Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

KHẢO sát THÀNH NGỮ ẩn dụ TRONG TIẾNG VIỆT và TIẾNG ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.8 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA VIỆT NAM HỌC
------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT THÀNH NGỮ ẨN DỤ TRONG TIẾNG
VIỆT VÀ TIẾNG ANH

Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Khóa:

ThS. TRẦN THỊ THU VÂN
ĐỖ THỊ HÀ
VNHK9
2012 - 2016

Huế, 05/2016


Lời Cảm Ơn
Được sự phân công của Khoa Việt Nam học – Trường Đại học
Ngoại Ngữ Huế và sự đồng ý của Cô giáo hướng dẫn Thạc só Trần
Thò Thu Vân tôi đã thực hiện đề tài “Khảo sát thành ngữ ẩn dụ
trong tiếng Việt và tiếng Anh”.
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến tập thể thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng
dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở Trường
Đại học Ngoại ngữ Huế.


Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới
Thạc só - Trần Thò Thu Vân người đã tận tình, chu đóa hướng dẫn tôi
thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn
chỉnh nhất song vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp
và những người quan tâm để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 17 tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Đỗ Thò Hà


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Tần số xuất hiện của các loại thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt 38
Bảng 2: Tần số xuất hiện của các loại thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Anh 38
Bảng 3: Tần số xuất hiện của các yếu tố ngữ nghĩa dùng trong thành ngữ
ẩn dụ tiếng Việt và tiếng Anh.......................................................................39
Bảng 5: Tần số xuất hiện của các loài vật trong thành ngữ ẩn dụ tiếng
Anh..................................................................................................................41
Bảng 6: Tần số xuất hiện của các bộ phận cơ thể người trong thành ngữ
ẩn dụ tiếng Việt..............................................................................................43
Bảng 7: Tần số xuất hiện của các bộ phận cơ thể người trong thành ngữ
ẩn dụ tiếng Anh.............................................................................................44
Bảng 8: Thống kê tần số xuất hiện của thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ thói
hư tật xấu trong tiếng Việt và tiếng Anh.....................................................45


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1

1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...........................................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................................................4
4.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................................................4
4.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................................................4
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài.........................................................................................................................5
7. Kết cấu của đề tài........................................................................................................................................5

Chương 1..........................................................................................................5
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.......................................................5
1.1. Khái niệm thành ngữ................................................................................................................................6
1.1.1. Một số quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt.............................................................................6
1.1.2. Một số quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh.............................................................................7
1.1.3. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ.......................................................................................................8
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do trong tiếng Việt.................................................................12
1.2. Đặc điểm của thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh.........................................................................13
1.2.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ trong tiếng Việt..........................................................................13
1.2.2. Đặc trưng của thành ngữ trong tiếng Việt......................................................................................14
1.2.3. Đặc điểm của thành ngữ trong tiếng Anh.......................................................................................17
1.3. Phân loại thành ngữ...........................................................................................................................18
1.3.1. Phân loại thành ngữ trong tiếng Việt..............................................................................................18
1.3.2. Phân loại thành ngữ trong tiếng Anh..............................................................................................20

Chương 2........................................................................................................22
THÀNH NGỮ ẨN DỤ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH............22


2.1. Thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt..........................................................................................................22

2.2.1. Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng.......................................................................................................22
2.1.1.1. Đặc điểm chung và các quy tắc cấu tạo thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng..................................22
2.1.1.2. Các kiểu thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng trong tiếng Việt........................................................25
2.1.1.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng.........................................................28
2.1.2. Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng.................................................................................................29
2.1.2.1. Đặc điểm cấu trúc của thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng......................................................29
2.1.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng ..................................................31
2.2. Thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Anh..........................................................................................................33
2.2.1. Thành ngữ cố kết (Phraseological Fusions) ....................................................................................33
2.2.2. Thành ngữ hòa kết (Phraseological Unities)...................................................................................33
2.2.3. Thành ngữ liên kết (Phraseological Combodiations)......................................................................34
2.2.4. Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Anh............................................................35
2.3. Các yếu tố ngữ nghĩa dùng trong thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt và tiếng Anh..........................................35

Chương 3........................................................................................................38
KẾT QUẢ KHẢO SÁT.................................................................................38
3.1. Các loại thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Anh........................................................................38
3.2. Thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Việt và tiếng Anh...................................................39
3.2. Thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và tiếng Anh............................42
3.3. Thành ngữ ẩn dụ có yếu tố chỉ thói hư tật xấu trong tiếng Việt và tiếng Anh.......................................45
3.4. Đối chiếu kết quả khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Anh..........................................46

KẾT LUẬN....................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................50
PHỤ LỤC.........................................................................................................3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ trước đến nay ngôn ngữ luôn là phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất

không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng trong giao tiếp hằng ngày,
có nhiều tình huống khó có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ bình thường nên
người ta sử dụng một vài hình thức diễn đạt khác để thay thế. Một trong
những hình thức diễn đạt thay thế được người ta sử dụng nhiều nhất đó là
thành ngữ, bởi thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong vốn từ vựng của
mỗi ngôn ngữ, là sản phẩm tư duy trong mỗi cộng đồng người góp phần tạo ra
và lưu giữ được những nét văn hóa đặc sắc riêng cho mỗi dân tộc.
Với xu thế hội nhập hiện nay, tiếng Anh đang dần trở thành ngôn ngữ
chung của toàn thế giới, việc học tiếng Anh đang trở thành nhu cầu thiết yếu
đối với mỗi người Việt Nam. Bên cạnh đó, tiếng Việt của chúng ta cũng đang
được bạn bè quốc tế quan tâm tìm hiểu bởi sự phong phú đa dạng của nó.
Trong giao tiếp, thành ngữ được cả người Việt lẫn những người nói
tiếng Anh sử dụng thường xuyên như một thói quen hằng ngày. Đặc biệt,
thành ngữ không chỉ là một bộ phận quan trọng của ngôn ngữ mà nó còn phản
ánh rõ nét đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc nên thường gây khó khăn khi
học tập và dịch thuật một loại ngôn ngữ khác. Đối với những người dạy và
học ngoại ngữ thì việc hiểu được ý nghĩa và sử dụng chuẩn xác thành ngữ của
ngoại ngữ đang theo học như người bản ngữ là rất cần thiết.
Nhận thấy được sự cần thiết cũng như những khó khăn khi học thành
ngữ nói chung và thành ngữ ẩn dụ nói riêng. Cũng như để người học có cái
nhìn cụ thể hơn về thành ngữ ẩn dụ và nắm rõ cách phân loại chúng tôi quyết
định chọn đề tài “Khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng
Anh” để nghiên cứu.

