Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ đúc ĐỒNG TRUYỀN THỐNG TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.97 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
---------------------------

Chuyên đề:
“GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG TRUYỀN
THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ”

GVHD : PGS.TS TRỊNH VĂN SƠN
HVTH : Nguyễn Thị Hồng Minh
Lớp
: Quản lý kinh tế - K15B

Huế, Tháng 4 năm 2016


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Công nghiệp hóa

CNH

Hiện đại hóa

HĐH

Hợp tác xã

HTX



Làng nghề truyền thống

LNTT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NN&PTNT

Nguyên vật liệu

NVL

Tiểu thủ công nghiệp

TTCN

Thủ công mỹ nghệ

TCMN

Thủ công truyền thống

TCTT

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

2



Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

MỤC LỤC

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

3


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

4


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn
Phần 1. GIỚI THIỆU CHUNG

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Làng nghề truyền thống (LNTT) là loại hình sản xuất có mặt hầu hết ở mọi địa
phương, gắn bó và có vai trò rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt, lao động của

người dân. Làng nghề đã góp phần vào sự phát triển của kinh tế - xã hội, giải quyết
việc làm cho nhiều lao động, sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị. Những năm gần
đây, khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi lĩnh vực hoạt động được khơi dậy đóng góp
tích cực vào mức tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó phải kể đến sự đóng góp của hoạt
động ngành nghề ở khu vực nông thôn, nơi có gần 80% dân số đang sinh sống.
Hòa trong dòng chảy chung của cả nước, Thành phố Huế đã và đang triển khai
mục tiêu xây dựng Thành phố Huế thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng
“Di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường” đến năm 2020. Tốc
độ tăng trưởng chung về giá trị sản xuất đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy vậy,
lĩnh vực kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ; tốc độ tăng
trưởng vẫn còn thấp, năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao. Ngành
du lịch – dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh, ngành nghề công
nghiệp và TTCN còn phát triển chậm, hoạt động làng nghề, nghề truyền thống còn nhiều
mặt hạn chế.
Quá trình đô thị hóa nông thôn ở Thành phố Huế đã dẫn đến những hệ quả
tất yếu về LNTT, đó là sự biến mất của nhiều làng nghề hoặc có làng nghề đang
đứng trước nguy cơ mai một, có làng nghề vẫn tồn tại nhưng phải thay đổi cơ bản
về qui trình sản xuất, mẫu mã.
Làng nghề đúc đồng phường Phường Đúc, phường Thủy Xuân thuộc Thành
phố Huế cũng không nằm ngoài hệ lụy đó. Làng nghề đúc đồng Phường Đúc, phường
Thủy Xuân với lịch sử hơn 500 năm hình thành và phát triển, phường có tới hơn 60 lò
đúc với khoảng hơn 200 người làm nghề này. Ngoài các sản phẩm thông thường như
đúc Đại hồng chung (chuông đồng cỡ lớn), lư hương, các mặt hàng mỹ nghệ, các cơ sở
đúc đồng ở Phường đúc còn có thể sản xuất những chi tiết máy dùng trong công
nghiệp và những linh kiện có tính chính xác cao. Các sản phẩm đồng mỹ nghệ, từ khâu
lên khuôn, nung chảy và rót đồng đều chủ yếu bằng tay, làng nghề có những nghệ
nhân với đôi tay tài hoa, những kĩ năng, kĩ xảo để làm nên những chiếc chuông, chiêng
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế


5


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

rộn rã âm thanh.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) và
làng nghề trên địa bàn Thành phố Huế còn yếu, chưa tạo được những chuyển biến lớn
nhằm tăng tốc sự phát triển của ngành, giá trị sản xuất vẫn chưa cao so với tỉnh, thành
phố khác. Số lượng cơ sở làm hàng lưu niệm, hàng đúc đồng vẫn chưa nhiều, phần lớn
các đơn vị chỉ duy trì sản xuất ở quy mô nhỏ, mẫu mã chưa phong phú, chưa đáp ứng
tốt thị hiếu khách tiêu dùng, năng suất thấp, giá trị lao động thủ công trong một đơn vị
sản phẩm còn quá lớn nên giá thành cao, bao bì thẩm mỹ kém, công tác tuyên truyền,
tiếp thị quảng cáo ít được chú trọng, trình độ quản lý của chủ cơ sở còn hạn chế.
Trong các làng nghề thủ công truyền thống (TCTT), làng nghề đúc đồng là một
trong những nhóm ngành có thế mạnh xuất khẩu. Huế là thành phố du lịch nên có thể
tận dụng ưu thế này để xuất khẩu tại chỗ thông qua các cửa hàng bán hàng lưu niệm,
tổ chức các siêu thị hàng TCMN đúc đồng, tổ chức các làng nghề mang tính biểu diễn
thu hút khách du lịch và có thể bán hàng trực tiếp. Thị trường tiêu thụ có điều kiện để
phát triển nhưng sản phẩm hàng lưu niệm tại địa phương lại không phong phú, thua
kém so với các tỉnh khác như Thanh Hóa (làng Trà Đông), Bắc Ninh (làng nghề Đại
Bái)… Đối với thị trường xuất khẩu trực tiếp chúng ta vẫn chưa khai thác được do sản
phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, thua kém trong cạnh tranh
về mẫu mã sản phẩm, giá thành, kinh nghiệm thương trường, chưa có các thương nhân
lớn hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh hàng đúc đồng truyền thống. Trước những vấn
đề trên, yêu cầu được đặt ra là làm thế nào để làng nghề đúc đồng truyền thống
Phường Đúc, Phường Thủy Xuân tồn tại và phát triển trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt
của thị trường mà vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống lâu đời.

