Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

HỆ THỐNG NHÂN vật TRONG GIAI THOẠI xứ HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.63 KB, 66 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA NGỮ VĂN

MAI THỊ DÂNG

HỆ THỐNG NHÂN VẬT
TRONG GIAI THOẠI XỨ HUẾ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
NGÀNH VĂN HỌC
KHÓA K36 (2012 - 2016)

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG

Huế, 5-2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận với đề tài:“Hệ thống nhân vật trong giai
thoại xứ Huế”, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy
cô giáo trong khoa Ngữ Văn – Trường Đại học Khoa học Huế đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt tôi xin
chân thành cám ơn Trung Tâm Thông Tin Thư Viện Trường Đại học
Khoa học Huế đã cung cấp nguồn tài liệu quý giá phục vụ cho quá trình
học tập, tìm hiểu và viết bài khóa luận.
Tôi xin được gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc tới Cô
Nguyễn Thị Quỳnh Hương đã nhiệt tình hướng dẫn tôi tìm hiểu và cung
cấp thông tin, số liệu cần thiết để tôi hoàn thành bài khóa luận này.
Do hạn chế về thời gian, trình độ, kiến thức và kinh nghiệm nên


khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Huế, ngày 13 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Mai Thị Dâng


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
..................................................................................................................................

..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Mục đích và lý do chọn đề tài
Thừa Thiên Huế không những có thiên nhiên hùng vĩ, kỳ bí với rừng
xanh, biển rộng, sông sâu và những đền đài, lăng tẩm, cung điện, thành trì
mà nơi đây còn có những dấu tích lịch sử, văn hóa, xã hội. Trải qua 700
năm (1306 – 2006) hình thành và phát triển, Thừa Thiên Huế đã lưu lại một
di sản văn học dân gian phong phú và đa dạng. Di sản ấy vừa hàm chứa
truyền thống văn hiến, văn hóa dân tộc mà lại vừa mang nét đặc thù của
vùng đất Cố đô. Tìm hiểu văn học dân gian Thừa Thiên Huế, chúng ta
không thể bỏ qua việc nghiên cứu các thể loại: truyện cổ tích, truyền
thuyết, ca dao, tục ngữ, vè,... Đây thực sự là những thể loại góp phần làm

nên diện mạo độc đáo, đặc trưng của nền văn học dân gian xứ Huế. Tất cả
như một bãi phù sa văn hóa phì nhiêu do chính con người sáng tạo và đến
lượt mình, con người gắn bó với bãi bồi ấy như một chồi cây tươi tốt.
Nhưng sẽ thật thiếu sót nếu như nói đến văn học dân gian Thừa Thiên Huế
mà không nói đến thể loại giai thoại.
Giai thoại là một trong những di sản tinh thần quý báu của xứ Huế.
Đến với giai thoại xứ Huế, chúng ta như được hòa mình vào nguồn suối
mát vô tận của thiên nhiên. Với sự giản dị, ngắn gọn, lãng mạn, hồn nhiên
trong cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, giai thoại mang đến cho nền
văn học dân gian xứ Huế thêm một sắc màu mới. Hơn thế nữa, giai thoại
xứ Huế đã có lịch sử từ lâu đời, nó được hình thành và phát triển cùng với
sự phát triển của văn hóa, xã hội nơi đây. Do đó, khi tìm hiểu về hệ thống
nhân vật trong giai thoại xứ Huế, chúng ta sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu sắc
hơn về truyền thống văn hóa con người xứ Huế.
Có thể nói rằng giai thoại xứ Huế có hệ thống nhân vật hết sức đa
dạng và phong phú. Đó là hệ thống nhân vật các mệ, nhân vật người nghệ

6


sĩ hát bội, nhân vật hò hát... đây là nét đặc thù tiêu biểu nhất của giai thoại
Thừa Thiên Huế.
Chính vì những lý do đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Hệ thống
nhân vật trong giai thoại xứ Huế”. Qua đề tài này, chúng tôi muốn khẳng
định những đặc trưng riêng của hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế và
hiểu thêm về nền văn học dân gian, văn hóa và con người nơi đây; nó vừa
giản dị, hồn nhiên mà cũng không kém phần độc đáo và phong cách.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một thể loại của văn học dân gian Thừa Thiên Huế, giai thoại đã
đem đến cho người đọc những câu chuyện lý thú và tiếng cười hài hước, dí

dỏm. Đặc biệt, trong giai thoại, hệ thống nhân vật hết sức sinh động, mang
một nét đặc trưng riêng đậm chất Huế, và chính yếu tố này cũng góp phần
không nhỏ cho sự phong phú, đa dạng của văn học dân gian xứ Huế.
Hệ thống nhân vật là yếu tố quyết định chất lượng, giá trị của giai
thoại nói chung và giai thoại xứ Huế nói riêng. Tuy nhiên hiện nay, các
công trình nghiên cứu về giai thoại cũng như hệ thống nhân vật trong giai
thoại xứ Huế vẫn còn rất ít ỏi. Phần lớn là những công trình nghiên cứu giai
thoại với tư cách thể loại và góp phần minh định giai thoại văn học với giai
thoại dân gian.
Trong khuôn khổ của một khóa luận, chúng tôi chỉ xin tập trung
khảo lược các công trình nghiên cứu về giai thoại xứ Huế.
Đầu tiên, năm 1998, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội cho xuất
bản tập 1 - Truyện kể dân gian của bộ Tổng tập văn học dân gian Thừa
Thiên – Huế do Tôn Thất Bình biên soạn. Đây là chuyên luận trình bày một
cách tương đối đầy đủ và hệ thống về những vấn đề liên quan đến truyện kể
Thừa Thiên Huế gồm các thể loại: thần thoại và truyền thuyết, truyện cổ
tích, truyện cười, giai thoại. Đặc biệt, tác giả chú trọng phân loại giai thoại
thành một hệ thống cụ thể theo tuyến nhân vật: giai thoại các mệ, giai thoại
sư Viên Thành, giai thoại Nguyễn Kinh, giai thoại hò hát của Ưng Bình
7