1


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thành ngữ là một phạm trù rộng, hấp dẫn được rất nhiều các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong lịch sử đã có khá nhiều công

trình nghiên cứu khác nhau về thành ngữ dưới nhiều phương diện như: các
vấn đề liên quan đến thành ngữ, thành ngữ so sánh, đặc điểm – cấu trúc của
thành ngữ … nhưng chưa có ai tập trung khảo sát về thành ngữ ẩn dụ. Điển
hình như một số công trình sau:
Trong “Thành ngữ học Tiếng Việt”, giáo sư Hoàng Văn Hành đã chỉ ra
giá trị nghệ thuật sử dụng thành ngữ tiếng Việt. Đây là một công trình nghiên
cứu và sưu tập thành ngữ tiếng Việt lần đầu tiên có ở nước ta. Qua quyển sách
này, giáo sư Hoàng Văn Hành đã giúp cho người học có cái nhìn rõ hơn về
cách phân loại thành ngữ ẩn dụ và thành ngữ so sánh trong tiếng Việt. Đặc
biệt ở công trình này, ông đã sưu tầm một khối lượng lớn các thành ngữ ẩn
dụ, thành ngữ so sánh tiếng Việt và phân loại cụ thể giúp cho người học dễ
dàng tìm kiếm, sử dụng.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học của Nguyễn Việt Hòa,
Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009 với tên gọi “Tìm hiểu
vế so sánh thành ngữ so sánh trong tiếng Việt và tiếng Anh”. Trong công
trình này, tác giả đã nghiên cứu về thành ngữ so sánh ở khía cạnh cấu trúc và
ngữ nghĩa để thấy cách biểu hiện so sánh giúp người Việt Nam học tiếng Anh
lẫn người có bản ngữ là tiếng Anh từ đó chỉ ra được sự khác nhau trong tư
duy dân tộc giữa những người sử dụng tiếng Anh (người Anh và người Mĩ) và
người Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Khoa học ngôn ngữ, Nguyễn Thị Bảo, Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh, 2003 với tên gọi “Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật
trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)”. Trong công
trình này, tác giả đã tập hợp được một khối lượng tư liệu lớn hơn so với
những công trình có trước về những từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ. Dựa
2


vào công trình này mà người học biết được nhiều hơn về các câu thành ngữ về
động vật được sử dụng hằng ngày.

Bài nghiên cứu khoa học tại Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học
lần thứ VIII, Ngô Thị Nhàn, Đỗ Hoàng Oanh, Khoa Ngoại ngữ trường Đại
học Tôn Đức Thắng Tp. Hồ Chí Minh, 2008 – 2009 với đề tài “Đặc trưng
văn hóa ngôn ngữ qua so sánh thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh”. Qua bài
nghiên cứu, tác giả đã giải thích nguồn gốc văn hóa trong thành ngữ hai nước
trên 4 thành tố: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Đồng
thời đưa ra một số kiến nghị mới trong việc học ngoại ngữ: học thành ngữ kết
hợp trong các giáo trình nghe – nói – đọc – viết; dạy song song văn hóa Anh –
Mỹ - Việt trong chương trình.
Góp phần vào xây dựng khái niệm của thành ngữ, Nguyễn Văn Mệnh
khẳng định: “Thành ngữ là một loại đơn vị ngôn ngữ có sẵn. Chúng là những
ngữ có kết cấu chặt chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa nhất định, có chức
năng định danh và được tái hiện trong giao tế”. [3; tr.12]
Cuốn sách của tác giả Jennifer Seidl với tên gọi “English Idioms and
How to Use Them”, Oxford Univ Press, 1978, có thể được coi là cuốn sách cơ
bản khi thiết lập những khái niệm và cách hiểu về thành ngữ trong tiếng Anh.
“English Idioms in Use” của Michael McCarthy, Felicity O’Dell,
Cambridge University Press quan tâm đến thành ngữ như một khía cạnh hết
sức thú vị và vui nhộn của từ vựng. Nó giúp cho người đọc hiểu được nghĩa
của thành ngữ tiếng Anh, như cách tri nhận của ngời bản ngữ. Việc cung cấp
cách hiểu như vậy thực sự quan trọng trong quá trình dịch Anh – Việt và
ngược lại.
Tóm lại, các tác giả với các công trình nghiên cứu trên dù là ở phương
diện nào đều đã góp phần lớn vào việc nghiên cứu về thành ngữ nhưng hiện
chúng tôi chưa tìm thấy công trình nào tập trung khảo sát về thành ngữ ẩn dụ.
3


Vì vậy, chúng tôi hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ vào

việc nghiên cứu thành ngữ cũng như giúp ích được một phần nào đó cho
những người Việt đang học và sử dụng tiếng Anh cũng như những người nói
tiếng Anh đang học và sử dụng tiếng Việt.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng
Anh” chúng tôi nhằm đạt những mục đích sau:
- Đề tài mong muốn người học có cái nhìn cụ thể hơn về việc phân loại
cũng như tần số xuất hiện của thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Anh.
- Thông qua bài nghiên cứu giúp người học nâng cao vốn hiểu biết
cũng như khả năng sử dụng thành ngữ trong học tập cũng như trong giao
tiếp hằng ngày.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt
và tiếng Anh.
Dựa trên những thành ngữ khảo sát được có liên quan đến đề tài chúng
tôi tiến hành phân loại thành từng nhóm cụ thể theo tiêu chí của hai ngôn ngữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn khảo sát trong khoảng 300
thành ngữ trong tiếng Việt và các thành ngữ tương đương trong tiếng Anh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và
tiếng Anh” theo mục đích và nội dung nói trên, chúng tôi tiến hành tiếp cận
và khai thác đối tượng theo những phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập tổng hợp tài liệu: phương pháp này được thực
hiện bằng cách tra cứu và tìm đọc những tài liệu, những bài viết hay các công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trên mạng internet, thư viện …

