Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

skkn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.73 KB, 29 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “ Góp phần nâng cao hiệu quả dạy - học toán 2 theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng học sinh ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy Toán khối lớp 2.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Đức

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 28/01/1970
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Tiểu học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng – Trường Tiểu học Sao Đỏ I.
Điện thoại: 01692866512
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Sao Đỏ 1- Hùng VươngSao Đỏ- Chí Linh- Hải Dương. Điện thoại: 03203882668.
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên: Giáo viên có trình độ chuẩn trở lên, tâm huyết với nghề nghiệp.
- Học sinh lớp 2: Có trí nhớ bình thường và học chương trình 175 tuần .
- Tài liệu: Sách giáo khoa Toán 2. Sách giáo viên Toán 2. Hỏi - đáp về dạy
Toán 2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học.
Một số loại sách tham khảo: Vở Ôn luyện và kiểm tra toán 2. Vở luyện Toán 2.
36 đề ôn luyện toán 2…
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 – 2014 và năm
học 2014 - 2015.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Đức

TÓM TẮT SÁNG KIẾN


1


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong những năm gần đây nhiệm vụ trọng tâm của năm học là chỉ đạo
việc quản lí, tổ chức dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát
triển năng lực học sinh; điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm
sinh lí học sinh tiểu học. Và đặc biệt năm học 2014 – 2015 này Tổ chức dạy
học và đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐT. Mục
đích của thông tư giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ
chức hoạt động dạy học, kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh
để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của
học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bật
và những hạn chế của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Xuất phát từ
những hoàn cảnh trên mà tôi đã thực hiện sáng kiến: Góp phần nâng cao hiệu
quả dạy - học toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng
học sinh
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện:
+ Cở sở vật chất đảm bảo mỗi HS một chỗ ngồi đúng quy định; lớp học có
bảng, ánh sáng đầy đủ.
+ HS có đầy đủ SGK, VBT, dụng cụ và đồ dùng học tập Toán.
+ GV đạt trình độ chuẩn trở lên có đầy đủ SGK, SGV, đồ dùng dạy học toán…
2.2. Thời gian: 2 năm (bắt đầu từ năm học 2013 - 2014 đến năm học 2014 2015)
2.3. Đối tượng nghiên cứu
+ Toàn bộ GV lớp 2 trong trường.
+ Toàn bộ HS lớp 2 trong trường.
3. Nội dung sáng kiến
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến

3.1.1 Thiết kế, xây dựng giáo án để dạy phù hợp với từng đối tượng HS.
3.1.2. Phân loại bài tập để có phương pháp giải từng loại bài tập đó.
2


3.1.3. Phải xác định được bài tập nào yêu cầu mọi đối tượng HS cần phải và bắt
buộc phải làm.
3.1.4. Xác định được bài tập nào dành riêng cho HS năng khiếu( HS đã hoàn
thành)
3.1.5. Xác định được bài tập nào phát hiện HS có tư duy phát triển.
3.1.6. Xác định được bài tập nào HS hay mắc sai lầm.
3.1.7. Bài tập nào cần phải mở rộng để bồi dưỡng HS năng khiếu.
3.2. Khả năng áp dụng của SK : áp dụng được trong tất cả các tiết Toán 2.
3.3. Chỉ ra lợi ích thiết thực của SK: Giúp cho GV có được những phương
pháp, biện pháp để giảng dạy, hướng dẫn HS chủ động lĩnh hội kiến thức và
nắm kiến thức một cách hiệu quả nhất với khả năng của mỗi học sinh.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến: Qua việc thực hiện
sáng kiến tôi thấy HS đã đạt được một số kết quả sau:
- Tiết học Toán 2 vừa đảm bảo được về chuẩn kiến thức, kĩ năng của tiết học
đối với tất cả học sinh, vừa phát huy được hết khả năng học Toán của HS năng
khiếu.
- Học sinh luôn tự giác, tích cực, chủ động học tập, yêu thích môn học.
- Nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức.
- Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
- GV cần tự học tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ
chuyên môn. Nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung bài học để từ đó lựa chọn
phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp
mình.
- Các cấp lãnh đạo cung cấp đầy đủ SGK, tài liệu tham khảo cho GV. Với

những sáng kiến có tính thiết thực cao, các cấp quản lí nên tổ chức các buổi
báo cáo Sáng kiến để phổ biến rộng rãi cho mọi GV tham khảo và học tập. Có
như vậy việc tổ chức viết SK hàng năm mới có ý nghĩa sâu rộng.

3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN:
Trong các bậc học, bậc Tiểu học được xác định là “Bậc học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân” ( Điều 2 luật phổ cập giáo dục Tiểu học).
Đây chính là bậc học phổ cập tạo tiền đề cho các bậc học khác.
Vì vậy mà mục tiêu của giáo dục Tiểu học là “Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện”. Mỗi môn học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách toàn diện con người
Việt Nam.
Môn Toán Tiểu học, đặc biệt là môn Toán 2 là một trong những môn
quan trọng nhất, bởi nó là tiền đề, là cơ sở tiếp thu những môn học khác trong
nhà trường Tiểu học. Với mục tiêu là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ
năng tính toán. Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người
giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở bậc Tiểu học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy để đạt
được những nhiệm vụ nêu trên sáng kiến này tôi đưa ra mong muốn Góp phần
nâng cao hiệu quả dạy - học toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân
hóa đối tượng học sinh.
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Trong chương trình giáo dục Tiểu học hiện nay, môn Toán cùng các môn học
khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào tạo
nên những con người phát triển toàn diện. Toán học là môn khoa học tự nhiên
có tính lôgic và tính chính xác cao, nó là chia khóa mở ra sự phát triển của các

môn khoa học khác. Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi
người giáo viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn
trong Sách giáo khoa, các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập
khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học
như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết
quả học tập không cao. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập
4


cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập
thông qua các phương pháp và hình thức, nội dung dạy học.
3. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
3.1 Cơ sở thực tiễn:
Trong nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường Tiểu học nói riêng, bộ
môn Toán hiện diện là môn học độc lập, nó có vị trí quan trọng vì:
Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong
cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn
học khác ở Tiểu học và học tập tiếp môn Toán ở Trung học. Môn Toán giúp học
sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian
của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số
mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống.
Đặc biệt qua các tiết luyện tập Toán giúp các em rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn
đề, giúp các em rèn luyện trí thông minh, sáng tạo. Đồng thời giúp các em trau
dồi đạo đức quí báu như : cần cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó, yêu thích
chính xác, ham hiểu biết. Nhưng trên thực tế việc dạy - học Toán như thế nào để
phát huy được tầm quan trọng của bộ môn và phát huy tính tích cực của học
sinh, giúp các em củng cố, khắc sâu, mở rộng phần kiến thức đã học, lại là một
vấn đề mà nhiều giáo viên trăn trở. Bởi vì học sinh chỉ tích cực học tập khi các
hoạt động dạy – học phù hợp với nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực sở

trường của các em.
3.2. Thực tế nội dung, chương trình, tình trạng dạy và học Toán ở lớp 2 của
giáo viên và học sinh:
3.2.1.Nội dung chương trình
Chương trình Toán 2 gồm có 175 tiết thì 168 tiết trong 7 chương và 7 tiết kiểm
tra
- Chương 1: Ôn tập và bổ sung ( 10 tiết)
- Chương 2: Phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 ( 32 tiết)
- Chương 3: Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 ( 36 tiết)
5


