã có biện pháp khắc phục là chuyển từ cơ chế quan liêu,
tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường cạnh tranh tự do. Từ đại hội VI của Đảng ta cũng
đã có những thay đổi trong nhận thức về việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Sau
chỉ thị số 73-CT ngày 13/03/1990 của chủ tịch HĐBT về việc tạm ngừng XKLĐ để củng
cố, chấn chỉnh tổ chức hệ thống lao động ở nước ngoài. Ngày 09/11/1991 Hội đồng bộ
trưởng đã ra quyết định 370/HĐBT, ban hành quy chế về việc đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Bản quy chế này đã trở thành kim chỉ nam
trong hành động, mở ra một thời kỳ mới cho XKLĐ dưới thời “mở cửa”.
XKLĐ dưới thời kỳ này không chỉ đơn thuần là giải quyết việc làm và học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nữa. Mà chính phủ Việt Nam coi XKLĐ: “Là một
hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế - văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa

Việt Nam với các nước sử dụng lao động theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi,
tôn trọng pháp luật và truyền thống dân tộc của nhau”.
Hình thức XKLĐ cũng được mở rộng, XKLĐ không chỉ được thực hiện thông qua các
hiệp định giữa 2 chính phủ mà còn được thực hiện theo các hợp đồng cung ứng lao động
giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam với các tổ chức hoặc các nhân người nước ngoài. Chấp
nhận các quy luật thị trường, quy luật cạnh tranh, chấp nhận qua hệ chủ - thợ…Việt Nam
mở rộng quan hệ, hợp tác lao động với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo
cơ chế mới, Nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp XKLĐ tìm kiếm, khảo sát
thị trường lao động, trực tiếp tuyển chọn, bồi dưỡng đào tạo định hướng cho người lao
động phù hợp với yên cầu của bên sử dụng lao động. Nhà nước (mà trực tiếp là Bộ lao
động thương binh và xã hộI) chỉ thị thực hiện chức năng quản lí, kiểm tra, giám sát, ban
hành các chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho XKLĐ ngày càng có hiệu quả
hơn.
Trong giai đoạn này nước ta đã đưa đi gần 600.000 người đi làm việc ở nước ngoài,
trung bình mỗi năm nước ta đã đưa đi 40.000 người trong các năm 1992 đến 2007. Với
những đặc điểm mới của cơ chế đổi mới thì cơ cấu XKLĐ của nước ta cũng đã có nhiều
đổi khác từ năm 1990 đến giai đoạn này:
Thứ nhất là về cơ cấu thị trường. Nếu như trước 1990 nước ta chủ yếu đưa lao động
sang các nước phe XHCN, các nước Châu Phi như: Irắc…thì đến nay thị trường XKLĐ
của nước ta đã được mở rộng thêm tới các thị trường như: Khu vực Đông Bắc Á, Đông
Nam Á, Trung Đông, Nam Thái Bình Dương, Úc, Khối EU, Mĩ. Năm 1991 nước ta chỉ
tham gia XKLĐ ở 12 quốc gia và vùng lãnh thổ thì đến năm 2007 đã có gần 40 quốc gia và
vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động Việt Nam đang làm việc, số lượng LĐXK này phân bố
nhiều ở các nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia…

19


Đề tài nghiên cứu khoa học


Hà nội- 2008

Những năm 1991, 1992 XKLĐ bắt đầu chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới,vì còn
thiếu nhiều kinh nghiệm trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường mới và các nghiệp vụ
hoạt động kinh doanh XKLĐ nên số lao động đưa đi xuất khẩu còn hạn chế và không ổn
định, như vào năm 1992 chỉ có 816 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài. Nhưng
đến năm 1993 đã là 3.968 lao động và tăng lên 9.228 lao động vào năm 1994. Những năm
từ 1992 – 1996, lao động Việt Nam được đưa sang thị trường Hàn Quốc chiếm tỷ trọng
lớn, như vào năm 1993, 1994, 1995, 1996 số lao động đưa sang Hàn Quốc lần lượt là:
1.352, 4.378, 5.674, 6.275 lao động.
Năm

