Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

skkn giáo viên chủ nhiệm lớp trong công việc rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.1 KB, 33 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Giáo viên chủ nhiệm lớp trong công việc rèn luyện phương pháp tự học
cho học sinh THCS
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác chủ nhiệm
3. Tác giả:
Họ và tên: Lê Thị Hạnh
Nữ
- Ngày tháng/ năm sinh: 08 tháng 12 năm 1972
- Trình độ chuyên môn: Đại học
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Cộng Hòa - Thị xã
Chí Linh - Tỉnh Hải Dương.
- Điện thoại: 01684475098
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Cộng Hòa.
- ĐT: 03203.882.669
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Trường THCS Cộng Hòa - Thị xã Chí
Linh - Tỉnh Hải Dương. Điện thoại : 03203.882.669
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên chủ nhiệm hiểu, nắm chắc nhiệm vụ, vai trò của công tác chủ
nhiệm lớp.
- Trường có sự phân hóa đối tượng học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm, học hỏi đồng nghiệp và được tham
gia các lớp tập huấn về công tác chủ nhiệm.
- Giáo viên đã từng chủ nhiệm và giảng dạy các đối tượng học sinh.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Đầu năm học: 2014-2015.
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
(Ký, ghi rõ họ tên)
SÁNG KIẾN

TÓM TẮT SÁNG KIẾN


Mục tiêu giáo dục của chúng ta là: “Trường học thân thiện, học sinh tích
cực” đó là phải phát huy được năng lực thực sự, sự chủ động trong hoạt động
học tập của học sinh đặc biệt là đối tượng học sinh trung bình - yếu. Nhà trường,
các thầy cô giáo, phụ huynh học sinh và ngay cả chính các em học sinh đã họp
bàn, đưa ra kế hoạch, biện pháp và nghiêm túc thực hiện song kết quả chưa thực
1


sự được ghi nhận. Đứng trước thực trạng này, tôi thực sự băn khoăn, trăn trở và
đã mạnh dạn đề xuất, thực hiện sáng kiến: “Giáo viên chủ nhiệm lớp trong công
việc rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh THCS”. Bằng sự hiểu biết, nắm
chắc nhiệm vụ, vai trò của công tác chủ nhiệm lớp, bằng kinh nghiệm chủ nhiệm
mấy chục năm, sự nhiệt tình học hỏi đồng nghiệp và được tham gia các lớp tập
huấn về công tác chủ nhiệm cùng với điều kiện nhà trường có sự phân hóa đối
tượng học sinh, tôi bắt tay vào thực hiện sáng kiến ngay từ đầu năm học 20142015. Đối tượng áp dụng sáng kiến là lớp TB-Y trong nhà trường, vì đây thực sự
là đối tượng khó khăn cho công tác chủ nhiệm. Các em vừa yếu về học lực, vừa
có hạnh kiểm chưa ngoan, các phương pháp, kỹ năng học tập hầu như không có,
tinh thần cố gắng chưa cao, ý thức học tập rất yếu,...Nhưng tôi đã vượt lên tất cả
những khó khăn trên để quyết tâm thực hiện bằng được sáng kiến này.
Điều mà chính tôi và các thầy cô giáo ghi nhận ở sáng kiến này đó là tính
mới và sáng tạo của nó so với những phương pháp giáo dục trước đây.
Thứ nhất, phương pháp tự học nó quyết định đến chất lượng học tập, ảnh
hưởng trực tiếp đến kỹ năng, thói quen, nề nếp, ý thức học tập của học sinh. Nếu
học sinh mà có phương pháp tự học đúng đắn, phù hợp thì các em sẽ chủ động
nắm bắt kiến thức một cách thực sự, sẽ ham thích học tập và có chí hướng phấn
đấu, sẽ không còn phải ép học, học qua loa, đối phó, học không thực chất. Các
em sẽ tự xác định việc học là nhiệm vụ của mình và tự giác thực hiện nhiệm vụ
đó một cách không miễn cưỡng, không ép buộc.
Thứ hai, các giải pháp mà tôi đưa ra giúp người GVCN thực sự làm tròn
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. GVCN không chỉ với công việc rèn nề

nếp về mọi mặt cho học sinh mà trực tiếp tham gia vào nâng cao chất lượng giáo
dục. Để thực hiện có hiệu quả phương pháp tự học, GVCN đã huy động được
toàn bộ các đối tượng trong nhà trường và phụ huynh cùng tham gia tích cực,
tạo sự đồng bộ cho giải pháp. Từ trước, mọi người đều nghĩ việc tự học là
chuyện của học sinh và GVCN nhưng nhờ sáng kiến này đã làm cho mọi đối
tượng đều thấy rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền lợi của mình để tự giác thực
hiện có hiệu quả cao. Và điều quan trọng hơn nữa khi thực hiện sáng kiến này
người GVCN trong mắt học sinh không còn là những con người máy móc, khô
khan, suốt ngày với những câu trách phạt học sinh mà thầy cô trở lên gần gũi,
thân thiện, chỗ dựa tin cậy; hướng dẫn, chỉ bảo chu đáo, được các em và phụ
huynh yêu quý, kính trọng, tin tưởng. Và chính nhờ đó mà việc rèn luyện các em
càng thêm thuận lợi hơn.
Cùng với tính mới, tính sáng tạo thì khả năng áp dụng sáng kiến rất khả thi.
Sáng kiến được áp dụng cho các đối tượng, đặc điểm khác nhau. Đối với các nhà
trường, để hoàn thành nhiệm vụ năm học là nâng cao chất lượng dạy học thì
không còn con đường nào khác là phải rèn cho học sinh phương pháp tự học.
Nhà trường mở chuyên đề rèn phương pháp tự học để mọi thầy cô và học sinh
được học tập. Sau mỗi giai đoạn đều có sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả
2


chuyên đề để rút kinh nghiệm và thực hiện tiếp theo. Đối với các thầy cô giáo,
thì tinh thần tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ là yêu cầu rất quan
trọng trong xu thế dạy học ngày nay. Mỗi thầy cô là tấm gương sáng cho tinh
thần tự học. Xã hội ngày càng phát triển, kiến thức ngày càng nâng cao, do vậy,
các thầy cô giáo luôn phải tự học hỏi, trau dồi kiến thức để đáp ứng sự phát triển
của xã hội, để noi gương tốt cho các em. Đối với các thầy cô giáo chủ nhiệm, áp
dụng sáng kiến này với các đối tượng học sinh trong nhà trường. Còn đối với
thầy cô giáo bộ môn phối hợp cùng với GVCN hình thành và rèn phương pháp
trong từng tiết dạy. Đối với các em học sinh thì việc tiếp cận phương pháp tự