- Chương 4: Ôn tập ( 9 tiết)
- Chương 5: Phép nhân và phép chia (44 tiết)
- Chương 6: Các số trong phạm vi 1000 (23 tiết)
- Chương 7: Ôn tập cuối năm học ( 14 tiết)
3.2.2. Đối với giáo viên
Khi dạy các tiết Toán 2 do trình độ của mỗi GV khác nhau nên một số GV
chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực của HS
trong dạy học dẫn tới chưa củng cố, khắc sâu, mở rộng kiến thức và rèn kĩ năng
cho HS. Biểu hiện là:
- Chưa phân loại từng dạng bài khác nhau để có phương pháp giải riêng cho
từng dạng bài.
- Còn nhiều GV chưa hiểu rõ dụng ý của các bài tập. Họ cho rằng trong sách
giáo khoa Toán chỉ có các bài tập cơ bản phổ cập, chưa có bài tập rèn tư duy
sáng tạo của HS tức là GV không chỉ ra được một số dạng bài tập có thể khai
thác nhằm phát triển tư duy sáng tạo của HS.
- Còn nhiều GV chưa chú ý ( nói đúng hơn là chưa thể phát hiện ) để sửa lỗi cho
HS trong khi các em trình bày bài giải và lập luận lôgic tìm kiếm các kết quả mà
thường chú trọng tới đáp số.

- Việc giao nhiệm vụ học tập vẫn theo hướng đồng loạt, GV còn coi trọng việc
dạy chung cho cả lớp, mà chưa chú ý đến việc dạy theo nhóm đối tượng HS.
Nên không đáp ứng được như cầu cần học, muốn phám phá kiến thức của HS
năng khiếu. Điều này chưa đạt yêu cầu dạy học theo năng lực sở trường của HS.
Việc tìm nhiều cách giải cho một bài tập ở SGK hầu như bỏ qua vì sợ làm học
sinh bị rối.
3.2.3. Đối với học sinh.
Việc tự giác làm bài tập còn hạn chế, mới chỉ chú ý làm hết số bài mà
không biết đến chất lượng bài giải đó ra sao, còn phụ thuộc vào cách giải của
thầy cô đưa ra. Chưa tìm nhiều cách giải để lựa chọn cách giải hay cho một bài
toán. Dụng cụ học tập còn thiếu, nền nếp làm bài chưa nghiêm túc…

6


Do đó, việc dạy học Toán 2, để phát huy được tính tích cực của HS, và dạy
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, dạy - học đúng đối tượng học, là hết sức quan
trọng Nó quyết định lớn đến chất lượng học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng
đối với tất cả HS và phát huy hết khả năng học tập của HS năng khiếu.
Từ những suy nghĩ: Làm thế nào để tất cả HS đều được học và học được
theo đúng khả năng của mỗi HS ? Điều đó làm tôi luôn luôn suy nghĩ, trăn trở.
Cũng chính vì lẽ đó năm học 2013- 2014 tôi quyết định đầu tư nghiên cứu đổi
mới phương pháp dạy- học Toán 2 và năm học 2014 - 2015 này tôi tiếp tục
nghiên cứu để viết thành sáng kiến “ Góp phần nâng cao hiệu quả dạy - học
Toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng học sinh”. Với
mong muốn phần nào khắc phục được những hạn chế việc dạy – học Toán 2
hiện nay.
4. CÁC GIẢI PHÁP - BIỆN PHÁP THỰC HIÊN:
Từ việc điều tra thực trạng dạy - học Toán 2 của GV và HS, qua những
năm giảng dạy ở khối lớp 2, để nâng cao hiệu quả dạy - học Toán 2 tôi đã thực

hiện tốt các biện pháp sau:
4.1. NHẬN THỨC VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HỌC.

Trong quá trình dạy học phát huy tính tích cực của HS, HS là chủ thể, nhân
vật trung tâm của quá trình dạy học ( Các em không phải là đối tượng học tập
thụ động, chỉ biết nghe thầy, cô giáo giảng mà các em phải được học tập một
cách tích cực, bằng chính hành động của mình qua hoạt động mà học tập, rèn
luyện và phát triển). Chính vì vậy nhận thức đúng đắn về vai trò của người học
có ý nghĩa cực kì quan trọng. Vì giúp GV lựa chọn các phương pháp, biện pháp,
kĩ thuật dạy học, cách tác động phù hợp và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy
học. Nhận thức vai trò của người học được coi là một trong những khâu đột phá
để thay đổi cách dạy và cách học tự biện không sát đối tượng, không quan tâm
đến sở thích nguyện vọng và không phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi, hoàn
cảnh cụ thể… của người học.
4.2. ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH HỌC TẬP CỦA HỌC SINH.

7


Dựa vào điểm tổng kết và nhận xét của GV năm học trước, qua việc trực
tiếp giảng dạy trên lớp, xem vở bài tập, vở ghi, bài kiểm tra, hoàn cảnh gia đình
của HS … GV nắm được trình độ nhận thức của mỗi HS. Đặc biệt GV phải chú
ý đến đối tượng HS có tư duy phát triển và HS chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ
năng. Đối với HS chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng, GV phải xác định được
nguyên nhân tại sao?
- Do ý thức học tập chưa tốt ( Chưa tập trung học, lười học, lười làm bài tập…)
- Do nhận thức chậm ( Trí tuệ chậm phát triển)
- Do hoàn cảnh gia đình hoặc môi trường bên ngoài tác động.
Bên cạnh đó GV phải xác định cụ thể HS yếu về mặt nào ( tính toán, giải
toán có lời văn, lập luận …)

Từ việc điều tra cụ thể đó GV sẽ được đặc điểm của từng đối tượng học sinh
về nhận thức, kĩ năng để có biện pháp dạy – học phù hợp với khả năng, sở
trường của các em.
4.3. XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP CHO HỌC SINH.

Như trên đã nói, HS là nhân vật trung tâm và chủ thể của quá trình dạy học.
Do đó HS chỉ có thể học tập đạt kết quả cao khi và chỉ khi HS chủ động quan
tâm và hứng thú vào hoạt động học tập như :
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập như: SGK, vở ghi, vở nháp, vở BT,
thước kẻ, …
- Ý thức học tập phải nghiêm túc, tự giác, có thói quen tự học, chuẩn bị bài chu
đáo ở nhà. Chuẩn bị bài chu đáo ở nhà một cách tự giác, kĩ lưỡng sẽ giúp học
sinh tiếp thu bài một cách tự tin thoải mái, các em có khả năng tham gia trả lời,
không bị động, lúng túng…do đó sự hứng thú học tập của HS được nâng cao
hơn; trước những tình huống có vấn đề được đặt ra ở lớp HS sẽ biết cách lí giải
với các phưong án khác nhau, có thể đó là phương án khác của GV…
- Biết phối hợp các động tác: nghe, nhìn, nghĩ, nói, ghi ( đây là một yếu điểm
lớn nhất của HS tiểu học).
4.4. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN TRƯỚC KHI LÊN LỚP.

