Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa chùa túy vân, xã vinh hiền, huyện phú lộc, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 60 trang )

v.
UBND TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THỪA THIÊN HUẾ
KHOA NGHỆ THUẬT
-----O0O---LƯƠNG DIỄM THUỲ MY

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA CHÙA TÚY VÂN, XÃ VINH HIỀN, HUYỆN
PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ VĂN HÓA
MSSV: 13631011060
KHÓA HỌC : 2012-2015

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thị Vũ Hoài
Huế, 05/2016
LỜI CẢM ƠN


Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với
những sự hỗ trợ, giúp đỡ dùít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của
người khác. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở trường, em đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và
bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Vũ Hoài đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em
trong suốt quá trình làm khoá luận. Nếu không có những lời hướng dẫn,
dạy bảo của cô thì em nghĩ bài thu hoạch này của em rất khó có thể hoàn
thiện được. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô!


Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Cao
Đẳng Sư Phạm Thừa Thiên Huế nói chung, các thầy cô trong khoa Nghệ
Thuật, các thầy cô chuyên nghành Quản lý văn hóa nói riêng đã cùng với
tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho
chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường, giúp em cóđược cơ sở lý
thuyết vững vàng và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập,
đây sẽ là hành trang quí báu để em bước vào đời một cách vững chắc và
tự tin hơn.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đã luôn tạo điều kiện,
quan tâm, giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp.
Với kinh nghiệm chưa nhiều, kiến thức còn hạn chế và còn nhiều bỡ
ngỡ. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót làđiều chắc chắn, em rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy Cô và các bạn học
cùng lớp để kiến thức của em trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, không có gì hơn em xin kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào
sức khỏe, gia đình hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp cao quý này
để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho
thế hệ mai sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lương Diễm Thùy My


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Lương Diễm Thùy My, sinh viên lớp K36A – Quản lý văn
hóa, trường Cao đẳng sư phạm Thừa Thiên Huế.
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung đồ án tốt nghiệp: “ Giải pháp bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của chùa Túy Vân, xã Vinh Hiền,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” là do tôi tự học tập từ các bài

giảng của các quý thầy cô, và tự tìm hiểu trong sách báo, các tài liệu có liên
quan, nghiên cứu trên các trang mạng Internet. Không sao chép hay sử
dụng bất kỳ bài làm của ai khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình trước
quý thầy cô và nhà trường.
Huế, tháng 5 năm 2016
Người cam đoan

Lương Diễm Thùy My


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu 2
4. Lịch sử nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Những đóng góp đề tài 4
7. Bố cục đề tài 4

B. PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG 1 5
TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, DU LỊCH CHÙA
TÚY VÂN, THỪA THIÊN HUẾ 5
1.1. Tổng quan về giá trị văn hóa, du lịch chùa chiền ở tỉnh Thừa Thiên Huế 5
1.1.1. Đặc điểm về địa lý và giá trị văn hóa vùng đầm phá Cầu Hai, xã
Vinh Hiền, huyện Phú Lộc 5
1.1.2. Tổng quan về du lịch chùa chiền Huế 7
1.2. Tổng quan về chùa Túy Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên

Huế 9

CHƯƠNG 2 15
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÙA TÚY VÂN, XÃ VINH HIỀN,
15
HUYỆN PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 15
2.1. Giá trị văn hóa chùa Túy Vân nhìn từ kiến trúc, hiện vật 15
2.1.1. Cách bố trí không gian chùa Túy Vân 15
2.1.2. Gác Đại Từ 17
2.1.3.Tháp Điều Ngự 17
2.1.4. Giếng Cam Lồ Tĩnh 19
2.1.5. Hệ thống tượng thờ Phật 19
2.1.6. Các đồ thờ 20
2.2. Giá trị chùa Túy Vân nhìn từ phương diện tâm linh 22
2.3. Đánh giá những cơ hội và thách thức đối với chùa Túy Vân 25


CHƯƠNG 3 28
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓACHÙA
TÚY VÂN, THỪA THIÊN HUẾ 28
3.1. Giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của chùa Túy Vân, Thừa Thiên
Huế 28
3.1.1. Thực hiện tốt công tác quản lý 28
3.1.2. Trùng tu bảo quản công trình di tích, quản lý cơ sở vật chất 29
3.1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn di tích 29
3.2. Giải pháp về chất lượng hoạt động đối với chùa Túy Vân, Thừa Thiên Huế 32
3.2.1. Về đội ngũ cán bộ, nhân viên 32
3.2.2. Về an ninh trật tự 33
3.2.3. Về vấn đề vệ sinh môi trường 33
3.2.4. Về chất lượng hoạt động 34

3.3. Giải pháp phát triển du lịch đối với chùa Túy Vân 35
3.3.1. Giải pháp quản lý, quy hoạch phát triển du lịch 35
3.3.2. Giải pháp về các chương trình tour tuyến du lịch 37
3.3.3. Giải pháp về quảng bá hình ảnh 39

C. PHẦN KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
PHỤ LỤC 45


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế là một điểm tham
quan du lịch hấp dẫn cho các du khách trong cũng như ngoài nước, nơi đây
với nét đẹp thiên nhiên ban tặng của đất trời đó là một hòn núi nhỏ tại làng
Hiền An gần cửa Tư Hiền, gọi đó là núi Túy Vân. Với ngọn núi có dáng
dấp hùng vỹ, bao quanh ngọn núi là phong cảnh nên thơ, hữu tình với vẻ
đẹp như vậy nếu ai đã đặt chân đến thì không thể không ghé vào ngôi chùa
nằm ở phía trong ngọn núi. Ngôi chùa này có tên là chùa Túy Vân.
Núi Tuý Vân có đỉnh cao 60m so với mặt nước đầm phá.Chùa Túy
Vân trên ngọn núi Túy Vân đã được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch công
nhận là di sản văn hoá quốc gia.Vào những ngày hè, đứng trên tháp Điều
Ngự nhìn núi non trùng điệp trong màu lam sương khói xa mờ tận mũi
Chân Mây.Núi Tuý Vân (Phú Lộc, Huế) như tuồng trầm ngâm mong đợi
nàng công chúa năm xưa trên bước đường “nước non ngàn dặm ra đi”.
Chùa Túy Vân được xây dựng thời các chúa Nguyễn.Ngôi chùa xây
dựng không theo nguyên tắc chung như các ngôi chùa khác mà theo quy tắc
chùa-gác-tháp được xây dần lên cao trên đỉnh núi, chùa xây theo phong
cách Hoàng Cung với những nét văn hoa chạm trỗ tinh xảo, điêu nghệ của
kiên trúc cung đình Huế.

