Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

skkn hướng dẫn học sinh lớp 3 học các tiết toán luyện tập theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.93 KB, 38 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Hướng dẫn học sinh lớp 3 học các tiết toán luyện tập theo hướng “ Tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Toán
3. Tác giả: Phạm Thị Kết

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/ năm sinh: 25/10/1965
Trình độ chuyên môn : Cao đẳng
Chức vụ : Tổ trưởng tổ 2-3 Trường Tiểu học Bắc An
Điện thoại: 01676246055
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Bắc An - Thị xã Chí Linh Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203887034
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Bắc An - Thị xã Chí
Linh - Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203887034
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên lớp 3 đều có thể áp dụng sáng kiến này.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9/2013
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Phạm Thị Kết

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Sáng kiến của tôi trình bày về việc Hướng dẫn học sinh lớp 3 học các tiết
toán luyện tập theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh”.
Trong sáng kiến này tôi đã nêu rõ tổng quan Hướng dẫn học sinh lớp 3 học các
tiết toán luyện tập theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh”.đặc biệt là trong các tiết toán luyện tập ở lớp 3. Lý do chọn viết sáng kiến
này xuất phát từ thực trạng của việc dạy học môn môn toán lớp 3 đặc biệt là các
tiết Luyện tập. Trong sáng kiến tôi đã đưa ra được 5 biện pháp đã góp phần
giúp giáo viên dạy các tiết toán nói chung tiết Luyện tập toán 3 nói riêng phát
huy được tính tích cực của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học
Tiểu học. Đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay là đào tạo những con
người phát triển toàn diện, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo, có năng
lực giải quyết vấn đề.
Mục đích của sáng kiến là nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán
lớp 3 trong nhà trường Tiểu học. Sau khi áp dụng các biện pháp giảng dạy này,
các em học sinh sẽ cảm thấy yêu thích bộ môn Toán hơn, hào hứng học tập
hơn. Đặc biệt là kết quả học tập cũng như chất lượng đại trà và chất lượng mũi
nhọn trong nhà trường được nâng lên rõ rệt, các em mạnh dạn, tự tin hơn khi
học môn toán.
2. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9/2013
+ Đối tượng áp dụng sáng kiến : Giáo viên và học sinh lớp 3
Lớp 3C gồm 19 học sinh : lớp thực nghiệm.
Lớp 3D gồm 12 học sinh: lớp đối chứng.
3. Nội dung sáng kiến
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến
Một trong những nhiệm vụ cơ bản khi dạy học môn toán nói chung và tiết
toán luyện tập nói riêng ở lớp 3 là cung cấp cho học sinh kiến thức sơ giản về

toán học đồng thời giúp các em củng cố lại kiến thức vận dụng lí thuyết vào
giải các bài toán có liên quan một cách thuần thục và chủ động lĩnh hội kiến thức.
2


Chính vì vậy khi chưa áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy tôi thấy các
em nắm bài chưa chắc, trong tiết dạy giáo viên còn bỏ xót đối tượng học sinh,
chưa quan tâm hết các đối tượng học sịnh, tạo sự nhàm chán cho các em, chưa
phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh...
Nhưng khi áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy các tiết luyện tập toán 3
bản thân tôi thấy các em nắm bài rất tốt. Học sinh chủ động nắm kiến thức
được thực hành nhiều hơn. Bài tập đưa ra cho các em cũng vừa sức không có
sự nhàm chán. Giáo viên thì xác định được mục tiêu bài học sát với từng đối
tượng học sinh từ đó lựa chọn cho mình một phương pháp phù hợp nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh giúp học sinh chủ động nắm bắt kiến thức. Học
sinh chưa đạt yêu cầu không còn tự ti, học sinh năng khiếu không nhàm chán
trong học tập. Tính tích cực tự giác trong học tập của học sinh được nâng lên.
Tạo cho học sinh hứng thú học tập. Giáo viên nói ít, quan tâm đến mọi đối
tượng học sinh….
Đó cùng chính là những điểm mới của kinh nghiệm này mà tôi đã kiểm
nghiệm khi áp dụng.
+ Khả năng áp dụng sáng kiến :
- Kinh nghiệm được áp dụng cho tất cả học sinh lớp 3 có trí nhớ bình thường và
học chương trình 165 tuần có đủ sách vở.
- Giáo viên có trình độ chuẩn trở lên, có đầy đủ sách giáo khoa, sách hướng dẫn
và một số tài liệu tham khảo khác.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến
- Tìm ra những khó khăn và sai lầm của học sinh trong khi học tiết luyện tập

môn Toán lớp 3.

- Đề ra một số nội dung và biện pháp thực hiện để phát huy tính tích cực của

học sinh góp phần nâng cao hiệu quả dạy học các tiết luyện tập môn Toán lớp 3.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Qua nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy kết quả thu được của sáng kiến có thể
nói là tương đối tốt đẹp song bên cạnh đó sáng kiến còn hạn chế sau:
- Thời gian nghiên cứu còn ít.
- Đối tượng chỉ dùng ở lớp trực tiếp giảng dạy, chưa nghiên cứu được ở các
khối lớp khác.
3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 8, Ban Chấp hành T.Ư khóa XI với nội dung Đổi mới căn bản, toàn
diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế...
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi
mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những
nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài
hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ,
khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát

triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi
của cuộc sống hiện đại. Việc giáo dục một con người toàn diện không chỉ giáo
dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiên thức khoa
học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động, sẵn sàng lao động mà còn phải giáo
dục cho họ có năng lực tự lực, tự chủ, chủ động lĩnh hội kiến thức làm chủ
hành động của mình,… đó là một nhiệm vụ không thể thiếu được.
Vì thế lý luận dạy học ngày nay rất coi trọng hoạt động tự giáo dục. Chúng
ta không thể xem nhẹ hoạt động dạy của giáo viên, nhưng kết quả học tập có
được lại chính là do hoạt động học của học sinh - “yếu tố bên trong quyết định”.
Một trong những con đường giáo dục tính chủ động sáng tạo và hiệu quả
nhất là giáo dục thông qua tất cả các môn học. Trong đó môn Toán có vị trí rất
quan trọng.
4