học không khó, trước tiên các em hiểu lí thuyết của phương pháp tự học và sau
đó dưới sự hướng dẫn của GVCN, các em vận dụng vào thực hành tại lớp và ở
nhà dần dần, sau đó hình thành thói quen tự học. Cuối cùng, đối với phụ huynh
học sinh, việc theo dõi, quản lí, giám sát, nhắc nhở con em mình học tập thường
xuyên, có trách nhiệm; thông tin, liên lạc với GVCN, GVBM là rất cần thiết.
Như vậy, tính khả thi của sáng kiến này là mọi công việc đối với mỗi đối tượng
là không quá khó, không mất nhiều thời gian nghiên cứu, chỉ cần các đối tượng
thực hiện một cách đồng bộ và nghiêm túc là sẽ đạt kết qảu cao.
Qua thời gian khoảng 5 tháng thực hiện sáng kiến, từ đầu năm học đến
hết kì 1 năm học 2014-2015, tôi nhận thấy lợi ích thiết thực của sáng kiến. Giờ
đây khi tôi và các thầy cô giáo bộ môn bước vào lớp thuộc đối tượng Tb-Y
không còn cảm thấy khó chịu, mất hứng thú giảng dạy mà thay vào đó là những
gương mặt vui tươi, tinh thần hăng hái học tập, ý thức nề nếp tốt lên hẳn. Cuối
kì 1, không có học sinh kém, học lực Tb tăng lên rất nhiều, lớp đạt danh hiệu
Tập thể học sinh TT xuất sắc. Tôi thiết nghĩ trong thời gian tới, với việc tiếp tục
áp dụng sáng kiến, lớp chủ nhiệm của tôi sẽ có những bước tiến khả quan hơn.
Tóm lại, sáng kiến “Giáo viên chủ nhiệm lớp trong công việc rèn luyện
phương pháp tự học cho học sinh THCS” của tôi đã mang lại giá trị và kết quả
đáng ghi nhận trong công tác chủ nhiệm được mọi người ở trường ghi nhận.
Sáng kiến này đã giúp bản thân tôi và sẽ giúp các GVCN, GVBM khác có thể dễ
dàng hoàn thành công tác chủ nhiệm và giảng dạy của mình. Do vậy, tôi thiết
mong các cấp ngành Giáo dục ghi nhận sáng kiến của tôi và mở rộng, áp dụng
để sáng kiến được nhân rộng ra nhiều người, nhiều trường, giúp các nhà trường
nâng cao chất lượng giáo dục, giúp GVCN, GVBM tháo gỡ được những khó
khăn trong quá trình chủ nhiệm và giảng dạy của mình.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

3



Để thực hiện tiêu chí “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” và
phát triển năng lực của học sinh, nhà trường, GVCN, GVBM và sự phối hợp của
phụ huynh học sinh đã họp bàn, thảo luận đưa ra nhiều biện pháp để nâng cao
chất lượng học tập cho học sinh. Song hiệu quả chưa cao, chưa thực sự nâng cao
chất lượng học tập của học sinh. Đây là vấn đề rất quan trọng mà tất cả mọi nhà
trường, ngành GD phải chú trọng. Vậy làm thế nào để khắc phục được thực
trạng học tập như thế này cho học sinh? Tôi đã trăn trở suy nghĩ và mạnh dạn
đưa ra sáng kiến: “Giáo viên chủ nhiệm lớp trong công việc rèn luyện phương
pháp tự học cho học sinh THCS”
2. Cở sở lý luận của vấn đề:
Giáo viên phải trang bị cho học sinh một phương pháp tự học để biết
làm chủ kiến thức. Vì, khi học sinh có phương pháp tự học thì các em sẽ chủ
động nắm bắt kiến thức và khơi dậy được hứng thú ham học trong các em. Thầy
cô giáo, đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm là nhân tố quan trọng nhất để
thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh, tạo cho các em sẵn sàng, chủ động,
hứng thú tiếp nhận sự giáo dục, có động cơ học tập đúng đắn, tích cực tham gia
hoạt động giáo dục và rèn luyện kỹ năng. Khát vọng học tập trong học sinh chỉ
có thể có được khi thầy cô giáo có tâm huyết, có kế hoạch, có phương pháp phù
hợp và học sinh có phương pháp học tập đúng đắn. Phương pháp dạy học tích
cực lấy việc rèn luyện phương pháp tự học tập cho học sinh không chỉ là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong các
phương pháp học tập thì quan trọng nhất là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện
cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo
cho các em lòng ham học, hiệu quả học tập sẽ tăng cao. Làm được như vậy, học
sinh đã chuyển từ học tập thụ động sang chủ động lĩnh hội kiến thức. Và đó
chính là mục tiêu giáo dục mà chúng ta cần đạt được.
3. Thực trạng của vấn đề:
3.1. Về phía học sinh:
Trong lớp học, bên cạnh một số em nhận thức được và thực hiện có kết

quả việc tự học thì còn rất nhiều học sinh chưa có khái niệm tự học, không biết
4


tự học là gì, hoặc biết nhưng chưa thực hiện theo như trên lớp còn chưa chú ý
học tập, bị chi phối bởi nhiều tác động bên ngoài: nói chuyện riêng, đùa nghịch;
ngồi nghe giảng một cách thụ động như cái máy, không phát biểu, không ý kiến,
ghi chép không đầy đủ hoặc có ghi chép đủ nhưng không hiểu; việc vận dụng lí
thuyết vào bài tập thực hành hạn chế, bài vừa học xong nhưng không nhớ,
không làm được; ỉ lại thầy cô, bạn bè; quá phụ thuộc vào học thêm...
Ở nhà, nhiều em mải chơi, mải xem không học hoặc có học thì qua loa,
đối phó, làm bài tập và học bài cũ để cho là có nhưng kết quả thấp, thậm chí
nhiều em ngồi mấy tiếng ở bàn học nhưng không có hiệu quả. Rất nhiều học
sinh cho rằng mình không tự học được cần thầy cô kèm cặp nên “chạy xô” học
thêm rất nhiều nơi, học tối ngày nhưng kết quả vẫn không cao. Các em vẫn chưa
biết tận dụng những khoảng thời gian cho việc học tập, học thêm nhiều quá nên
hết cả thời gian học bài cũ, làm bài tập, dồn hết thời gian, sức lực vào các “ca
kíp”, về đến nhà ngồi vào bàn học đã buồn ngủ, mệt nhoài nên chẳng còn thiết
tha học gì nữa. Nhiều em có học lực khá song chỉ loanh quanh những kiến thức
cơ bản trong SGK mà chưa chịu khó đọc, nghiên cứu sách tham khảo, làm bài
tập mở rộng và nâng cao. Sách tham khảo mua về thì để mới nguyên, để gọi là
có sách...
3.2. Đối với phụ huynh học sinh
Phụ huynh cứ thấy con em mình đến lớp đầy đủ, thầy cô không ý kiến gì, về
nhà con cứ ngồi vào bàn học, viết, hí hoáy,... thế là yên tâm rằng con đã học. Họ
tạo mọi điều kiện cho con em mình học thêm khắp nơi nhưng không biết học có
hiểu quả không? Họ quan niệm cứ tìm được thầy cô giỏi, có kinh nghiệm, có
tiếng tăm thế là con em mình đã ổn.
3.3. Về phía giáo viên
Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn trong việc hình thành, rèn luyện,

giám sát, kiểm tra, nghiệm thu phương pháp tự học của học sinh còn rất hạn chế
3.3.1. Đối với GVCN
GVCN thì còn nặng về giáo huấn, mắng mỏ, trách phạt mà chưa thật sát
sao tới việc kiên trì rèn luyện học sinh phương pháp tự học. Việc các em chán
5


học, lười học, mất tập trung trong học tập nhiều khi chưa tìm được nguyên nhân
sâu xa. Việc khắc phục sai phạm của học sinh trong học tập giải quyết chưa triệt
để, hời hợt dẫn đến học sinh tái phạm tiếp diễn và hậu quả ngày càng nặng nề
hơn.
3.3.2. Đối với giáo viên bộ môn
GVBM vẫn còn sa vào truyền thụ kiến thức thụ động, dạy học "truyền
thống” chủ yếu giải thích, minh hoạ, tái hiện, liệt kê kiến thức theo SGK là
chính, ít sử dụng câu hỏi tìm tòi, tình huống có vấn đề, coi nhẹ rèn luyện thao
tác tư duy, năng lực thực hành, ít sử dụng các phương tiện dạy học nhất là các
phương tiện trực quan để dạy học và tổ chức cho học sinh nghiên cứu thảo luận
trên cơ sở đó tìm ra kiến thức và con đường để chiếm lĩnh kiến thức cho học
sinh. Giáo viên thì chỉ quen thuộc với cách kiểm tra bài cũ đầu giờ cốt sao cho
đủ số lần điểm miệng. Việc kiểm tra định kỳ chỉ đơn giản là thực hiện theo phân
phối chương trình, trước khi kiểm tra sẽ giới hạn cho học sinh một phần kiến
thức để các em học thuộc, ghi nhớ máy móc. Khi dạy thường nặng về thông báo,
không tổ chức hoạt động học tập cho các em, không dự kiến được các biện pháp
hoạt động, không hướng dẫn được phương pháp tự học. Mặt khác, phương pháp
dạy học phổ biến hiện nay vẫn theo "lối mòn", giáo viên truyền đạt kiến thức,
học sinh thụ động lĩnh hội tri thức. Thậm chí có giáo viên còn đọc hay ghi phần
lớn nội dung lên bảng cho học sinh chép. Việc sử dụng các phương tiện dạy học:
phiếu học tập, tranh ảnh, băng hình, … còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Như vậy, do sự hình thành, rèn luyện, kiểm tra, đánh giá việc tự học cho
học sinh của GVCN còn hạn chế; do sự truyền đạt kiến thức của một số giáo