Thúc Giạ Thị và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi và giai thoại hát bội. Việc
phân loại các tiểu loại như vậy giúp người đọc dễ dàng thống kê được hệ
thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế.
Tiếp theo phải kể đến cuốn Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên
Huế của Lê Văn Chưởng, xuất bản năm 2010, nhà xuất bản Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh. Trong Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, tác giả
đã tuyển tập một kho tàng văn học dân gian nhiều màu sắc mang tinh thần
mộc mạc, hồn nhiên xứ Huế. Đến với công trình là chúng ta đến với một

nền văn học dân gian Thừa Thiên Huế với số lượng tác phẩm đồ sộ, đặc
thù, tiêu biểu đã được tác giả sưu tầm, tuyển chọn một cách kĩ lưỡng, công
phu. Ngoài ra, qua đó, chúng ta còn có điều kiện để hiểu hơn về địa lý, lịch
sử, văn hóa, xã hội của vùng đất Cố đô. Đặc khảo văn học dân gian Thừa
Thiên Huế triển khai hai phần: phần một biên khảo về: 1. Xứ sở Thừa
Thiên Huế; 2. Lịch sử văn học dân gian Thừa Thiên Huế; 3. Đặc trưng
truyện dân gian Thừa Thiên Huế; 4. Đặc trưng thơ ca dân gian Thừa Thiên
Huế. Phần hai Lê Văn Chưởng trình bày sưu tầm về: 1. Truyện dân gian; 2.
Thơ ca dân gian. Các văn bản trong công trình đều được hiệu đính hoặc
viết lại, mỗi thể loại được chia thành các tiểu loại. Ở mỗi tiểu loại, các văn
bản được sắp xếp theo trình tự logic có hệ thống hoặc theo một chủ đề nhất
định. Công trình này có thể xem là cơ sở, là nguồn cung cấp tư liệu cho
việc nghiên cứu, học tập đối với học sinh, sinh viên và cũng như một hành
trang trên hành trình nghiên cứu văn học dân gian và các lĩnh vực khác của
Thừa Thiên Huế.
Năm 2012, Triều Nguyên biên soạn tập 2 - Truyện cười, truyện
trạng, giai thoại của bộ Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, nhà xuất bản
Thuận Hóa. Trong tập 2 của bộ Tổng tập văn học dân gian xứ Huế, Triều
Nguyên đã sưu tầm được một khối lượng đồ sộ truyện cười, truyện trạng và
giai thoại trong kho tàng văn học dân gian Thừa Thiên Huế. Chính vì vậy,
người đọc sẽ được thỏa sức đắm chìm trong những truyện cười, truyện
8


trạng và giai thoại hài hước, thú vị, chất chứa nghĩa tình. Hơn thế nữa, ông
đã phân loại, thống kê, sắp xếp các văn bản thành những chủ đề cụ thể, tạo
điều kiện thuận lợi cho người đọc tiếp cận văn học dân gian xứ Huế một
cách dễ dàng hơn. Ví dụ, phần truyện cười ông phân ra hai nội dung với hai
chương mục lớn là truyện khôi hài và truyện trào phúng; phần truyện trạng
cũng có hai chương mục lớn là truyện Hồ Cháu và truyện Nguyễn Kinh;

phần truyện giai thoại có hai chương mục là giai thoại lịch sử và giai thoại
văn học nghệ thuật; ngoài ra, còn có các hệ thống chương mục nhỏ trong
mỗi chương mục lớn rất cụ thể và rõ ràng.Triều Nguyên đã đem đến cho
chúng ta những trải nghiệm về truyện cười, truyện trạng và giai thoại Thừa
Thiên Huế một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu hơn, có thể phục vụ
đông đảo bạn đọc yêu thích ba thể loại này. Đồng thời, ông cũng góp phần
bảo tồn, phát huy bản sắc vùng văn hóa Huế và phục dựng văn học dân
gian Thừa Thiên Huế.
Trong các công trình trên, tác giả đã tập hợp được một cách hệ thống
giai thoại xứ Huế. Đây là mặt thuận lợi của chúng tôi trong quá trình thực
hiện đề tài; ngoài ra, ở cuối mỗi văn bản, tác giả còn chú thích về những từ
ngữ địa phương và nguồn gốc xuất xứ của văn bản. Hơn nữa, trong các
công trình này, tác giả đã phân loại, thống kê một số giai thoại điển hình
theo từng nội dung cụ thể. Chính những yếu tố đó góp phần quan trọng cho
chúng tôi trong quá trình tìm hiểu, phân tích và giải quyết đề tài nghiên
cứu. Tuy nhiên, ba công trình trên vẫn nặng về sưu tầm, biên soạn hơn là
thẩm định và đánh giá. Cho nên bên cạnh mặt thuận lợi, chúng tôi cũng gặp
phải những khó khăn nhất định trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thể loại giai thoại cũng được
giới thiệu sơ lược qua một vài bài viết trên trang mạng như: Giai thoại –
Một thể loại văn học dân gian của Nguyễn Thị Bích Hà (Khoa Việt Nam
học – ĐHSP Hà Nội). Nguyễn Thị Bích Hà đã góp phần trong việc đi sâu
khai thác lý thuyết về thể loại giai thoại qua các ý kiến của các nhà nghiên
9


cứu văn học. Bài viết phần nào làm cho chúng ta hiểu hơn về thể loại giai
thoại và cách phân loại của nó. Hay bài viết Các kiểu nhân vật trong truyện
kể dân gian của Nguyễn Thị Mỹ Liên, đã chỉ ra được các đặc điểm của các
nhân vật trong truyện kể dân gian trong đó có đề cập đến nhân vật của giai