4



- Phương pháp khảo sát thống kê: từ những thành ngữ thu thập được
tiến hành khảo sát và thống kê theo mục đích của đề tài.
- Phương pháp định lượng: từ những kết quả có được từ quá trình khảo
sát thống kê tiến hành phân tích những đặc điểm của thành ngữ từ đó phân
loại cụ thể theo từng tiêu chí.
- Phương pháp đối chiếu: nhằm mục đích tìm ra nét tương đồng và
khác biệt về cách phân loại thành ngữ ẩn dụ của hai ngôn ngữ trong kết cấu
cũng như cách sử dụng.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đề tài nghiên cứu“Khảo sát thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng
Anh” có ý nghĩa khoa học như sau:
Bài nghiên cứu này sẽ giúp cho người học ngoại ngữ tiếp cận và nắm rõ
hơn về cách phân loại thành ngữ, đặc biệt là thành ngữ ẩn dụ. Kết quả khảo
sát trong bài nghiên cứu có thể giúp cho người học ghi nhớ thêm được nhiều
thành ngữ cũng như hiểu biết thêm về văn hóa của mỗi quốc gia.
Đồng thời, qua kết quả khảo sát của bài nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi
hoàn thiện một tuyển tập nhỏ về phân loại thành ngữ ẩn dụ tiếng Việt và tiếng
Anh để giúp người học nâng cao được khả năng sử dụng thành ngữ trong học
tập cũng như trong quá trình giao tiếp hằng ngày.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Ngoài
ra còn có tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Trong phần nội dung, chúng tôi
dự kiến chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thành ngữ ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Anh
Chương 3: Kết quả khảo sát

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


5


1.1. Khái niệm thành ngữ
1.1.1. Một số quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng của mỗi ngôn ngữ. Nắm được
một ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp đòi hỏi phải hiểu và sử dụng
được thành ngữ của ngôn ngữ đó.
Quan niệm về thành ngữ ở các nhà nghiên cứu đều có sự khác biệt nhất
định, do đó có rất nhiều quan niệm về thành ngữ được đưa ra. Sau đây, chúng tôi
sẽ đưa ra một vài quan niệm về thành ngữ để giúp các bạn có thể hiểu rõ hơn.
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Thành ngữ là những cụm từ mà trong cơ
cấu cú pháp và ngữ nghĩa của chúng có những thuộc tính đặc biệt, chỉ có ở
cụm từ đó. Nói cách khác, thành ngữ là một cụm từ mà ý nghĩa của nó không
được tạo thành từ ý nghĩa của các từ cấu tạo nên nó”. [1]
Theo Hoàng Tất Thắng: “Thành ngữ là những cụm từ cố định có sẵn
trong ngôn ngữ mang chức năng định danh như từ dùng để gọi tên sự vật,
hiện tượng, trạng thái, hành động, tính chất … và có tính hình tượng”. [14]
Theo Hoàng Văn Hành: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền
vững về hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng
rộng rãi trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là khẩu ngữ”. [4]
Nguyễn Như Ý định nghĩa về thành ngữ: “Cụm từ hay ngữ cố định có
tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa
chung khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có
nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu”. [18]
Nguyễn Quan Tu quan niệm: “…Những thành ngữ là từ tổ cố định mà
từ trong đó có tính mất độc lập đến một trình độ cao, kết hợp làm thành một
thể vững chắc hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng
thành tố tạo ra. Những thành ngữ này có tính hình tượng hay có thể không có


6


tính hình tượng…Nghĩa của chúng khác nghĩa của các từ nhưng cũng có thể
cắt nghĩa do nguyên nhân như từ vựng học…”. [16]
Theo Đinh Trọng Lạc: “Thành ngữ là là những đơn vị định danh biểu
thị khái niệm nào đó dựa trên những hình ảnh, những biểu tượng cụ thể”. Ví
dụ như “Lừ khừ như ông từ vào đền” hay “xanh như tàu lá chuối”… [7]
Trên tạp chí Ngôn ngữ, Trương Đông San phát biểu: “Thành ngữ là
những cụm từ cố định. Có nghĩa hình tượng tổng quát không suy trực tiếp ý
nghĩa các tự vị tạo ra nó. Thành ngữ gồm có những đơn vị tạo ra nó đều mất
nghĩa đen và những đơn vị mang tính hình tượng bộ phận, trong đó một phần
mất nghĩa đen và một phần giữ nguyên nghĩa đen”. [12]
Mặc dù có nhiều quan điểm về thành ngữ, song tất cả đều nêu bật lên
được đặc điểm của thành ngữ đó là một cụm từ cố định có kết cấu ổn định,
chặt chẽ, bất biến, không thể tách rời nhau, là một đơn vị có sẵn trong kho từ
vựng và mỗi thành ngữ có một ý nghĩa nhất định, hoàn chỉnh dùng để gọi tên
sự vật, hành động, tính chất, trạng thái,… Theo tôi, tất cả các đặc điểm trên
của thành ngữ đều được gói gọn trong quan điểm của Giáo sư Hoàng Văn
Hành, đó là: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái
- cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong
giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là khẩu ngữ”.
1.1.2. Một số quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh cũng có khá nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ,
có thể kể đến một số quan niệm như sau:
Theo Cruse DA: “Thành ngữ (idiom) là một nhóm từ mà ý nghĩa của
nó không thể suy ra trực tiếp từ các đơn vị tạo ra nó”. [22; tr.37 – 38]
Theo Jennifer Seidl: “Một thành ngữ có thể được định nghĩa là một
nhóm từ khi xuất hiện cùng nhau và mang một ý nghĩa khác những ý nghĩa

của mỗi từ đơn.”