viên bộ môn theo lối thụ động và việc rèn luyện kỹ năng tự học cũng như việc
hướng dẫn tự học cho học sinh chưa được chú ý; do học sinh tiếp thu, vận dụng
phương pháp tự học chưa hiệu quả dẫn đến không đáp ứng yêu cầu học tập,
kiểm tra, thi cử, làm cho chất lượng dạy học giảm sút.
(Kì thi tuyển sinh THPT năm 2011-2012, sở GD- ĐT Hải Dương ra đề thi
môn Ngữ văn: “Suy nghĩ về tinh thần tự học”. Rất nhiều học sinh lớp 9 không
làm được bài vì không hiểu và cũng chưa bao giờ thực hiện phương pháp tự học.
6


4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
4.1. Thứ nhất, chuyên đề nhà trường:
Ngay từ đầu năm học, nhà trường tổ chức chuyên đề: “GVCN trong công
việc Rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh THCS”. Đối tượng tham gia
gồm: Báo cáo viên về công tác chủ nhiệm, BGH nhà trường, Đoàn Đội, GVCN,
GVBM, các em cán sự của các lớp được học tập về phương pháp tự học.
(Phụ lục 1: Minh chứng về phương pháp tự học và các hình thức, quy
trình của phương pháp tự học – Trang17)
Như vậy, với biện pháp này thì từ giáo viên đến học sinh đều được học tập
và nắm chắc được về phương pháp tự học về mặt lí thuyết. Song nếu chỉ dừng
lại ở bước này thì chỉ là lí thuyết suông và chỉ được một số học sinh được học
cần phải có những giải pháp thiết thực hơn để rèn luyện phương pháp tự học
này.
4.2. Thứ hai, chuyên đề lớp chủ nhiệm:
GVCN tổ chức cho học sinh cả lớp học tập về phương pháp tự học (lí
thuyết); hướng dẫn, hình thành, rèn luyện các hình thức tự học cho học sinh
ngay từ khi tiếp quản lớp; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc học tập tài liệu
của học sinh. GVCN tận dụng giờ sinh hoạt hàng tuần để tư vấn về các hình
thức tự học, một số kĩ năng tự học và phương pháp tự học; có thể tư vấn cá nhân
hoặc tập thể tùy thuộc vào tình huống cụ thể. GVCN chia ra, mỗi tuần rèn một

kĩ năng và hướng dẫn học sinh thực hành ngay trong tuần tới.
(Phụ lục 2: Minh chứng về kế hoạch thực hiện rèn luyện phương pháp tự
học cho học sinh của GVCN – Trang 25)
Như vậy, bằng biện pháp này thì tất cả học sinh toàn trường được học tập
tài liệu và được sự hướng dẫn cụ thể của GVCN đối với từng kĩ năng, học sinh
không phải học vo, học mò, những chỗ không hiểu đều được thầy cô giải đáp.
Tuy nhiên để học sinh tham gia một cách chủ động, tự giác, tự nguyện thì lại cần
biện pháp tiếp theo.
4.3. Thứ ba, học sinh học tập nội quy nhà trường, quy định riêng của
lớp để rèn luyện phương pháp tự học
7


Ngay từ đầu năm học, GVCN cho học sinh học tập nội quy của trường và
những quy định riêng của lớp, biểu điểm thi đua vể mọi mặt trong đó khắc sâu
và nhấn mạnh về việc tự học của học sinh. Đây là biện pháp để học sinh đồng
loạt thực hiện việc rèn phương pháp tự học. Có khen thưởng, phê bình thì các
em mới hăng hái thực hiện. Đồng thời, thông báo cho phụ huynh nắm được các
nội quy, quy định của trường, lớp để cùng phối hợp giáo dục.
(Phụ lục 3: Minh chứng về nội quy của trường và quy định riêng của lớp,
biểu điểm thi đua về học tập rèn phương pháp tự học – Trang 26)
Với biện pháp này, GVCN dễ dàng quản lí được việc tự học của học sinh
trên lớp cũng như ở nhà, nắm bắt thông tin cập nhật hàng ngày thông qua đội
ngũ cán sự lớp. Song để thiết thực hơn, GVCN phải có biện pháp tiếp theo.
4.4. Thứ tư, GVCN rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh ở trên
lớp
4.4.1. GVCN hướng dẫn học sinh cách tự học trên lớp:
GVCN hướng dẫn cách ghi chép bài, tiếp thu bài giảng, phát biểu ý kiến;
cách học, đọc SGK, thảo luận, học phương tiện thông tin hiện đại,... GVCN sát
sao từng tiết học, từng em học sinh, nắm bắt tất cả những việc lớn nhỏ, diễn biến

học tập để kịp thời xử lí, điều chỉnh hành vi của học sinh. Những vi phạm của
học sinh về học tập phải tìm hiểu nguyên nhân, lí do và phối hợp với GVBM và
phụ huynh giải quyết triệt để, linh hoạt tránh dây dưa kéo dài hoặc bỏ qua.
GVCN phải kết hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh như rèn tính kiên trì,
tự lập, tự giác,...trong học tập vì muốn tự học được thì phải có được tất cả những
đức tính trên thì mới thực hiện được.
4.4.2. Trước giờ truy bài:
GVCN hướng dẫn học sinh cách kiểm tra chéo đồ dùng học tập, việc học
bài cũ ở nhà của từng học sinh. Tổ trưởng kiểm tra 5 bạn; tổ phó kiểm tra 5 bạn;
tổ trưởng kiểm tra tổ phó; tổ phó kiểm tra tổ trưởng. Làm được như vậy thì các
em tự nhận ra những hạn chế về kiến thức của từng môn để khắc phục ngay
trước khi vào lớp.
(Phụ lục 4: Minh chứng về sơ đồ kiểm tra bài cũ chéo nhau – Trang 28)
8