thoại. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ mới điểm qua một vài nét đặc điểm cơ
bản của nhân vật trong giai thoại lịch sử chứ chưa đi sâu vào các nhân vật
khác trong giai thoại.
Như vậy, cho đến nay, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên biệt về hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế. Theo
chúng tôi, đây là một hướng đi khả thi và sẽ có nhiều đóng góp trong
nghiên cứu văn học dân gian Thừa Thiên Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hệ thống nhân vật trong giai
thoại xứ Huế.
Phạm vi nghiên cứu: Giai thoại xứ Huế.
Trong đó, chúng tôi khảo sát trên cơ sở các công trình Tổng tập văn
học dân gian Thừa Thiên – Huế của Tôn Thất Bình, xuất bản năm 1998,
nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Tổng tập văn học dân gian xứ Huế
- tập 2 của Triều Nguyên, xuất bản năm 2010, nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội và Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế của Lê Văn
Chưởng, xuất bản năm 2010, nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi vận dụng lý
thuyết thi pháp học để phân tích các đặc trưng nghệ thuật của hệ thống
nhân vật trong giai thoại xứ Huế.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã kết hợp sử dụng
các phương pháp: cấu trúc – hệ thống, thống kê và phân loại, phân tích và
tổng hợp, so sánh. Trong đó phương pháp thống kê và phân loại, phân tích
và so sánh là phương pháp cơ bản trong quá trình nghiên cứu.
10


5. Đóng góp của đề tài
Giai thoại là một thể loại văn học dân gian có lịch sử hình thành khá

lâu đời và có sức sống mãnh liệt. Nhưng trên cơ sở các tài liệu chúng tôi
tiếp cận được, cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu giai
thoại xứ Huế một cách chuyên sâu.
Vì vậy với đề tài này, chúng tôi mong muốn có thể đưa ra một cái
nhìn khái quát, chuyên sâu về giai thoại xứ Huế:
Thứ nhất, từ việc khảo lược ý kiến của các nhà nghiên cứu về truyện
kể Nguyễn Kinh, chúng tôi góp phần xác lập thể loại cho hệ thống truyện
kể này. Chúng tôi thiết nghĩ đây là thao tác cần thiết trước khi tìm hiểu về
hệ thống nhân vật của giai thoại xứ Huế
Thứ hai, trên cơ sở khảo sát, thống kê, chúng tôi đi vào phân loại hệ
thống nhân vật của giai thoại xứ Huế. Qua đó, chúng tôi tiếp tục phân tích
để chỉ rõ từng kiểu, loại nhân vật trong giai thoại xứ Huế.
Thứ ba, chúng tôi khám phá hệ thống nhân vật của giai thoại xứ Huế
dưới các góc độ: ngôn ngữ, kết cấu, yếu tố hài hước và không gian, thời gian
nghệ thuật. Chương 3 sẽ làm rõ những phương thức nghệ thuật đặc sắc của
tác giả dân gian trong quá trình khắc họa nhân vật của giai thoại xứ Huế.
Thứ tư, khóa luận sẽ góp phần khẳng định giá trị và vai trò của thể
loại giai thoại đối với văn hóa xứ Huế nói chung, cũng như văn học dân gian
Huế nói riêng. Ngoài ra, khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh
viên Ngữ văn và những người yêu thích văn học dân gian Thừa Thiên Huế.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận được
triển khai trong ba chương:
Chương 1: Giai thoại và nhân vật trong giai thoại xứ Huế
Chương 2: Phân loại hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế
Chương 3: Hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế nhìn từ
phương thức nghệ thuật
11



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIAI THOẠI VÀ NHÂN VẬT TRONG GIAI THOẠI XỨ HUẾ
1.1. Khái lược giai thoại
1.1.1. Khái niệm giai thoại
Giai thoại là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học dân
gian. Nó bao gồm những chuyện ngắn hấp dẫn về một sự việc hoặc một
người có thật nhưng được truyền tải qua nhiều bước (truyền miệng, viết
lại), nên giai thoại có thể ẩn chứa yếu tố phi lý. Lúc đầu nó có thể được ghi
chép ở đâu đó qua hồi ức của bạn bè, người thân với nhân vật, được dân
gian thêm bớt, uốn nắn vô thức hay có ý thức để trở thành sản phẩm của
cộng đồng. Giai thoại vì vậy có số lượng rất phong phú và có chủ đề đa
dạng.Tuy mang tính hài hước nhưng giai thoại không nhằm mục đích chính
tạo tiếng cười, mà trong trường hợp đó, chính tiếng cười là phương tiện
truyền tải khiến người nghe nhớ lâu hoặc thích kể lại cho người khác.
Giai thoại là những mẩu chuyện về các tiểu tiết trong sinh hoạt,
không mang ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng. Hiện nay, việc nghiên
cứu, sưu tầm giai thoại so với các thể loại khác của văn học dân gian vẫn
khá ít ỏi. Trong những công trình đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý
kiến, quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề thể loại.
Đầu tiên, định nghĩa về thể loại này còn tồn tại nhiều điều gây tranh
cãi. Trong bài nghiên cứu Giai thoại - một thể loại văn học dân gian,
Nguyễn Thị Bích Hà (Khoa Việt Nam học – ĐHSP Hà Nội) đã thống kê tất
cả các định nghĩa giai thoại:
Trần Thanh Mại (Giai thoại văn học, 1965): “Giai thoại văn học là
những mẩu chuyện nói riêng về các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng, về
những người sử dụng thơ văn và sáng tác thơ văn nói chung” [16, tr.1].
12