Và để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán thì vấn đề dạy học phân
hóa đối tượng học sinh là một vấn đề rất quan trọng và được rất nhiều giáo viên
quan tâm từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt trong môn toán lớp 3 ở các tiết Luyện tập
thì vấn đề dạy phân hóa đối tượng học sinh nhằm phát huy tính tích cực chủ
động trong việc nắm bắt kiến thức là một vấn đề cục kì quan trọng nó góp phần
vào việc đào tạo ra những con nguời toàn diện để đáp ứng nhu cầu xã hội hiện
nay góp phần phát triển xã hội. Chính vì vậy, Toán học là một môn học không
thể thiếu trong chương trình học ở Tiểu học.
1.2.Mục tiêu giáo dục của bậc tiểu học
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Sản phẩm của GDTH có giá trị cơ bản, lâu
dài, có tính quyết định đối với cuộc đời mỗi con người. Bất kì ai cũng phải sử

dụng các kĩ năng nghe, nói, đọc viết và tính toán được học ở tiểu học để sống
để làm việc.Trường tiểu học là nơi đầu tiên dạy trẻ em biết yêu gia đình, quê
hương, đất nước và con người, biết đọc, biết viết biết làm tính, biết tìm hiểu tự
nhiên, xã hội và con người.
1.3.Thực hiện việc đổi mới theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT
Đánh giá học sinh tiểu học là những hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi,
kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn,
động viên học sinh; nhận xét định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn
luyện, sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh tiểu học.
Giáo viên bước đầu đã thực hiện được việc đánh giá “bằng lời” hầu hết học
sinh trong lớp, trong từng tiết dạy, và tổ chức cho học sinh biết tự đánh giá,
tham gia đánh giá trong quá trình học tập trên lớp. Sau đó, GV đã thực hiện
việc ghi lời nhận xét thường xuyên, GV ghi vào vở; đặc biệt quan tâm nhận xét
các HS chưa đạt và trong lời nhận xét ấy, GV phải ghi rõ những cái được, chưa
5


được của HS, đưa ra lời tư vấn, giải pháp để HS khắc phục hạn chế đó; các HS
tiến bộ, có lời khen, động viên kịp thời...
- Hiện tại, giáo viên đã tích cực và có trách nhiệm hơn trong việc chọn lựa lời
nhận xét để thực hiện đánh giá “viết” vào vở HS và sổ Theo dõi chất lượng
giáo dục.
- Để giảm áp lực học tập cho HS và GV, nhất là GV có thời gian để tập trung

nghiên cứu và tăng cường tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện Thông tư
30/2014/TT-BGDĐT,Khuyến khích GV luôn tự học tập, trau dồi sử dụng ngôn
ngữ dùng trong đánh giá HS.
2.Cơ sở lý luận của vấn đề
Trong nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường Tiểu học nói riêng,
bộ môn Toán hiện diện là môn học độc lập, nó có vị trí quan trọng vì:

Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong
cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn
học khác ở Tiểu học và học tập tiếp môn Toán ở Trung học. Môn Toán giúp
học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không
gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một
số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời
sống. Đặc biệt qua các tiết Luyện tập toán giúp các em rèn luyện phương pháp
suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết
vấn đề, giúp các em rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Đồng thời giúp các em
trau dồi đạo đức quí báu như: cần cù, nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý trí vượt khó,
yêu thích chính xác, ham hiểu biết.
2.1.Cơ sở lý luận dạy học:
Trên thực tế việc dạy - học Toán nói chung và dạy các tiết Luyện tập nói
riêng như thế nào để phát huy được tầm quan trọng của bộ môn và phát huy
tính tích cực của học sinh, giúp các em củng cố, khắc sâu mở rộng phần kiến
thức đã học, lại là một vấn đề mà nhiều giáo viên trăn trở. Bởi vì học sinh chỉ
tích cực học tập khi các hoạt động dạy – học phù hợp với nhu cầu, hứng thú,
thói quen và năng lực sở trường của các em..
6


Trong chương trình toán 3 qua điều tra tôi thấy các tiết Luyện tập gồm có 69
tiết trong 5 chương
- Chương 1: Ôn tập và bổ sung về đọc, viết so sánh các số, cộng, trừ các số
có 3 chữ số, ôn tập bảng nhân, chia, ôn về hình học, về giải toán, xem đồng hồ
gồm 6 /16 tiết
- Chương 2: Phép nhân và phép chia trong phạm vi 1000 gồm 29 /71 tiết
- Chương 3: Các số đến 10 000 gồm 16/39 tiết
- Chương 4: Các số đến 100 000 gồm 15/30 tiết
- Chương 5: Ôn tập cuối năm 3/13 tiết

Như vậy số tiết luyện tập chiếm gần 1/2 tổng số tiết theo phân phối chương
trình Toán 3.
- Đối với chương trình môn Toán lớp 3 đặc biệt khi dạy các tiết Luyện tập
do trình độ của mỗi giáo viên khác nhau nên một số giáo viên chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực của học sinh dẫn tới chưa
củng cố, khắc sâu, mở rộng kiến thức và rèn kĩ năng cho học sinh. Biểu hiện là
- Khi tổ chức dạy học các đồng chí giáo viên chưa thống nhất được cách tổ
chức tiết học theo hình thức dạy phân hoá đối tượng học sinh, hệ thống bài tập,
câu hỏi đưa ra cho học sinh chưa có tác dụng phát huy khả năng của học sinh
(có khi quá khó, hoặc quá dễ).
- Trong cùng một thời gian ngắn phải dạy ít nhất 3 trình độ học sinh : học sinh
năng khiếu, HS đạt yêu cầu ,HS chưa đạt yêu cầu nên chất lượng chưa cao,
học sinh được luyện tập ít.
- Chưa phân loại từng dạng bài khác nhau để có phương pháp giải riêng cho
từng dạng bài.
- Còn nhiều giáo viên chưa hiểu rõ dụng ý của các bài tập. Họ cho rằng trong
sách giáo khoa Toán chỉ có các bài tập cơ bản phổ cập, chưa có bài tập rèn tư
duy sáng tạo của học sinh tức là giáo viên không chỉ ra được một số dạng bài
tập có thể khai thác nhằm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
- Còn nhiều giáo viên chưa chú ý ( nói đúng hơn là chưa thể phát hiện ) để sửa
lỗi cho học sinh trong khi các em trình bày bài giải và lập luận lô gic tìm kiếm
các kết quả mà thường chú trọng tới đáp số.
7


- Việc giao nhiệm vụ học tập vẫn theo hướng đồng loạt, điều này chưa đạt yêu
cầu dạy học theo năng lực sở trường của học sinh. Việc tìm nhiều cách giải cho
một bài tập ở sách giáo khoa hầu như bỏ qua.
2.2. Cơ sở lý luận về tâm lý lứa tuổi.
- Học sinh chưa chú ý đến việc học, các em còn hay nói chuyện. Một số em