Chùa Túy Vân được xếp thứ 9 trong 20 cảnh đẹp của xứ thần kinh ;
được xếp là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1996 theo
quyết định số 310-QĐ/BT và Quyết định 1771QĐ UBND ngày 09/10/2013
về việc điều chỉnh phân công quản lý di tích của UBND tỉnh. Chùa được
các đời vua trùng tu cho tới ngày nay, được các Chư Phật ngự trị và được
địa phương bảo vệ giữ gìn. Những năm qua, được sự hổ trợ các ban, ngành,

1


sự đóng góp Phật tử đã ít nhiều tái tạo, gìn giữ được những giá trị vốn có.
Tuy nhiên bởi vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa và những hiện vật có giá trị
nghệ thuật trong ngôi chùa đang bị mai một vì được trùng tu sửa nhiều lần
và qua thời gian cùng với thiên tai, sự tài phá của chiến tranh đã thay đổi ít
nhiều về đặc điểm, diện mạo của ngôi chùa. Là một sinh viên đang học
ngành quản lí văn hóa và là người con Vinh Hiền tôi ý thức rằng việc
nghiên cứu tìm hiểu về quê hương là điều cần thiết. Nó không chỉ giúp bản
thân hiểu biết thêm về quê hương mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa, bên cạnh đó giúp cho việc quảng bá, giới thiệu hình ảnh quê
hương đến với nhiều người, nhiều nơi trong cả nước biết đến. Bởi những
suy nghĩ và kỳ vọng nói trên cùng với sự hướng dẫn tận tình của giảng viên
nên tôi chọn đề tài nghiên cứu tìm hiểu về : “Bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa chùa Túy Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên
Huế” làm đồ án tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài tôi xem đây là một cơ hội để tìm hiểu và nghiên cứu sâu
hơn về di tích lịch sử của ngôi chùa Túy Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú
Lộc, Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Từ đó, đồ án còn hướng đưa ra các giải pháp góp phần bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa hiện vật lưu giữ của ngôi chùa để xứng đáng là di tích

lịch sử cấp Quốc Gia.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
3.1 Nội dung nghiên cứu
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, du lịch chùa Túy Vân, xã Vinh
Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2


3.2 Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết chọn phạm vi nghiên cứu là chùa
Tuý Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Lịch sử nghiên cứu
Trong du lịch tâm linh, những ngôi chùa được xem như là một yếu tố
của tài nguyên du lịch và đây cũng là một trong những đề tài được các nhà
nghiên cứu quan tâm trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, lịch sử, du lịch…
Về việc nghiên cứu và phát triển du lịch ở chùa Túy Vân hiện đang là
một đề tài khá mới. Tuy nhiên, với một ngôi chùa cổ đã trải qua rất nhiều
thăng trầm lịch sử thì cũng đã có nhiều cuốn sách và bài báo đề cập đến.
Trong đó, bài viết “Quốc tự Thánh Duyên” của tác giả Phan Ngọc Thiện
(Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán) tháng 09/2009 viết về những nét
đặc trưng của chùa Túy Vân. Trong đó nhấn mạnh đến các công trình kiến
trúc và lịch sử lâu đời của ngôi chùa cổ. Truy nhiên, bài viết này vẫn chưa
chú trọng đến việc phát triển du lịch tại chùa Túy Vân.
Một bài viết khác trên website tháng 08/2015,
với tựa đề “Chùa Thánh Duyên trên núi Túy Vân – di tích bị lãng quên”
cũng đã đề cập đến lịch sử hình thành và những hiện trạng của ngôi chùa
trong thời điểm hiện tại. Bài viết nhấn mạnh sự xuống cấp, điêu tàn của các
công trình kiến trúc tại chùa, đồng thời ca ngợi nét cổ kính, hoang sơ của
ngôi chùa cổ đã có lịch sử hàng trăm năm tuổi.

Ngoài ra, còn nhiều bài báo khác viết về chùa Túy Vân như: “Thánh
Duyên Quốc tự - Túy Vân linh thiêng” trên trang báo Khám phá Huế (2015);
“Chùa Túy Vân” (2015) trên trang web visithuecity.com; “Thánh Duyên
Quốc tự” (2014) trên trang web ;... Đó là
những công trình nghiên cứu có giá trị, giúp tôi tiếp cận, hiểu rõ hơn về ngôi
chùa cổ này, cũng như có thể kế thừa cho công trình nghiên cứu của mình.

3


Với đề tài nghiên cứu về việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của chùa Túy Vân, tôi mong muốn nói lên quan điểm, ý kiến của mình để
góp phần vào việc phát triển du lịch tại chùa Túy vân – nơi có nhiều khả
năng và thế mạnh tiềm ẩn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài đồ án tốt nghiệp này tôi đã sử dụng một số phương pháp
chủ yếu sau:
+Phương pháp tổng hợp, phân tích dữ liệu
+Phương pháp điền dã
+Phương pháp liên ngành
+ Phương pháp đối chiếu, so sánh
6. Những đóng góp đề tài
Tìm hiểu nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn góp phần vào gìn giữ
bảo tồn chùa Túy Vân. Từ đó, tôi đưa một số giải pháp theo ý kiến cá nhân
dựa trên những cơ sở kiến thức đã được học tập tại nhà trường, để đóng
góp phần bảo tồn và quảng bá di tích lịch sử này.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung đề
tài đồ án tốt nghiệp gồm 3 phần chính:
Chương 1: Tổng quan về giá trị văn hóa,du lịch chùa Túy Vân, Thừa

Thiên Huế
Chương 2: Giá trị văn hóa du lịch chùa Túy Vân, Thừa Thiên Huế
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, du lịch chùa Túy Vân,
Thừa Thiên Huế