4.4.3. Trong giờ truy bài chính khóa:
GVCN hướng dẫn học sinh cách ôn lại bài cũ (nếu chưa thuộc), cách
nghiên cứu trước bài mới để chuẩn bị cho tiết học. Những vấn đề không hiểu,
không rõ thì các em có thể trao đổi để khắc phục ngay.
4.4.4. Trong giờ truy bài học thêm:
GVCN tổ chức cho học sinh đọc tài liệu tham khảo theo từng chủ đề đã
đăng kí để mở rộng kiến thức. GVCN đăng kí lịch đọc theo buổi học, theo chủ
đề sách với thư viện. Trước giờ truy bài khoảng 10 phút, lớp trưởng và lớp phó
vào phòng thư viện lấy sách tham khảo theo lịch và chủ đề đã đăng kí. Đến giờ
truy bài, các em phát cho từng tổ và đọc cả trong giờ ra chơi, đến cuối buổi các
em thu lại mang trả cho thư viện.
(Phụ lục 5: Minh chứng về lịch đọc theo chủ đề đăng kí với thư viện - Trang
29)
Như vậy, với biện pháp này, GVCN đã giúp học sinh rèn kĩ năng tự học có

hướng dẫn trên lớp, gây hứng thú học tập, tạo điều kiện nâng cao chất lượng học
tập. Để hoàn chỉnh kĩ năng tự học, GVCN cần phải rèn phương pháp tự học
không có hướng dẫn (tự học ở nhà)
4.5. Thứ năm, GVCN rèn phương pháp tự học của học sinh ở nhà
4.5.1. GVCN hướng dẫn cách học ở nhà:
GVCN hướng dẫn từ việc học bài cũ, làm bài tập, chuẩn bị bài mới, đọc
nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo, làm bài tập nâng cao, tự nghiên cứu, tìm
tòi,...GVCN thường xuyên phải phối hợp với phụ huynh, lấy phụ huynh làm
kênh thông tin chính để đôn đốc, nhắc nhở học sinh tự học. Trong cuộc họp
huynh đầu năm, GVCN thông báo quy ước về thời gian học buổi tối, ý thức,
chất lượng tự học của học sinh ở nhà, phụ huynh cam kết thực hiện. GV lập kế
hoạch tuần, tháng (Trong Sổ chủ nhiệm) và thực hiện nghiêm túc lịch kiểm tra
học tập của học sinh ở nhà. Kiểm tra bằng nhiều hình thức: gọi điện thoại, nhờ
phụ huynh thông tin, thậm chí phải xuống tận nhà học sinh nếu thấy cần thiết.
(Phụ lục 6: Minh chứng lịch kiểm tra của GVCN về việc tự học ở nhà của
học sinh theo tuần, tháng trong Sổ chủ nhiệm – Trang 30)
9


4.5.2. Các hình thức thực hiện việc rèn luyện tự học ở nhà:
Hàng tuần, hàng tháng phải có động viên, khen thưởng những học sinh có
sự cố gắng trong học tập ở nhà; phê bình, nhăc nhở và có biện pháp khắc phục
cụ thể đối với những học sinh chưa chăm học, thiếu tinh thần tự học. Bài kiểm
tra các môn học phải có chữ kí của phụ huynh học sinh và GVCN kiểm tra hàng
tuần và có sổ theo dõi, giám sát việc kí bài kiểm tra. GVCN hướng dẫn phụ
huynh, học sinh xem sổ điểm điện tử thường xuyên để nắm bắt được kết quả học
tập, kịp thời uốn nắn học sinh.
(Phụ lục 7: Minh chứng về sổ theo dõi, giám sát việc kí bài kiểm tra của
GVCN- Trang 31, tờ danh sách kèm theo)
4.6. Đối với phụ huynh học sinh

4.6.1. Trong cuộc họp phụ huynh học sinh đầu năm học:
Ngay trong cuộc họp Chi hội phụ huynh học sinh đầu năm học, GVCN nói
rõ đặc điểm tình hình và nội dung kế hoạch hoạt động của lớp trong năm học, đề
nghị phụ huynh hợp tác chặt chẽ trong việc quản lý việc học tập ở nhà của học
sinh, lấy chữ ký xác nhận của các phụ huynh cam kết về việc đôn đốc, nhắc nhở
học sinh học tập ở nhà. GVCN quán triệt tới phụ huynh và học sinh về việc học
thêm ngoài nhà trường, tránh hiện tượng học sinh học nhiều nơi, nhiều chỗ,
nhiều thầy cô, tối ngày ảnh hưởng tới sức khỏe, thời gian, chất lượng học tập
của học sinh. Giải thích, tuyên truyền cho phụ huynh, học sinh hiểu về tác hại
của học thêm quá nhiều, học “ca kíp”; tác dụng của việc tự học của học sinh ở
nhà; lấy các dẫn chứng ở học sinh, các lớp trong nhà trường minh họa. Ngay từ
đầu năm, GVCN cho học sinh và phụ huynh kí cam kết về việc không học thêm
ngoài nhà trường; đôn đốc, giám sát bằng nhiều hình thức để học sinh và phụ
huynh thực hiện nghiêm túc.
(Phụ lục 8: Minh chứng về bản cam kết của phụ huynh và học sinh về việc
nhắc nhở học sinh học tập ở nhà và cam kết không học thêm ngoài nhà trường
- Trang 31, tờ danh sách kèm theo)
4.6.2. GVCN phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để cùng giáo dục:

10


Trong quá trình chủ nhiệm ở lớp, GVCN bằng nhiều hình thức, biện pháp
để kiểm tra, đôn đốc việc tự học ở nhà. Nếu phát hiện thấy em nào lười làm bài
tập về nhà, không chăm chỉ học bài cũ, mải chơi,...GVCN yêu cầu viết bản tự
kiểm điểm có chữ ký của phụ huynh để qua đó phụ huynh biết được tình hình
học tập của con em mà kịp thời nhắc nhở.
Bằng sự hướng dẫn và thực hiện nghiêm túc việc tự học ở nhà thì học sinh
đã hoàn thành quy trình của việc tự học. Nếu học sinh thực hiện nghiêm túc
dưới sự tổ chức và giám sát chu đáo của GVCN thì sẽ đạt kết quả cao. Nhưng

đây là một công việc khó khăn, lâu dài nên GVCN rất cần sự tham gia phối hợp
của nhiều đối tượng khác.
4.7. GVCN và giáo viên bộ môn rèn phương pháp tự học:
4.7.1. Đối với cả lớp:
GVCN phối hợp với GVBM hình thành, rèn luyện, kiểm tra, nghiệm thu
phương pháp tự học ở mỗi môn học cho học sinh. GVBM hướng dẫn học sinh
cách học trên lớp và học ở nhà sao cho phù hợp với môn học. GVBM hướng dẫn
học sinh cách đọc, nghiên cứu SGK, bài tập, vở bài tập, sách tham khảo, tự học,
tự bồi dưỡng. Tăng cường các hình thức kiểm tra đánh giá để phát huy năng lực
của học sinh như : đầu giờ, trong giờ, cuối giờ; kiểm tra miệng, bài tập, thảo
luận nhóm, soạn bài, chuẩn bị đồ dùng; kiến thức cũ, mới, tích hợp; có thể kiểm
tra bằng hình thức gọi theo sổ điểm, gọi xung phong, cho điểm hoặc động viên,
tuyên dương,... GVBM làm được như vậy buộc học sinh phải thường xuyên học,
không học đối phó, không học tủ, chủ quan, gây không khí học tập, tạo hứng thú
cho học sinh. Bài tập về nhà vừa đủ không quá dễ, quá nặng, phải thường xuyên
hướng dẫn chữa bài tập, từ dễ đến khó hoặc thu lại chấm, tránh việc giao bài tập
xong để đấy không chữa. Kiểm tra định kỳ, trước khi kiểm tra GV phải xác định
rõ cho học sinh đâu là kiến thức trọng tâm, đâu là kiến thức mở rộng để học sinh
biết cách học, tránh giới hạn quá dài làm cho học sinh không biết học phần nào,
dẫn tới lan man. Tốt nhất là hướng dẫn làm đề cương cho học sinh. Cách ra đề
phải phân loại được học sinh đảm bảo có câu dễ cho học sinh Tb - Y và câu khó
cho học sinh khá, giỏi. Việc ra đề quá khó hay quá dễ đều không có tác dụng
11


thúc đẩy việc tự học của học sinh, phát huy năng lực trí tuệ của các em. Và đặc
biệt GVBM phải tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực kết hợp với phương
pháp truyền thống, tránh đọc chép.
4.7.2. Phụ đạo cho học sinh các đối tượng khá, trung bình, yếu, kém.
Học sinh yếu kém chủ yếu là do các em thường xuyên lười học, ở lớp