7


Theo Rosalind Ferguson: “Thành ngữ có thể được định nghĩa là một
cụm từ hoặc ngữ mà nghĩa của nó không thể hiểu ngay được từ nghĩa của các
thành tố cấu tạo nó.”
Trong English Idioms in use, Cambridge University Press, Michael
McCarthy và Felicity O’Dell nêu lên cách hiểu về thành ngữ như sau: “Thành
ngữ là sự diễn đạt mà nghĩa của chúng không thể hiểu bởi các từ riêng lẻ”.
Cũng như trong tiếng Việt, có khá nhiều quan niệm khác nhau về thành
ngữ trong tiếng Anh nhưng chúng đều có điểm chung. Các tác giả về cơ bản
cùng thống nhất với nhau ở kích thước lớn hơn từ của thành ngữ (đó là cụm
từ/ngữ) và nghĩa của thành ngữ không phải là sự cộng gộp đơn thuần của các
thành tố cấu tạo.
1.1.3. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
Thành ngữ và tục ngữ được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày
của nhân dân ta. Tuy nhiên, để hiểu đúng nghĩa một câu tục ngữ hay một
thành ngữ, nhất là phân biệt đâu là thành ngữ và đâu là tục ngữ cũng không
mấy dễ dàng với khá nhiều người. Muốn phân biệt được đâu là thành ngữ,
đâu là tục ngữ thì phải có căn cứ, có cơ sở khoa học và tiêu chí để phân định.
Vấn đề này, tại chuyên mục: “Diễn đàn nói và viết” của Tạp chí Ngôn ngữ
học Việt Nam đã nêu như sau: “Tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt
trọn vẹn một ý (ví dụ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng); còn thành ngữ chỉ
là một cụm từ, một thành phần câu, diễn đạt một khái niệm có hình ảnh (ví
dụ: Mẹ tròn con vuông)”. [19]
Trong “Bàn về thành ngữ, tục ngữ” của Lê Xuân Mậu, tác giả viết:
“Với những đơn vị “lưỡng tính” thực ra khó xác định được khởi nguồn của
nó là thành ngữ hay tục ngữ, gọi tất cả là “thành ngữ bị tục ngữ hoá” có thể

là không bao quát mọi trường hợp...” [10]

8


Trong “Thành ngữ Tiếng Việt” của tác giả Nguyễn Lực, Lương Văn
Đang cho rằng: “Sự phân biệt thành ngữ và tục ngữ từ xưa tới nay chủ yếu là
phân biệt về mặt nghĩa của mỗi thể loại. Tục ngữ là những lời quy phạm,
những câu khuyên răng về đối nhân xử thế, là những bài học kinh nghiệm về
lao động sản xuất, về nhận thức thế giới tự nhiên và đời sống xã hội bằng
những câu súc tích và ngắn gọn. Tục ngữ là những phán đoán. Thành ngữ là
sự miêu tả những hiện tượng tự nhiên và xã hội, là những khái niệm, những
đơn vị nghĩa sẵn có, được cô đúc chặt chẽ. Thành ngữ có nghĩa bóng bẩy.
Mặc dầu có sự khác nhau nhưng giữa chúng vẫn có điểm giống nhau. Bởi vì
khi thành ngữ lồng vào hay xen kẽ vào tục ngữ như:
- Ăn như rồng cuốn,
Nói như rồng leo,
Làm như mèo mửa
- Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo bộ long mới ngon”. [9; tr.22]
Theo Nguyễn Trọng Khánh: “Mỗi tục ngữ phản ánh một nhận thức,
một kinh nghiệm nào đó nên nội dung ý nghĩa của tục ngữ gần với một thông
báo hoàn chỉnh; chức năng của tục ngữ là chức năng thông báo. Trong khi
đó, mỗi thành ngữ chỉ diễn đạt một cách có hình ảnh và biểu cảm về một khái
niệm, sự vật, hiện tượng nào đó nên nội dung ý nghĩa của thành ngữ chỉ
tương đương với một tên gọi và thành ngữ chỉ có chức năng định danh mà
thôi”. [6]
Theo Vũ Ngọc Phan “Tục ngữ là một thể loại sáng tác ngang hàng với
các thể loại ca dao, dân ca tuy tác dụng của nó có khác; còn thành ngữ là
một cụm từ trơn tru, quen thuộc, được dùng trong câu nói thông thường cũng

như được dùng trong tục ngữ, ca dao, dân ca. Nếu kể cấp bậc thì thành ngữ
ngang hàng với từ”. [12]

9


Theo Cú Đình Tú ở bài viết “Góp ý kiến về phân biệt tục ngữ và thành
ngữ” đã dùng chức năng làm tiêu chí phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Ông
viết: “Thành ngữ là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, nói
khác đi dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động …” và “Tục ngữ đứng về
mặt ngôn ngữ học có chức năng khác hẳn với thành ngữ. Tục ngữ cũng như
các sáng tạo khác của văn học dân gian như ca dao, truyện cổ tích đều là
thông báo. Nó thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện
nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mỗi tục ngữ đọc lên là một câu hoàn
chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng. Đó cũng là lí do giải thích tục ngữ có
cấu tạo là các kết cấu hai trung tâm”. [17]
Từ những phân biệt về thành ngữ và tục ngữ ở trên, chúng tôi thấy rằng
khó có một ranh giới cụ thể nào giữa thành ngữ và tục ngữ. Chúng vừa có mối
quan hệ qua lại với nhau lại vừa có sự phân biệt, mỗi bên đều có ưu điểm
riêng. Tuy nhiên thành ngữ và tục ngữ không phải không có những điểm
chung khi xét về nguồn gốc và cấu tạo ngữ nghĩa. Thứ nhất, cả thành ngữ và
tục ngữ đều là những đơn vị có sẵn được hình thành trong đời sống hằng ngày
của người dân lao động, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Thứ hai,
xét về mặt từ vựng, cả tục ngữ và thành ngữ đều mang tính cố định đối với
các yếu tố từ vựng cấu thành, chúng thường xuất hiện trong các lời nói theo
một chuỗi cố định. Thứ ba, cả thành ngữ và tục ngữ đa phần đều có nghĩa đen
và nghĩa bóng. Chúng ta có thể thấy được những nét đồng nhất và khác biệt
giữa thành ngữ và tục ngữ qua bảng sau:
Nội dung
Thành ngữ