Vũ Ngọc Khánh (Kho tàng giai thoại Việt Nam, 1994) nhận định giai
thoại thuộc văn học dân gian khi ông cho rằng “…Những câu thơ, câu đối
ở đây có vẻ giàu chữ nghĩa, điển tích như ở văn chương bác học, song điều
bắt buộc là phải vận dụng theo phong cách dân gian, lấy chất liệu và cả
biện pháp quen thuộc của ca dao, câu đố…tác phẩm văn học bác học được
xem như tác phẩm dân gian và có thể sống trong quần chúng…” [16, tr.2].
Kiều Thu Hoạch (Văn học dân gian người Việt, góc nhìn thể loại,
2006) cũng định nghĩa “Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán, giai có
nghĩa là hay, đẹp, thoại là câu chuyện kể. Như vậy giai thoại là câu chuyện
kể hay, đẹp…Tuy nhiên, giai thoại không phải là câu chuyện, mẩu chuyện
kể bình thường, mà đó phải là những câu chuyện hay, lý thú, gợi được
những khoái cảm thẩm mĩ” [16, tr.2].
Hay Từ điển Văn học do NXB Thế giới phát hành năm 2004 (do Đỗ
Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) biên
soạn) định nghĩa như sau: “Một thể loại chuyện kể truyền miệng, lưu
truyền chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ưa thích thơ văn, nhất
là những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ
giai thoại được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện kể; giai: hay, đẹp, thú
vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay quanh những
nhân vật có thực, thường là những danh nhân… Giai thoại văn học thường
không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ; có những mảng giai
thoại xuất hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang
tính độc lập như một thể loại độc đáo; nó thuộc về văn chương bác học, gắn
với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng,
tức là dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian” [16, tr.2].
Trên cơ sở giới thiệu định nghĩa, bên cạnh sự đồng tình với một vài ý
kiến, Nguyễn Thị Bích Hà cũng đã chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong
các cách nhận diện và đánh giá giai thoại. Chúng tôi nhận thấy rằng, kho
tàng văn học dân gian có một mảng truyện kể khá gần gũi với truyện cười
13



và cũng tương quan với truyền thuyết, được tồn tại độc lập và có một đời
sống riêng, đó là giai thoại. Giai thoại nếu được phân tích dưới định nghĩa
của từ Hán Việt thì đó là lối nói đẹp, những mẫu chuyện vui vui, hay hay.
Nói một cách khác, giai thoại là những mẫu chuyện vui, ngắn gọn dựa vào
những nhân vật, những tình tiết có thật được diễn tả một cách khéo léo,
thấp thoáng yếu tố cười. Mục đích của truyện kể là mang lại không khí vui
tươi, nụ cười tao nhã.
Riêng tính chất loại hình của giai thoại, tác giả đồng tình với ý kiến
của Kiều Thu Hoạch khi trình bày lí do khiến ông coi “giai thoại như một
thể loại trong loại hình tự sự của văn học dân gian” [16, tr.3]. Từ đó,
Nguyễn Thị Bích Hà đã tạm thời phân loại giai thoại thành 3 bộ phận:
- Giai thoại văn học
- Giai thoại lịch sử
- Giai thoại cườiiai
Giai thoại - một thể loại văn học dân gian của Nguyễn Thị Bích Hà
là bài nghiên cứu mang tính chất tổng hợp tương đối đầy đủ và đưa ra
nhiều kiến giải khoa học cho thể loại giai thoại. Tác giả cho rằng: “Để có
thể coi giai thoại như một thể loại văn học dân gian, có thể đưa thể loại này
vào giảng dạy chính thức trong nhà trường thì còn cần thời gian và cần
thêm những nghiên cứu chuyên sâu hơn” [16, tr.5].
Chúng ta thấy rằng, dù các ý kiến có nhiều chiều khác nhau nhưng
trong các quan điểm của họ vẫn có nét đồng nhất như: giai thoại là một thể
loại văn học dân gian tồn tại độc lập, thuộc loại hình tự sự của văn học dân
gian và chủ yếu được truyền miệng. Đó là những chuyện đời thường thú vị,
hài hước, có tính thẩm mỹ liên quan tới một nhân vật, một hiện tượng có
thật hàm chứa yếu tố gây cười một cách nhẹ nhàng tao nhã. Đồng thời, giai
thoại nhằm tạo cảm giác lý thú, từ đó có thể rút ra bài học triết lý nhân
sinh.


14


Thế nhưng, khi nghe một truyền thuyết, ai nấy đều luôn có niềm tin,
niềm tin trong truyền thuyết thường khiến mọi người có nhu cầu gắn nó với
một chứng tích văn hóa nào đó (lăng mộ, địa danh, lễ hội…). Còn khi nghe
một giai thoại, mọi người có thể tin hoặc không tin vì không ít giai thoại
văn học đã được lịch sử hóa và sự tiếp nhận của giai thoại không có nhu
cầu gắn nó với một chứng tích.
1.1.2. Phân loại giai thoại xứ Huế
Giai thoại xứ Huế có số lượng văn bản vô cùng phong phú, cho nên
sự phân loại, gọi tên riêng các tiểu loại trong dòng giai thoại chung vẫn tồn
tại nhiều hướng đi, thậm chí chính bản thân một tác giả cũng đã có nhiều
hướng phân loại giai thoại khác nhau.
Tôn Thất Bình là người dành rất nhiều tâm huyết cho giai thoại. Đầu
tiên, trong Huế những giai thoại (Nxb Văn hóa thông tin Bình Trị Thiên,
1987), ông phân giai thoại xứ Huế có 3 loại: 1. Chuyện các mệ; 2. Giai
thoại về làng ria mão; 3. Giai thoại từ dân gian đến cung đình. Còn trong
Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế, ông lại có một hướng phân loại hoàn
toàn khác, đó là ông phân loại giai thoại thành 6 loại: 1. Giai thoại hò; 2.
Giai thoại các mệ; 3. Giai thoại sư Viên Thành; 4. Giai thoại Nguyễn Kinh;
5. Giai thoại hò hát của Ưng Bình Thúc Giạ Thị và Thảo Am Nguyễn Khoa
Vi; 6. Giai thoại hát bội. Tiếp đến, trong Nụ cười xứ Huế, ông tiếp tục chia
giai thoại thành 3 loại nhưng có tên gọi khác: 1. Giai thoại sáng tác thơ văn
trào phúng ở Huế; 2. Giai thoại văn học từ dân gian đến cung đình; 3. Giai
thoại sân khấu. Trong tất cả các hướng phân loại trên, với bài viết Vẻ đẹp
hài hòa của giai thoại Thừa Thiên Huế của Nguyễn Thị Quỳnh Hương, cho
rằng: “Có lẽ trong Nụ cười xứ Huế, Tôn Thất Bình đã lựa chọn, xâu chuỗi
để có cách phân loại tương đối hợp lý nhất và nhấn mạnh những đặc trưng