4


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, DU LỊCH CHÙA
TÚY VÂN, THỪA THIÊN HUẾ
1.1. Tổng quan về giá trị văn hóa, du lịch chùa chiền ở tỉnh Thừa
Thiên Huế
1.1.1. Đặc điểm về địa lý và giá trị văn hóa vùng đầm phá Cầu Hai,
xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc
* Vị trí địa lý của khu vực - vùng đầm Cầu Hai
Đầm Cầu Hai có diện tích 11.200 ha, tạo hình bán nguyện với cung
tròn hướng về Phú Lộc. Chiều dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ
Thủy Tú tới chân núi Vĩnh Phong khoảng 11km, từ Đà Bạc tới Túy Vân
khoảng 6km và dài nhất từ cửa sông Đại Giang tới chân đèo Phước Tượng
khoảng 17km.
Khác với phá Tam Giang, đầm Thủy Tú, tham gia cấu tạo bờ và đáy
đầm Cầu Hai có cả trầm tích mềm rời Đệ tứ lẫn đá granit phức hệ Hải Vân.
Trong đó phần trên cùng của trầm tích đáy hiện đại phổ biến nhất (chiếm
2/3 diện tích) có bùn sét - bột xám đen, xám xanh phân bố ở trung tâm, tiếp
đến gặp cát nhỏ, cát trung và cát thô cấu tạo bãi bồi ven bờ Tây Nam, bãi
bồi delta ở cửa sông Đại Giang, sông Truồi, sông Cầu Hai, bãi bồi delta
triều lên gần cửa Vinh Hiền. Đầm Cầu Hai liên thông với biển Đông qua
cửa Tư Hiền, có khi là cửa Vinh Hiền. Dãy cồn đụn cát đoạn bờ Vinh

Hiền - Tư Hiền có bề rộng khoảng 100-300m, độ cao 1-1,5m, lại luôn luôn
biến động như một bãi ngang. Theo sử sách ghi lại, cửa Tư Hiền có trước
cửa Hòa Duân, Thuận An rất lâu (có thể vào khoảng 3.500-3.000 năm
trước đây) và cũng mang nhiều tên gọi như Ô Long, Tư Dung, Tư Khách,

5


Tư Hiền. Tuy chưa thấy xảy ra hiện tượng đóng kín cửa Tư Hiền kể từ khi
mở thêm cửa biển thứ hai Hòa Duân vào năm 1404, nhưng bắt đầu thế kỷ
XVIII trở đi, do khối lượng nước thông qua cửa Hòa Duân và con lạch giữa
Thai Dương Hạ ngày một gia tăng, nên khối lượng nước trao đổi tại cửa Tư
Hiền suy giảm và hậu quả là cửa biển này bị thu hẹp, lấp cạn dần. Mãi cho
đến năm 1811, khi trận lũ kịch phát xảy ra, nước lũ đã phá toang bãi cát
ngang chắn bờ Phú An, tạo thêm cửa Tư Hiền mới (Vinh Hiền) cách cửa
Tư Hiền cũ 3 km về phía Bắc. Cũng từ thời gian này về sau hai cửa Tư
Hiền cũ và mới đóng, mở với chu kỳ ngắn hơn, có lúc luân phiên (cửa này
đóng, cửa kia mở), trong đó cửa Tư Hiền mới (Vinh Hiền) thường tồn tại
không lâu và bị lấp lại khi mùa khô đến.
Nhờ dung tích trữ nước khổng lồ (từ 300-350 triệu m 3 đến 400-500
triệu m3 vào mùa khô, thậm chí tới 600 triệu m 3 vào mùa lũ) hệ thống đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai còn đóng vai trò quyết định đối với hiện tượng
chậm lũ trên lãnh thổ đồng bằng cũng như vấn đề ổn định cửa biển
(đóng - mở) và dãy cồn đụn cát chắn bờ khi có lũ lịch sử xảy ra (trận lũ
năm 1409, năm 1999).
Đặc biệt nhất là năm 1999 khi có lũ lớn, hệ đầm phá Tam Giang-Cầu
Hai mở thêm ba cửa thông ra biển: cửa Hòa Duân, cửa Vinh Hải, và cửa
Lộc Thủy. Những cửa này không tồn tại lâu dài vì sau đó ít lâu lại bị cát
bồi lấp đi. Và hiện nay hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai chỉ thông với biển
Đông qua hai cửa Tư Hiền và Thuận An.

*Về mặt giá trị văn hóa
Phật giáo Huế trở thành tư tưởng chủ đạo và là dòng sống lưu thông
trong tâm thức của mỗi con người Huế. Để từ đó, thiền Phật giáo không
còn là thứ đặc quyền của Tăng sĩ hay chùa chiền. Chẳng kể là tại gia hay
xuất gia, chẳng nề tăng hay tục, điều cốt yếu là biện tâm.

6


Thiền phật giáo đã trở thành linh hồn cuộc sống, linh hồn của xứ Huế.
Do vậy, có thể nói tinh thần nhập thể của Phật giáo thời Trần Nhân Tông
đã góp phần tô điểm và nâng cao bản sắc một Phật giáo xứ Huế.
Phật giáo Huế được xem một tín ngưỡng đã được chọn lọc qua thăng
trầm của lịch sử mà còn đến để chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của mỗi
ngôi chùa Huế.
Như chúng ta đã biết nói đến chùa Huế người ta thấy nghi lễ đến lối
sinh hoạt của các chư tăng giữ được nét thanh tịnh, nghiêm trang đi vào
lòng người của Phật giáo Huế.
Lễ chùa trong mùa Phật đản đã trở thành nét đẹp văn hóa trong lòng
mỗi người, như để tỏ lòng tri ân đối với Đức Phật và đã trở thanh yếu tố
tam linh gắn với văn hóa, tín ngưỡng rất đặc trưng với vùng đất cố đô.
Phật giáo xứ Huế xây dựng nên nét đẹp của quê hương vùng đất cố đô. Các
giáo lý nhà Phật giúp cho phât tử tạo lập nên được nếp sống, lối sống chân,
thiện, mỹ, đặc biệt là giúp cho phật tử biết cánh nhìn nhận và giải quyến
đúng đắn những vấn đề cốt lõi trong đời sống về sinh, lão, bệnh, tử, chỉ dẫn
cho ho phương cách làm sao để có them ý nghĩa của hạnh phúc, an vui về
mặt tinh thần bên cạnh các giá tri vật chất như tiền tài, của cải, nhà đất…
Nhờ thế, Phật giáo xứ Huế đã cắm rễ sâu và luôn có chỗ đứng quan trọng
trong đời sống.
1.1.2. Tổng quan về du lịch chùa chiền Huế

Nhắc đến Huế người ta thường nghĩ ngay đến các cung điện, đền đài
mang hơi thở cổ xưa một thời vua chúa huy hoàng. Ai cũng muốn một lần
du lịch đến Huế để tận mắt nhìn thấy những bằng chứng sinh động của
triều đại phong kiến cuối cùng. Không chỉ thế, nét dịu dàng thư thái và
cuộc sống chận rãi nơi đây cũng được nhiều người ưa thích.