Tục ngữ
Đặc trưng về hình Tổ hợp từ cố định Câu (phát ngôn) cố định
thái cấu trúc, có vần (hoặc kết cấu chủ vị), (cả đơn và phức), quan
điệu, có đối điệp
quan hệ hình thái
hệ cú pháp
Chức năng biểu hiện Định danh sự vật, hiện Định danh sự tình, sự
nghĩa định danh
tượng, quá trình ...
kiện, tình huống
Chức năng biểu hiện Biểu thị khái niệm Biểu thị phán đoán bằng
10


hình thái nhận thức

bằng hình ảnh biểu hình tượng biểu trưng
trưng
Hai tầng ngữ nghĩa Hai tầng ngữ nghĩa được
được tạo bằng phương tạo bằng phương thức so

Đặc trưng ngữ nghĩa

thức so sánh và ẩn dụ sánh và ẩn dụ hóa

hóa
Cũng giống như tiếng Việt, trong tiếng Anh cũng có khá nhiều quan
niệm trái chiều về việc phân biệt thành ngữ với tục ngữ. Nhà ngôn ngữ học
V.V. Vinogradov và các nhà ngôn ngữ học đã đồng ý với ý kiến cho rằng tục
ngữ phải được nghiên cứu cùng với thành ngữ. Bởi tục ngữ (proverb) là

những câu nói ngắn gọn, quen dùng, trào phúng, diễn tả trí tuệ, sự thật hay bài
học có giá trị tinh thần, luân lí mang tính hình tượng. Tục ngữ có nhiều nét
tương đồng với thành ngữ bởi các yếu tố tạo nên tục ngữ cũng vĩnh hằng, bất
biến. Nghĩa của tục ngữ mang tính truyền thống lâu đời, hầu hết đều mang
nghĩa bóng. Tục ngữ cũng giống như thành ngữ cũng là những lời nói có sẵn.
Một số nhà ngôn ngữ khác như J. Casares và N.N. Amosova lại nghĩ
rằng nên nghiên cứu tục ngữ như những đơn vị giao tiếp độc lập ngoài hệ
thống ngôn ngữ. N.N.Amosova còn cho rằng không có lý do gì coi tục ngữ
như một bộ phận của thành ngữ bởi vì tục ngữ không theo bất kỳ một quy luật
ngôn ngữ nào cả.
Có lý do khác để chứng tỏ tục ngữ phải được xem xét, nghiên cứu cùng
với thành ngữ. Tục ngữ cùng với thành ngữ giúp hình thành nên cụm từ cố
định. Chẳng hạn như tục ngữ The last straw breaks the camel’s back (tức
nước vỡ bờ) sẽ là cơ sở để hình thành nên thành ngữ: The last straw (vật cứu
mạng) như trong ví dụ: “A drowning man will clutch at the last straw” (kẻ
chết đuối sẽ vớ lấy phao cứu mạng).
Thành ngữ và tục ngữ đôi khi cùng được tách ra và thay đổi theo mục
đích khôi hài hay hài hước.Ví dụ, tục ngữ All is not gold that glitters (chớ

11


thấy lấp lánh mà ngỡ là vàng) kết hợp với nghĩa bóng của thành ngữ golden
age (thời son vàng) hình thành nên câu nói hài hước: “It will be an age not
perhaps of gold, but at least of glitter” (Đó không phải là thời kỳ “vàng son”
nhưng ít nhất cũng là thời kỳ “rực rỡ”).
Khác với tục ngữ, thành ngữ đôi khi mang tính phi logic mà thành ngữ
holy terror (đứa bé lì lợm) là một ví dụ.
1.1.4. Phân biệt thành ngữ với cụm từ tự do trong tiếng Việt
Thành ngữ vốn bắt nguồn từ cụm từ tự do nên việc phân biệt thành ngữ

với cụm từ tự do là một công việc khó khăn. Đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này và đi đến ý kiến thống nhất. Theo tác giả Nguyễn
Thiện Giáp, thành ngữ khác với cụm từ tự do trước hết ở tính chỉnh thể về ý
nghĩa và tính phi cú pháp về cấu trúc.
Qua các phân loại theo mức độ cố định của cụm từ như trên cho thấy
thành ngữ phân biệt với cụm từ tự do ở một số điểm sau:
Thành ngữ
Cụm từ tự do
Là đơn vị ngôn ngữ có sẵn, có cấu Là một kết hợp tạm thời, mỗi lần
trúc bền vững luôn được tái hiện dưới dùng đều được cấu tạo mới và chỉ tồn
dạng có sẵn cùng với một thành phần tại trong phạm vi một văn cảnh nhất
yếu tố cố định. Thành ngữ không thể định. Những bộ phận cấu thành cụm
bỏ đi hay thay thế bất kì yếu tố nào từ tự do có thể được thay thế bằng
mà không phá vỡ nghĩa của toàn thể những từ khác cùng loại, chỉ làm tăng
thành ngữ.

giảm nghĩa của từ cụ thể còn nghĩa

của cụm từ không bị phá vỡ.
Thường có ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ, Nghĩa của cụm từ tự do là nghĩa tổng
không thể suy trực tiếp từ nghĩa của hợp của các từ riêng lẻ.
các yếu tố cấu thành.
Có chức năng định danh hiện tượng, Có chức năng định danh như thành
sự vật, tính chất, trạng thái … nhưng ngữ nhưng không có giá trị hình ảnh,
mang giá trị hình ảnh biểu cảm.

biểu cảm.
12



Thành ngữ thường có tổ chức âm Sự kết hợp chỉ phục tùng những
điệu, tiết tấu của toàn cấu trúc.

chuẩn mực từ vựng, ngữ pháp.