cảm thấy mỏi mệt khi tham gia học tập.
- Một số phụ huynh chưa đầu tư cho các em. Các em còn thiếu bút, hay quên
vở ghi, ...
- Khả năng tư duy sáng tạo của các em còn nhiều hạn chế.
- Việc tự giác làm bài tập còn hạn chế, mới chỉ chú ý làm hết số bài mà
không biết đến chất lượng bài giải đó ra sao, còn phụ thuộc vào cách giải của
thày cô đưa ra. Chưa tìm nhiều cách giải để lựa chọn cách giải hay cho một bài
toán. Dụng cụ học tập còn thiếu, nền nếp làm bài chưa nghiêm túc, một số học
sinh còn ỉ lại chờ chữa, coi chép. Thế mà theo phân phối chương trình số tiết
Luyện tập chiếm gần 1/2 tổng số các tiết học.
2.3. Lý do chọn viết sáng kiến.
Xuất phát từ yêu cầu của đổi mới giáo dục nước nhà, vấn đề nâng cao chất
lượng giáo dục Tiểu học. Nhằm đào tạo một lớp người lao động mới phục vụ
cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là đòi hỏi bức thiết của xã hội.
Từ thực trạng trên yêu cầu đặt ra của các cán bộ quản lí và các nhà giáo tâm
huyết là phải tìm ra các giải pháp tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với
năng lực tư duy của học sinh, với phong tục tập quán của từng địa phương,
từng dân tộc, hoàn cảnh, trình độ của học sinh là việc làm rất có ý nghĩa và hứa
hẹn mang lại hiệu quả thiết thực.
Do đó việc dạy học các tiết Luyện tập phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh là hết sức quan trọng, nó quyết định lớn đến chất lượng học tập của
học sinh. Cũng chính vì lẽ đó năm học 2013- 2014 tôi quyết định đầu tư nghiên
cứu đổi mới phương pháp dạy các tiết Luyện tập Toán 3 và năm học 2014 2015 tôi tiếp tục nghiên cứu để viết thành sáng kiến . Hướng dẫn học sinh lớp
3 học các tiết toán luyện tập theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh”.
8


2.4. Phạm vi nghiên cứu: Chương trình Toán 3 SGK mới.
- Tài liệu: Sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài soạn, Toán nâng cao lớp 3,

tập sách Giáo dục thời đại, một số tài liệu khác.
2.5 Phương pháp nghiên cứu:
Thông qua các tiết luyện tâp rèn kĩ năng trình bày, lập luận và nắm chắc các
kiến thức trọng tâm cơ bản một cách lôgic bằng phương pháp sau:
1. Phương pháp điều tra.
2. Phương pháp thực nghiệm.
3. Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
4. Phương pháp trực quan.
5. Phương pháp đàm thoại.
6. Phương pháp gợi mở.
7. Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá thông qua các bài kiểm tra.
3. Thực trạng của vấn đề:
* Những thuận lợi và khó khăn.
a. Thuận lợi :
- Được sự quan tâm của BGH, chỉ đạo sát các hoạt động chuyên môn.
- Học sinh chăm ngoan đi học đều và đúng giờ; một số em có hứng thú trong
học tập.
- Phụ huynh có quan tâm đến việc học cuả học sinh.
- Có đội ngũ giáo viên tâm huyết với nghề.
b. Khó khăn:
* Việc hiểu và dạy theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh”của mỗi giáo viên chưa đồng nhất. Cụ thể:
- Khi tổ chức dạy học các đồng chí giáo viên chưa thống nhất được cách tổ
chức tiết học theo hình thức dạy phân hoá đối tượng học sinh, hệ thống bài tập,
câu hỏi đưa ra cho học sinh chưa có tác dụng phát huy khả năng của học sinh
(có khi quá khó, hoặc quá dễ).
- Trong cùng một thời gian ngắn phải dạy ít nhất 3 trình độ học sinh: học sinh
năng khiếu , HS đạt yêu cầu HS chưa đạt yêu cầu nên chất lượng chưa cao, học
sinh được luyện tập ít.
9



- Học sinh chưa chú ý đến việc học, các em còn hay nói chuyện. Một số em
cảm thấy mỏi mệt khi tham gia học tập.
- Một số phụ huynh chưa đầu tư cho các em. Các em còn thiếu bút, hay quên
vở ghi, ...
- Khả năng tư duy sáng tạo của các em còn nhiều hạn chế.
3.1. Khảo sát sự hứng thú học tập và kết quả đầu năm.
TS
Lớp HS
3C
3D

Mức độ hứng thú học tập
Thích
Bình
Không

SL
33 10

%
30.

30

3
26.7

8


Kết quả khảo sát đầu năm
Điểm
Điểm
Điểm
Điểm

thường
thích
9-10
7-8
SL % SL % SL % SL %
7 21.3 16 48,4 8 24.2 10 30.
7

23.3 15 50

6

20

8

5- 6
Dưới 5
SL % SL %
7 21.3 8 24.2

3
26.7 10 33.3


6

3.2 Nguyên nhân
- Nhận thức về môn học chưa tốt, nhiều em thích học môn Tiếng Việt hơn học toán.
- Do ý thức học tập chưa tốt ( Chưa tập trung học tập, lười học, lười làm bài tập…)
- Do nhận thức chậm ( Trí tuệ chậm phát triển).
- Do hoàn cảnh gia đình hoặc môi trường bên ngoài tác động.
Bên cạnh đó giáo viên phải xác định cụ thể học sinh chưa đạt yêu cầu về
mặt nào( tính toán, giải toán có lời văn, lập luận …)
4. Các giải pháp thực hiện
Từ việc điều tra thực trạng dạy và học các tiết Luyện tập Toán 3 của giáo
viên và học sinh. Và qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 3, để nâng cao hiệu
quả dạy – học các tiết Luyện tập Toán 3 tôi đã thực hiện tốt các biện pháp sau:
4.1. Điều tra tình hình học tập của học sinh.
Ngay từ đầu năm học giáo viên dựa vào kết quả cuối năm học trước, kết quả
thi khảo sát học sinh đầu năm, kết hợp với việc dạy học hàng ngày trên lớp để
phân loại học sinh theo trình độ. Hiện nay các lớp thường chia làm 3 đối tượng:
HS năng khiếu ; HS đạt yêu cầu ; HS chưa đạt yêu cầu .
Sau khi đã chia học sinh theo nhóm đối tượng giáo viên chia học sinh ngồi
theo nhóm đối tượng. Từ đó giáo viên đặt tên cho các nhóm theo thẻ: HS năng
10

20


khiếu : thẻ màu xanh; HS đạt yêu cầu : Thẻ màu vàng; HS chưa đạt yêu cầu :
thẻ màu đỏ.( Lưu ý: Giáo viên tuyệt đối tránh nói đâu là học sinh HS năng
khiếu, học sinh chưa đạt yêu cầu vì như thế dễ gây tổn thương cho các em. )
Dựa vào điểm tổng kết và nhận xét của giáo viên của năm học trước, qua