Trước những vấn đề trên, yêu cầu được đặt ra là làm thế nào để phát huy tiềm
năng của làng nghề đúc đồng trên địa bàn Thành phố Huế. Đây là yêu cầu vừa cấp
thiết vừa lâu dài cần được nghiên cứu nhằm tìm ra những căn cứ lý luận và thực tiễn
làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển phù hợp. Xuất phát từ đó, tôi đã
chọn đề tài “GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG TRUYỀN
THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ.” làm luận văn thạc sỹ kinh tế của
mình.

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

6


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung về phát triển LNTT. Phân
tích, đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề đúc đồng truyền
thống trên địa bàn Thành phố Huế trong những năm tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận về phát triển LNTT, làng nghề đúc
đồng truyền thống. Tìm hiểu kinh nghiệm của một số tỉnh về phát triển làng nghề đúc
đồng truyền thống.

-


Phân tích thực trạng phát triển làng nghề đúc đồng truyền thống trên địa bàn Thành
phố Huế, tìm ra các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển làng nghề đúc
đồng truyền thống.

-

Đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề đúc đồng truyền thống trên địa bàn tỉnh
Thành phố Huế trong những năm tới.
3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu các cơ sở đúc đồng truyền thống trên địa bàn
Thành phố Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

-

Về nội dung: Do hạn chế về thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển
của làng nghề đúc đồng truyền thống trên địa bàn Thành phố Huế giai đoạn 2013 đến
2015 và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả của làng
nghề đúc đồng truyền thống trong thời gian tới.

-

Về không gian: Nghiên cứu làng nghề đúc đồng truyền thống trên địa bàn Thành phố
Huế.

-

Về thời gian:

+ Đối với số liệu thứ cấp: Đề tài thu thập và phân tích đánh giá thực trạng phát
triển làng nghề đúc đồng truyền thống giai đoạn 2012 – 2015 trên địa bàn Thành phố Huế.
+ Số liệu sơ cấp: Điều tra khảo sát trực tiếp làng nghề đúc đồng và đối tượng
liên quan trên địa bàn Thành phố Huế.
+ Các giải pháp đề xuất áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

7


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu
* Tài liệu thứ cấp: Nguồn tài liệu được thu thập từ niên giám thống kê của
Thành phố Huế từ 2012 - 2014, số liệu từ Phòng Kinh tế Thành phố Huế, Niên
giámcác báo cáo quy hoạch, phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (TTCN)
Thành phố Huế, phát triển làng nghề đúc đồng truyền thống Thành phố Huế, tài liệu từ
các nguồn sách báo, báo điện tử, các báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu khoa
học của nhiều tác giả liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu….
* Tài liệu sơ cấp: Được điều tra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
Những thông tin cần thu thập từ các đơn vị điều tra (mẫu): các yếu tố đầu vào, kết quả
và hiệu quả sản xuất, quy trình sản xuất, lực lượng lao động, trình độ người quản lý,
thị trường tiêu thụ sản phẩm…. được thực hiện theo mẫu soạn sẵn, phỏng vấn trực tiếp
các chủ đơn vị. Công tác nghiên cứu thị trường cũng được tiến hành thông qua các
phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp các đơn vị kinh doanh các mặt hàng đúc đồng
truyền thống, các đơn vị phỏng vấn được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và phân bổ
đều khắp nhiều nơi trên địa bàn Thành phố Huế.