riêng của giai thoại Thừa Thiên Huế” [17, tr.3].
Nhà nghiên cứu Triều Nguyên trong Văn học dân gian Hương Phú
(Nxb Văn hóa thông tin Bình Trị Thiên, 1988) chỉ mới đề cập đến giai
15


thoại (truyện hò). Ông tách riêng “Truyện Nguyễn Kinh” ra khỏi giai thoại,
và xếp vào truyện trào phúng, thành một bộ phận riêng biệt thuộc hệ thống
truyện dân gian. Ngoài ra,Triều Nguyên phân loại giai thoại thành 4 loại: 1.
Giai thoại sinh hoạt hò; 2. Giai thoại sân khấu; 3. Giai thoại vua – quan –
hoàng tộc; 4. Giai thoại sáng tác thơ văn.
Riêng Nguyễn Thị Quỳnh Hương, trong bài viết Vẻ đẹp hài hòa của
giai thoại Thừa Thiên Huế đã cho rằng “Truyện Nguyễn Kinh” có thể xếp
vào giai thoại vì tác giả thống nhất với quan điểm của Nguyễn Thị Bích
Hà: “Những truyện này giống truyện tiếu lâm ở một số tình tiết gây cười,
nhưng khác tiếu lâm ở chỗ nó có một nhân vật trung tâm, đây đồng thời là
nhân vật gây cười chứ không phải là đối tượng của tiếng cười” [17, tr.5].
Trong phần tiêu chí và các hướng phân loại giai thoại xứ Huế, chúng
ta thấy rằng “Truyện Nguyễn Kinh” là nội dung mà khiến nhiều nhà nghiên
cứu không đồng thuận nhất. Nhưng trong khóa luận này, chúng tôi thống
nhất xếp “Truyện Nguyễn Kinh” vào giai thoại xứ Huế, cho nên khi nghiên
cứu về hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế chúng tôi cũng xin tiến
hành nghiên cứu về nhân vật Nguyễn Kinh.
Chúng ta có thể thấy rằng việc phân loại giai thoại xứ Huế vẫn chưa
có sự đồng thuận cao, thậm chí một tác giả cũng đã có nhiều hướng phân
loại khác nhau. Tuy nhiên, đối với khóa luận này, chúng tôi đồng tình với
cách phân loại của Tôn Thất Bình trong trong Truyện kể dân gian Thừa
Thiên Huế, ông phân loại giai thoại thành 6 loại: 1. Giai thoại hò; 2. Giai
thoại các mệ; 3. Giai thoại sư Viên Thành; 4. Giai thoại Nguyễn Kinh; 5.
Giai thoại hò hát của Ưng Bình Thúc Giạ Thị và Thảo Am Nguyễn Khoa

Vi; 6. Giai thoại hát bội. Việc phân loại như vậy sẽ giúp chúng tôi dễ dàng
khảo sát hệ thống nhân vật trong quá trình nghiên cứu giai thoại.Và cách
phân loại này có hệ thống giai thoại gần tương ứng với hệ thống phân loại
nhân vật trong giai thoại xứ Huế.
1.2. Nhân vật trong giai thoại xứ Huế
1.2.1. Khái niệm nhân vật
16


“Nhân vật là hình thức cơ bản miêu tả con người trong văn học” [13,
tr.41]. Nghĩa là, trong văn học, con người là đối tượng để phân tích và là
trọng tâm của hoạt động nhận thức. Những con người này có thể được miêu
tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,
thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh
hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ,
không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng
nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu. Nên có thể nói, đối tượng
chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí
trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên
nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng
cho tác phẩm nhưng điều quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là
việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, dấu ấn đọng lại sâu sắc nhất
trong tâm hồn người đọc thường là số phận, cảm xúc, suy tư của những
nhân vật được nhà văn khắc họa. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng
“Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác” [20, tr.1].
Trong Lý luận văn học, Hà Minh Đức cho rằng: “Văn học không thể
thiếu nhân vật, bởi đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát
hiện thực một cách hình tượng” [3, tr.126]. Nhà văn sáng tạo nhân vật để

thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, một vấn đề nào đó của
hiện thực.
Đối với người đọc, nhân vật văn học không giống với nhân vật thuộc
các loại hình nghệ thuật khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng
chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật đòi hỏi người đọc phải vận
dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh
trong tất cả các mối quan hệ của nó.