việc trực tiếp giảng dạy trên lớp, xem vở bài tập, vở ghi, bài kiểm tra, hoàn
cảnh gia đình của học sinh …giáo viên nắm được trình độ nhận thức của mỗi
học sinh. Đặc biệt giáo viên phải chú ý đến đối tượng học sinh có tư duy phát
triển và học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng.
Đối với học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên phải xác định
được nguyên nhân tại sao?
Từ việc điều tra cụ thể đó giáo viên sẽ nắm được đặc điểm của từng chủ thể
nhận thức để có biện pháp dạy – học phù hợp với khả năng, sở trường của các em.
4.2.. Nhận thức đúng đắn vai trò của người học.
Trong quá trình dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh là chủ
thể, nhân vật trung tâm của quá trình dạy học. Các em không phải là đối tượng
học tập thụ động, chỉ biết nghe thầy giảng mà các em phải được học tập một
cách tích cực bằng chính hành động của mình. Qua hoạt động mà học tập, rèn
luyện và phát triển. Chính vì vậy nhận thức đúng đắn về vai trò của người học
có ý nghĩa cực kì quan trọng. Giúp giáo viên lựa chọn các phương pháp, biện
pháp, kĩ thuật dạy học, cách tác động phù hợp và đạt hiệu quả cao của quá trình
dạy học. Nhận thức vai trò của người học được coi là một trong những khâu đột
phá để thay đổi cách dạy và cách học tự biện không sát đối tượng, không quan
tâm đến sở thích nguyện vọng và không phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi,
hoàn cảnh cụ thể… của người học.
4.3. Xây dựng nền nếp học tập cho học sinh.
Như trên đã nói học sinh là nhân vật trung tâm và chủ thể của quá trình dạy
học. Do đó học sinh chỉ có thể học tập đạt kết quả cao khi và chỉ khi học sinh
chủ động quan tâm và hứng thú vào hoạt động học tập như:
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập như: SGK, vở ghi, vở nháp, vở BT,
thước kẻ, com pa, ê-ke…
11


- Ý thức học tập phải nghiêm túc, tự giác, có thói quen tự học, chuẩn bị bài chu

đáo ở nhà. Chuẩn bị bài chu đáo ở nhà một cách tự giác, kĩ lưỡng sẽ giúp học
sinh tiếp thu bài một cách tự tin thoải mái, các em có khả năng tham gia trả lời,
không bị động, lúng túng…do đó hứng thú học tập của học sinh được nâng cao
hơn; trước những tình huống có vấn đề được đặt ra ở lớp học sinh sẽ biết cách
lí giải với các phương án khác nhau, có thể đó là phương án khác của giáo
viên…
- Biết phối hợp các động tác: nghe, nhìn, nghĩ, nói, ghi ( đây là một yếu điểm
lớn nhất của học sinh tiểu học.)
4.4 Sắp xếp hợp lí chỗ ngồi cho học sinh.
Giáo viên cần bố trí , sắp xếp chỗ ngồi sao cho phù hợp để học sinh có thể
hợp tác giúp đỡ nhau trong quá trình học tập và giáo viên cũng thuận lợi trong
việc kiểm soát, giúp đỡ học sinh trong quá trình diễn ra của tiết học cụ thể:
- Việc sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh đảm bảo sao cho hai học sinh ngồi
cạnh nhau phải là một học HS năng khiếu; HS đạt yêu cầu ; HS đạt yêu cầu ,
với một học chưa đạt yêu cầu ( hoặc HS đạt yêu cầu )… không để hai học sinh
chưa đạt yêu cầu ngồi cạnh nhau.
- Việc sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh chưa đạt yêu cầu phải đảm bảo sao cho
không ngồi ở các chỗ giáp tường, giáo viên khó đi đến tận học sinh.
Tại sao phải sắp xếp chỗ ngồi như vậy ? Tôi làm như vậy vì mục đích:
- Sắp xếp như vậy sẽ thuận tiện cho cho việc đi lại kiểm tra, giúp đỡ học sinh
gặp khó khăn khi hoạt động cá nhân như khi tự làm bài tâp.
- Sắp xếp như vậy sẽ thuận lợi cho các hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm.
Vì: Trong một tiết học bao giờ cũng có những bài toán cơ bản vận dụng công
thức hoặc qui tắc nào đó, song còn có thêm bài tập tổng hợp kiến thức khác
hoặc nâng cao mức độ.
4.5 Chuẩn bị tốt trước khi lên lớp
4.5.1. Nghiên cứu nội dung chương trình bài dạy, xác định đúng mục đích
yêu cầu của tiết dạy

12



Muốn dạy cho HS phát huy được tính tích cực thì giáo viên cần nghiên cứu
kĩ từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học
sinh. Những nội dung này được được biểu hiện như sau:
- Hệ thống bài tập từ dễ đến khó và yêu cầu từng nhóm hoàn thành bài. Bài
tập dành cho học sinh chưa đạt yêu cầu ở dạng đơn giản. Khuyến khích để các
em phấn đấu làm một phần bài tập của nhóm có trình độ cao hơn. Học sinh
năng khiếu làm bài tập ở dạng phức tạp hơn phù hợp với khả năng phát triển
của học sinh.
+ Mục tiêu: *Học sinh chưa đạt yêu cầu , yêu cầu nắm được các kiến thức, kĩ
năng cơ bản của môn học.
*Học sinh năng khiếu ngoài những yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản
như hoàn thành + mở rộng, nâng cao theo chiều sâu trên nền kiến thức cơ bản.
Lưu ý: Nguồn bài tập ở SGK( mà học sinh chưa làm hết), VBT, Vở LTT, ...=>
Chú ý: học sinh chưa đạt yêu cầu không yêu cầu hoàn thành hết bài tập.
- Linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học: Hỏi đáp( Học sinh
chưa đạt yêu cầu ,câu hỏi dễ, đơn giản; HS nawnh khiếu câu hỏi khó, khái quát
hơn), thảo luận nhóm, luyện tập thực hành, trò chơi,.... tạo hứng thú cho các em
học tập.
- Cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình để có hệ thống chuỗi kiến thức, xác
lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức cũ, giữa kiến thức của
môn này với phân môn khác để lựa chọn nội dung cho phù hợp.
- Nắm vững mục tiêu của bài dạy, nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để lựa chọn
phương pháp, hình thức và đồ dùng dạy học cho phù hợp, hiệu quả.
4.5.2. Thiết kế, xây dựng giáo án để dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Theo mục tiêu của giáo dục hiện nay là dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng và dạy phân hoá đối tượng học sinh để làm được việc này thì ngay từ
bước soạn giáo án, giáo viên đã phải chú ý đến điều đó. Từ thực tiễn của lớp
mình giảng dạy, khi soạn giáo án giáo viên phải dự kiến các câu hỏi và bài tập,

các tình huống, các yêu cầu ở từng mức độ khác nhau cho từng phần. Muốn
vậy trước tiên giáo viên phải nắm chắc, yêu cầu, kĩ năng cơ bản của từng bài.
Cụ thể là:
13


a. Cần phân loại bài tập để có phương pháp giải từng loại bài tập đó.
b. Phải xác định được bài tập nào yêu cầu mọi đối tượng học sinh cần phải
và bắt buộc phải làm để đảm bảo yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức kĩ năng
của tiết học.
Ví dụ: Dạy bài toán “Luyện tập chung ” SGK toán 3 trang 18.
Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh như sau:
-

Học sinh năng khiếu: Phải biết đọc, viết, so sánh số . Biết tính nhanh
bằng cách thuận tiện nhất -> học sinh làm cả 4 bài tập .

-

Học sinh đạt yêu cầu : Phải biết đọc, viết, so sánh số -> học sinh làm
bài tập 1,2,3.