không chú ý nghe giảng, lười ghi chép. Do vậy, các em không nắm chắc kiến
thức, kỹ năng cơ bản ở các lớp dưới nên khi tiếp thu kiến thức mới rất khó khăn.
Vì vậy, GCBM vừa phải hệ thống lại vừa phải rèn luyện các kỹ năng kiến thức
cũ liên quan đến kiến thức mới.
Học sinh trung bình do các em tiếp thu chậm vì thế các kỹ năng chưa thật
vững, nên cần phải bồi dưỡng phụ đạo để rèn luyện các kĩ năng cho các em giúp
các em tự tin, hứng thú trong học tập từ đó hình thành thói quen tự học tốt hơn.
Học sinh khá, các em đã có kiến thức nhưng khả năng thực hành chưa tốt.
Do vậy GVBM phải thường xuyên cho các em rèn luyện kỹ năng thực hành;
nâng cao và mở rộng kiến thức để các em tiến bộ hơn.
Tóm lại, tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ, mang lại một kết quả học tập
cao nhất. Mỗi giáo viên là một tấm gương sáng về tinh thần tự học để học sinh
noi theo.
5. Kết quả đạt được:
5.1. Đầu năm học:
Đầu năm học, tôi được phân công vào chủ nhiệm lớp 7E. Do đặc điểm nhà
trường có sự phân hóa đối tượng nên tất cả các em yếu về học lực, chưa ngoan
về đạo đức, thậm chí có cả học sinh ở lại lớp trong khối tập trung vào lớp cuối.
Vì vậy, nề nếp học tập không được ổn định.
- Nề nếp truy bài chưa tốt, còn nhốn nháo, muộn giờ, làm việc riêng khá
nhiều, có cô giáo ở lớp thì tốt, không có cô ở lớp thì chưa tốt. Nhiều học sinh
còn chưa hiểu về nhiệm vụ giờ truy bài nên chưa có ý thức thực hiện.
- Không khí học tập trong lớp còn trầm, chưa tích cực, hăng hái, còn nói
chuyện riêng, số lượng học sinh chưa hiểu bài còn nhiều. Do vậy, giờ trung
bình, giờ khá, học sinh bị điểm kém còn nhiều.
12


- Ý thức tự học ở nhà chưa cao: không bài cũ, học qua loa, đối phó với thầy
cô, bạn bè, nhiều em ngồi hàng giờ trên bàn học mà vẫn không hoàn thành

nhiệm vụ học tập. Nhiều phụ huynh chưa biết cách dạy con, kiểm tra về thời
gian học tập nên phó mặc cho thầy cô, nhà trường.
- Nhiều học sinh chưa có tinh thần cầu tiến bộ, không cần thi đua, không sợ
điểm xấu, không biết xấu hổ trước lời nhắc nhở của thầy cô, bạn bè. Một số học
sinh rơi vào chậm tiến bộ.
- Kết quả học tập rất thấp: (qua khảo sát đầu năm)
Lớp
7E

Sĩ số
34

Thời gian
Đầu năm

Giỏi
0

Khá
0

TB
2

Yếu
17

Kém
15


5.2. Sau khi áp dụng sáng kiến:
Trong một thời gian ngắn, sau khi tôi đã tìm hiểu tình hình lớp về mọi mặt,
thấy được nhưng ưu và tồn tại của học sinh thì tôi bắt đầu áp dụng những kinh
nghiệm chủ nhiệm đã có và học hỏi, tham khảo đồng nghiệp cùng việc thực hiện
sáng kiến rèn phương pháp tự học cho học sinh. Kết quả là dần dần nề nếp và ý
thức học tập của các em thay đổi hẳn theo chiều hướng tích cực. Cụ thể như:
- Truy bài, học sinh tự giác, trực tự, hiểu được nhiệm vụ của truy bài. Giáo
viên không phải quản như quản trẻ.
- Không khí học tập sôi nổi hẳn lên: hăng hái phát biểu, thi đua đạt nhiều
điểm cao, giờ học tốt. Các em thấy thích thú với các môn học.
- Đa số các em đã biết cách tự học: Tự học dưới hướng dẫn của thầy và tự
học hoàn toàn, áp dụng vào quá trình học tập.
- Việc học ở nhà có nhiều tiến bộ (thông qua phụ huynh, qua việc kiểm tra
bài cũ,…). Thời gian, chất lượng bài tập được tăng lên. Nhiều phụ huynh quan
tâm tới việc học của con mình hơn như gọi điện, gặp trực tiếp trao đổi với thầy
cô về cách dạy, kiểm tra bài của các em.
- Kĩ năng sống được nâng cao toàn diện. Các em đã biết cách ứng xử với
mọi người đúng mực, biết cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống, trong
học tập, trong các mối quan hệ đi vào chiều sâu.
- Nhiều em có tinh thần cầu tiến bộ, có mục đích học tập, ước mơ hoài bão
13


Các em học sinh chưa ngoan đã thay đổi hẳn như nghiêm túc hơn trong học tập,
cư xử với bạn bè, thầy cô, bố mẹ ngoan ngoãn, đoàn kết. Tất cả tạo lên một tập
thể học sinh tiên tiến xuất sắc.
- Kết quả học tập được năng lên rõ rệt (qua khảo sát giữa, cuối kì I)
Lớp
7E


Sĩ số
34

Thời gian
Giữa HK 1
Cuối kì 1

Giỏi
0
0

Khá
0
1

TB
13
19

Yếu
16
14

Kém
5
0

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Theo tôi sáng kiến: “Giáo viên chủ nhiệm lớp trong công việc rèn luyện
phương pháp tự học cho học sinh THCS” không chỉ áp dụng cho GVCN và đối

tượng học sinh trung bình- yếu mà còn áp dụng cho đội ngũ các thầy cô giáo,
các đoàn thể, thư viện, thiết bị - đồ dùng và các đối tượng hoc sinh khác nhau.
Vì, đây là một đề tài mở, bàn luận về các biện pháp giáo dục học sinh nói chung,
tùy theo từng trường, từng lớp, từng đối tượng mà ta điều chỉnh cho phù hợp.
Chính vì những giải pháp có tính mở đó mà có thể phát huy được sự nhiệt tình,
sáng tạo, hăng say của các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm và phát huy được
vai trò tích cực của các em học sinh, các em được khảng định mình, làm cho các em
thêm yêu trường lớp của mình hơn, tích cực học tập, rèn luyện để xây dựng nhà
trường ngày càng vững mạnh.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Như vậy, với thực trạng như hiện nay, học sinh đang mắc phải hiện
tượng học tập không thực chất, học qua loa, đối phó, ỉ lại, bệnh thành tích trong
giáo dục ở học sinh và cả giáo viên thì việc rèn phương pháp tự học cho học
sinh phổ thông nói chung và bậc THCS nói riêng là nhiệm vụ rất quan trọng của
các thầy cô giáo đặc biệt là GVCN. Muốn làm được điều này, GVCN phải đề ra
các giải pháp đồng bộ, nhiều mặt, nhiều đối tượng và thực nghiêm một cách
nghiêm túc, có hiệu quả cao. Từ BGH, GVCN, GVBM, các đoàn thể trong nhà
trường đến sự cộng tác nhiệt tình của phụ huynh, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu
14


học tập của học sinh tham gia, vào cuộc thực sự thì mới thực hiện thành công
phương pháp này. Trong đó, GVCN phải là nhân tố quan trọng nhất, vận dụng
những phương pháp giáo dục tích cực, với tâm huyết nghề nghiệp, nhiệt tình với
công tác giảng dạy, giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì và lòng quyết tâm thực
hiện nhiệm vụ đến cùng. Chính vì vậy mà kết quả học tập của học sinh được
nâng cao lên rõ rệt theo hướng phát huy năng lực của học sinh, chất lượng giáo
dục được đảm bảo, thực hiện được mục tiêu giáo dục: “Trường học thân thiện,
học sinh tích cực”.