Từ những sự phân biệt trên, có thể thấy được sự khác biệt rõ nét giữa
thành ngữ và cụm từ tự do. Trong khi thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ có sẵn,
thường có ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ, có chức năng định danh, mang giá trị biểu
cảm thì cụm từ tự do lại là một kết hợp tạm thời, thường là nghĩa tổng hợp
của các từ riêng lẽ, có chức năng định danh nhưng không có giá trị biểu cảm.
1.2. Đặc điểm của thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh
1.2.1. Đặc điểm cấu tạo của thành ngữ trong tiếng Việt
Thành ngữ được cấu tạo bởi các âm tiết. Một thành ngữ phải được cấu
tạo từ 3 âm tiết trở lên. Nếu xét riêng về kết cấu ngữ pháp thì một thành ngữ
có thể cấu tạo là một cụm từ hoặc có cấu tạo là một câu. Nhưng dù là cấu tạo
ở dạng nào thì thành ngữ vẫn luôn hoạt động ổn định dưới dạng nguyên khối,
tương đương với từ, giống như một đơn vị từ vựng có sẵn trong ngôn ngữ.
Luận văn thạc sĩ khoa học ngôn ngữ của Phan Thanh Phương, Đại học
Khoa học, Đại học Huế, 2009 với đề tài “Đối sánh thành ngữ có yếu tố chỉ
loài vật trong tiếng Trung và tiếng Việt” đã phân loại thành ngữ theo số lượng
âm tiết trong tổng số 3552 thành ngữ tiếng Việt dựa vào “Thành ngữ tiếng
Việt” của Nguyễn Lực, Lương Văn Đang như sau:
STT
1
2
3
4
5
6
7

8

Âm tiết

Số

Tỉ lệ

3 âm tiết
4 âm tiết
5 âm tiết
6 âm tiết
7 âm tiết
8 âm tiết
9 âm tiết

lượng
242
1865
239
1110
44
48
3

(%)
6,81
52,49
6,73
31,24

1,24
1,35
0,08

Ăn như mèo
Đầu trâu mặt ngựa
Đũa móc chòi mâm son
Vừa đánh trống vừa la làng
Miệng nam mô bụng bồ dao găm
Đổ mồ hôi trán, dán mồ hôi lưng
Thấy người ăn khoai cũng vác mai

0,03

đi đào
Phật nhà chẳng cầu đi cầu thích ca

10 âm tiết

1

13

Ví dụ


ngoài đường
Tổng

3552


100

Xét về lượng âm tiết trong cấu trúc trong bảng phân loại trên, thành
ngữ có cấu tạo âm tiết chẵn chiếm ưu thế về số lượng, đặc biệt là thành ngữ
có 4 và 6 âm tiết tạo nên sự cân đối nhịp nhàng và hài hòa về âm điệu.
Dựa vào công trình nghiên cứu về kết cấu của thành ngữ tiếng Việt của
tác giả Nguyễn Lực – Lương Văn Đang trong “Thành ngữ tiếng Việt” và của
tác giả Hoàng Văn Hành trong “Thành ngữ học tiếng Việt” chúng tôi phân
loại bao quát về cấu trúc thành ngữ như sau:
Xét về mặt kết cấu hình thái: thành ngữ có cấu tạo là một cụm từ cố
định hay một câu, có kết cấu vững chắc, tương đương với từ, giống như một
đơn vị từ vựng có sẵn trong ngôn ngữ. Ví dụ như: mèo mù vớ cá rán, ếch ngồi
đáy giếng…Nếu thay đổi vị trí, trật tự từ hay thay thế bằng một từ đồng nghĩa
khác thì kết cấu câu sẽ bị phá vỡ, ý nghĩa sẽ bị thay đổi và không còn giá trị
của một thành ngữ nữa.
Xét về mặt ngữ pháp: thành ngữ có đặc điểm là một cụm từ cố định có
giá trị tương đương như một từ nên khi thành ngữ được sử dụng như một
mệnh đề, một ngữ cố định nào đó trong câu phức hợp thì nó có giá trị như
một cụm chủ vị. Nhưng không phải thành ngữ nào cũng là cụm từ chủ vị cố
định, khi vận động nó cũng có thể biến thể hoặc khi thành ngữ là cụm từ cố
định không có chủ vị rõ ràng như: da mồi tóc sương, nụ cà hoa mướp….
Xét về mặt biểu hiện nghĩa: một bộ phận thành ngữ tiếng Việt có tính
đa nghĩa, nhưng trong đó nghĩa bóng có tầm quan trọng hơn cả. Nghĩa này có
tính khái quát tượng trưng cho toàn bộ tổ hợp, thế nhưng nó không phải là
tổng số nghĩa của các thành tố cộng lại. Nhắc đến nghĩa bóng, nghĩa là nhắc
đến nhiều phương thức biểu hiện của thành ngữ như: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh,
khoa trương, hình tượng … Nghĩa bóng là đặc tính bản chất của thành ngữ.
1.2.2. Đặc trưng của thành ngữ trong tiếng Việt
14