Tổng
số

Hàn
Quốc

Đài
Loan

Nhật

Malaysia

Bản

Các
nước khác


1992

816

56

0

210

0

550

1993

3.968

1.352

0

289

53

2.274

1994


9.228

4.378

37

257

15

4.541

1995

9.569

5.674

87

723

2

3.083

1996

12.66


6.275

122

1.343

2

4.916

18.44

4.880

191

2.250

0

11.126

12.18

1.322

197

1.926


7

8.732

19.97

4.518

558

1.856

1

13.037

31.50

7.316

8.099

1.497

239

14.349

36.16


3.910

7.728

3.249

23

21.204

46.122

1.190

13.19

2.202

19.965

9.574

8
1997
7
1998
4
1999
0
2000

0
2001
8
2002

1
2003

78.489

4.326

29.974

2.384

40.552

1.253

2004

67.44

4.770

37.14

2.750


14.560

8.220

0

0

2005

70.594

12.102

22.784

2.953

24.605

8.150

2006

78.855

10.577

14.12


5.360

37.941

10.850

23.64

5.500

26.704

16.989

8.501

1.201

4.898

5.676

7
2007

85.020

12.18
7


Quí

22.932

0
2.656

20


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

I/2008
Bảng 4: Cơ cấu thị trường XKLĐ giai đoạn 1991- 2008
Nguồn: Số liệu của cục quản lý lao động nước ngoài Bộ LĐ-TB và xã hội
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Ta thấy, sở dĩ lao động phần lớn được đưa sang Hàn Quốc ở giai đoạn này bởi vì đây
là một thị trường mới, nhiều tiềm năng, và điều kiện sống ở Hàn Quốc cũng gần với Việt
Nam. Là 1 nước Châu Á, Hàn Quốc thu hút nhiều lao động Việt Nam như năm 1997 con
số này lên tới 18.447 lao động. Nhưng đến năm 1998 được coi là năm khó khăn cho
XKLĐ Việt Nam, lượng lao đông xuất khẩu giảm hẳn (từ 18.447 người năm 1997 xuống
còn 12.184 người năm 1998), nguyên nhân là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ Châu Á. Các nước Châu Á có sử dụng lao động Việt Nam như: Hàn Quốc,
Nhật Bản…đều lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, hàng loạt các doanh nghiệp bị
phá sản và nan thất nghiệp gia tăng. Trong vòng 2 năm 1997, 1998 tỷ lệ thất nghiệp của
Hàn Quốc tăng từ 3,8% lên 7,8%; Nhật Bản tăng đến mức 5% - là kỷ lục về tỷ lệ thất
nghiệp trong vòng 3 thập kỷ qua ở các nước này. Trước tình hình đó, năm 1998 Hàn Quốc
tạm dừng việc nhập khẩu lao động, hồi hương một bộ phận người lao động nước ngoài,