2. Khuyến nghị
Thứ nhất, đề nghị các cấp quản lý ngành Giáo dục cần tăng cường,
thường xuyên mở các lớp tập huấn về công tác chủ nhiệm để giáo viên chủ
nhiệm được học tập, tìm hiểu sâu hơn về phương pháp, kỹ năng chủ nhiệm theo
hướng tích cực, đổi mới, phát huy được năng lực của học sinh và sáng tạo, hiệu
quả cao trong công việc. Hơn nữa, tạo mọi điều kiện về tinh thần và vật chất để
động viên công tác chủ nhiệm như: tăng số tiết chủ nhiệm, khen thưởng, nêu
gương, động viên những giáo viên chủ nhiệm tốt, biên tập những tài liệu đúc rút
kinh nghiệm của những giáo viên chủ nhiệm giỏi để đồng nghiệp học tập; tổ
chức thi giáo viên chủ nhiệm giỏi các cấp ngành Giáo dục.
Thứ hai, để nghị BGH, các đoàn thể và Hội phụ huynh trực tiếp tham gia
tích cực, có hiệu quả vào công việc rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh
THCS, đặc biệt chú ý vào đối tượng học sinh TB- Yếu. Nhà trường thường
xuyên mở chuyên đề, hội thảo về công tác chủ nhiệm và đặc biệt chú trọng vào
công việc rèn tinh thần tự học cho học sinh, làm được như vậy thì chất lượng
học tập mới được nâng cao, mới phát huy được năng lực thực sự của học sinh.
Thứ ba, với hiệu quả của sáng kiến này, tôi mong rằng các thầy cô giáo
làm công tác chủ nhiệm, đặc biệt là chủ nhiệm đối tượng trung bình - yếu, và
GVBM quan tâm, chia sẻ và có thể áp dụng sáng kiến này trong quá trình chủ
nhiệm, giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.

15


Phụ lục 1
Minh chứng về phương pháp tự học và các hình thức, quy trình của
phương pháp tự học (Theo tài liệu tập huấn GVCN với công tác tư vấn tâm lý
– Giáo dục cho học sinh Trung học năm 2013 của PGS.TS. Đinh Thị Kim
Thoa)
I. TỰ HỌC

1. Khái niệm:
- Tự học là tự mình động não huy động tất cả mọi năng lực trí óc, tinh thần,
tình cảm, sức khỏe và sử dụng tối đa những điều kiện khách quan có thể có vào
hỗ trợ cho việc chiếm lĩnh tri thức.
16


- Đối với học sinh THCS, tự học là trên cơ sở bài giảng có tính chất gợi
mở của thầy, người học phải vận dụng mọi năng lực trí tuệ, tình cảm và phẩm
chất của mình để lĩnh hội. Người học phải tự đọc thêm sách giáo khoa và đọc
thêm tài liệu để hiểu kĩ vấn đề và có thể giải quyết các nhiệm vụ học tập.
2. Các hình thức tự học:
2.1. Tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên
* Khái niệm: Là tự học diễn ra dưới sự điều khiển, chỉ đạo trực tiếp của
người thầy và các phương tiện dạy học trên lớp (học “giáp mặt” với thầy). Bao
gồm: các giờ học trên lớp, thảo luận, học tại phòng thí nghiệm, chuyên đề, ngoại
khóa,…Thầy truyền thụ kiến thức, kĩ năng để hình thành kiến thức, kĩ năng cho
trò.
Cách học này có thuận lợi là khi nghe thầy giảng, trò không hiểu thì có thể
hỏi ngay để thầy giảng kĩ hơn. Nhưng hạn chế là lớp đông, trình độ học sinh
chênh lệch nhau, thầy khó dạy vừa sức từng trò, thêm vào trò thường ỉ lại vào
thầy, dựa dẫm vào bạn nên không chịu động não suy nghĩ.
* Yêu cầu: người học phải biết cách nghe giảng, ghi chép và hỏi thầy, có
sự chuẩn bị về tâm thế học, nghiên cứu trước tài liệu để dễ dàng nắm bắt bài
học, ôn lại bài học rất cần thiết sau mỗi buổi học. Đây là quá trình trò phải tự
giác, tích cực, tự lực, chủ động chiếm lĩnh tri thức. Học sinh phải tự biết bố trí
thời gian, công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập của chính
mình. Thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn học sinh cách học, uốn nắn chỉ đường
cho học sinh chứ không thể học thay cho trò.
* Nguyên tắc của dạy tự học có hướng dẫn tại lớp: học từ thấp lên cao, tự

học từng phần tại lớp dưới sự hướng dẫn của thầy cho đến tự học hoàn toàn ở
nhà. Người thầy phải kiểm tra quá trình tự học, giúp đỡ, điều chỉnh nhịp độ học
tập của người học khi cần thiết.
2.2. Tự học không có sự hướng dẫn của giáo viên
Tự học không có sự hướng dẫn của giáo viên là “ học không giáp mặt với
thầy”. Hình thức học này bao gồm: đọc sách, học bài cũ, nghiên cứu tài liệu, làm
bài tập, chuẩn bị thảo luận. Học sinh tự mình tìm tòi, khám phá và lĩnh hội kiến
17


thức mà không có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy. Người học phải cố động não
suy nghĩ mà hiểu vấn đề và nếu không hiểu ngay phải tra cứu những tài liệu
khác để hiểu. Tuy nhiên cách học này giúp học sinh rèn luyện nhiều kĩ năng đọc
sách, chọn lọc thông tin, làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạọ
II. QUY TRÌNH TỰ HỌC
1. Tự nghiên cứu:
Người học tự tìm tòi, quan sát, giải thích, định hướng, giải quyết vấn đề,
tự tìm ra kiến thức mới và tạo ra sản phẩm ban đầu.
2. Tự thể hiện:
Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, lời nói, tự trình bày, bảo vệ sản
phẩm của mình, thể hiện qua đối thoại, giao tiếp với thầy cô, các bạn, tạo ra sản
phẩm có tính chất tập thể lớp học.
3. Tự kiểm tra, tự điều chỉnh:
Sau khi đã tự thể hiện với thầy cô, các bạn, sau khi thầy cô kết luận, người
học tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh.
III. MỘT SỐ KỸ NĂNG TỰ HỌC
1. Kỹ năng lập kế hoạch tự học:
- Đảm bảo thời gian tự học cho từng môn học tưng xứng với lượng thông
tin của môn học đó.
- Đảm bảo luân phiên xen kẽ hợp lí các dạng tự học, các bộ môn có tính

chất khác nhau.
- Đảm bảo luân phiên xen kẽ hợp lí giữa tự học và nghỉ ngơi.
- Đảm bảo tính mềm dẻo và tính thực tế của kế hoạch.
2. Kỹ năng nghe và ghi chép bài trên lớp
Bài giảng của giáo viên là sự truyền đạt những nội dung cơ bản của môn
học, cung cấp kiến thức và kỹ năng thực hành. Muốn nghe giảng đạt hiệu quả
học sinh phải có sự chuẩn bị trước khi nghe giảng. Trong khi nghe giảng học
sinh phải có sự tập trung tư duy để ghi nhớ, đào sâu và viết lại kiến thức. Để
nghe giảng có hiệu quả học sinh phải thực hiện bốn khâu sau:
2.1. Chuẩn bị nghe giảng
18