7


Đi du lịch Huế không thể không tận mắt đến xem các công trình lăng
tẩm, chùa chiền... Các chùa ở Huế thu hút nhiều khách du lịch bởi vẻ nguy
nga tráng lệ nhưng cũng không kém phần thanh tịnh, nên thơ. Còn khu vực
xa thành phố Huế khoảng chừng 40km về phái Nam là chùa Túy Vân (xã
VinhHiền, Phú Lộc) có cái tinh khiết, trong trẻo gần như tuyệt đối của một
vùng trời, nước và đảo hoang sơ ít dấu chân người.
Huế có khoảng vài trăm ngôi chùa cụ thể như chùa Thiền Lâm, chùa
Bà La Mật, chùa Báo Quốc, chùa Diệu Đức, chùa Giác Lương, chùa Huyền
Không, chùa Từ Đàm, chùa Vạn Phước, chùa Kim Quang, chùa Trúc Lâm,
chùa Kim Sơn... Và các ngôi chùa mang tên “QuốcTự” ở Huế khách du
lịch có thể tham quan Quốc Tự Thiên Mụ, Quốc Tự Giác Hoàng,Quốc Tự
Diệu Đế, Quốc Tự Túy Vân.. Được thờ tự và bảo quản tại các chùa Huế,
trở thành một kho tàng vô giá về văn hóa của Phật giáo Thuận Hóa.
*Lượng khách du lịch
Là vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa đặc sắc, trong đó có Quần
thể di tích cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới
(năm 1993) và Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn được UNESCO công nhận
là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2003), và Chùa Thánh
Duyên trên núi Tuý Vân đã được Bộ Văn hóa Thể tao Du lịch công nhận là
di sản văn hoá quốc gia. Thừa Thiên Huế có nhiều tiềm năng để thu hút
khách du lịch. Mặt khác, nhờ thường xuyên có những chương trình quảng

bá, xúc tiến du lịch, nên lượng khách du lịch đến Thừa Thiên Huế ngày càng
gia tăng. Tính riêng năm 2011, tổng lượt khách đến Huế 9 tháng đầu năm
ước đạt 1.208,7 nghìn lượt khách, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái;
trong đó lượng khách quốc tế đạt 487,1 nghìn lượt, tăng 6,9%; khách trong
nước đạt 721,6 nghìn lượt, tăng 5,7%. Dự ước tổng ngày khách 9 tháng đạt
2.465,9 ngàn ngày (tăng 6,94% so với cùng kỳ), trong đó ngày khách quốc tế

8


đạt 999,7 ngàn ngày (tăng 7,87%), chủ yếu từ các nước Thái Lan, Pháp, Mỹ,
…; ngày khách trong nước là 1.466,2 ngàn ngày (tăng 6,32%). Doanh thu du
lịch ước đạt 762,5 tỉ đồng, tăng 20,5% so với năm trước.
Nhìn chung thì việc du khách đến Huế chủ yếu là tham quan các di tích
lớn, còn về chùa Túy Vân thì du khách đến tham quan là tương đối ít, khách
chỉ thường tập trung vào các ngày lễ Phật đản, thường thu hút hàng ngàn
người vào xem và theo các tăng ny, phật tử cho biết thì ngoài số lượng khách
đi tham quan vào các ngày thì có khoảng 50-60 người và từ 3-4 đoàn vào
thăm quan di tích khoảng từ 10-15 người theo tour tham quan.
1.2. Tổng quan về chùa Túy Vân, xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên Huế
Ở Thừa Thiên Huế có 4 ngôi chùa được vinh danh là quốc tự đó là:
Thiên Mụ, Diệu Đế, Giác Hoàng và Thánh Duyên (hay còn được dân gian
gọi là chùa Túy Vân). Nếu như ba ngôi chùa kia đều tọa lạc tại kinh thành
Huế thì chùa Thánh Duyên lại tọa lạc tại một nơi khá xa kinh thành: núi
Túy Vân thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc ngày nay.
Chùa Thánh Duyên với các giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật chùa
Túy Vân vẫn tồn tại đến ngày nay như một di tích tôn giáo quan trọng bởi
nét đặc trưng kiến trúc của chùa cũng như các bộ tượng để lại.
Địa Điểm: Chùa tọa lạc trên núi Túy Vân, thuộc xã Vinh Hiền, huyện

Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Trụ Trì: Thượng tọa Thích Hải Ấn
Chùa nằm cách thành phố Huế chừng 40km về phía Đông, dừng chân
ở đoạn cuối xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc bạn sẽ thấy một ngọn núi nhỏ
đứng sừng sững giữa bốn bề sóng nước của phá Tam Giang và biển Đông.
Đó chính là núi Túy Vân, trên đỉnh núi là ngôi chùa Tháp có lịch sử hàng
trăm năm tuổi.

9


Chùa được vua đặt tên là Thánh Duyên vì: “Thánh tức thị Phật, Phật
tức thị Thánh, hữu thị Thánh phương khai Phật pháp chi sùng thâm; duyên
bổn thị nhân, nhân bổn thị duyên, hữu thị duyên nãi khuyếch thiện nhân chi
quảng bị”. Chính vua Minh Mạng đã ngự chế câu đối ấy và cho lồng chép
vào nội dung văn bia để khắc vào bia đá “Ngự chế Thánh Duyên tự chiêm
lễ” vẫn còn ở chùa.
Ngôi chùa Thánh Duyên, dân gian thường gọi chùa Túy Vân hay Túy
Hoa ẩn mình trên ngọn Túy Vân, một nhánh của Hải Vân sơn, ba mặt bao
bọc bởi đầm nước lợ Cầu Hai gần cửa biển Tư Hiền (trước gọi Tư Dung)
một mặt trông ra biển Đông. Trước đây Thánh Duyên xa xôi cách trở, từ
Huế muốn đến phải xuống cửa Thuận An men bãi biển quãng đường hơn
20 cây số; hoặc theo Quốc lộ 1 đến Đá Bạc lên đò máy qua đầm Cầu Hai
đến núi Túy Vân mất cả tiếng đồng hồ.
Giữa đầm cầu Hai trời nước mênh mông và Biển Đông đêm ngày sóng
vỗ, nổi lên một hòn đảo xanh, hùng vĩ, có dáng dấp như một con chim
phụng đang vỗ cánh. Đó là Túy Vân Sơn một hòn núi nhỏ gần cửa Tư
Hiền, ngày xưa có tên là Mỹ Am Sơn. Núi vốn đã đẹp, nơi đây lại có thêm
một ngôi Quốc Tự, làm cho Túy Vân trở thành một thắng cảnh gắn liền với
một di tích lịch sử. Núi Thúy Vân nằm ở ven cửa biển Tư Hiền, xưa còn có