8


4.4.1 .Nghiên cứu nội dung chương trình bài dạy, xác định đúng mục đích
yêu cầu của tiết dạy theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình để có hệ thống chuỗi kiến thức, xác
lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ, giữa kiến thức của
môn này với phân môn khác để lựa chọn nội dung cho phù hợp.
- Nắm vững mục tiêu của bài dạy, nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để lựa chọn
phương pháp, hình thức và đồ dùng dạy học cho phù hợp, hiệu quả.

4.4.2. Thiết kế, xây dựng giáo án để dạy phù hợp với từng đối tượng HS.
Theo mục tiêu của giáo dục hiện nay là dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng. Để làm được việc này thì ngay từ bước soạn giáo án, GV đã phải chú ý
đến điều đó. Từ thực tiễn của lớp mình giảng dạy, khi soạn giáo án giáo viên
phải dự kiến các câu hỏi và bài tập, các tình huống, các yêu cầu ở từng mức độ
khác nhau cho từng phần. Muốn vậy trước tiên GV phải nắm chắc, yêu cầu, kĩ
năng cơ bản của từng bài. Cụ thể là:
4.2.2.1. Cần phân loại bài tập để có phương pháp giải từng loại bài tập đó.
4.2.2.2. Phải xác định được bài tập nào yêu cầu mọi đối tượng HS cần phải
và bắt buộc phải làm để đảm bảo yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức,kĩ
năng của tiết học.
4.2.2.3. Xác định được bài tập nào dành riêng cho HS năng khiếu( HS đã
hoàn thành)
+ Ví dụ: Tiết 13: 26 + 4 ; 36 + 24( SGK trang 13))
Bài 3 chỉ dành riêng cho HS năng khiếu không yêu cầu với HS cả lớp.
Hay Tiết 50: 51 – 15 ( SGK trang 50)
Bài 3: chỉ dành riêng cho HS năng khiếu có thời gian và điều kiện tham gia.
Trong thực tế giảng dạy, một số GV hiểu sai quan điểm về yêu cầu chuẩn
kiến thức, kĩ năng của một tiết dạy - học Toán 2 là chỉ cần thực hiện theo đúng
chuẩn kiến thức, kĩ năng đã qui định là đủ. Nên thường bỏ qua những bài tập
còn lại của sách giáo khoa mà theo chuẩn không đề cập đến và cũng không cần
giao cho HS làm ở buổi hai hoặc yêu cầu HS làm ở nhà với lí do học sinh học cả
ngày nên không được giao bài tập cho HS làm ở nhà. Song bài tập đó lại rất cần
9


đối với những học sinh muốn phấn đấu trở thành học sinh giỏi toán .Chính vì lẽ
đó, tôi đã chọn những bài tập này dành riêng cho HS năng khiếu làm thêm khi
các em có thời gian và điều kiện tham gia ngay trong tiết học Toán theo khả
năng và sở trường của các em.

4.2.2.4. Xác định được bài tập nào phát hiện HS có tư duy phát triển.
(Thường là các bài tập có nhiều cách giải hay bài tập đòi hỏi tính tư duy cao)
+ Ví dụ: Tiết : Luyện tập ( Trang 131)
Bài 4a: - Với yêu cầu HS bình thường chỉ cần HS quan sát hình vẽ rồi tính
độ dài đường gấp khúc theo cách thông thường đã học là 3 + 3 + 3 + 3 =
12( cm) nhưng để phát hiện HS có tư duy phát triển thì cho HS nêu cách giải
khác: 3 x 4 = 12 ( cm)
+ Ví dụ: Tiết : Các số có 3 chữ số ( Trang 146- 147)
Phần bài mới: - Với yêu cầu HS bình thường chỉ cần HS quan sát mô hình rồi
phân tích số, viết số, đọc số và nhận biết được các số có 3 chữ số đó.
- Song với HS có tư duy phát triển có thể khái quát được các
số có 3 chữ số, từ đó các em nêu được các số bé nhất, lớn nhất có 3 chữ số lẻ,
chẵn, khác nhau…
4.2.2.5. Xác định được bài tập nào HS hay mắc sai lầm.
4.2.2.5.1. Bài toán có lời văn liên quan đến tính chu vi các hình đã học và
đơn vị đo.
+ Ví dụ: Tiết 6: Luyện tập. ( SGK Trang 8)
Bài 4: HS dễ lẫn giữa đơn vị đo dm và cm.
+ Ví dụ: Tiết 145: Mét. ( SGK Trang 150)
Bài 4: HS dễ lẫn giữa đơn vị đo m và cm.
4.2.2.5.2. Bài toán về các phép tính và tìm thành phần chưa biết
+ Ví dụ: Tiết 14: Luyện tập( SGK trang 14)
Bài 3: Đặt tính rồi tính ( SGK trang 14)
Phép tính 3 + 27 HS dễ đặt tính nhầm 3 thẳng cột với 2 rồi tính.
+ Ví dụ tiết 75 : Luyện tập chung ( SGK Trang 75)
Bài 4 ( SGK trang 75)
10


Tìm x: a) x + 14 = 40


b) x – 22 = 38

c) 52 – x = 17

Do xác định sai thành phần chưa biết của phép tính dẫn đến kết quả của bài
sai.
4.2.2.6. Bài tập nào cần phải mở rộng để bồi dưỡng HS năng khiếu.
+ Ví dụ:
Với các Bài toán về nhiều hơn ; Bài toán về ít hơn thì muốn bồi dưỡng
HS năng khiếu giáo viên cần cho HS phát hiện dấu hiệu của Bài toán nhiều hơn,
ít hơn cho biết số lớn hay số bé và tìm số nào…
Với bài 3 ( Tiết 129: Chu vi hình tam giác – chu vi hình tứ giác) sau khi
HS đã đo và tính xong chu vi hình tam giác: 3 + 3 + 3 = 9 (cm) hoặc 3 x 3 = 9
( cm) có thể hỏi đối với HS năng khiếu câu hỏi sau:
- Khi biết chu vi hình tam giác có 3 cạnh bằng nhau ta có thể tìm được
cạnh của hình tam giác đó không? Tìm bằng cách nào? : 12 : 3 = 3 ( cm)
Với việc đưa thêm bài tập, hay câu hỏi như vậy GV đã bỗi dưỡng HS năng
khiếu ngay trong tiết học một cách tự nhiên và hiệu quả.
4.2.3. Dự kiến thời gian cho mỗi bài tập khi dạy trên lớp để phân bố thời
gian hợp lí giữa các bài trong tiết dạy.
Từ việc phân loại bài tập và xác định được mục đich của từng bài GV phân
bố thời gian hợp lí, lựa chọn được phương pháp – hình thức dạy học phù hợp để
phát huy tính tích cực của học sinh cũng như đảm bảo tính vừa sức đối với
người học.
4.5. DẠY TRÊN LỚP.