a. Tính thành ngữ
Một tổ hợp được coi là có tính thành ngữ khi ý nghĩa chung của nó là
một cái gì mới, khác với tổng số ý nghĩa của những bộ phận tạo thành. Vì các
khái niệm nghĩa và ý nghĩa chưa được làm sáng tỏ cho nên có thể sử dụng yếu
tố tương đương để định nghĩa tính thành ngữ. Một tổ hợp được coi là có tính
thành ngữ nếu trong đó có ít nhất một từ khi dịch toàn bộ tổ hợp người ta phải
dịch từ ấy bằng một yếu tố mà yếu tố đó chỉ tương đương với từ ấy khi từ ấy
xuất hiện đồng thời với tất cả các yếu tố còn lại của tổ hợp. Thêm vào đó, từ
này có thể được gặp cả khi không có các yếu tố còn lại và khi ấy nó được dịch
bằng một yếu tố khác.
b. Tính biểu trưng
Đây là một đặc trưng rất cơ bản của thành ngữ, chúng ta đều biết rằng,
hầu hết các thành ngữ đều là bức tranh thu nhỏ về những sự vật riêng lẻ, cụ
thể được nâng lên để nói cái phổ biến, cái khái quát, trừu tượng.
Sự vay mượn các đối tượng khác nhau trong đời sống để ví von hay
biểu đạt một ý nghĩa làm cho thành ngữ trở nên sinh động, sâu xa và cô động.
Đó là những ẩn dụ “múa rìu qua mắt thợ”, hay hoán dụ “một nắng hai
sương”, hoặc so sánh “ác như hùm” …
Thành ngữ lấy những vật thật, việc thật trong cuộc sống để biểu trưng
cho những đặc điểm, tính chất, hoạt động… và do đó thành ngữ thường mang
tính biểu trưng cao.
c. Tính dân tộc
Dưới góc độ của một người học ngoại ngữ thì tính dân tộc của thành
ngữ là một rào cản lớn của việc phân tích nghĩa bởi thành ngữ là hệ thống các
yếu tố phản ánh tư duy dân tộc và đời sống của một dân tộc. Vì thế không có
thành ngữ nào có thể vượt ra ngoài không gian thời gian mà không gắn liền
với các điều kiện lịch sử của một xã hội và các truyền thống văn hóa của một


15


tập người nhất định. Cho nên, trong ngôn ngữ, thành ngữ đều mang tính đặc
thù, cá biệt và đặc biệt là mang tính dân tộc rất cao.
Chẳng hạn, sự xuất hiện của các hình ảnh động vật như “vịt” trong
“nước đổ đầu vịt”, “trâu” trong “đàn gẩy tai trâu”, “chuột” trong “cháy
nhà ra mặt chuột” trong thành ngữ của một dân tộc sẽ phản ánh cuộc sống
nông nghiệp của dân tộc đó. Hay các hình ảnh như: “gầu dai” trong “miệng
như gầu dai”, “mo” trong “mặt dày như mo” sẽ phản ánh đến cách tư duy
của một dân tộc là hay dùng lối nói so sánh.
d. Tính hình tượng và tính cụ thể
Tính hình tượng của thành ngữ là kết quả tất yếu của tính biểu trưng.
Nhờ tính hình tượng mà thành ngữ thường mang lại những tác động mạnh
mẽ, thú vị, minh triết, càng ngẫm càng hiểu thâm ý sâu xa của nó.
Do có tính hình tượng nên thành ngữ là cụ thể. Vì ý nghĩa của thành
ngữ thường vượt khỏi ý nghĩa trực tiếp của các hiện tượng, sự vật, nên chúng
lại có giá trị phổ biến và khái quát. Vậy nên, dường như trong thành ngữ có
sự trái ngược giữa tính cụ thể và tính khái quát phổ biến.
e. Tính biểu thái
Nội dung của thành ngữ toát lên tính đa dạng, phong phú của tất cả các
mặt trong đời sống, vì vậy nó luôn thể hiện những thái độ, sự đánh giá, sự ái
ngại, sự chê bai, sự phủ định, sự khen chê hay phê phán … của chúng ta đối
với người, sự vật được nói tới.

16


1.2.3. Đặc điểm của thành ngữ trong tiếng Anh
Thành ngữ có những đặc điểm riêng biệt. Những đặc điểm riêng này

giúp củng cố tính liên kết và độ bền vững của thành ngữ. Đó là tính uyển ngữ,
hình tượng và hàm ẩn. Khi nghiên cứu thành ngữ chúng ta nhận thấy thành
ngữ rõ ràng có tính vần điệu, lập vần và tính biểu trưng. Thành ngữ còn nêu
lên sự tương phản.
Các đặc điểm trên của thành ngữ được các nhà ngôn ngữ học phân tích
dựa vào quan điểm phong cách học và tính biểu cảm của thành ngữ. Chức
năng của thành ngữ ít được các nhà ngôn ngữ học chú ý đến. Những đặc điểm
này của thành ngữ đảm bảo sự tương tác giữa các thành tố của thành ngữ xảy
ra ở mức độ cao nhất. Còn đặc điểm hàm ẩn, uyển ngữ cũng giúp ngăn không
cho sự thay thế thành tố trong thành ngữ xảy ra. Bởi nếu có bất kì sự thay thế
nào xảy ra trong bản thân thành ngữ thì tính uyển ngữ của thành ngữ đó sẽ bị
phá vỡ.
Tính vần điệu là đặc điểm phổ biến của mọi thành ngữ. Trong thành
ngữ “far and wide” (xa xôi cách trở) tính vần điệu thể hiện rất rõ nét.
Lập vần cũng là một trong các đặc điểm của thành ngữ. tính lập vần thể
hiện rõ trong các thành ngữ như: more and more (càng lúc càng), on and on
(liên tục, không ngừng), one by one (từng thứ một, lần lượt),…
Trong nhiều thành ngữ còn xuất hiện hiện tượng điệp âm đầu, ví dụ
như trong các thành ngữ: part and parcel (phần thiết yếu), with might and
main (với tất cả sức mạnh), in for a penny, in for a pound (phóng lao phải
theo lao) …
Những thành ngữ mang tính lập vần, điệp âm đầu thường có những
thành tố cổ. Chúng chỉ được sử dụng ở thành ngữ này mà không thấy được sử
dụng ở những thành ngữ khác. Trong thành ngữ “with might and main” thì
“main” là từ đồng nghĩa cổ ở “might”.
Đối với những thành ngữ có hiện tượng điệp âm đầu, lặp vần khi một
thành tố trở nên lạc hậu, lỗi thời không còn được sử dụng nữa thì hiện tượng
biến nghĩa của từ sẽ xảy ra trong thành ngữ.
17