( Học sinh chưa đạt yêu cầu thì chỉ cần đảm bảo 2 mục tiêu: đọc, viết số )
* Ví dụ: Tiết 104: Luyện tập chung ( SGK trang 106)
Học sinh bắt buộc làm bài tập 1 và bài tập 2
c. Xác định được bài tập nào dành riêng cho học sinh năng khiếu
* Ví dụ: Tiết 117: Luyện tập chung (SGK trang 120)
Bài 4: Chỉ dành riêng cho học sinh năng khiếu
d. Xác định được bài tập nào phát hiện học sinh có tư duy phát triển.
(Thường là các bài tập có nhiều cách giải hay bài tập đòi hỏi tính tư duy cao)

* Ví dụ: Bài 4 ( Trang 105)
Một kho có 4720 kg muối, lần đầu chuyển đi 2000kg muối, lần sau chuyển
đi 1700kg muối . Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu ki- lô- gam muối? ( Giải
bằng hai cách)
e. Xác định được bài tập nào học sinh hay mắc sai lầm.
- Bài toán có lời văn liên quan đến tính diện tích, chu vi, các hình đã học.
* Ví dụ: Bài 3 ( SGK trang 153)
Một mảnh vườn hình chữ nhật có chiều rộng 5cm, chiều dài gấp đôi chiều
rộng . Tính chu vi và diện tích của mảnh vườn đó.
=> Với bài tập dạng này, học sinh thường tìm được kết quả đúng nhưng câu
trả lời của một số em chưa chính xác như:
Bài giải của học sinh

Bài giải đúng

Chiều dài hình chữ nhật là:

Chiều dài của mảnh vườn hình chữ nhật là:
14


5 x 2 = 10 (cm)

5 x 2 = 10 (cm)

Chu vi hình chữ nhật là:

Chu vi mảnh vườn hình chữ nhật là:

(10 + 5) x 2 = 30 (cm)


(10 + 5) x 2 = 30 (cm)

Diện tích hình chữ nhật là:

Diện tích mảnh vườn hình chữ nhật là:

10 x 5 = 50(cm2)

10 x 5 = 50(cm2)

Đáp số: Chu vi: 30 cm

Đáp số: Chu vi: 30 cm

Diện tích: 50 cm2
- Bài tập liên quan đến đổi đơn vị đo.

Diện tích: 50 cm2

Một số học sinh không chú ý đến việc đổi các số đo về cùng một đơn vị đo
trước khi tính nên dẫn tới tìm kết quả sai.
* Ví dụ: Bài 3 (SGK trang 67)
Cô Lan có 1kg đường, cô đã dùng làm bánh hết 400g. sau đó cô chia đều số
đường vào 3 túi nhỏ. Hỏi mỗi túi có bao niêu gam đường ?
- Bài toán có liên quan đến thời gian.
Một số em chưa hiểu rõ khái niệm thời gian, nên khi làm bài tập còn lúng túng
*Ví dụ: Bài 3 (SGK trang 128)
Một người đi bộ mỗi giờ đi được 4km. Hỏi đi 20km người đó đi hết mấy giờ?
g. Bài tập nào cần phải mở rộng để HS năng khiếu thực hiện

*Ví dụ: Bài 4 ( Trang 83) Tính rồi so sánh kết quả tính:
a. 142 – 42 : 2

b. (142 – 42) : 2

Sau khi giải quyết xong yêu cầu của bài tập( tính giá trị của các biểu thức, so
sánh kết quả tính và rút ra quy tắc nhẩm khi có dấu ngoặc đơn và khi không có
dấu ngoặc kết quả sẽ thay đổi. Giáo viên đưa thêm ví dụ
* Ví dụ : Tính nhanh. 72 : 2 x 4 + 64 : 8 : 4
Học sinh năng khiếu sẽ vận dụng quy tắc trên để tính nhanh như sau :
72 : 8 : 2 + 64 : 8 : 4 = 72 : (8 : 2 ) + 64 : (8 : 4)
= 72 : 4 + 64 : 4
= ( 72 + 64) : 4
= 34
Với việc đưa thêm bài tập như vậy giáo viên đã bỗi dưỡng học sinh năng khiếu
ngay trong tiết học một cách tự nhiên và hiệu quả.
15


h. Dự kiến thời gian cho mỗi bài tập khi dạy trên lớp để phân bố thời gian
hợp lí giữa các bài trong tiết dạy.
=>Từ việc phân loại bài tập và xác định được mục đích của từng bài Giáo
viên sẽ lựa chọn được phương pháp – hình thức dạy học phù hợp để phát huy
tính tích cực của học sinh.
4.6. Dạy trên lớp
Như chúng ta đã biết trong một lớp học có em nam, có em nữ, tâm lí của
mỗi em khác nhau, sự phát triển khác nhau; có con em của những người lao
động chân tay, lao động trí óc…Do đó học sinh của cùng một lớp sẽ có trình độ
nhận thức khác nhau( HS năng khiếu , HS đạt yêu cầu và Hs chưa đạt yêu cầu).
Chính vì vậy, để phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy toán nói

chung và tiết Luyện tập toán nói riêng, trong quá trình dạy học giáo viên phải
chú ý tác động đến 3 đối tượng học sinh để học sinh năng khiếu không cảm
thấy tẻ nhạt, các em được phát huy năng lực học tập của mình. Và HS chưa đạt
yêu cầu không bị đứng bên lề mỗi tiết dạy, các em được bồi dưỡng, rèn luyện
để vươn tới sàn kiến thức kĩ năng cơ bản tối thiểu cần đạt được. Do đó giáo
viên cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
4.6.1. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.
Sau khi chúng ta đã tiến hành phân loại học sinh ta tiến hành đi tìm hiểu tình
hình của từng nhóm. Đặc biệt giáo viên cần quan tâm đến đối tượng học sinh
chưa hoàn thành hết bài . Nguyên nhân của sự chưa hoàn thành có nhiều: Sự
phát triển trí tuệ chậm, kiến thức không vững chắc, thái độ học tập không đúng,
hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn... Người giáo viên phải tìm được
nguyên nhân chủ yếu đối với từng học sinh để có biện pháp thích hợp giải
quyết dần tình trạng chưa hoàn thành đó.
Một số giáo viên không quan tâm đến tình trạng lớp có nhiều trình độ khác
nhau nên tổ chức giờ dạy không đạt kết quả. Cách giải quyết tốt nhất là coi lớp
đang dạy như một “lớp ghép ” và vận dụng cách dạy của lớp ghép để phù hợp
với từng đối tượng học sinh trong lớp.
Giáo viên cần điều chỉnh tốc độ giảng dạy để học sinh chưa đạt yêu cầu có
thể theo kịp Không nên chỉ chú ý đến học sinh năng khiếu để bài trôi chảy, sinh
16