Như chúng ta đã biết trong một lớp học có em nam, có em nữ, tâm lí của
mỗi em khác nhau, sự phát triển khác nhau do khả năng, trí tuệ của mỗi em khác
nhau; có con em của những người lao động chân tay, lao động trí óc…Do đó HS

của cùng một lớp sẽ có trình độ nhận thức khác nhau. Chính vì vậy, để phát huy
tính tích cực của HS trong tiết dạy- học Toán, trong quá trình dạy học GV phải
chú ý tác động đến các đối tượng HS. Để HS năng khiếu không cảm thấy tẻ
nhạt, các em được phát huy năng lực học tập của mình.Và HS chưa đạt không bị
đứng bên lề mỗi tiết học, các em được rèn luyện, phụ đạo để vươn tới sàn kiến
11


thức kĩ năng cơ bản tối thiểu cần đạt được. Do đó GV cần thực hiện tốt các biện
pháp sau:
4.5.1. Vận dụng các phương pháp dạy học.
Mỗi một phương pháp dạy học đều có những ưu – nhược điểm riêng, không
có một phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy việc phối hợp một cách khéo léo
và hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau sẽ góp phần làm cho giờ học trở
nên sinh động, nhiều màu sắc, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực từ phía
HS.
4.5.2. Tổ chức tốt các hình thức dạy học.
Tuỳ theo từng tiết học, từng bài toán mà GV sử dụng các hình thức dạy học
khác nhau:
- Những bài tập đơn giản mang tính chất luyện tập đơn giản, GV nên cho HS
hoạt động cá nhân để mỗi HS đều được luyện tập.
- Những bài tập khó, trừu tượng, đòi hỏi sự tư duy cao…GV nên cho HS hoạt
động nhóm. Ở đó các em được hỏi han, trao đổi, thảo luận với nhau. Do đó
những ý kiến riêng của mỗi người sẽ được hoàn chỉnh hơn trong sự giúp đỡ của
bạn bè. Nhiều khi ngôn ngữ của HS đôi khi gần gũi dễ hiểu với HS hơn, nên
việc tiếp thu bài dễ dàng hơn vì “ Học thày không tày học bạn”. Bên cạnh đó
việc hoạt động nhóm còn rèn cho HS cách sử dụng ngôn ngữ trong cách trình
bày, diễn đạt, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập.
- Những ý kiến của các nhóm sẽ được đưa ra trao đổi, thảo luận rộng rãi hơn để
tìm ra những kết luận hợp lí nhất…GV nên tổ chức cho HS hoạt động cả lớp.

Tại thời điểm này người GV sẽ thể hiện vai trò “Trọng tài khoa học” giúp các
em phân biệt đúng sai, hợp lí hoặc chưa hợp lí, nên làm theo hay không nên, làm
theo cách này hay cách kia…
Việc tổ chức các hình thức dạy học hợp lí sẽ làm cho không gian học cởi mở
hơn, phát triển ở HS những kĩ năng quan trọng như: làm việc theo nhóm, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng trình diễn…
4.5.3. Sử dụng phương tiện trực quan một cách hợp lí.

12


Đối với HS tiểu học thiết bị dạy học đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em
quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp HS nhận thức sâu hơn nội
dung bài học, hình thành tốt kỹ năng, kỹ xảo. Song việc lựa chọn các thiết bị
dạy học phải tuỳ thuộc vào mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học đồng thời
cần đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Khi sử dụng phương tiện trực quan,
GV phải chú ý là làm sao cho tất cả HS trong lớp đều có thể quan sát, cảm nhận
đồ dùng trực quan như nhau. Tránh trường hợp chỉ những HS ở bàn trên, hoặc
những HS ở gần GV mới “biết đến” phương tiện trực quan, còn những HS khác
cảm nhận nó như ảo ảnh.
4.5.4. Đặt câu hỏi phù hợp
Cách đặt câu hỏi của GV phải giúp HS phát triển tư duy, buộc HS phải suy
nghĩ trước khi đưa ra câu trả lời. Ngoài ra GV phải quan tâm chú ý đến đối
tượng được hỏi, hướng tới từng cá nhân HS ( tính phân hoá trong dạy học). Cụ
thể là:
- Đặt câu hỏi phải xem xét HS có trả lời được không.
- Dành đủ thời gian để HS suy nghĩ và trả lời.
- Nên sử dụng cử chỉ, ánh mắt để khuyến khích HS trả lời.
- Nên khen ngợi hay ghi nhận những câu trả lời đúng.
- Tránh làm cho HS ngại ngùng khi trả lời.

- Nếu HS không trả lời được thì có thể đặt câu hỏi gợi mở cho HS dễ trả lời.
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời.
- Cần tránh hệ thống câu hỏi đế.
- Câu hỏi nên phù hợp với đối tượng HS và để nhiều HS trả lời được.
- Phải thay đổi nội dung câu hỏi.
Những câu hỏi hay cũng như cách đặt câu hỏi hợp lí, thú vị sẽ kích thích các
em tích cực tham gia xây dựng bài. Việc HS tích cực trong các hoạt động học
luôn mang lại những giá trị cho giờ lên lớp, góp phần không nhỏ vào thành công
của mỗi giờ học.
4.5.5. Tạo và xử lí tình huống tốt.

13


Tạo tình huống và xử lí tình huống có thể coi là một thủ pháp tạođiểm nhấn
cho giờ học, có ý nghĩa mở rộng, khắc sâu kiến thức, tích cực hoá hoạt động của
HS. Biết xử lí tình huống một cách khéo léo, đảm bảo tính sư phạm, tính giáo
dục, mang lại những giây phút sôi nổi, thú vị cho giờ học. Chẳng hạn, trong một
giờ dạy tiết luyện tập Toán 2 việc GVcó thể tính toán sai hoặc nhầm lẫn một số
chi tiết đôi khi vẫn xảy ra. Nếu như GV không phát hiện ra sự nhầm lẫn của
mình thì có thể coi đó là một lỗi của giờ dạy (liên quan đến kiến thức, nội dung
của bài học). Ngược lại, nếu GV phát hiện ra và xử lí khéo léo như: “ Vừa rồi,
có một chỗ cô thực hiện chưa đúng bạn nào có thể chỉ ra và sửa lại được giúp cô
? ”. Dĩ nhiên, sau “ câu đố” rất khéo léo này của GV, sẽ có rất nhiều HS hào
hứng đi tìm lỗi của cô và sửa lại giúp cô. Giờ học vì thế trở nên sôi động, thú vị
hơn nhiều.
4.5.6 . Động viên khen thưởng kịp thời.
Các em ở lứa tuổi HS tiểu học rất sợ bị chê, bị mắc lỗi, bị phê bình, do đó
rất mất tự tin, từ đó ngại phát biểu, ngại thể hiện mình. Các em thích được khen,
được cổ vũ. Vì vậy, GV cần chú ý khen ngợi các em làm đúng, làm tốt, hạn chế