tên gọi là Tư Dung. Đây là một trong hai ngọn núi cuối cùng của dãi cát
ven biển chạy từ Bắc vào Nam. Núi Thúy Vân không cao lắm, chỉ cách mặt
nước biển và mặt phá Tamm Giang chừng hơn 40 m.
Theo “Đại Nam Nhất Thống Chí” và nhiều nhà nghiên cứu văn hóa
Chùa Huế: Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648- 1687) đi qua đây, thấy phong
cảnh hữu tình, thơ mộng, cho lập một ngôi chùa nhỏ làm nơi cầu phúc cho
dân địa phương. Năm Minh Mạng thứ 6 (2826), nhân dịp đến cửa Tư Hiền,
Vua ghé thăm Mỹ Am Sơn thấy chùa cổ điêu tàn, hoang vu, mới cho xây

10


dựng lại, và đổi tên là chùa Túy Ba. Năm Minh Mạng thứ 17 (1837), chùa
được trùng tu và dựng thêm lầu.Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) được
tiếp tục trùng tu và đổi tên chùa là Túy Vân. Vua Thiệu Trị liệt Túy Vân vào
hàng thắng cảnh của đất thần kinh trong bài thơ: Vân Sơn thắng tích và cho
khắc bia đá dựng bên chùa. Các thời Thành Thái, Bảo Đại đều có trùng tu.
Bà Từ Dũ đã cúng 5 mẫu ruộng ở Cầu Hai và 8 mẫu ở Hà Trung đề
làm lương đồng cho nhà chùa.
Trên đỉnh Túy Vân, nổi bật lên có ngôi tháp ba tầng gọi là Điếu Tháp
Ngư. Leo qua hai chiếc cầu thang gỗ lên đứng ở tầng trên ta có thể nhìn
thấy hết toàn cảnh huyện Phú Lộc. Giữa lưng chừng núi là Chùa Chính,
dưới chân núi còn có ngôi Chùa Lớn làm chỗ ở cho Chư Tăng, ở đây cũng
có đủ tượng, chuông, mõ... Trước, sau chùa cây cảnh, hoa lá sum suê.
Cứ ngỡ thành Hóa Châu xưa ban đầu là một Đô-Cảng-Thị bên cửa
Sình. Cửa Sình làm ngã ba cho sông Hương gặp biển. Về sau có doi cát nổi
trước cửa Sình giống như một con đập chắn sóng. Đồi cát ngày càng cao,
hất biển ra bên ngoài để vịnh Sình nằm lại. Tất cả nước của đông Trường
Sơn qua sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương đều chảy vào đầm Thủy Tú hội
với nước sông Truồi rồi ào ra cửaTư Hiền (1).

Phía Đông-Nam cửa Tư Hiền có mũi Chân Mây từ Hải Vân Sơn lao
xuống như một cái mỏ hàn đẩy nước ra ngoài biển. Nước tức, xoáy lại làm
vụng sâu.
Hàng ngàn năm với hàng ngàn mùa lũ nước chở đất cát về lấp dần một
phần vịnh Cầu Hai để con người đến lập làng. Lúc đầu Linh Thái Sơn và
Thúy Vân Sơn còn là hai hòn đảo đứng giữa mênh mông sóng nước. Lâu
ngày bởi sự lắng đọng của phù sa, chân đảo cũng được bồi đắp cao dần.
Đồi cát nổi trước cửa Sình không ngừng vươn tới gặp Linh Thái Sơn và
Thúy Vân Sơn, góp phần làm cho hai hòn đảo trở thành hai ngọn núi giữ
thế định hướng cửa Tư Hiền.

11


“Khéo ưa thay cảnh Tư Dung
Cửa thâu bốn biển, nước thông trăm ngòi”
Cảng biển cho Cảnh Dương – Lộc Vĩnh (huyện Phú Lộc). Hóa Châu
trở thành đô thị làm lỵ sở cai quản nội hạt. Làng Sình bên cạnh Hóa Châu
thành vẫn giữ nguyên làng tranh dân gian hàng hóa trong nhiều thế kỷ, Đất
cát dồn về triền miên, cửa Tư Hiền nông và hẹp dần. Mùa lũ nước từ đông
Trường Sơn gộp với nước của Thất Thế Giới Sơn, Thương Sơn, Duệ Sơn,
Động Truồi, Bạch Mã Sơn, Ngãi Lĩnh… tràn xuống. Gặp thủy triều xô
ngược vào, cửa Tư Hiền nghẹn nước. Ba con sông (Hương, Bồ, Ô Lâu) quá
tải đổ dồn nước vào Ngã Ba Sình. Tức nước vỡ bờ “Đập cát chắn sóng
thiên tạo trước cửa Sình bị vỡ ra một quãng làm cửa Eo xả lũ. Cửa Eo tức
cửa Thuận An ngày nay. Thế là vịnh Sình trước thành Hóa Châu lại được
mở cửa ra biển. Mở ra bất ngờ thì gọi là phá. Sức phá bởi nước của ba con
sông nên mới có tên là phá Tam Giang.
Từ cửa Thuận An vào cửa Tư Hiền nguyên thủy là làn ranh ngoài khơi
trong lộng đã lên cạn làm đường cho con người ngược xuôi, rồi làm thổ cư

để làng xóm đứng lại, ghi tên những người khai canh, khai khẩn. Như thế
hai ngọn núi Linh Thái Sơn và Tuý Vân Sơn cùng với cửa Tư Hiền nằm ở
cuối con đường này. Ngày nay gọi là đường quốc lộ 49B, con đường này
đã được rải nhựa khang trang, nó nối từ thành phố Huế qua Thuận An, và
cứ đi dọc theo hết con đường biển này thì ta sẽ gặp hai ngọn núi Linh Thái
Sơn và Tuý Vân Sơn cùng với cửa biển Tư Hiền ở cuối con đường.
Từ đây không gian mát rượi, không thấy ánh nắng hè chói chang,
hàng trăm gốc cây thông cổ thụ nguyên sinh, có nhiều cây lớn đến hai ba
người ôm không xuể. Ngôi chùa cổ giữa núi rừng u tịch, ngập tràn hoa lan,
hoa dại và tiếng chim muông ríu rít. Lữ khách theo con đường nhỏ hàng
trăm bậc đá cứ cao lên, cao lên mãi, giữa hàng hàng cổ thụ, thảm lá rừng
ngập lối đi, khiến người viếng chùa có cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát.