17


Chức năng của nhân vật là khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân
vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn
đề cập đến trong tác phẩm. Trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có
quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết để bộc lộ được
quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật
trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách, cần nhận ra
những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn được gởi gắm trong
nhân vật.
Cũng trong Lý luận văn học, Hà Minh Đức nhận định “Việc nghiên
cứu tính cách chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta đặt nó trong mối liên hệ
với một hoàn cảnh nhất định” [3, tr.126]. Như chúng ta đã biết, một tính
cách không thể phát triển tự thân mà nó có mối liên hệ mật thiết, không thể
tách rời với hoàn cảnh. Tính cách có một vai trò hết sức quan trọng đối với
cả nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học. Nó cụ thể hóa sự thực
hiện của chủ đề tư tưởng tác phẩm. Có nghĩa là, thông qua sự hoạt động và
mối liên hệ giữa các tính cách, người đọc sẽ đi đến một sự khái quát về mặt
nhận thức tư tưởng. Tính cách cũng là một nhân tố chủ yếu tạo nên diễn
biến của các sự kiện trong quá trình phát triển sự kiện.

Tuy nhiên, ý nghĩa của nhân vật không chỉ là sự thể hiện tính cách,
vì mỗi tính cách là kết tinh của một môi trường, cho nên nhân vật còn là
người dẫn dắt ta vào đời sống thực tế.
Ðể xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả
năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này
đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có một điều không
kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho
có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan
trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học
(miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động...).
18


Tóm lại, nhân vật là công cụ, chìa khóa để mở rộng các mảng đề tài
mới, mỗi nhân vật đều cung cấp một điểm nhìn để độc giả khám phá đời
sống. Văn học chỉ có thể tái hiện được cuộc sống qua những chủ thể nhất
định, đóng vai trò như những tấm gương của cuộc đời. Nhân vật văn học
góp phần khái quát những quy luật của cuộc sống con người, thể hiện
những hiểu biết, những ước ao, kì vọng về con người. Qua nhân vật, chúng
ta có thể khẳng định được giá trị của tác phẩm và tài năng của tác giả.
1.2.2. Đặc điểm nhân vật trong giai thoại xứ Huế
Để thấy rõ hơn đặc điểm nhân vật trong văn học dân gian, văn học
viết khi miêu tả nhân vật các tác giả chú ý hơn về ngoại hình, tính cách,
hoàn cảnh xuất thân của nhân vật. Và để thể hiện những đặc điểm đó thì
văn học viết sử dụng các biện pháp nghệ thuật độc thoại nội tâm, thâm
nhập sâu hơn vào khai thác suy nghĩ của nhân vật.
Văn học dân gian là sáng tác tập thể nên khi xây dựng hình tượng
nhân vật, con người đều gửi gắm những tâm sự, ước mơ, khát vọng của
mình vào một xã hội công bằng, tốt đẹp. Và có lẽ vì đặc trưng có tính
truyền miệng nên việc miêu tả tâm lý nhân vật trong văn học dân gian cũng

hạn chế chứ không giống với việc miêu tả nhân vật trong văn học viết.
Đối với văn học dân gian Thừa Thiên Huế, việc miêu tả nhân vật
cũng không chú trọng về xuất thân, ngoại hình và thể hiện tính cách của
nhân vật. Từ đó, biện pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật cũng đơn giản
hơn, phần lớn là nhân vật được thể hiện qua các đoạn đối thoại giữa các
nhân vật với nhau, hoặc nhân vật được miêu tả theo một hướng khác có
tính tổng quát hơn. Ví dụ, trong truyên cổ tích nhân vật chủ yếu là những
con người có số phận nhỏ bé bị các thế lực trong xã hội chà đạp, khinh
thường nhưng lại luôn đại diện cho bản chất tốt.Và đương nhiên với những
tác phẩm văn học dân gian, cái tốt luôn chiến thắng, còn cái xấu sẽ bị phê
phán thể hiện tinh thần lạc quan và khát vọng về bình đẳng, công bằng
trong xã hội. Còn trong truyện cười xứ Huế, nhân vật được xây dựng bằng
19


những hành động gây cười, mặc dù tạo nên tiếng cười nhưng đồng thời
cũng mang một bài học sâu sắc.
Khi nói đến đặc điểm của nhân vật trong giai thoại xứ Huế, chúng ta
dễ dàng thấy rằng, đó là những nhân vật xuất hiện một cách bất ngờ. Vì đa
số nhân vật đều không được tác giả dân gian chú tâm đến việc giới thiệu,
miêu tả về ngoại hình, tính cách, cũng như hoàn cảnh xuất thân. Nhân vật
trong giai thoại xuất hiện chỉ để thực hiện hành động của mình. Đặc điểm
trên thể hiện rất rõ qua các giai thoại về hò đối đáp. Nhân vật trong tiểu loại
này thường là những nhân vật được gọi bằng các đại từ nhân xưng: Anh,
em, chàng, nàng,... Họ giao lưu, trò chuyện, trêu ghẹo nhau bằng những
câu hò. Chẳng hạn “Gương lồng thủy, thủy lồng gương” kể về câu chuyện
của hai nhân vật không tên tuổi, không thân phận, có chăng họ cũng chỉ
được gọi tên là anh, là chị. Họ thương nhau và đã bước qua lễ hỏi, duyên
tình sắp tròn thì anh bỗng nhiên đổi ý, hủy bỏ hôn ước và đi tìm vợ khác.
Anh nghi ngờ chị nhăng nhít, tằng tịu với một người khác, nhưng chẳng