nói thẳng, phê bình thẳng khi các em làm sai. Thay vào đó là những lời động
viên, khuyến khích để các em có động lực cố gắng cho những lần sau, tạo cho
các em mong muốn được làm lại, làm tốt hơn. GV nên tìm cách nói giảm, nói
tránh khi các em làm chưa đúng để các em không có cảm giác nặng nề hoặc tự ti
với bạn bè.
4.5.7. Tương tác tốt với học sinh.
Dạy học không chỉ là truyền thụ tri thức. Cách hay hơn đó là gợi mở, kích
thích để HS tự tìm ra tri thức, biến tri thức đó thành của mình. Muốn vậy, GV
cần có khả năng tương tác tốt với HS. Trong quá trình dạy học, GV cần phải
quan sát HS, hướng tới người nghe một cách có chủ định. Việc giao lưu bằng
mắt với HS, việc đua ra những câu nói mang tính động viên, khuyến khích HS
nói, trình bày, hành động…có ý nghĩa quan trọng. GV cần phải biết lắng nghe
HS, Khai thác những khả năng sẵn có trong mỗi HS, giúp các em biết cách tự
thể hiện mình, làm sao để các em nói nhiều, nói được đúng, được hay và hào
14


hứng, sôi nổi với bài học. Khả năng hài ước, hóm hỉnh của người GV cũng góp
phần làm cho giờ học trở nên tự nhiên, thú vị, làm bớt đi cái căng thẳng của tiết
học Toán.
4.5.8. Phải chú ý đến kĩ năng nói và kĩ năng viết bảng
Để có những giờ học vui, hấp dẫn, thú vị, gây hứng thú học tập từ phía HS
thì tình yêu trẻ, kiến thức lí thuyết vững thôi chưa đủ, mà đòi hỏi ở mỗi GV tiểu
học thực hiện tốt những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm dù là nhỏ nhất như kĩ năng
nói và kĩ năng viết bảng.
- Yếu tố tối thiểu đối với GV là không được nói ngọng. Lời nói của GV cần phải
chuẩn mực. Và đối tượng giao tiếp là đông đảo học sinh(ít nhất trên 20 em
trong một lớp) cho nên giọng nói của GV cần to, rõ ràng, tự nhiên, truyền cảm
và gần gũi với các em. Một giờ học GV không thể đều đều một sắc thái giọng
nói từ đầu chí cuối. Như vậy, nó tạo ra sự tẻ nhạt, buồn chán,… trực tiếp làm

cho các em không còn hứng thú với buổi học đó. Truyền cảm ở đây cần phải
hiểu một cách linh hoạt. Nói khi giảng bài khác với khi đặt yêu cầu, ra câu lệnh,
khác với khi giao tiếp, kích thích học sinh trình bày… Bên cạnh đó, GV cũng
cần lưu ý một số điểm như: nên nói ít, tránh giảng tràn lan, tránh to tiếng, quát
nạt HS.
- Chiếc bảng lớp phản ánh nội dung chính của giờ học, qua đó cũng phản ánh
được phần nào người sử dụng nó. Yêu cầu đối với việc trình bày bảng đó là
trình bày khoa học, bố cục rõ ràng, chữ viết đẹp, ghi lại được những nội dung
trọng tâm, cơ bản của giờ học. Đôi khi những minh hoạ bằng hình vẽ hoặc sử
dụng thêm phấn màu cũng làm cho chiếc bảng sinh động, hấp dẫn hơn rất nhiều.
Tuy nhiên bảng lớp không thuộc “ độc quyền” sử dụng của GV mà cũng cần sự
tham gia của HS nhất là trong những giờ Toán, khi HS tham gia sử dụng bảng
lớp cần có sự hướng dẫn của GV để làm sao vẫn đảm bảo được yêu cầu về trình
bày và sự theo dõi tập trung của tất cả HS trong lớp.
4.5.9. Rèn kĩ năng tự đánh giá cho HS

15


Trong một tiết Toán không phải bài nào GV cũng đánh giá được hết kết quả
bài làm của HS. Do đó việc rèn kĩ năng tự đánh giá cho HS là rất quan trọng. Có
hai hình thức tự đánh giá:
+ Học sinh tự đánh giá bài làm của mình: Với bài tập HS hoạt động cá nhân, sau
khi cả lớp và GV chốt bài giải đúng, GV yêu cầu HS đối chiếu với kết quả đúng
để đánh giá bài làm của mình rồi báo cáo kết quả. Làm như vậy HS tự kiểm tra
lại được bài làm của mình để sửa sai kịp thời ( nếu có) vừa giúp giáo viên nắm
được thông tin ngược từ phía HS.
+ Học sinh đánh giá bài của bạn: Ngoài việc tổ chức cho HS nhận xét bài làm
của bạn trước lớp, ở một số bài tập GV nên cho hai HS ngồi cạnh nhau đổi chéo
bài để kiểm tra bài làm cho nhau và thậm chí để các em được chấm điểm bài

làm lẫn nhau theo biểu điểm GV đưa ra. Được tập làm GV như vậy các em cảm
thấy thích thú và cố gắng hơn trong học tập để có kết quả tốt hơn. Làm như vậy
các em không chỉ giúp bạn sửa sai mà các em còn học tập cách giải hay, cách
trình bày khoa học của bạn, có kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập.
Việc rèn kĩ năng đánh giá cho HS sẽ giúp các em:
- Kiểm soát được việc học của bản thân các em.
- Lên kế hoạch học tập để cải thiện việc học tập của bản thân.
- Cảm thấy thoải mái về những gì các em có tự làm được.
- Dần dà, hình thành nề nếp và phương pháp học tập riêng cho HS.
4.5.10. Sắp xếp hợp lí chỗ ngồi cho học sinh và việc thực hành làm bài theo
đối tượng học sinh.
Cũng có GV cho rằng sắp xếp chỗ ngồi học của HS trong tiết học không
quan trọng, miễn sao đủ chỗ ngồi. Cũng có GV sắp xếp chỗ ngồi cho HS theo
suy nghĩ để cho tiện kèm cặp HS học chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, lại
sắp cho HS cùng đối tượng ngồi cạnh nhau. Quan điểm của tôi, giáo viên cần
bố trí , sắp xếp chỗ ngồi sao cho phù hợp để học sinh có thể hợp tác giúp đỡ
nhau trong quá trình học tập và giáo viên cũng thuận lợi trong việc kiểm soát,
giúp đỡ học sinh trong quá trình diễn ra của tiết học cụ thể:

16


+ Việc sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh đảm bảo sao cho hai học sinh ngồi cạnh
nhau phải có nhận thức khác nhau, không để hai học sinh chưa đạt chuẩn kiến
thức kĩ năng ngồi cạnh nhau.
+ Việc sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng phải
đảm bảo sao cho không ngồi ở các chỗ giáp tường.
Tại sao phải sắp xếp chỗ ngồi như vậy ? Tôi làm như vậy vì mục đích:
- Sắp xếp như vậy sẽ thuận tiện cho việc đi lại kiểm tra, giúp đỡ học sinh gặp
khó khăn khi hoạt động cá nhân như khi tự làm bài tâp.