động. Nhưng cũng không vì chú ý đến số học sinh chưa đạt yêu cầu mà hạ thấp
giờ học khiến học sinh đạt yêu cầu và HS năng khiếu chán nản. Để mọi học
sinh trong lớp đều hứng thú, tự tin trong giờ học, giáo viên cần đưa ra những
yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau để học sinh tự chọn. Trong khi học sinh thực
hiện, giáo viên theo dõi, kiểm tra từng cá nhân, từng nhóm. Sau đó đánh giá
nhận xét kết quả theo yêu cầu đã đặt ra.
Công việc của giáo viên dạy “lớp ghép” khó khăn, phức tạp hơn nhiều so

với giáo viên dạy lớp đơn. Từ công việc soạn bài, giảng dạy, quản lí học sinh,
kiểm tra, đánh giá học sinh...đều phải chuẩn bị chi tiết, khoa học .
Tổ chức cho tiết dạy làm thế nào để học sinh tự học, tự làm việc một cách tự
giác và đầy hứng thú. Giáo viên cho những bài tập phù hợp với trình độ học
sinh để các HS năng khiếu phát huy được khả năng tư duy, các em chưa đạt yêu
cầu tự tin. Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hoá kiến thức, kĩ
năng, nhất là đối với học sinh chưa đạt yêu cầu và các em này chưa thực sự
nắm được bản chất và mối liên hệ giữa các hiện tượng, hay ghi nhớ một cách
máy móc.
Đối với học sinh năng khiếu, trong chừng mực nhất định, giáo viên mở rộng
kiến thức đã học để học sinh thấy được sự phát triển của kiến thức, nâng cao
tầm hiểu biết của các em. Tuy nhiên không nên nâng cao, mở rộng kiến thức
một cách tuỳ tiện mà phải có trọng tâm.
Người giáo viên phải nắm vững những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của
từng bài. Khi dạy giáo viên phải biết nên dạy cái gì trong bài đó và nó liên
quan đến bài trước bài sau như thế nào. Phải gắn kiến thức đang dạy với chuỗi
kiến thức của toàn chương trình bậc học, chương trình của lớp mình phụ trách.
Như thế, giáo viên mới có kế hoạch cụ thể hướng dẫn học sinh ôn lại kiến thức
cũ và tiếp nối chương trình mới một cách khoa học.
Tuỳ từng đối tượng học sinh mỗi lớp , giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu
bài.
Mỗi một phương pháp dạy học đều có những ưu – nhược điểm riêng, không
có một phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy việc phối hợp một cách khéo léo
và hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau sẽ góp phần làm cho giờ học trở
17


nên sinh động, nhiều màu sắc, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực từ
phía HS.
4.6.2. Tổ chức tốt các hình thức dạy học

Tuỳ theo từng tiết học, từng bài toán mà giáo viên sử dụng các hình thức dạy
học khác nhau:
- Những bài tập đơn giản mang tính chất luyện tập, giáo viên nên cho học sinh
hoạt động cá nhân để mỗi học sinh đều được luyện tập.
- Những bài tập khó, trìu tượng, đòi hỏi sự tư duy cao…giáo viên nên cho học
sinh hoạt động nhóm. Ở đó các em được hỏi han, trao đổi, thảo luận với nhau.
Do đó những ý kiến riêng của mỗi người sẽ được hoàn chỉnh hơn trong sự giúp
đỡ của bạn bè. Nhiều khi ngôn ngữ của học sinh sẽ gần gũi dễ hiểu với học sinh
hơn, nên việc tiếp thu bài dễ dàng hơn vì “ Học thày không tày học bạn”. Bên
cạnh đó việc hoạt động nhóm còn rèn cho học sinh cách sử dụng ngôn ngữ
trong cách trình bày, diễn đạt, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập.
- Những ý kiến của các nhóm sẽ được đưa ra trao đổi, thảo luận rộng rãi hơn để
tìm ra những kết luận hợp lí nhất…Giáo viên nên tổ chức cho học sinh hoạt
động cả lớp. Tại thời điểm này người giáo viên sẽ thể hiện vai trò “Trọng tài
khoa học” giúp các em phân biệt đúng sai, hợp lí hoặc chưa hợp lí, nên làm
theo hay không nên, làm theo cách này hay cách kia…
Việc tổ chức các hình thức dạy học hợp lí sẽ làm cho không gian học cởi mở
hơn, phát triển ở HS những kĩ năng quan trọng như: làm việc theo nhóm, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng trình diễn…
Các hoạt động dạy học
1. Ổn định tổ chức (1-2 phút)
2. Bài mới
a) Giới thiệu bài (1-2 phút)
b) Nội dung ( 25-30 phút)
Hoạt động 1: Ôn kiến thức cũ (5-7 phút)
- GV tổ chức cho học sinh ôn kiến thức cũ ( KTBC)
Hoạt động 2: Hoàn thành các bài tập củng cố kiến thức ( 10- 15 phút)
18



Lưu ý: - Hệ thống bài tập đi từ dễ đến khó: GV cần theo dõi và giúp đỡ các đối
tượng HS theo cá nhân, nhóm, tổ...Có thể tổ chức phong trào đôi bạn cùng tiến để
phát huy khả năng của các em HS năng khiếu trong việc giúp bạn học tập.
Phần 1: Bài tập dành cho HS khuyết tật (nếu có) và HS chưa đạt yêu cầu
- Bài tập : Dành cho HS khuyết tật (nếu có)
- Bài tập : Dành cho HS chưa đạt yêu cầu ( Bài tập riêng cho HS củng cố kiến
thức)
Phần 2: Bài tập dành cho HS có trình độ đạt yêu cầu
- Bài tập : Dành cho tất cả HS có trình độ đạt yêu cầu trở lên.
- Bài tập: Dành cho HS năng khiếu( Bài tập riêng cho HS phát triển tư duy;
có sự nâng cao nhưng phải đúng với nội dung của phần kiến thức, kĩ năng đang
bồi dưỡng- phụ đạo chung. Không dạy nội dung kiến thức ngoài chương trình,
không dạy trước chương trình, không đưa bài tập từ lớp trên xuống lớp dưới.
Điều quan trọng là đối với mỗi đơn vị kiến thức bồi dưỡng HS biết cách tự học,
biết tư duy độc lập, biết liên hệ với thực tiễn cuộc sông xung quanh, biết cách
thực hành để hiểu sâu sắc và toàn diện hơn những đối tượng HS khác trong lớp)
Hoạt động 3: Dạy phân hoá đối tượng( 5- 7 phút)
Bài tập dành cho học sinh năng khiếu (1-2 bài) dựa vào kiến thức đã học có
nâng cao.
Hoạt động 4: Tổ chức chấm – chữa bài (5 phút)
Củng cố kiến thức
4.6.3. Sử dụng phương tiện trực quan một cách hợp lí.
Đối với HS tiểu học thiết bị dạy học đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em
quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu
hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng, kĩ xảo. Song việc lựa chọn các
thiết bị dạy học phải tuỳ thuộc vào mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
đồng thời cần đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Khi sử dụng phương tiện
trực quan, giáo viên phải chú ý là làm sao cho tất cả học sinh trong lớp đều có
thể quan sát, cảm nhận đồ dùng trực quan như nhau. Tránh trường hợp chỉ
những học sinh ở bàn trên, hoặc những học sinh ở gần giáo viên mới “biết đến”