Là công việc có ý nghĩa rất quan trọng. Bài giảng không phải hoàn toàn
kiến thưc mới. Những kiến thức mới được dẫn dắt và xác định từ những thông
tin đã được biết. Vì vậy trước khi nghe giảng, học sinh cần ôn luyện, củng cố
những kiến thức đã thu được từ bài trước. Khi nghe giảng cần hướng chú ý của
mình vào những cái mới sao cho nắm chắc, đầy đủ và có hệ thống bài giảng
đang được trình bày. Do vậy, học sinh cần tự đọc, tự nghiên cứu sơ bộ nội dung
bài giảng sắp nghe, xác định nội dung cần tập trung nghe để hiểu, nội dung ghi
chép đầy đủ, nội dung cần tóm tắt. Điều đó đảm bảo cho việc nghe giảng hoàn
toàn chủ động và hiệu quả.
2.2. Quá trình nghe giảng
Một bài giảng gồm hai phần: phần cứng là kiến thức SGK; phần mềm là
phần giáo viên giảng. Khi học sinh làm tốt khâu chuẩn bị nghe giảng tức là học
sinh nắm sơ bộ vấn đề cơ bản mà giáo viên sẽ trình bày. Học sinh chú ý theo dõi
sự dẫn dắt của giáo viên để hiểu ý đồ của giáo viên, hiểu được sâu sắc, sống
động nội dung cơ bản của bài giảng. Muốn nghe giảng có hiệu quả, học sinh
không nghe một cách thụ động. Khi nghe giảng học sinh phải huy động những
điều đã có khi chuẩn bị nghe giảng để phát hiện cho được vấn đề mà giáo viên

muốn truyền tải. Không nên trông chờ và thụ động đi theo sự dẫn dắt của giáo
viên mà cần chủ động khám phá kiến thức, cùng giải quyết vấn đề với giáo viên.
2.3. Ghi chép khi nghe giảng
Ghi chép trong quá trình nghe giảng giúp cho trí nhớ được đầy đủ mà còn
giúp cho học sinh chú ý liên tục trong khi nghe giảng. Có nhiều cách ghi chép,
học sinh lựa chọn cho mình cách ghi chép hợp lí và hiệu quả nhất: ghi tốc kí
nguyên lời giáo viên, ghi những điều thấy cần thiết, ghi khái quát theo cách
hiểu, có thể kết hợp nhiều cách trong một bài học. Để ghi chép hiệu quả học sinh
cần tuân thủ nguyên tắc sau: ghi từng môn vào vở riêng, không ghi chung, lẫn
lộn, không ghi chung vở lí thuyết và bài tập, không ghi ra giấy nháp…; ghi
nhanh nhưng không cẩu thả, không đọc được, không quá cầu kì, trau chuốt ảnh
hưởng quá trình nghe, tư duy; ghi rõ ràng, nhanh các sơ đồ, hình vẽ, chú thích về
kiến thức; ghi vấn tắt nhưng vẫn đầy đủ ý; ghi đề mục rõ ràng, cần gạch chân,
19


đánh dấu bằng bút nhấn dòng để dễ nhận biết, phân biệt. Ghi chép khoa học sẽ
giúp học sinh có tài liệu quan trọng để ôn tập.
2.4. Ôn tập sau khi nghe giảng
Sau khi nghe giảng, học sinh cần dành thời gian tự ôn tập lại kiến thức đã
học trên lớp. Ôn tập giúp học sinh ghi nhớ kiến thức bài giảng, tạo điều kiện
cho nhớ sâu, nhớ nhiều, nhớ mở rộng cũng như vận dụng kiến thức bài giảng.
Học sinh cần ôn tập một cách thường xuyên và khoa học bằng cách xem lại toàn
bộ các bài giảng, khái quát, tóm tắt những nội dung chủ yếu kiến thức mới được
học.
3. Kỹ năng đọc sách và đọc tài liệu
Đối với học sinh việc đọc sách, đọc tài liệu là kỹ năng tự học vô cùng
quan trọng. Mọi thành công của học sinh đều là sự kết hợp nỗ lực tri thức lĩnh
hội từ người thầy, từ cuộc sống và từ sách vở. Phương pháp đọc sách có hiệu
quả :

- Đọc quét ngang: đọc lướt nhanh, định vị một thông tin, một chi tiết nào
đó trong toàn bộ tài liệu để sau đó đọc kĩ hơn.
- Đọc nhanh: Đọc một cuốn sách giải trí, một tờ báo hay một bài học đơn
giản nhằm mục đích tìm hứng thú, tìm một ý, tìm một nội dung trong tài liệu
tham khảo.
- Đọc chậm: để lĩnh hội thông tin chính xác và cần thiết.
- Đọc rất chậm: Đây là cách đọc để học, để hiểu một nội dung bài học hay
theo một nội dung đã định trước.
Để đọc sách có hiệu quả, người học sinh cần xác định cho mình mục đích
đọc sách rõ ràng, chọn sách đọc hợp lí, có phương pháp đọc phù hợp. Đặc biệt
khi đọc phải tập trung cao độ, đọc thường xuyên, nâng dần tốc độ đọc hợp lí.
Không đọc ngốn ngấu sách. Đọc nhanh tóm lấy thật nhanh, đầy đủ nội dung;
vừa đọc vừa cố tóm tắt nội dung. Sau khi có tốc độ đọc hợp lí cần rèn luyện
thường xuyên để kĩ năng đọc không bị mai một. Khi đọc sách nên dùng bút,
giấy bên cạnh để đánh dấu, kịp ghi lại những điều quan trọng trong quá trình

20


đọc; gạch dưới, dùng bút nhấn dòng, tóm tắt kết luận hoặc tự lập dàn ý,… để khi
đọc lại dễ nhớ hơn
4. Kĩ năng làm bài tập về nhà
- Làm bài tập về nhà có vai trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng học
tập. Thông qua làm bài tập về nhà học sinh sẽ nắm vững hơn, củng cố và mở
rộng kiến thức đã được học. Học sinh vận dụng tri thức đó vào giải quyết các
tình huống khác nhau, rèn luyện năng lực tư duy độc lập, sáng tạo và linh hoạt,
tăng cường năng lực tự học, tự nghiên cứu.
- Kĩ năng làm bài tập cần phải rèn luyện hàng ngày sau mỗi buổi học.
Làm bài tập, nó quyết định đến chất lượng và hiệu quả học tập. Không học sinh
nào có thể trở nên giỏi giang nếu học sinh đó không làm bài tập về nhà.

- Bài tập về nhà rất đa dạng, có cái đã biết, cái chưa biết, cái trung gian.
Học sinh hoàn thành bài tập đầy đủ là học sinh đã hiểu ra và biết thêm cái chưa
biết và nhuần nhuyễn cái đã biết.
- Học sinh cần phải rèn luyện thói quen làm bài tập về nhà. Khi làm bài
tập cần đọc đề thật kĩ để biết đề cho cái gì, cần tìm cái gì…Từ đó định hướng
suy nghĩ tìm ra cách giải quyết vấn đề. Khi thực hiện phải chính xác, chặt chẽ.
Khi làm xong phải kiểm tra lại, có thể sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện bài tập.
5. Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá quá trình tự học
Là hoạt động học sinh tự kiểm tra, đánh giá chính hoạt động tự học của
mình. Hoạt động này giúp học sinh đánh giá được trình độ tri thức, mức độ hình
thành các kĩ năng, kĩ xảo của bản thân. Trên cơ sở đó tự điều chỉnh mình. Các kĩ
năng tự kiểm tra, đánh giá quá trình tự học của học sinh là:
- Tự kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện công việc so với kế hoạch đề
ra: tiến độ thực hiện so với kế hoạch; sự hợp lí của kế hoạch; những ưu, nhược
điểm trong quá trình triển khai công việc theo kế hoạch; mức độ hoàn thành
công việc so với kế hoạch.
- Tự kiểm tra, đánh giá quá trình nghe giảng và ghi chép trên lớp: để có
được một giờ nghe giảng có hiệu quả, học sinh phải thực hiện tốt cả bốn khâu:
chuẩn bị nghe giảng; quá trình nghe giảng; ghi chép khi nghe giảng; ôn tập sau
21