- Sắp xếp như vậy sẽ thuận lợi cho các hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm.
Vì: Trong một tiết học bao giờ cũng có những bài toán cơ bản vận dụng công
thức hoặc qui tắc nào đó, song còn có thêm bài tập tổng hợp kiến thức khác
hoặc nâng cao mức độ.
Trong một tiết học Toán 2 trên lớp, chúng ta cần mạnh dạn xoá bỏ kiểu cho
HS cả lớp thực hành đồng loạt làm một bài tập và có ý chờ đợi HS học còn
chậm làm xong mới chữa bài. Nên đưa ra nhiều bài tập cùng một lúc để học
sinh tận dụng quĩ thời gian đó vào việc làm bài với khả năng của từng HS.
+ Ví dụ: tiết 26: 7 cộng với một số 7 + 5 ( SGK trang 26)
Phần thực hành gồm bài 1, 2, 4 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng HS cần đạt.
Còn bài tập 3; bài tập 5 ( trang 26) không bắt buộc.
Với tiết này, sau khi lập bảng 7 cộng với một số xong, cần giao bài tập để
các em tự làm theo khả năng của mình. Trong thời gian làm bài HS năng khiếu
làm bài nhanh hơn có thể làm trước các bài tập, thậm chí làm hết các bài tập kể
cả bài không bắt buộc. Làm như vậy học sinh được liên tục làm việc, không có
thời gian ngồi chơi hay nói chuyện riêng và có làm như vậy HS năng khiếu mới
có cơ hội được làm thêm bài tập ở mức độ khó hơn. Mỗi bài trong một thời
gian nhất định đã qui định với học sinh, GV tiến hành tổ chức chữa bài, nhận
xét, chốt và yêu cầu hoạt động tiếp theo. Có người sẽ thắc mắc làm như thế thì
hoạt động cặp, nhóm diễn ra vào lúc nào? Như đã trình bày ở trên, các hoạt
động này chỉ diễn ra khi các bài tập thực hành ở mức độ tổng hợp kiến thức
hoặc ở mức độ nâng cao kiến thức. Mà khi HS năng khiếu đã tự đọc và nghiên
17


cứu trước hoặc làm xong bài tập trước khi GV yêu cầu thì HS năng khiếu càng
có điều kiện thuận lợi trong việc thảo luận, trao đổi với bạn, thậm chí có thể
giảng giải cho bạn hiểu.
5. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
5.1. KẾT QUẢ VÀ NHẬN XÉT BAN ĐẦU


Tôi đã sử dụng mô hình bài dạy Toán trên để dạy các tiết Toán 2 cho học
sinh lớp 2D và ra đề kiểm tra để kiểm nghiệm việc soạn giảng thực nghiệm ở
lớp 2D và lớp 2E là lớp đối chứng như sau:
5.1.1.Kết quả thu được như sau:
Điểm 9 => 10 Điểm 7 => 8 Điểm 5 => 6 Điểm 1 => 4
Sl
%
SL
%
SL
%
SL
%
2D
40
33
82,5
5
12,5
2
5
0
0
2E
40
20
50,0
11
27,5

8
20,0
1
2,5
Nhìn vào bảng tổng hợp trên ta thấy lớp 2D có kết quả cao hơn lớp 2E là do

Lớp

Sĩ số

các tiết Toán các em được chủ động, kiến thức của các em mở rộng, khắc sâu
hơn, được thực sự rèn luyện hơn và các em nắm chắc phương pháp giải từng
dạng bài khác nhau, nên khả năng vận dụng, thực hành làm bài tốt hơn.Còn lớp
2E do học sinh không được học theo cách dạy - học trên nên học sinh nắm bài
không sâu, không lôgic, khả năng vận dụng thực hành còn hạn chế. Mặt khác
kiến thức trong các tiết học trên lớp các em không được mở rộng, không được
liên hệ thực tế nên dẫn tới kết quả bài làm chưa cao ( hầu như bài 6 phần trắc
nghiệm và bài 2c, 2d và bài 5 phần tự luận HS không làm được).
Qua việc thực hiện các biện pháp dạy - học Toán 2 trên, tôi thấy HS đã đạt
được một số kết quả sau:
- Tiết học Toán 2 vừa đảm bảo được về chuẩn kiến thức, kĩ năng của tiết học
đối với tất cả học sinh, vừa phát huy được hết khả năng học Toán của HS năng
khiếu.
- Học sinh luôn tự giác, tích cực, chủ động học tập, không ngại học toán, yêu
thích môn học.
- Nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức. Cụ thể là trong những đợt
kiểm tra định kì môn Toán lớp do tôi trực tiếp giảng dạy đều đạt 100% chất
18



lượng theo yêu cầu giáo dục, trong đó tỉ lệ đạt điếm 7- 8 và điểm 9 - 10 tương
đối cao đạt từ 80%- 90% trở lên.
- Phát triển được những phẩm chất đạo đức cá nhân như: tính kiên trì, lòng
nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể.
- Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
Với kết quả đạt được như trên đã giúp tôi tự tin, mạnh dạn hơn để viết sáng
kiến này, với nguyện vọng mong được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Rất mong
đồng nghiệp cũng như hội đồng khoa học các cấp góp ý kiến giúp cho sáng
kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn.
5.1.2 .BÀI HỌC KINH NGHIỆM

5.1.2.1. Bài học rút ra từ thực tế:
Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy- học Toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng tôi nhận thấy rằng:
Đối với giáo viên
- Cần nghiêm túc nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, đọc thêm tài liệu
tham khảo để hiểu sâu, rộng hơn. Nghiên cứu bài kĩ, chu đáo phân dạng bài tập
và có cách giải cho từng dạng hoặc mỗi bài có nhiều cách giải khác nhau.
- Hệ thống bài tập chữa phải chọn lọc, đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng; có
bổ

sung kiến thức nâng cao cho học sinh năng khiếu.

- Kết hợp các phương pháp dạy học một cách khéo léo, tổ chức tốt các hình
thức dạy học, phù hợp với bài tập, từng tiết dạy. Đặc biệt với phần hình học
phải rèn cho học sinh biết phân tích tổng hợp để làm bài có căn cứ.
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc bản chất vấn đề.
Tạo điều kiện cho học sinh được học và học được, cần động viên khuyến khích
để kích thích sự sáng tạo cũng như hứng thú học tập của học sinh, tạo không
khí học tập sôi nổi.