trước hết là những người lao động bất hợp pháp. Trong năm 1998, trong số 12.184 lao
động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc, đã có 4000 lao động bị buộc phải về nước.
Lượng lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc bình quân những năm trước khoảng
từ 3000 – 4000 người, năm 1998 hầu như không có một hợp đồng XKLĐ nào được ký kết.
Xu hướng XKLĐ không chỉ tập trung ở thị trường Hàn Quốc mà còn phân bố sang
các thị trường khác như: Malaysia, Đài Loan…Năm 2007 cả nước đã đưa được 85.020 lao
động đi làm việc nước ngoài, vượt 6,3% kế hoạch cả năm. Trong đó, đứng đầu là thị
trường Malaysia với 26.704 người, kế tiếp là Đài Loan 23.640 người, thị trường Nhật Bản
cũng có sự tăng đáng kể với số lượng khoảng 5.500 lao động. Trong giai đoạn 2003 - 2005
do sự xuất hiện của căn bệnh SARS (Việt Nam là một trong những nước có người mắc
bệnh này) nên hoạt động XKLĐ đã bị ảnh hưởng xấu. Từ 01/04/2003, Malaysia tạm ngừng
cấp Visa cho lao động những nước có dịch SARS (trong đó có Việt Nam). Ước tính, có
gần 2 vạn lao động Việt Nam đã bị mất cơ hội ra nước ngoài làm việc do ảnh hưởng của
chiến tranh Irắc - Mỹ và căn bệnh SARS này. Cho đến nay việc không chế thành công
bệnh SARS của ngành y tế Việt Nam đã tạo điều kiện cho hoạt động XKLĐ Việt Nam tiếp
tục có thể thực hiện mục tiêu đề ra. Tuy nhiên gần đây, do thu nhập của người lao động
xuất khẩu sang Malaysia thấp và mặt khác chịu ảnh hưởng bởi những vấn đề tiêu cực như:
nạn lao động bỏ trốn…nên số lượng lao động xuất khẩu sang Malaysia có xu hướng giảm
còn 26.704 người năm 2007, thị trường này trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người lao
động.

21


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

Tính đến nay lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở các thị trường Malaysia
trên 120.000 người, Đài Loan trên 90.000 người, Hàn Quốc trên 30.000 người, Nhật Bản

khoảng 19.000 tu nghiệp sinh.
Đến đầu năm 2008, bên cạnh giữ vững những thị trường truyền thống, Việt Nam đã
mở rộng được nhiều thị trường mới, đặc biệt đã kí bản ghi nhớ về hợp tác lao động với ÂMan, kí kết Hiệp định hợp tác lao động với Quatar (1/2008), đang đàm phán để kí Hiệp
định với Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất, Ba-ranh…Chúng ta cũng đang triển
khai kế hoạch đưa lao động sang Makau, Balan, Litva, Romania, Cộng hòa séc, Úc,
Bruney, Mĩ.
Như vậy quy mô XKLĐ của nước ta mấy năm gần đây liên tục tăng. Như năm 2007
số lượng lao động đưa đi xuất khẩu ở nước ta là 85.020 người, mục tiêu đến năm 2010 là
nước ta sẽ đạt mức trung bình mỗi năm đưa được 100.000 lao động đi làm việc tại nước
ngoài. Như vậy ta thấy số lượng lao động dồi dào, phong phú đây là một lợi thế so sánh
của lao động Việt Nam với các nước trong khu vực.
Tuy vậy nhưng hiệu quả XKLĐ của nước ta lại kém hiệu quả hơn so với các nước
khác như: Thái Lan, Philipin, Malaysia…Vậy vấn đề cần quan tâm ở đây là: Tuy số lượng
nhiều nhưng chất lượng kém.
Xét về vấn đề chất lượng của lao động xuất khẩu của Việt Nam: Lao động Việt Nam
khi tham gia XKLĐ cũng có những ưu điểm nhất định: Xuất phát từ những lao động của
nền nông nghiệp lúa nước nên lao động nước ta có bản chất chăm chỉ, cần cù, ham học
hỏi…chính những điều này cũng đã đáp ứng một phần nhu cầu lao động của nước bạn.
Nhưng bên cạnh đó vấn đề chất lượng lao động vẫn nổi lên nhiều yếu kém, ảnh hưởng đến
hiệu quả của XKLĐ. Thứ nhất về trình độ văn hóa: Việt Nam vẫn là một nước nghèo, hiện
nay cả nước chưa phổ cập hết phổ thông trung học, một số nơi tỷ lệ trẻ em không được đi
học vẫn cao mà tỷ lệ này rơi nhiêu ở nông thôn. Mà đây lại là một lực lượng lao động thất
nghiệp chủ yếu, chính những đối tượng này lại có nhu cầu tham gia XKLĐ vì thị trường
trong nước không đáp ứng được việc làm. Nhìn chung lao động xuất khẩu của Việt Nam
có trình độ văn hóa thấp. Từ vấn đề này đã gây ra một loạt khó khăn cho lao động Việt
Nam khi tham gia lao động tại nước ngoài như: Hạn chế trong nhận thức, tốn kém trong
vấn đề đạo tạo. Đặc biệt là trình độ ngoại ngữ yếu kém gây khó khăn trong giao tiếp. Vì
vậy không thu hút nhiều nhu cầu của những nhà tuyển dụng nước ngoài. Thứ hai là trình
độ chuyên môn thấp, theo ước tính sơ bộ từ điều tra lao động việc làm năm 2006, tỷ lệ lao
động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo chỉ là 31,9%, riêng lực lượng lao động có chứng chỉ