Một đặc điểm quan trọng khác mà các nhà ngôn ngữ học hầu như đều
thừa nhận là thành ngữ còn mang tính lịch sử, điển tích. Thành ngữ và những
câu chuyện của chúng đều tạo nên sự sung sướng, niềm hạnh phúc cho bất cứ
ai nghe hay sử dụng chúng.
Cũng như các thành ngữ tiếng Việt, khi nghiên cứu thành ngữ các nhà
ngôn ngữ học cho rằng thành ngữ tiếng Anh cũng thể hiện đậm nét đặc trưng
văn hóa dân tộc của người Anh và người Mỹ. Nhà thờ, than đá, tính thực tế,…
của người Anh – Mỹ được thể hiện qua các thành ngữ so sánh của họ. Ví dụ
như: As poor as a church mouse (nghèo như chuột nhà thờ), As black as coal
(đen như than đá), As dark as midnight (tối như nửa khuya)…
Nếu như trước đây người Anh – Mỹ lấy hình tượng vị vua Croesus làm
biểu tượng của sự so sánh về sự giàu có: As rich as Croesus (giàu như vị vua
Croesus) thì ngày nay người Anh – Mỹ lại chọn nhà tỉ phú Rockefeller: As
rich as Rockefeller (giàu như tỉ phú Rockefeller). Điều đó cho thấy tính thực
tế của các thành ngữ tiếng Anh như đã nêu ở trên.
1.3. Phân loại thành ngữ
Có nhiều cách phân loại thành ngữ. Do đặc điểm ngôn ngữ không
giống nhau nên cách phân loại thành ngữ ở mỗi ngôn ngữ là khác nhau.
1.3.1. Phân loại thành ngữ trong tiếng Việt
Theo giáo sư Hoàng Văn Hành trong “Thành ngữ học tiếng Việt” thì
thành ngữ tiếng Việt được phân loại dựa vào sơ đồ sau:

18


THÀNH NGỮ

Thành ngữ so sánh


Thành ngữ ẩn dụ hóa

a. Thành ngữ so sánh
Thành ngữ ẩn dụ
Thành ngữ ẩn dụ
Thành ngữ so sánh là loại thành ngữa bao gồm những thành ngữ có cấu
hóa phi đối xứng
hóa đối xứng
trúc là một cấu trúc so sánh, kiểu như: lạnh như tiền, ngang như cua… Mô
hình tổng quát của thành ngữ so sánh: A ss B. Trong đó, A là vế được so
sánh, B là vế đưa ra để so sánh, ss là từ so sánh: như, bằng, tựa … Tuy vậy,
sự hiển diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dang, không phải
lúc nào ba phần trong cấu trúc cũng đầy đủ.
Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiển diện
trên cấu trúc hình thức, nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được
nhận ra. A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc trạng
thái hành động nào đó, rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.
Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiển diện, một mặt để thuyết minh, làm
rõ cho A, một mặt nó lại chỉ bộc lộ ý nghĩa của mình trong khi kết hợp với A.
Các sự vật, hiện tượng, trạng thái được nêu ở B phản ánh khá rõ nét những
dấu ấn về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam.
b. Thành ngữ ẩn dụ hóa
Thành ngữ ẩn dụ hóa trong tiếng Việt có hai dạng là thành ngữ ẩn dụ
nhân cách và thành ngữ ẩn dụ vật hóa. Có hai kiểu cấu tạo chính là thành ngữ
ẩn dụ hóa đối xứng và thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng.
Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng là loại thành ngữ phổ biến nhất trong
tiếng Việt. Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng gồm bốn yếu tố, thành lập thành 2
vế đối xứng nhau; mỗi vế về 2 yếu tố. Phép đối xứng được xây dựng trên hai
bình diện: đối ý và đối lời.


19


Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng được cấu tạo theo hai kiểu phổ biến
là: những kết cấu ngữ pháp gồm 1 trung tâm (kết cấu danh ngữ, động ngữ,
tính ngữ) và những kết cấu ngữ pháp có 2 trung tâm (kết cấu chủ - vị).
1.3.2. Phân loại thành ngữ trong tiếng Anh
Trong tiếng Anh người ta phân loại thành ngữ dựa trên quan điểm ngữ
nghĩa và quan điểm chức năng.
Dựa vào các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học từ trước
đến nay như A.V. Koonin, N.N. Amosova có thể phân loại thành ngữ theo
quan điểm ngữ nghĩa ra làm ba loại như sau:
Thành ngữ cố kết (Phraseological Fusions) là thành ngữ thể hiện mức
độ cao nhất của sự hòa kết. Ví dụ như: tit for tat (ăn miếng trả miếng),
gobbledegook (văn phong dài lê thê),…
Thành ngữ hòa kết (Phraseological Unities) là thành ngữ mà nét biểu
cảm của thành ngữ do nét nghĩa chung của các thành tố tạo nên. Ví dụ như: to
stick to one’s (đứng trước mũi súng), to know the way the wind is blowing
(gió chiều nào theo chiều ấy)…
Thành ngữ liên kết (Phraseological Combinations) là thành ngữ mang
tính bền vững rất cao. Ví dụ như: small talks, small hours, small change …
Theo quan điểm chức năng, A.V. Koonin chia thành ngữ trong tiếng
Anh thành các loại sau:
- Thành ngữ mang chức năng danh cách: a cat on hot bricks (bồn chồn,
thấp thỏm như ngồi trên lửa), a bull in a china shop (vụng về, lóng ngóng)
- Thành ngữ mang chức năng cảm cách: a pretty kettle of fish (tình thế
khó xử, rối ren)
- Thành ngữ mang tính giao tiếp cách: familiarity breeds contempt
(thân qua hóa lờn)
- Thành ngữ danh cách – giao tiếp cách: pull someone’s leg (chế giễu,

chọc ai)

20


×