bao giờ anh hé lời về chuyện này. Cho đến khi hai người gặp nhau trong
một cuộc hò giã gạo, họ đã dùng những câu hò để giải quyết khúc mắc
trong lòng của mình. Sau khi nghe bạn hò xong, chị tức tối ném chày
không hò nữa, còn anh ủ rũ bỏ về. Hai nhân vật trong giai thoại xuất hiện
để giải quyết vấn đề vì sao anh hủy bỏ hôn ước và nhân vật “anh” đã dùng
câu hò của mình để nói lên sự nghi ngờ về lòng chung thủy của “chị”:
- “Gương trong lồng thủy, thủy gắn không phai,
Bởi vì em ăn ở một dạ hai lòng, nên gương trong không trong
lồng thủy, mà thủy gắn ngoài lồng gương!” [40, tr.226].
Và trong giai thoại trên, điều đáng lưu ý là nhân vật xuất hiện để
thực hiện hành động hò, chứ không được miêu tả ngoại hình, tính cách hay
hoàn cảnh xuất thân.
Một giai thoại khi đã có tình huống thú vị, lời thoại hấp dẫn và nếu
được gắn với nhân vật nổi tiếng thì sự thu hút người đọc được tăng thêm
20


bội phần. Chính vì vậy, không ít chuyện kể trong giai thoại xứ Huế đã lịch
sử hóa nhân vật có thật như giai thoại về các vua chúa (vua Duy Tân, vua
Thành Thái, vua Tự Đức,...) hay chuyện các đại thần (Ông Ích Khiêm, Đào
Duy Từ, Nguyễn Công Trứ,...). Là nhân vật được lịch sử hóa nên khi nghe
một giai thoại, mọi người có thể tin hoặc không tin vào câu chuyện được
kể. Giai thoại là chuyện vặt, chuyện dật sử, có cái không đáng tin, chính vì
vậy hệ thống nhân vật giai thoại Thừa Thiên Huế thường đưa cuộc đời
nhân vật đi từ chỗ bí ẩn trở về gần gũi với mọi người, có xu hướng kéo
nhân vật xuống đời thường. Ví dụ như chuyện hỉ nộ hằng ngày của vua
Thành Thái, vua Khải Định, chuyện ăn uống của bà Từ Dũ – thân mẫu vua
Tự Đức.
Có lẽ chính bởi đặc điểm này mà có sự gắn kết với nhân vật lịch sử,
giai thoại là những câu chuyện lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được

thuật lại một cách ngôn lí thú, trong một cảnh độc đáo, hay một trang tiểu
sử riêng tư của một nhân vật lịch sử.
Tóm lại, hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế có những đặc
trưng riêng, không thể nhầm lẫn với nhân vật của các thể loại khác. Và
chúng tôi khẳng định rằng nhân vật của giai thoại xứ Huế đã góp phần gia
tăng sự phong phú, đa dạng cho văn học dân gian Cố đô.
Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi
khái quát diện mạo thể loại và khái niệm nhân vật, làm cơ sở triển khai các
bước khảo sát, nghiên cứu cụ thể, đi sâu trình bày các hướng phân loại giai
thoại xứ Huế. Qua hệ thống phân loại, chúng tôi lựa chọn cách phân loại
hợp lý nhất để xác định đặc điểm nhân vật diễn ra ở cấp độ tiểu loại. Chúng
tôi cũng đã tập trung khảo sát biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật và
đặc điểm cơ bản của văn học dân gian. Cụ thể, khóa luận chú trọng đặc
điểm miêu tả nhân vật trong văn học dân gian Thừa Thiên Huế, tiếp tục so
sánh để thấy được sự giao thoa, gần gũi cũng như thấy rõ sự khác biệt trong
21


việc miêu tả nhân vật của văn học dân gian Cố đô với nền văn học dân gian
chung và xa hơn là nền văn học viết. Từ đó, phân tích rõ hơn những đặc
trưng độc đáo và rất riêng của nhân vật giai thoại xứ Huế; khẳng định vai
trò của nhân vật trong quá trình hình thành diện mạo nền văn học dân gian
Thừa Thiên Huế.

CHƯƠNG 2
PHÂN LOẠI HỆ THỐNG NHÂN VẬT
TRONG GIAI THOẠI XỨ HUẾ
2.1. Tiêu chí và các hướng phân loại
Kho tàng giai thoại xứ Huế vô cùng đa dạng và phong phú, bởi thế
nên việc phân loại cũng rất phức tạp và có nhiều hướng đi. Các nhà

nghiên cứu đã xếp thể loại giai thoại ngang hàng với truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện cười trong truyện dân gian Thừa Thiên Huế. Nghĩa
là họ đã nghiễm nhiên xem giai thoại là một thể loại trong loại hình tự sự
của văn học dân gian.
Trong Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, Lê Văn Chưởng
đã có bảng thống kê truyện dân gian Thừa Thiên Huế (những công trình
tiêu biểu) và ta có thể thấy rằng các con số trong bảng thống kê đã chứng
minh số lượng giai thoại trong kho tàng văn học dân gian Huế là rất nhiều
(giai thoại chiếm 52% trong tổng số 308 truyện dân gian). Như vậy, những
con số trong bảng thống kê của Lê Văn Chưởng đã nói lên ưu thế của giai
thoại trong văn học dân gian Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, việc phân loại giai
thoại vẫn còn tồn tại nhiều hướng đi như chúng tôi đã trình bày trong
chương 1, tiểu mục 1.1.2 của khóa luận. Tuy nhiên, với giai thoại, ngoài
công tác sưu tầm điền dã, biên soạn thì việc nghiên cứu một cách cụ thể,
mang tính nhận định vẫn còn đang bị “bỏ ngõ” và chưa có sự quan tâm
thực sự xứng đáng.