12


Tòa điện Đại Hùng mới được trùng tu, lộng lẫy và uy nghi màu sắc sơn son
thếp vàng, bên phải điện Đại Hùng có tòa nhà bia dựng lên để che tấm bia
ngự chế của vua Minh Mạng. Tòa điện Đại Hùng là một tòa nhà kép 3 gian
2 chái, làm theo kiểu cách Cung điện Huế, bên trong có nhiều pháp khí rất
quý như bộ tượng Tam Thế, tượng Thập Bát La Hán, tượng Thập Điện
Diêm Vương, chuông đồng… Nội điện trang trí theo kiểu “nhất thi nhất
họa” trên tất cả các ô liên ba gắn quanh bộ khung nhà. Sau đó, phải đi qua
cổng hậu của vòng tường quanh điện Đại Hùng, vượt thêm trăm bậc cấp
nữa mới đến Đại Từ Các nằm giữa lưng chừng núi. Trong khuôn viên chùa
có một cái giếng cổ tên gọi Cam Lộ, đào từ thời vua Minh Mạng, hiện vẫn
còn nguyên vẹn tấm bia đá khắc ba chữ Hán “Cam Lộ Tỉnh”, hàng
ngày nước giếng được máy bơm lên để nhà chùa sử dụng.
Thú vị nhất khi đã lên tới đỉnh ngọn tháp ba tầng gọi là tháp Điếu Ngư,
về mùa hè vô vàn hoa độc mộc tỏa sắc ngát hương. Trên đỉnh tháp Điếu

Ngư, hướng ra xa có thể quan sát hết toàn cảnh của huyện Phú Lộc, nhìn
thấy núi rừng Bạch Mã hùng vĩ, phá Tam Giang – Cầu Hai mênh mông. Vào
những thập niên đầu của thế kỉ 20, quốc tự Thánh Duyên đã từng là đạo
tràng lớn của Giáo hội. Chùa Thánh Duyên một thời được Chư tôn đức trong
sơn môn Tăng già Thừa Thiên dùng làm nơi tu học cho chư tăng vào các
mùa An cư kiết hạ. Đến thời kỳ hội An Nam Phật học ra đời, khuôn hội Tịnh
độ cũng đã được thành lập tại đây. Bỏ lại đằng sau sự huy hoàng của quá
khứ, chùa Thánh Duyên ngày nay đang hòa mình vào đời sống dân dã của
làng quê. Chùa vẫn là nơi du khách thập phương vãn cảnh dù đông hay hè, là
nơi Phật tử lui tới cúng dường đức Phật và cũng là nơi nuôi dưỡng những
tâm hồn trẻ thơ, giúp thế hệ tương lai của đất nước hướng thiện.
Đến chùa Thánh Duyên vào ngày Rằm, mồng một, các Phật tử thường
đến khấn vái và dùng bữa cơm chay ngay tại chùa. Bỏ qua sự tĩnh lặng và

13


uy nghiêm của một ngôi quốc tự, Thánh Duyên giờ đây gần gũi với người
dân hơn bao giờ hết. Nó không xuất phát bởi vị trí nằm giữa xóm thôn hay
là chốn viếng thăm quen thuộc của du khách thập phương mà bởi sự mở
lòng vốn có của nhà Phật.
TIỂU KẾT
Trong chương một, đề tài đã trình bày một cách có hệ thống các đặc
điểm của ngôi chùa cổ Túy Vân từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên cho đến
lịch sử hình thành và phát triển của chùa. Trải qua một khoảng thời gian dài
với biết bao thăng trầm và biến cố của lịch sử, chùa Túy Vân (hay còn gọi
là chùa Thánh Duyên) có thể được coi là một di tích lịch sử gắn liền với rất
nhiều giá trị văn hóa và tâm linh.
Tuy nhiên theo thời gian, chùa Túy Vân dần trở nên xuống cấp, lượng
khách du lịch đến với chùa cũng chỉ rải rác. Bên cạnh đó, do không được quản

lý nghiêm ngặt nên hiện tượng lấn chiếm di tích cũng đang diễn ra. Các tiềm
năng du lịch của chùa vẫn còn bị bỏ ngỏ. Để hiểu rõ hơn về các giá trị văn hóa
và thực trạng của chùa Túy Vân, tôi xin được đề cập trong chương 2.

14


CHƯƠNG 2
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÙA TÚY VÂN, XÃ VINH HIỀN,
HUYỆN PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Giá trị văn hóa chùa Túy Vân nhìn từ kiến trúc, hiện vật
2.1.1. Cách bố trí không gian chùa Túy Vân
- Chùa Túy Vân có hình chữ nhật, kiến trúc theo kiểu nhà rường lợp
ngói liệt, trùng thiềm điệp ốc. Toàn bộ chùa Túy Vân được bao bọc bằng
vồng la thành cao gần 2m và thông lên núi cửa sau bằng cửa hậu.
- Chùa có hai tầng mái, giữa hai tầng mái có các ô vẽ các bức tranh
với đề tài Phật giáo. Trên nóc có trang trí hai con rồng ở hai đầu chầu và
một đám mây hóa thành mặt nạ ở giữa. Giao cù hình rồng được cách
điệu hóa.
- Chính điện có ba gian, hai chái, lợp ngói liệt. Mặt tiền có năm cửa
vào.Tả hữu mỗi cửa có hai khép.Ba cửa giữa, mỗi cửa có ba lá.Bước vào
chùa, nhìn lên những hoành phi, câu đối, đố bảng đầy những bài thơ, mới
được sơn lại nhưng vẫn đượm nét huy hoàng cổ kính.
Bức hoành chính giữa đề mấy chữ : “Phật nhật trùng quan”, lạc khoản
đề “ Thành thái thất niên, thập nhị nguyệt tạo. Sắt phụng chế” (Tây lịch
nhằm năm 1895). Hoa văn quanh bức hoành theo mô tip truyền thống là
lưỡng long triều nguyệt.
Bên trên chính giữa đền thờ, có những bức hoành lưỡng long triều
Nguyễn, sơn son thiếp vàng lộng lẫy đề : “Ngự tạo phụng Túy Vân Tự”, lạc
khoản đề “ Minh Mạng thập thất niên” (Tây lịch nhằm năm 1836).