- Giáo viên cần phải kiên trì vượt khó, tìm tòi, sáng tạo, thực say mê với nghề,
có tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn đặt chất lượng học sinh lên hàng đầu.
Tạo nên hình ảnh đẹp và niềm tin ở thầy cô cho các em.
Đối với học sinh
19


Học sinh phải chuẩn bị bài chu đáo, được lên bảng trình bày lời giải của
mình, biết nhận xét cách trình bày, kết quả bài làm của bạn và có thể đưa ra
cách làm khác. Trong tiết học tất cả học sinh cả lớp phải cùng được làm việc.
5.1.2.2. Những hạn chế
Qua nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy kết quả thu được của sáng kiến có
thể nói là tương đối tốt, song bên cạnh đó sáng kiến còn hạn chế sau:
- Thời gian nghiên cứu còn ít.
- Đối tượng chỉ dùng ở lớp 2 tôi trực tiếp giảng dạy, chưa nghiên cứu được ở
các khối lớp.
- Nội dung còn dừng ở mức độ, phần bài soạn minh họa chưa thể hiện được
hết ý tưởng, những việc làm cụ thể.
6. ĐIỀU KIỆN ĐỂ SÁNG KIẾN ĐƯỢC NHÂN RỘNG:
- Sáng kiến được áp dụng cho tất cả học sinh lớp 2 có trí nhớ bình thường và
học chương trình 175 tuần có đủ sách vở.
- Giáo viên có trình độ chuẩn trở lên, tâm huyết với nghề nghiệp, có đầy đủ
sách giáo khoa, sách hướng dẫn và một số tài liệu tham khảo khác.

20


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
Như đã đề cập phần lí do chọn sáng kiến “ Góp phần nâng cao hiệu quả

dạy - học Toán 2 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng học
sinh” giúp GV nâng cao chất lượng dạy học Toán ở Tiểu học. Đáp ứng được
yêu cầu của giáo dục hiện nay là đào tạo những con người phát triển toàn
diện, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo, có khả năng tự giải quyết vấn
đề.
II. KHUYẾN NGHỊ:
1. Đối với giáo viên
- Cần tự học tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ
chuyên môn.
- Nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung bài học để từ đó lựa chọn phương pháp và
hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
2. Đối với các cấp quản lý
- Cung cấp đầy đủ SGK, tài liệu tham khảo cho GV.
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề để cùng nhau bàn bạc tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình dạy học, tìm ra phương pháp tốt nhất.
- Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
- Với những sáng kiến có tính thiết thực cao, các cấp quản lí nên tổ chức các
buổi báo cáo Sáng kiến kinh nghiệm để phổ biến rộng rãi cho mọi GV tham
khảo và học tập. Có như vậy việc tổ chức viết SKKN hàng năm mới có ý
nghĩa sâu rộng.
Qua quá trình nghiên cứu tích lũy, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy
tôi đã viết sáng kiến này. Với thời gian và khả năng của bản thân có hạn,
trong quá trình trình bày chắc chắn còn nhiều hạn chế. Tôi mong muốn nhận
được sự góp ý chân thành của hội đồng khoa học các cấp và đồng nghiệp để
sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
21


MỘT SỐ BÀI SOẠN MINH HỌA

Sau đây là bài soạn thể hiện sự phát huy tính tích cực của HS trong dạy – học
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và dạy- học phân hoá đối tượng HS.
Phần bài soạn còn thể hiện dạy theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và phương
pháp tác động tới các đối tượng HS hay nói cách khác “ Dạy học theo chuẩn
kiến thức, kĩ năng và phân hóa đối tượng HS” trong tiết dạy - học Toán 2 được
thể hiện như sau:
TOÁN
Tiết 5: ĐỀ - XI – MÉT ( Trang 7)
I. Mục tiêu:
- Biết đề - xi – mét là một đơn vị đo độ dài; biết tên gọi, kí hiệu của nó. Hiểu
mqh giữa dm và cm ( 1 dm = 10 cm). Nhận biết được độ lớn của đơn vị đo dm,
biết so sánh độ dài đoạn thẳng đơn giản, biết thực hiện phép cộng, trừ các số đo
độ dài có đơn vị đo là dm.
- Rèn kĩ năng cộng, trừ có số đo dm.
- Có tính cần cù, tự tin, hứng thú trong học tập.
II. Đồ dùng: Thước thẳng có vạch chia dm.
III. Các hoạt động dạy - học :
1. KTBC (2 - 3’): 3 HS ở 3 đối tượng lên bảng.
6 cm + 3 cm =
12 cm + 5 cm =
38 cm – 15 cm + 42 cm =
- GV nhận xét, cho điểm.
2. Bài mới:
HĐ1: Giới thiệu bài, ghi bài. ( 1’)
- 2 HS nêu tên bài.
HĐ2: GT đơn vị đo độ dài dm ( 5-6’).
- Cho HS đo độ dài bằng giấy 10 cm.
- HS thực hành đo.
- Cho HS nêu KQ đo.
- 2 – 3 HS nêu.

- GV nói 10 cm còn gọi là 1 dm và GV - HS nghe – quan sát.
viết: đề - xi - mét viết tắt là dm.
- Cho HS nêu MQH giữa cm và dm.
- 1 dm = 10 cm
10 cm = 1 dm
- Cho HS nhận biết các đoạn thẳng có
độ dài 1, 2, 3 dm trên 1 đường thẳng.
HĐ3: Luyện tập: ( 28 -30’)
Bài 1/7 SGK: Rèn KN QS và SS độ
dài đoạn thẳng.
- Cho HS đọc và xác định yêu cầu của - 2 HS đọc – lớp đọc thầm
bài.
- Cho HS làm bài.
- HS nối tiếp nêu câu trả lời – NX.
- Nhận xét - đánh giá.
Bài 2/7 VBT: Rèn KN +, - nhẩm có
đơn vị đo.
- Cho HS đọc yêu cầu và mẫu.
- 2 HS đọc.
- Cho HS làm bài.
- HS làm bài vào vở – 2 HS làm bảng
- GV chấm chữa.
nhóm.
Bài 3/7 SGK: Rèn KN ước lượng độ
22


dài đoạn thẳng.
- Cho HS làm miệng .
- Nhận xét - đánh giá.

HĐ4: Củng cố- dặn dò: ( 1-2’)
- Cho HS nêu ND của tiết học.

- HS quan sát – trả lời cá nhân.
- 1 – 2 HS nêu.