nghề ngắn hạn trở lên cũng chỉ có 14,4%, một tỷ lệ còn quá thấp so với yêu cầu. Như vậy,
nhìn chung lao động Việt Nam có một trình độ kỹ thuật chuyên môn trung bình là thấp so
với các nước trong khu vực. Sự thiếu hụt, yếu kém của lao động có trình độ chuyên môn,
chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hay doanh nghiệp XKLĐ), điều này nói lên tính bức bách của việc nâng cao

22


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008

hơn nữa hệ thống đào tạo theo các chuẩn mực quốc tế, với mục tiêu hướng tới xây dựng
một nên kinh tế tri thức, đòi hỏi từ bây giờ cần có một chiến lược giáo dục và đào tạo với
một sự đầu tư thỏa đáng. Ngân sách nhà nước dành cho các trường dạy nghề là rất nhỏ bé,
chỉ chiếm 5% toàn bộ ngân sách dành cho giáo dục, đào tạo (năm 1999) mặc dù đã tăng
đáng kể so với mức 3,8% của năm 1997 – 1998. Hơn một nửa thiết bị dạy nghề đã quá lạc
hậu, được sản xuất từ những năm 1970 trở về trước. Về lâu dài, trong chiến lược nâng cao
chất lượng nguồn lao động phải được thực hiện có hiệu quả ngay, đáp ứng cho nhu cầu
CNH – HĐH và XKLĐ: Người lao động cần phải được trang bị cả chuyên môn nghiệp vụ
và ngoại ngữ. Việc dạy ngoại ngữ cho người lao động phải được thực hiện có hiệu quả
ngay từ các cấp học phổ thông, sao cho khi bước vào độ tuổi lao động họ có thể sử dụng
được một ngoại ngữ thông dụng trên thế giới. Trong đào tạo nghề, cần xóa bỏ tình trạng
“thừa thầy, thiếu thợ” hiện nay (cơ cấu đào tạo đại học/trung cấp/CNKT của Việt Nam là
1,0/0,25/0,18 trong khi của thế giới là 1,0/2,5/3,5). Vì vậy hàng năm nước ta đã đào tạo dư
thừa một đội ngũ kỹ sư lớn trong khi đó lượng công nhân kỹ thuật có tay nghề thì thiếu
trầm trọng. Tóm lại trình độ chuyên môn thấp là nguyên nhân chính gây mất hiệu quả
trong vấn đề XKLĐ của Việt Nam, nó cũng hạn chế rất nhiều đến số lượng lao động xuất
khẩu. Để khắc phục được vấn đề này thì nhà nước ta cần phải có một chiến lược lâu dài,