phương tiện trực quan, còn những học sinh khác cảm nhận nó như ảo ảnh.
19


4.6.4. Đặt câu hỏi cho học sinh
Cách đặt câu hỏi của giáo viên phải giúp học sinh phát triển tư duy, buộc
học sinh phải suy nghĩ trước khi đưa ra trả lời. Ngoài ra giáo viên phải quan
tâm chú ý đến đối tượng được hỏi hướng tới cá nhân học sinh, tính phân hoá
trong dạy học. Cụ thể là:
- Đặt câu hỏi phải xem xét học sinh có trả lời được không.
- Dành đủ thời gian để học sinh suy nghĩ và trả lời.
- Nên sử dụng cử chỉ, ánh mắt để khuyến khích học sinh trả lời.
- Nên khen ngợi hay ghi nhận những câu trả lời đúng.
-Tránh làm cho học sinh ngại ngùng khi trả lời.
- Nếu HS không trả lời được thì có thể đặt câu hỏi khác.
- Cần tránh hệ thống câu hỏi đế.
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời.
- Câu hỏi nên phù hợp với đối tượng học sinh và để nhiều học sinh trả lời được.
- Phải thay đổi nội dung câu hỏi.
Những câu hỏi hay cũng như cách đặt câu hỏi hợp lí, thú vị sẽ kích thích các
em tích cực tham gia xây dựng bài. Việc học sinh tích cực trong các hoạt động
học luôn mang lại những giá trị cho giờ lên lớp, góp phần không nhỏ vào thành
công của mỗi giờ học.
4.6.5.Tạo và xử lí tình huống tốt
Tạo và xử lí tình huống có thể coi là một thủ pháp tạo điểm nhấn cho giờ học,
có ý nghĩa mở rộng, khắc sâu kiến thức, tích cực hoá hoạt động của học sinh.
Biết xử lí tình huống một cách khéo léo, đảm bảo tính sư phạm tính giáo
dục,mang lại những giây phút sôi nổi, thú vị cho giờ học. Chẳng hạn, trong một
giờ dạy tiết luyện tập Toán việc giáo viên tính toán sai hoặc nhầm lẫn một số
chi tiết đôi khi vẫn xảy ra. Nếu như giáo viên không phát hiện ra sự nhầm lẫn

của mình thì có thể coi đó là một lỗi của giờ dạy( liên quan đến kiến thức, nội
dung của bài học). Ngược lại, nếu giáo viên phát hiện ra và xử lí khéo léo như:
“Vừa rồi, có một chỗ cô thực hiện chưa đúng bạn nào có thể chỉ ra và sửa lại
được giúp cô?”. Dĩ nhiên, sau “câu đố” rất khéo léo này của giáo viên, sẽ có rất
20


nhiều học sinh hào hứng đi tìm lỗi của cô và sửa lại giúp cô. Giờ học vì thế trở
nên sôi động, thú vị hơn nhiều.
4.6.6. Tương tác tốt với học sinh
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải quan sát học sinh, hướng tới
người nghe một cách có chủ định .Dạy học không chỉ là truyền thụ tri thức.
Cách hay hơn đó là gợi mở, kích thích để học sinh tự tìm ra tri thức, biến tri
thức đó thành của mình. Muốn vậy, giáo viên cần có khả năng tương tác tốt với
học sinh. Việc giao lưu bằng mắt với học sinh, việc đưa ra những câu nói mang
tính động viên, khuyến khích học sinh nói, trình bày, hành động…có ý nghĩa
quan trọng. giáo viên cần phải biết lắng nghe học sinh, khai thác những khả
năng sẵn có trong mỗi học sinh, giúp các em biết cách tự thể hiện mình, làm
sao để các em nói nhiều, nói được đúng, được hay và hào hứng, sôi nổi với bài
học. Khả năng hài ước, hóm hỉnh của người giáo viên cũng góp phần làm cho
giờ học trở nên tự nhiên, thú vị, làm bớt đi cái căng thẳng của tiết Luyện tập
toán.
4.6.7. Động viên khen thưởng kịp thời
Giáo viên cần dùng lời khen học sinh nhiều để động viên các em vì các em ở
lứa tuổi học sinh tiểu học rất sợ bị chê, bị mắc lỗi, bị phê bình và do đó rất mất
tự tin, từ đó ngại phát biểu, ngại thể hiện mình. Các em thích được khen, được
cổ vũ. Vì vậy, giáo viên cần chú ý khen ngợi các em làm đúng, làm tốt, hạn chế
nói thẳng, phê bình thẳng khi các em làm sai. Thay vào đó là những lời động
viên, khuyến khích để các em có động lực cố gắng cho những lần sau, tạo cho
các em mong muốn được làm lại, làm tốt hơn. Giáo viên nên tìm cách nói

giảm, nói tránh khi các em làm chưa đúng để các em không có cảm giác nặng
nề hoặc tự ti với bạn bè.
4.6.8. Phải chú ý đến kĩ năng nói và kĩ năng viết bảng
Để có những giờ học vui, hấp dẫn, thú vị, gây hứng thú học tập từ phía học
sinh thì tình yêu trẻ, kiến thức lí thuyết vững thôi chưa đủ mà đòi hỏi ở mỗi
giáo viên tiểu học thực hiện tốt những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm dù là nhỏ
nhất như kĩ năng nói và kĩ năng viết bảng.
21


- Yếu tố tối thiểu đối với giáo viên là không được nói ngọng. Lời nói của giáo
viên cần phải chuẩn mực. Và đối tượng giao tiếp là đông đảo học sinh (ít nhất
20 em trong một lớp) cho nên giọng nói của giáo viên cần to, rõ ràng, tự nhiên,
truyền cảm và gần gũi với các em. Một giờ học giáo viên không thể đều đều
một sắc thái giọng nói từ đầu chí cuối. Như vậy, nó tạo ra sự tẻ nhạt, buồn
chán,… trực tiếp làm cho các em không còn hứng thú với buổi học đó. Truyền
cảm ở đây cần phải hiểu một cách linh hoạt. Nói khi giảng bài khác với khi đặt
yêu cầu, ra câu lệnh, khác với khi giao tiếp, kích thích học sinh trình bày… Bên
cạnh đó, giáo viên cũng cần lưu ý một số điểm như: nên nói ít, tránh giảng tràn
lan, tránh to tiếng, quát nạt học sinh.
- Chiếc bảng lớp phản ánh nội dung chính của giờ học, qua đó cũng phản ánh
được phần nào người sử dụng nó. Yêu cầu đối với việc trình bày bảng đó là
trình bày khoa học, bố cục rõ ràng, chữ viết đẹp, ghi lại được những nội dung
trọng tâm, cơ bản của giờ học. Đôi khi những minh hoạ bằng hình vẽ hoặc sử
dụng thêm phấn màu cũng làm cho chiếc bảng sinh động, hấp dẫn hơn rất
nhiều. Tuy nhiên bảng lớp không thuộc “ độc quyền” sử dụng của giáo viên mà
cũng cần sự tham gia của học sinh nhất là trong những giờ Luyện tập toán, khi
học sinh tham gia sử dụng bảng lớp cần có sự hướng dẫn của giáo viên để làm
sao vẫn đảm bảo được yêu cầu về trình bày và sự theo dõi tập trung của tất cả
học sinh trong lớp.