Quanh đố bảng của toàn ngôi chùa, ở phần trên gần sát mái, trình bày
những khung hình chữ nhật chạy đường gờ viền và chạm trỗ rất công phu,

15


giữa lòng khung chạn khắc thơ “ Ngự chế”. Ở giữa những khung hình chữ
nhật còn chen những khung hình vuông chạm khắc chữ “Phù”.
Các gian thờ tự ở chùa Túy Vân có tính đặc thù không trình bày theo
kiểu truyền thống của Huế. Trừ khoảng cách hẹp của hai chái hai đầu thì
khoảng rộng để thờ tự chiếm cả ba gian giữa khu vực để thờ sau:
+ Nội điện thờ Phật cùng nhiều vị hiền thánh thiện thần khác
+ Gian chính ở giữa thờ Tam Thế Phật: quá khứ, hiện tại và vị lai,
phía trước thấp hơn bàn thờ Phật là bàn thợ bài vị vua Minh Mạng.
+ Gian ở phía bên trái thờ Đại Thế Chí và gian bên phải thờ Quan Thế Âm
+ Hai bên có hai dãy sập để tôn trí thờ Thập Điện Minh Vương, mỗi
bên gần sát vách thờ 5 tượng. Tiếp đến vào phía trong thờ 2 dãy tượng
Thập Bát La Hán, mỗi bên 9 tượng.
+ Phía sau của ngôi chùa thì có ba căn: Giữa thờ các hòa thượng đã
chủ trì tại chùa. Hai bên thờ các Phật Tử Quy Y chùa.
Bên ngoài chùa, phía bên phải của sân, nhìn trong chùa nhìn ra là một
nhà để bia. Bia này chính là bia “Ngự chế Túy Vân chiêm lễ bát vận”. Bia
bằng đá thanh, chữ viết chân phương còn khá rõ. Bia cao 1m72, mặt bia
rộng 0m84, dày 0m25, đế bia là một khối đá hình chữ nhật dài 1m10, rộng
0m58, cao 0m34, rộng bày quanh bia là hoa cúc và dây lá. Đầu bia chạm
lưỡng long triều Nguyệt, bên dưới đầu bia giáp thân bia là hình sen cánh
phượng. Bên sau nhà bia này là nhà bếp của chùa.
Vào đầu TK XXI (2004) toàn bộ chùa Túy Vân đươc đại trùng kiến
do Giáo Hội Phật Giáo Huế, Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế
đầu tư. Người ta xây mơí những ngôi nhà tăng xá và khách xá rất khang

trang, kể cả thiềm trù cũng vậy nhưng vẫn theo kiến trúc cổ, tuyệt đối hài
hòa với toàn bộ kiến trúc nhà cửa, cây cối và cảnh trí thiên nhiên ở đây.

16


2.1.2. Gác Đại Từ
Nguyên căn Gác Đại Từ dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị là một
ngôi gác hai tầng. Trên thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tác, dưới thờ Quan
Thánh Đế Quân(Quan Công- Quan Vân Trường) nhưng về sau ngôi gác
này bị hư hỏng nên vua Khải Định cho sửa lại thành ngôi chùa trệt. Năm
2004 cùng với chùa Túy Vân thì gác Đại Từ đã được khôi phục lại thành
hai tầng
+ Hiện nay, tầng một của chùa gian giữa của gác Đại Từ thờ Đại
Thánh Chuẩn Đề Vương. Gian phía bên trái nhìn vào thờ Đại Thế Chí, gian
bên phải thờ Đức Quan Âm. Ngoài ra trong gác Đại Từ còn nổi tiếng với
tượng Phật nghìn mắt nghìn tay nhưng thực tế chỉ có 18 tay và 18 mắt bằng
đồng sơn son vàng lấp lánh tượng trưng
+Lên tầng hai của gác Đại Từ có cầu thang gỗ ta bắt gặp với không
gian khá rộng nhưng chỉ thờ tượng phất 18 tay và 18 mắt được khắc bằng
gỗ và thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trên tầng mà thôi.
+Toàn bộ gác Đại Từ được bao bọc bằng một vòng la thành, bên trong
la thành người ta lót đá tạo một khoảng sân rất đẹp.So với chùa Túy Vân
thì gác Đại Từ có quy mô nhỏ hơn, cách bố trí thờ tự cũng như các tượng
phật ttrong gác là không nhiều.
2.1.3.Tháp Điều Ngự
Từ cổng của gác Đại Từ đi về hướng Đông Nam, leo thêm nhiều bậc
cấp bằng đá, quanh co dẫn đến đỉnh núi Túy Vân thì thấy ngay một ngọn
tháp ba tầng đứng sừng sững trông ra đầm Cầu Hai bao la. Đó chính là tháp
Điều Ngự.