đầu tư vào hệ thống giáo dục, đào tạo nghề nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao
động thế giới.
Dù xuất khẩu lao động đã tăng về quy mô nhưng lại chỉ tập trung được ở những thị
trường với mức thu nhập xóa đói giảm nghèo, còn những thị trường có thu nhập cao và
đang cần lao động nước ngoài thì lao động Việt Nam vẫn rất khó tiếp cậnViệc mở rộng thị
trường xuất khẩu lao động là hướng đi đúng đắn, phù hợp lộ trình hội nhập, mở cửa, góp
phần giải quyết công ăn, việc làm cho lao động trong nước. Tuy nhiên, yêu cầu việc xuất
khẩu lao động ngày càng khắt khe, về kỹ năng tay nghề, nhất là làm việc trong công
xưởng, nhà máy. Yêu cầu về chấp hành kỷ luật và ngoại ngữ cũng không kém, nhất là tại
các thị trường không thông dụng tiếng Anh. Hiện lao động của ta ra nước ngoài cơ bản đáp
ứng yêu cầu doanh nghiệp sở tại nhưng tay nghề, trình độ còn hạn chế, khi đưa ra các nước
có kinh tế phát triển còn khó khăn.Chính vì vậy đã làm giảm đi một phần sức cạnh tranh
của nước ta trên thị trường lao động thế giới.
. Lao động Việt Nam thì chủ yếu tham gia vào những ngành như: Ngành khai thác mỏ,
làm nông nghiệp, những nơi làm việc mà lao động bản địa không thích làm. Còn một số
ngành công nghiệp thì rất ít lao động Việt Nam đáp ứng đủ yêu cầu của nhà tuyển dụng,
đặc biệt là ở một số thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu…
Một trong những nguyên nhân của vấn đề trên chính là do công tác khai thác, tìm
kiếm thị trường của ta còn nhiều hạn chế. Ban đầu do hạn chế về số lượng doanh nghiệp
tham gia XKLĐ nên thông tin không được đầy đủ, không đáp ứng được hết các nhu cầu
của thị trường. Việc xuất khẩu lao động và chuyên gia được thực hiện thông qua các hợp
đồng kinh tế do các tổ chức kinh tế đã ký với bên nước ngoài. Cho đến tháng 8/1998, nước

23


Đề tài nghiên cứu khoa học

Hà nội- 2008


ta đã có 55 tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nước có giấy phép hoạt động XKLĐ.
Trong giai đoạn 1996 – 1999, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh
dịch vụ XKLĐ thực hiện nghị định 07/CP là 77 doanh nghiệp trong đó có 53 doanh nghiệp
thuộc Bộ ngành và 24 doanh nghiệp địa phương. Tính đến năm 2007, số lượng các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ XKLĐ là 145 doanh nghiệp, có 118 doanh nghiệp nhà nước, 11
doanh nghiệp thuộc các tổ chức đoàn thể, 13 công ty cổ phần và 3 công ty trách nhiệm hữu
hạn. Như vậy ta thấy số lượng các doanh nghiệp tham gia XKLĐ đã tăng đáng kể, phần
nào đáp ứng được nhu cầu của thị trường rộng lớn. Nhưng con số này cũng chưa phản ánh
hết được thị trường XKLĐ thế giới. Mà đặc biệt là ở những thị trường mới mà các doanh
nghiệp Việt Nam chưa khai thác hay mới khai thác bước đầu.
Hình thức quảng bá, tiếp cận với các thị trường mới cũng là một điều đáng bàn. Các
doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở hình thức ký kết các hợp đồng thông qua sự hợp tác của
các chính phủ. Còn các hình thức hợp tác trực tiếp giữa 2 doanh nghiệp của 2 nước thì còn
bị hạn chế bởi những thủ tục hành chính phức tạp, gây tốn kém thời gian chi phí, tạo ra tâm
ly e ngại đối với các doanh nghiệp tuyển dụng. Một lý do đáng lưu tâm đó là sự quảng bá
hình ảnh của lao động Việt Nam. Nhiều quốc gia mới chỉ biết đến Việt Nam là một nước
nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, từng trải qua bao cuộc chiến tranh khốc liệt để bảo vệ Tổ
Quốc. Các nhà nhập khẩu lao động nước ngoài không có được nhiều thông tin về lao động
Việt Nam, chính vì vậy mà họ đã ngần ngại tuyển dụng lao động ta. Vì thế, các doanh
nghiệp XKLĐ cần tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của lao động Việt Nam trên thị
trường thể giới, để các nước khác có cái nhìn nhận đúng đắn về con người Việt Nam, lao
động Việt Nam.
Thứ hai là cơ cấu về giới tính. Trong giai đoạn này lượng lao động nữ cũng đã
tăng đáng kể, vì trong xã hội lúc này đã giảm bớt sự bất bình đẳng nam nữ, người phụ nữ
cũng là lực lượng lao động đóng góp vào thu nhập chính của gia đình.
Năm