Sau một quá trình nghiên cứu, trao đổi ý kiến với lãnh đạo Phòng Kinh tế
Thành phố Huế, các chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành, các đơn vị đã nhiều năm
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh trong làng nghề đúc đồng truyền thống cũng như sự
quan sát chủ quan của mình, chúng tôi quyết định tập trung điều tra, nghiên cứu làng
nghề đúc đồng truyền thống cụ thể: 50 trong tổng số 61 cơ sở sản xuất.
4.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu, xử lý số liệu
* Phương pháp phân tổ thống kê: Được sử dụng để hệ thống hóa tài liệu điều tra
theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy thuộc vào nội dung và mục đích nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích tài liệu: Sử dụng hệ thống các phương pháp phân tích
định tính và định lượng của các hiện tượng để tìm hiểu bản chất và tính quy luật vốn có;
kết hợp giữa nghiên cứu các hiện tượng số lớn với nghiên cứu hiện tượng cá biệt; sử dụng
kết hợp phương pháp phân tích thống kê, phương pháp phân tích kinh tế và phương pháp
so sánh.
* Số liệu xử lý bằng chương trình SPSS 16 và Excel
Toàn bộ số liệu điều tra, thu thập được tổng hợp, phân tổ thống kê theo các tiêu
thức khác nhau. Xử lý số liệu trên phần mềm SPSS và Excel.
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

8


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

4.3. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập thông tin
từ các nhà nghiên cứu văn hóa, các chuyên gia, chuyên viên, các nhà quản lý nhiều
kinh nghiệm liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, các nghệ nhân, những đơn vị nhiều
năm sản xuất- kinh doanh hàng TCTT nói chung… nhằm có được những luận cứ có

sức thuyết phục về mặt khoa học và thực tiễn để từ đó đề xuất được những giải pháp
phù hợp với thực tế của địa phương và mang tính khả thi.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Nội dung chính gồm 3 chương:
-

Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề đúc đồng truyền

-

thống
Chương 2: Thực tiễn và kinh nghiệm về phát triển làng nghề đúc đồng truyền thống
Chương 3: Định hướng và phát triển chủ yếu nhằm phát triển làng nghề đúc đồng
truyền thống trên địa bàn Thành phố Huế

-

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

9


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn
Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG
NGHỀ, LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG TRUYỀN THỐNG

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÀNG NGHỀ, LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG
TRUYỀN THỐNG
1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề đúc đồng truyền thống
1.1.1.1. Làng
Trong lịch sử hình thành và phát triển, đến nay Việt Nam vẫn là một nước nông
nghiệp. Do vậy, làng, xã có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời sống
của cư dân. Làng, xã Việt Nam phát triển từ lâu đời, gắn bó với nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Làng là một khối dân cư
nông thôn làm thành một đơn vị, có đời sống riêng về nhiều mặt” [1]
Theo tác giả Bùi Xuân Đính: “ Làng là một từ Nôm (từ Việt cổ) dùng để chỉ
đơn vị tụ cư truyền thống của người Việt ở nông thôn, có địa vực riêng (địa giới xác
định); cấu trúc vật chất riêng (đường làng, ngõ xóm, các công trình thờ cúng); cơ cấu
tổ chức, lệ tục, tiếng nói của làng riêng (thể hiện ở âm hay giọng); tính cách riêng,
hoàn chỉnh và tương đối ổn định qua quá trình lịch sử ” [1].
1.1.1.2. Nghề
Theo Từ điển tiếng Việt: “Nghề là công việc làm theo sự phân công lao động
của xã hội hay nghề khái niệm chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh” [2]. Từ khái niệm
trên có thể hiểu, nghề chính là sự chuyên môn hóa về một lĩnh vực nhất định, có thể
sản xuất các sản phẩm theo chất liệu khác nhau và kinh doanh các mặt hàng đó trên thị
trường nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở mọi thời đại.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu hết dân cư sống ở vùng nông thôn đều có
hoạt động thêm một số nghề thủ công với mục đích ban đầu sản xuất ra một số hàng
gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của hộ gia đình mang tính chất tự
cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có. Nhưng qua một quá trình dài
phát triển do có sự khác nhau về tay nghề và kinh nghiệm tích luỹ được ở từng địa
phương nhất định đã có sự chuyên môn hoá và các sản phẩm làm ra bắt đầu đưa ra thị
trường trao đổi như những loại hàng hoá. Đó là quá trình chuyên môn hoá lâu đời và
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