khi nghe giảng. Sau đó phải kiểm tra, đánh giá cả bốn khâu trên rồi tổng hợp kết
quả để có được sản phẩm nghe giảng và đó chính là hiệu quả nghe giảng.
- Tự kiểm tra, đánh giá quá trình đọc sách: mục đích đọc sách đã rõ ràng,
khoa học chưa? Các loại sách đã chọn hợp lí chưa? Phương pháp đọc sách đã
hiệu quả chưa? Kiến thức lĩnh hội được sau quá trình đọc sách. Học sinh có thể
tự kiểm tra, đánh giá quá trình đọc sách bằng cách vận dụng vào giải quyết các
nhiệm vụ học tập như làm bài tập, viết bài kiểm tra, thu hoạch.
- Tự kiểm tra, đánh giá quá trình làm bài tập về nhà và tự làm bài kiểm

tra: việc làm này giúp học sinh đánh giá hiệu quả của quá trình tự học. Học sinh
cần kiểm tra, đánh giá các vấn đề sau:
+ Kiểm tra trình tự các bước tiến hành làm bài tập.
+ Đánh giá lại toàn bộ bài tập đã làm: thời gian làm bài tập, phương pháp
giải, kết quả bài tập.
+ Rút ra nhận xét, đề ra những điều chỉnh cho quá trình học tập tiếp.
Đối với bài kiểm tra cần thực hiện đánh giá như sau: thời gian làm bài;
những lỗi sai trong bài làm; những kiến thức còn hổng; đánh gíá tổng thể bài
làm bằng điểm số.
IV. NHỮNG LỜI KHUYÊN TỐT ĐỂ CÓ ĐỘNG CƠ TỰ HỌC

1. Hãy nhớ khoa học đã chứng minh, mỗi người chúng ta là một học viên
xuất sắc.
2. Đạt tới trạng thái sảng khoái để vượt qua những nỗi sợ học tập
- Cảm xúc quyết định việc tập trung học tập một cách dễ dàng hay khó
khăn. Hãy vượt qua những nỗi sợ hãi bằng việc học với trạng thái sảng khoái.
- Tránh những lầm tưởng việc học:
+ Thứ nhất: học tập là một hoạt động nhàm chán, không thể thích thú.
+ Thứ hai: Việc học chỉ liên quan đến những môn học và kĩ năng được dạy
trong trường học.
+ Thứ ba: chúng ta phải thụ động và dễ tiếp thu để có thể “lĩnh hội” tri
thức.
+ Thứ tư: để học bạn phải đặt mình dưới sự kèm cặp của giáo viên…
22


+ Thứ năm: học tập phải có hệ thống, kế hoạch và logic…
+ Thứ sáu: học tập phải triệt để, nếu không thà không học còn hơn
3. Trạng thái học tập sảng khoái- sự xóa bỏ những điều lầm tưởng về học
tập.

Sảng khoái là trạng thái mà trong đó học tập và hạnh phúc hầu như hoàn
toàn hợp nhất. Trạng thái tập trung dẫn đến sự tiếp thu tuyệt đối. Lúc này, các
hoạt động học tập sẽ trôi đi một cách dễ dàng trong suy nghĩ, bạn cảm thấy
mạnh mẽ, tỉnh táo và không lúng túng, bạn đang điều khiển hiện tại và hoạt
động đỉnh cao năng lực của mình.
4. Xây dựng sự tự tin trong học tập
Những suy nghĩ tiêu cực làm giảm khả năng học tập, bạn cần tỉnh táo loại
bỏ chúng. Khảng định năng lực học tập bằng những lời tâm niệm đáng nhớ: Hãy
yêu thích việc học tập. Hãy lay động tâm hồn bạn. Hãy sử dụng những kinh
nghiệm của bạn…
5. Cải thiện kĩ năng học, đọc và nhớ
- Trước khi học: kĩ năng đọc lấy thông tin, kĩ năng để thu được chính xác
điều bạn cần từ tài liệu; kĩ năng khám phá theo môn học,…
- Trong quá trình học: lập bản đồ tư duy; câu hỏi khám phá, câu hỏi xoáy
sâu những thông tin bạn có…
- Sau khi học: quay chậm nhớ lại bất kì điều gì bạn đã biết về bài học
6. Phát triển óc phân tích và sáng tạo
7. Thiết kế môi trường hoạt động tối ưu

23


Phụ lục 2
Minh chứng về kế hoạch học tập phương pháp tự học cho học sinh của
GVCN
Tháng
8/2014

9/2014


Tuần 3
Tổ chức học tập chuyên đề rèn

Tuần 4
GVCN tổ chức học tập chuyên đề

luyện phương pháp tự học toàn

theo lớp.

trường.
Tuần 1
Củng cố khái

Tuần 2
Thảo luận về

Tuần 3
Củng cố hình

Tuần 4
Vận dụng vào

niệm về tự học

các phương

thức tự học có

trong quá trình


và các hình

pháp học tập

dẫn của thầy cô

học tập tại lớp của

thức học tập

và ưu điểm

và tự học không

tự học có hướng

khác.

của tự học.

hướng dẫn.

dẫn và không
hướng dẫn.

24


10/201


Vận dụng vào

Củng cố các

Vận dụng quy

Vận dụng quy

4

trong quá trình

quy trình tự

trình tự học vào

trình tự học vào

học tập tại lớp

học.

học tập trên lớp

học tập trên lớp và

và ở nhà.

ở nhà.


của tự học có
hướng dẫn và
không hướng
dẫn.
11/2014 Củng cố kỹ

Vận dụng kỹ

Củng cố kỹ năng Vận dụng kỹ năng

năng lập kế

năng lập kế

nghe và ghi chép nghe và ghi chép

hoạch tự học.

hoạch tự học

bài trên lớp.

trên lớp và ở

bài trên lớp.
.

12/201


Vận dụng kỹ

nhà.
Vận dụng kỹ

4

năng nghe và

năng nghe và

năng nghe và

ghi chép bài

ghi chép bài

ghi chép bài trên bài trên lớp.

trên lớp.
Củng cố kỹ

trên lớp.
Vận dụng kỹ

lớp.
Vận dụng kỹ

Vận dụng kỹ năng


năng đọc sách

năng đọc sách

năng đọc sách

đọc sách và

và nghiên cứu

và nghiên cứu

và nghiên cứu

nghiên cứu tài liệu

tài liệu.

tài liệu trên

tài liệu trên lớp

trên lớp và ở nhà.

Củng cố kỹ

lớp và ở nhà.
Vận dụng kỹ

và ở nhà.

Vận dụng kỹ

Vận dụng kỹ năng

năng làm bài

năng làm bài

năng làm bài tập làm bài tập ở nhà.

tập ở nhà.
Củng cố kỹ

tập ở nhà.
Vận dụng kỹ

ở nhà.
Vận dụng kỹ

năng tự kiểm

năng tự kiểm

năng tự kiểm tra, tự kiểm tra, đánh

tra, đánh giá

tra, đánh giá

đánh giá quá


giá quá trình tự

trình tự học.

học.

Những lời

học.
Tiếp tục vận

Tiếp tục vận

Tiếp tục vận dụng

khuyên tốt để

dụng những

dụng những kỹ

những kỹ năng

có động cơ tự

kỹ năng chưa

năng chưa thuần


chưa thuần thục.

1/2015

2/2015

3/2015

quá trình tự học quá trình tự
4/2015

25

Vận dụng kỹ

Vận dụng kỹ năng
nghe và ghi chép

Vận dụng kỹ năng


×