4.6.9. Rèn kĩ năng tự đánh giá cho học sinh
Trong một tiết Luyện tập toán không phải bài nào giáo viên cũng đánh giá
được hết kết quả bài làm của học sinh. Do đó việc rèn kĩ năng tự đánh giá cho
học sinh là rất quan trọng. Có hai hình thức tự đánh giá:
- Học sinh tự đánh giá bài làm của mình: Với bài tập học sinh hoạt động cá
nhân, sau khi cả lớp và giáo viên chốt bài giải đúng, giáo viên yêu cầu học sinh
đối chiếu với kết quả đúng để đánh giá bài làm của mình rồi báo cáo kết quả.
Làm như vậy học sinh tự kiểm tra lại được bài làm của mình để sửa sai kịp thời
( nếu có) vừa giúp giáo viên nắm được thông tin ngược từ phía học sinh.
- Học sinh đánh giá bài của bạn: Ngoài việc tổ chức cho học sinh nhận xét bài
làm của bạn trước lớp, ở một số bài tập giáo viên nên cho hai học sinh ngồi
22


cạnh nhau đổi chéo bài để kiểm tra bài làm cho nhau. Làm như vậy các em
không chỉ giúp bạn sửa sai mà các em còn học tập cách giải hay, cách trình bày
khoa học của bạn.
Việc rèn kĩ năng đánh giá cho học sinh sẽ giúp các em:
- Kiểm soát được việc học của bản thân các em.
- Lên kế hoạch học tập để cải thiện việc học tập của bản thân.
- Cảm thấy thoải mái về những gì các em có tự làm được.
- Dần dà hình thành nền nếp và phương pháp học tập riêng cho học snh.
4.6.10. Một số bài soạn minh họa.
Tiết 116: Luyện tập ( Trang 120)
Tiết 123: Luyện tập ( trang 129)
* Kết quả và nhận xét ban đầu
Tôi đã sử dụng mô hình bài dạy các tiết luyện tập trên để dạy các tiết luyện
tập cho học sinh lớp 3C và ra đề kiểm tra để kiểm nghiệm việc soạn giảng thực
nghiệm ở lớp 3D là lớp đối chứng như sau:
* Đề kiểm tra

Câu 1.( 3 điểm ) Tính:
a. 1578 + 3215
c. 1354 x

b. 8947 – 1247

7

d. 1255 : 5

Câu 2 (2 điểm ) Viết số thích hợp vào vào chỗ chấm
a. 5 km = …dam

b. 1000 m = ….km

c. 12cm = …mm

d. 1000g = … kg

Câu 3 ( 3 điểm )
Muốn lát nền 6 căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch . Hỏi muốn lát nền 7
căn phòng như thế cần bao nhiêu gạch? .
Câu 4 (2 điểm ) Viết tiếp số thích hợp nào vào chỗ chấm :
a. 14 ; 21 ;28;...;.....;
b. 56; 49; 42 ;....;.....;
5.Kết quả thu được như sau:
Điểm

Điểm
23


Điểm

Điểm


Lớp

Sĩ số

9-10

3C

33

SL
12

3D

30

10

7-8

5- 6

%

36.3

SL
15

%
45.5

SL
6

33.3

11

36.7

9

%
18.2
30

Dưới 5
SL
0

%
0


0

0

Sau khi nghiên cứu và áp dụng các biện pháp Hướng dẫn học sinh lớp 3 học
các tiết toán luyện tập theo hướng “ Tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh” vào dạy học, tôi thấy chất lượng học tập của các em đi lên rõ rệt.
Các em nắm chắc hơn. Để khẳng định chất lượng của phương pháp dạy học
tích cực, tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm và khảo sát chất lượng thêm 2 lớp :
3D, kết quả thực nghiệm cho thấy, so với lớp 3D thì lớp 3C có nhiều điểm tiến
bộ: Đa số các em tiếp thu bài tốt, nắm bài một cách chắc chắn. Học sinh nhớ
bài lâu hơn, trong quá trình học các em dễ nhớ và lâu quên.Các em tiếp thu bài
một cách hào hứng, chủ động sôi nổi. Các em hứng thú học tập, tiếp thu bài tốt
, hiểu và vận dụng tốt các kiến thức trong quá trình làm bài.Các em nhớ bài lâu
hơn. Sở dĩ lớp 3C có kết quả cao hơn là do các tiết luyện tập các em được chủ
động được thực sự rèn luyện, nắm được phương pháp giải từng dạng bài khác
nhau nên khả năng vận dụng tốt.
Còn lớp 3D do học sinh không được học theo cách dạy- học trên nên học
sinh nắm bài không sâu, không lôgic, khả năng thực hành chưa tốt. Mặt khác
kiến thức trong các tiết học trên lớp các em không được mở rộng, không được
liên hệ thực tế nên dẫn tới kết quả bài làm chưa cao ( hầu như bài 2a và bài 4
HS không làm được)
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
+ Đối với giáo viên:
- Luôn học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ. Không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn của bản thân.
- Giáo viên cần khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, s ưu tầm các
vật liệu đơn giản để làm đồ dùng dạy học.

24



- Tăng cường dạy học theo phương pháp đổi mới, lấy học sinh làm trung
tâm. Đặc biệt chú ý đến đặc điểm tâm lý cũng như con đường nhận thức của
học sinh , từ đó lựa chọn phương pháp dạy cho phù hợp.
- Thường xuyên tiếp cận với việc soạn và giảng dạy giáo án điện tử. Ứng
dụng công nghệ thông tin vào trong giảng day. Thường xuyên tích cực cập nhật
thông tin .
+ Đối với nhà trường:
Tích cực trang bị nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất đặc biệt là thiết bị dạy
học phù hợp.Máy chiếu, đèn chiếu hắt.
Tổ chức có hiệu quả các đợt hội giảng, chuyên đề.
Cung cấp các tài liệu đổi mới, kịp thời để giáo viên học tập nghiên cứu:
Tổ chức có hiệu quả các đợt hội giảng, chuyên đề.
Cung cấp các tài liệu đổi mới, kịp thời để giáo viên học tập nghiên cứu
+ Đối với Phòng giáo dục- Đào tạo:
Tăng cường triển khai các chuyên đề để giáo viên có cơ hội học tập, trao
đổi kinh nghiệm trong dạy học nói chung và đặc biệt là dạy học toán cho học
sinh nói riêng. Không nên bó hẹp tổ chức học tập cho giáo viên thường kì vào
đầu năm mà nên mở rộng cả trong năm học.

25


×