Tháp Điều Ngự được xây vào năm Đinh Dậu (1837).Trước đây, từ bậc
cấp đầu tiên để lên núi Túy Vân đến bậc cấp cuối cùng để đến nền của tháp
Điệu Ngự có cả thảy 108 bậc cấp tượng trưng cho 108 phiền não theo quan

17


niệm của nhà phật về kiến trúc của Tháp Điều Ngự thì đây là một ngọn
tháp hình vuông có 3 tầng.
- Mỗi tầng có 4 cửa tò vò cho 4 hướng nhưng sau nay người ta bớt đi
một cửa thờ tự cho trang nghiệm và thông thoáng hơn nên ngày nay khi lên
tháp Điều Ngự chỉ có thể nhìn được 3 hướng mà thôi.
- Tháp Điều Ngự có phong cách kiến trúc vững chắc như những tháp
trên núi Yên Tử đời nhà Trần.
- Những mái của tầng tháp để trơn, không có giao cù hay bất cứ hình
“bẹ” hoặc “mỏ cu” điểm xuyết gì. Mái và nóc trần trên tháp cũng vậy. Tầng
dưới hết, có cửa chính đi vào, có tấm hoành bằng đá thanh khắc ba chữ lớn
“Điều Ngự Tháp”.
- Theo “Đại Nam Nhất Thống Chí” thì tháp Điều Ngự có ba tầng, cao
năm trượng ba thước, nền tháp bằng đá vuông. Trên nóc tháp có một trụ
đồng và đặt một pháp luân. Xung quanh pháp luân có treo sẵn nhiều cái
lính, khi gió thổi thì pháp luân xoay và những cái luân xũng rung động tạo
nên âm thanh gần xa đều nghe rõ.
Trước thời điểm năm 2008 thì tháp Điều Ngự vẫn rêu phong, cũ kĩ,
không còn pháp luân và những cái linh nhưng gần đây tháp Điều Ngự đã
được tu sửa lại và không còn cái thang gỗ nữa, người ta sơn quét và đặt lại
pháp luân, và cờ phật giáo ở trên đỉnh tháp.
-Trong bia “Ngự chế Thánh Duyên chiêm lễ bát vận “của Minh Mạng
có bài thơ “Đăng Điều ngự tháp’’ đã nói đến tháp này rất rõ. Theo đoạn
văn nói về cách thờ tự trong tháp như sau :

+Tầng trên hết thờ Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Văn Phật Tây
Thiên Cực Lạc Pháp Vương.
+Tầng giữa thờ Nhân Gian Điều Ngự Phước Bi Quần Sanh Vạn Thiện
Chí Tôn.

18


+Tầng dưới thờ Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Ngiêm Diêm La
Chủ Tể.
+ Dưới chân tháp, về phía Đông, vua Minh Mạng đa cho tạo ngôi
“Tiến Sảnh Đình” là nơi đẻ ngồi nghe tiếng sóng đầm Cầu Hai vỗ vào đá
núi giáp bờ nước. Hiện nay, tháp Điều Ngự mới trùng tu vào tháng 3 năm
2014 được sự đầu tư của Trung tâm bảo tồn di tích Cố Đô Huế chính vì vậy
tháp Điều Ngự khang trang hơn. Các tầng của tháp Điều Ngự được gắn cái
thang gỗ mới vì các thang gỗ ngày xưa bị hư hỏng và họ bỏ không gắn vào
năm 2008.Cho đến nay đã thay mới các thang gỗ lên cả ba tầng và dược
đầu tư cổng hàng rau xung quanh ba cửa tò vò của tháp, trước sân tháp
Điều Ngự được lót gạch nền mới.
2.1.4. Giếng Cam Lồ Tĩnh
Có giai thoại kể rằng, lúc lên núi Túy Vân vua Minh Mạng khát nước
nên người hầu lấy nước giếng ở chân núi cho vua uống. Nhà vua thấy nước
ngọt,mát nên cho đặt tên giếng là Cam Hồ Tĩnh và nhà vua bến cho dựng
bia ở giếng này. Thời nhà Nguyễn cũng lấy nước ở giến này về sử dụng
trong ăn uống và Tế Tự trong Hoàng thành.
Hiện nay, giếng Cam Lồ (Cam Lồ Tĩnh) ở chân núi Túy Vân tốt nhất
và được nhiều nhà xung quanh đây mang về uống.
Ngôi chùa Túy Vân còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật trong các
thời kì vua chúa để lại như: tượng đồng 18 vị la hán, đĩa đề thơ của vua
Thiệu Trị

2.1.5. Hệ thống tượng thờ Phật
Chùa Túy Vân còn lưu giữ được đến gần 70 pho tượng đồng: tượng
Phật Thích Ca, Di Đà, Di Lạc, Quan Âm, Hộ Pháp, Phổ Hiền Bồ Tát. Đáng
chú ý là bộ Thập bát La Hán thể hiện phong cách và nghệ thuật đúc tượng
Việt Nam thế kỹ XIX vẫn còn nguyên vẹn.

19


Mỗi tượng có chiều cao khoảng 55cm,chiều ngang từ 34 đến 42cm đặt
trên một đế cao 13cm. Trong số gần 70 pho tượng tại chùa đáng chú ý hơn
cả là bộ tượng Thập Bát La Hán bằng tre thếp vàng và bộ tượng Thập Bát La
Hán bằng đồng xưa và lớn nhất Vệt Nam được ghi vào danh sách kỷ lục Việt
Nam năm 2008. Chính vì điểm đặc sản của bộ tượng này được làm bằng tre,
cho thấy sự công phu, tinh xảo của các nghệ nhân vào thời Minh Mạng.
Bên cạnh đó trong chùa Túy Vân còn lưu giữ các pho tượng xưa nhất
tại chùa mà còn trên gác Đại Từ còn lưu giữ tượng Phật gác Đại Từ nổi
tiếng với tượng phật nghìn mắt nghìn tay nhưng thực tế chỉ có 18 tay và 18
mắt tượng trưng.
Ngôi chùa có kiến trú của các hình trang trí trên bờ nóc, đầu đao của
mái, chủ yếu là tứ linh cách điệu hình hoa lá hay lưỡng long triều nguyệt.
Bên cạnh đó các khánh vị, long vị, hoành phi sơn son thếp vàng, chạm nổi
các hoa văn theo mô-típ lưỡng long triều nguyệt.
2.1.6. Các đồ thờ
Hai quả đại hồng chung được đúc vào năm 1836 có tai chuông hình
rồng và nhiều hoa văn trang trí( hình hoa sen, mặt trời ) ở thân chuông.
Chùa còn lưu giữ các đồ tự khí có nguồn gốc từ cung được đưa về tại
chùa vẫn vảo tồn cho đến nay.Như các đồ tự khí trong chùa có nhiều cái từ
trong cung đưa về như các mâm bồng mâm quả chẳng hạn.
Tuy chỉ bằng gỗ tiện, sơn son lánh, nhỏ, nhưng tất cả điều có kí hiệu

hai chữ “đại nội’’ bằng chữ hán việt mực tàu đen láy ở giữa lòng, là những
cổ vật chứng tích của một ngôi quốc tự từ thời vua chúa.

20


×