TOÁN
Tiết 24: BÀI TOÁN VỀ NHIỀU HƠN. ( trang 24)
I. Mục tiêu:
- HS biết cách nhận biết dạng toán, giải và trình bày bài giải Bài toán về nhiều
hơn.
- HS có KN nhận dạng toán và giải đúng, nhanh.
- Rèn tính cẩn thận trong trình bày.
II. Đồ dùng:
Giáo án điện tử.
III. Các hoạt động dạy học:
A. Kiểm tra: ( 2 - 3’)
- GV đưa ra tóm tắt - cho HS nêu tóm - Lớp đọc thầm tóm tắt – 1 - 2 HS
tắt- đặt đề toán:
nêu tóm tắt - đề toán
Thùng cam có : 28 quả.
Thùng quýt có : 37 quả.
Cả hai thùng có : …. quả?
- Cho HS giải
- lớp làm nháp- 1 HS làm bảng
- GV HD HS nhận xét, chữa bài – đánh nhóm.
giá - chốt kiến thức cơ bản qua bài toán. - Lớp làm miệng
B. Bài mới:
HĐ1: GT về bài toán nhiều hơn ( 1012’)
Bước1: Hướng dẫn HS tìm hiểu bài

toán và nêu tóm tắt.
Cách 1:
- GV đưa ra lần lượt các mô hình quả
cam:
+ Hàng trên 5 quả cam.
- HS quan sát.
+ Hỏi: Hàng trên có mấy quả cam?
- 2 - 3 HS trả lời: 5 quả cam
+ Hàng dưới 7 quả cam.
- HS quan sát.
+ Hỏi hàng dưới có mấy quả cam?
- 2 - 3 HS trả lời: 7 quả cam.
+ Nhìn vào mô hình số cam hàng dưới - 2 - 3 HS trả lời: Số cam hàng dưới
so với số cam hàng trên như thế nào?
nhiều hơn số cam hàng trên.
=> GV vừa che 5 quả cam hàng dưới và - 2-3 HS đọc bài toán - lớp đọc
đồng thời nói: Giả sử cô che một số cam thầm.
hàng dưới như trên bảng và cô có bài
toán: Hàng trên có 5 quả cam, hàng dưới
có nhiều hơn hàng trên 2 quả cam. Hỏi
hàng dưới có mấy quả cam?
23


- Bài toán cho biết gì?
- 2-3 HS trả lời: Hàng trên có 5 quả
cam, hàng dưới nhiều hơn hàng trên
2 quả.
- Hàng dưới có mấy quả cam?


- Bài toán hỏi gì?
- GV kết hợp ghi tóm tắt lên bảng:
Cách 2:
- GV nêu miệng đề toán.
- Gài lần lượt số quả cam theo từng - HS nghe.
hàng- Cho HS nêu bài toán
- HS quan sát - 2 HS nêu lại đề toán
- GV đưa ra bài toán.
- Cho HS tóm tắt bài toán
- Lớp đọc thầm và 2 HS đọc trước
lớp
- Nhận xét – chốt cách tóm tắt đứng - Lớp tóm tắt vào nháp - 1 HS lên
nhất.
bảng.
Bước 2: Hướng dẫn HS tìm cách giải
- HS nhận xét đánh giá.
Cách 1: (Dành cho HS đạt mức chưa
hoàn thành và hoàn thảnh).
- Bài toán cho biết gì?
- Hàng trên có 5 quả cam, hàng dưới
- Bài toán hỏi gì?
nhiều hơn hàng trên 2 quả cam.
- Muốn biết hàng trên có mấy quả cam - Hàng dưới có mấy quả cam?
ta làm như thế nào?
- Ta lấy 5 quả cam cộng 2 quả cam
Cách 2: Dành cho HS năng khiếu
bằng 7 quả cam.
GV hỏi:
- Muốn biết hàng dưới có bao nhiêu quả
cam ta làm phép tính gì?

- Em làm phép tính cộng:
5 + 2 = 7 ( quả)
- Tại sao em lại làm phép tính cộng?
- Vì số cam hàng dưới nhiều hơn số
- GV ghi phép tính, kết quả: 5 + 2 = 7
cam hàng trên.
- GV tổ chức cho HS nhận xét kết quả
và chọn danh số - GV chốt.
- 5 + 2 = 7 ( quả)
- Vậy các em chọn câu lời giải cho phép - 5 + 2 = 7 (quả cam)
tính này ?
HS có thể nói:
a. Số quả cam ở hàng dưới là:
b. Hàng dưới có số quả cam là:
c. Số quả cam của hàng dưới có ít
hơn 2 quả là:
- GV tổ chức cho HS lựa chọn câu trả d. Hàng dưới có tất cả số quả cam
lời đúng
là:
- GV cho HS nêu đáp số
- HS chọn: a, b, d là đúng ( HS khá giỏi giải thích tại sao không chọn
Bước3: Hướng dẫn HS cách giải, trình c?).
bày bài giải.
- 2 - 3 HS nêu: Đáp số: 5 quả
- Cho HS nêu các bước giải, cách trình
Đáp số: 5 quả cam
24


bày bài giải.

- Cho HS giải
- 2 HS nêu
Bước4: Hướng dẫn HS cách nhận xét,
đánh giá.
- GV chấm một số bài.
- Cho HS nhận xét, đánh giá:
+ GV treo bảng nhóm bài làm của HS
cho HS nhận xét- GV đánh giá.
+ Cho HS đối chiếu bài làm của mình
nhận xét.
+ GV nhận xét những bài GV chấm.
=> Vừa rồi các con đã giải xong bài toán
đố ai biết bài toán thuộc dạng toán gì?
- GV chốt và đưa ra đầu bài.
HĐ2: Luyện tập. ( 22 – 23’)
Bài 1/24 SGK: Rèn KN giải toán về
nhiều hơn.
- Cho HS đọc bài toán – TT bài toán
- Cho HS làm bài ( HS tự tìm cách giảigiải- GV giúp đỡ HS chưa hoàn thành
tìm cách giải)
- Cho HS nhận xét, đánh giá.
+ Cho HS nhận xét đánh giá bài làm của
bạn trên bảng nhón- GV chốt.
+ Cho HS đỏi chéo vở đánh giá bài làm
của bạn.
+ GV chốt
Bài2/24 SGK: Rèn KN giải toán.
- Cho HS làm xong trước làm và giúp đỡ
các bạn chưa hoàn thành làm bài
- Chữa bài

Bài 3/24 SGK: Rèn KN giải toán.
- Cho HS đọc bài – tóm tắt.
- Cho HS làm bài.
- Nhận xét- đánh giá.( chiếu bài làm của
HS nhận xét, đánh giá)
- GV chốt từ ‘‘cao hơn” và cho HS nêu
một số từ có tiếng hơn
HĐ3: Củng cố – dặn dò: ( 1-2’)
- HD HS ghi nhớ dạng toán:
+ Hôm nay chúng ta học dạng toán nào?
+ Bài toán về nhiều hơn cho biết số lớn
hay số bé?
25

- 1 HS làm bảng nhóm – lớp làm
nháp.
Bài giải
Số quả cam ở hàng dưới là:
5 + 2 = 7 ( quả cam)
Đáp số: 7 quả cam
- HS quan sát nhận xét: Lời giải,
phép tính, đáp số...., cách trình bày...
- Cho HS đối chiếu và giơ tay nêu ý
kiến đúng - sai.
- 2 HS trả lời: Bài toán về nhiều hơn.
- 2 HS nhắc tên bài.

- 2 HS đọc- lớp đọc thầm.
- 1 HS làm bảng nhóm- lớp làm vở.


- HS quan sát- đại diện nhận xétđánh giá
- HS nhận xét, đánh giá chéo.

- HS làm bài nhóm
- Đại diện nêu bài giải.
- 2- 3 HS đọc- lớp đọc thầm- đại
diện nêu tóm tắt.
- HS làm vở
- HS nhận xét- đánh giá.
- cao hơn, dài hơn, nặng hơn...


×