Tổng
số


Nữ

Nam

Số
lượng

%

Số
lượng

%

1992

816

100

12,25

716

87,75

199

3.968


520

13,10

3.448

86,90

199

9.228

985

10,67

8.243

89,33

1995

9.569

1.723

18,00

7.846


82,00

199

12.66

2.065

16,31

10.623

83,69

18.44

1.973

10,69

16.474

89,31

3
4

6

8

199

24


Đề tài nghiên cứu khoa học

7

Hà nội- 2008

7
199

12.18

1.447

11,88

10.737

88,12

19.97

2.302

11,53


17.668

88,47

31.50

9.065

28,75

22.435

71,25

36.16

7.704

21,30

28.464

78,70

2002

46.122

10.556


22,89

35.566

77,11

2003

78.489

29.715

37,86

48.744

62,14

2004

67.44

26.807

39,75

40.633

60.25


2005

70.594

29.918

42,38

40.676

57.62

2006

78.855

35.524

45,05

43.331

54,95

2007

85.020

39.075


45,96

45.945

54,04

8

4
199

9

0
2000
0
2001
8

0

Bảng 5: Cơ cấu giới tính của LĐXK 1992-2007
Nguồn: Số liệu của cục hợp tác lao động nước ngoài Bộ LĐ-TB và xã hội
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Nhìn chung tỷ lệ lao động nữ xuất khẩu trong giai đoạn này cũng đã tăng lên nhiều so
với thời kì trước, nhưng tỷ lệ này vẫn chưa cao bằng lao động nam. Trong tổng số lao động
giai đoạn này là 581.038 người thì có tới 381.559 lao động nam chiếm 65.67%. Cũng trong
giai đoạn này cả lao động nữ và nam đều tăng lên đáng kể từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Như năm
1992 số lao động nữ chỉ là 100 người thì đến năm 2007 đã lên đến 39.075 người, con số
này ở nhóm nam là 45.945 người. Qua số liệu về cơ cấu giới tính của XLKĐ trong thời kỳ

này ta thấy cơ cấu giữa lao động Nam và nữ đã đỡ mất cân đối hơn, mặc dù lao động nam
vẫn chiếm ưu thế, nhưng điều đó đúng đặc trưng của từng giới, tỷ lệ này phù hợp với thực
tế lao động ở nước ta.
Thứ ba về cơ cấu nghề nghiệp
Trong suốt quá trình từ khi bắt đầu thực hiện đưa lao động đi làm việc (năm 1980) cho
đến nay thì cơ cấu nghề nghiệp trong XKLĐ đã có sự thay đổi đáng kể. Sự thay đổi này là
sự tăng lên cả về chất và về lượng. Xét về mặt chất, cơ cấu nghề nghiệp đã có sự đa dạng
và mở rộng ra nhiều ngành nghề mới. Nếu như giai đoạn 1980 – 1990 lao động Việt Nam
chủ yếu làm việc trong các ngành nghề như: Cơ khí, công nghiệp nhẹ, hóa chất, …thì đến
nay lao động Việt Nam vẫn phát huy ưu thế trong các ngành trên và còn tham gia vào các
ngành mới khác, đặc biệt là những ngành về các dịch vụ xã hội như: Chăm sóc người già,
làm việc nội trợ, làm nông nghiệp…Trong số 526.342 người đi làm việc ở nước ngoài tính

25


×