22


Các loại hình nhân vật của giai thoại cũng rất phong phú và nhiều
màu sắc, bởi vì có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu dáng vẻ, mỗi nhân
vật là một sự sáng tạo độc đáo, không lặp lại.
Trong Lý luận văn học, Hà Minh Đức đề ra 03 tiêu chí phân loại
nhân vật, gồm có: xét vai trò nhân vật trong tác phẩm, xét về phương diện
tư tưởng, xét về quan hệ với lý tưởng xã hội của tác giả.
Đầu tiên, xét về vai trò của nhân vật, chúng ta có nhân vật chính,
nhân vật phụ và nhân vật trung tâm. “Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện
nhiều hơn cả trong tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện
tập trung đề tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm” [3, tr.127]. Qua nhân vật chính,

nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó
giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tính điệu thẩm mĩ. Ở đây,
nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm,
quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Tuy nhiên, trong tác phẩm có
nhiều nhân vật chính thì nhân vật quan trọng nhất, có ý nghĩa xuyên suốt
tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Ngoài nhân vật chính và nhân vật
trung tâm, còn có nhân vật phụ, đó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu so
với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện
chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung
cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Là nhân
vật phụ nhưng nó lại làm cho tác phẩm trở nên sinh động hơn, dễ hiểu hơn,
chứ không phải phụ ở đây là không quan trọng đối với một tác phẩm.
Đối với hệ thống nhân vật trong giai thoại xứ Huế, chúng tôi nhận ra
rất khó để tìm thấy nhân vật mang những đặc điểm của nhân vật chính,
nhân vật phụ và nhân vật trung tâm. Vì giai thoại là một truyện kể về một
sự việc hoặc về một người, cho nên số lượng nhân vật trong tác phẩm là rất
ít. Hay nói cách khác, hầu như trong mỗi giai thoại chỉ có một đến hai nhân
vật và xuất hiện chỉ để thực hiện hành động của mình chứ không được tác

23


giả dân gian dụng công miêu tả chi tiết về ngoại hình cũng như quá trình
phát triển tâm lý, nội tâm.
Tiếp theo, xét theo tiêu chí về tác động của nhân vật đối với sự phát
triển của xã hội, tác phẩm sẽ có nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong
xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng
với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một
giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lí tưởng trong

cuộc sống... có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Còn nhân vật phản diện là
nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản
động, cần bị lên án.
Nhân vật trong văn học dân gian là nhân vật chức năng và chỉ có một
nét tính cách, không có sự thay đổi vị thế từ thiện sang ác.Vì thế, trong các
giai thoại cũng chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện.
Chúng ta thấy rằng nhân vật trong giai thoại là những nhân vật hoàn
toàn khác biệt so với các thể loại văn học dân gian khác. Nếu như các nhân
vật trong văn học viết được miêu tả đầy đủ về tính cách, ngoại hình, tiểu sử
và đời sống nội tâm thì trong văn học dân gian, nhân vật hầu như không có
miêu tả đầy đủ như vậy. Vì đặc trưng truyền miệng của văn học dân gian
nên những yếu tố ngoại biên này không được chú trọng để tăng tính dễ nhớ,
dễ kể của tác phẩm. Nhân vật trong giai thoại xứ Huế cũng không có tính
cách hay ngoại hình. Nhân vật xuất hiện từ đầu đến cuối giai thoại qua lời
kể một cách khách quan, không mang tính chất đánh giá, bình luận của một
cá nhân nào. Cho nên nếu dựa vào các tiêu chí trên thì việc phân loại hệ
thống nhân vật trong giai thoại là vô cùng khó khăn, phức tạp. Hay nói
cách khác, các tiêu chí đó không phù hợp để phân loại nhân vật trong giai
thoại xứ Huế.

24


Cuối cùng, dựa vào cấu trúc nhân vật có nhân vật chức năng là kiểu
nhân vật không có đời sống nội tâm, phẩm chất cố định từ đầu đến cuối tác
phẩm, sự tồn tại và hành động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng
nhất định, đóng một vai trò nhất định. Nhân vật loại hình là kiểu nhân vật
chỉ có một nét tính cách, một đặc điểm nhưng lại được tô đậm thành loại
hình. Với nhân vật tính cách, đây là nhân vật có tính cách đầy đặn nhiều

mặt, nhân vật tính cách thường được xem như một nhân cách. Nét khác
nhau căn bản giữa nhân vật tính cách và nhân vật loại hình là ở chỗ một
bên có tính cách đa diện như một cá nhân, còn một bên chỉ có một nét tính
cách được tô đậm thành loại hình (đó là nhân vật loại hình). Còn nhân vật
tư tưởng là loại nhân vật giữ chức năng bộc lộ một tư tưởng, một quan
niệm nào đó. Do vậy, suy cho đến cùng nhân vật tư tưởng cũng là một nhân
vật chức năng.
Vậy tiêu chí để phù hợp cho phân loại nhân vật trong giai thoại xứ
Huế là tiêu chí nào? Xét về cấu trúc nhân vật, ta có nhân vật chức năng,
nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Nhân vật chức
năng còn gọi là “nhân vật mặt nạ” là loại nhân vật thực hiện một số chức
năng nào đó. Các nhân vật chức năng thường được cấu trúc như một bộ
phận công cụ; do vậy, phẩm chất của nhân vật dường như không thay đổi
từ đầu đến cuối. Đời sống nội tâm không được miêu tả, nó chỉ xuất hiện
chức năng mà nó đảm nhận. Loại nhân vật này dựa trên cơ sở tập trung
miêu tả một nét tính cách nổi bật và thường là nét tính cách trở thành tên
gọi của nhân vật. Ví như những nhân vật nam nữ trong giai thoại hò hát, họ
xuất hiện để cất lên những câu hò của mình trong nội dung của câu chuyện
chứ không hề có sự miêu tả về tâm lý. Ta có thể thấy rõ đặc điểm này trong
giai thoại Lỡ tay thua bạc, như sau: “Chàng nổi tiếng hò hay, ứng đối giỏi,
nhưng phải tội mê trò đỏ đen. Một ngày nọ, chàng bị sạch túi, thất thểu trở
về nhà.

25


×