10



Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

các sản phẩm của địa phương đó không những bền đẹp mà có giá thành rẻ nên được xã
hội chấp nhận. Chẳng hạn quê lụa Hà Tây có làng lụa Vạn Phúc nổi tiếng cả trong và
ngoài nước, hoặc nghề rèn ở Đa Sỹ…và Hà Tây nơi có nhiều làng nghề nổi tiếng nên
được thiên hạ đặt tên là “đất của trăm nghề”. Không riêng Hà Tây mà hầu hết các địa
phương trên cả nước ở làng quê nào ngoài sản xuất nông nghiệp đều có làm thêm một
vài nghề phụ. Song vấn đề quan tâm ở đây là những hoạt động ngành nghề nào được
gọi là nghề.
Theo quan điểm chung, các hoạt động sản xuất TTCN ở địa phương nào đó
được gọi là nghề khi nào phải tạo ra được một khối lượng sản phẩm chiếm lĩnh thị
trường thường xuyên và những người sản xuất, hoặc hộ sản xuất đó lấy nghề đang
hành làm nguồn thu chủ yếu thì mới được xem là có nghề.
1.1.1.3. Khái niệm và phân loại làng nghề
Ở làng nghề, mặc dù vẫn có các hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi…) nhưng đã nổi trội một nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ
công có cơ cấu tổ chức, có quy trình công nghệ nhất định, chuyên tâm làm nghề, sống
chủ yếu được bằng nghề đó với những sản phẩm TCMN mang tính hàng hóa. “Làng
nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều
hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ
trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa
và nhỏ, có cùng Tổ nghề, và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hồi
và gia tộc. Sự liên kết hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các
gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử hình thành, phát
triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền
thống của họ” [8]. Theo GS. Trần Quốc Vượng: Làng nghề (như làng gốm Bát Tràng,

Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh…), làng đồng Bưởi, Vó, Hè Nôm, Thiệu Diễn, Phù
Dực, Đa Hội…), là làng ấy tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ
(lợn, gà…), cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…), song
đã nỗi lên một số nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiệp
hay bán chuyên nghiệp, có phường( cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông phó cả… cùng
một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “ sinh ư nghệ,
tử ư nghệ”, “ nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản
xuất ra những hàng thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

11


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh với thị
trường đô thị, thủ đô (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gòn) và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể
xuất khẩu ra cả nước ngoài. Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một
quá khứ tram ngàn năm) “Dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào
ca dao, tục ngữ… trở thành di sản văn hóa dân gian” [3]. Quan niệm nêu trên là nói về
những làng nghề thủ công thuyền thống có từ lâu đời, tồn tại hàng trăm năm nay như
nghề chạm bạc ở làng Đồng Xâm (Thái Bình), nghề gốm làng Bát Tràng, nghề rèn
làng Đa Sỹ quận Hà Đông thủ đô Hà Nội…
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đã xuất hiện các làng nghề mới
có tính hiện đại, trong đó đặc trưng bởi sự phát triển kinh doanh dịch vụ và xây dựng,
kinh doanh đa ngành nghề; đồng thời, do quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
(CNH – HĐH) diễn ra mạnh mẽ ở các làng nghề, trong các làng nghề kỹ thuật và công
nghệ sản xuất không đơn thuần chỉ là kỹ thuật thủ công, mà có nhiều nghề nhiều công

đoạn sản xuất áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại như mộc, gỗ mỹ nghệ Liên Hà,
Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội; thép Trịnh Xá, Châu Kê, Từ Sơn, Bắc Ninh; mộc mỹ
nghệ Dương Sơn, Tam Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh… các làng nghề mới đã xuất hiện,
được hình thành trên cơ sở ươm nghề mới hoặc sự lan tỏa của các làng nghề ra các khu
vực xung quanh.
Theo Dương Bá Phượng, làng nghề là một thiết chế gồm hai bộ phận cấu thành là
“làng” và “nghề”… Là làng ở nông thôn có một (hoặc một số) nghề thủ công nghiệp tách
hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập [5]. Bách khoa toàn thư Việt Nam thì khái
quát: “Làng nghề là những làng sống bằng hoặc chủ yếu nghề thủ công ở nông thôn Việt
Nam” [6].
Theo Thông tư số 116/2006/TT – Bộ NN&PTNT ngày 18/2/2000 về việc:
Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ – CP ngày
07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, định nghĩa: “Làng nghề
là một cụm hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản , làng, buôn, phum, sóc hoặc các
điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông
thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Cũng theo Thông tư trên, “được coi là làng nghề, nếu các hộ gia đình lao động
trong làng làm nghề tối thiểu chiến từ 30% trở lên; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn
định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm công nhận”.
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

12


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

Như vậy, làng nghề là một thiết chế gồm hai yếu tố cấu thành là làng và nghề.
Trong đó nghề trong làng đã tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp thành ngành kinh doanh

độc lập nên đã phù hợp với điều kiện mới. Đồng thời trong cơ cấu kinh tế của làng còn
có các hoạt động phi nông nghiệp khác. Quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất của
làng nghề cũng như sự phân công lao động trong các làng nghề đã làm xuất hiện các
ngành dịch vụ đi kèm, từ đó đã xuất hiện các làng nghề buôn bán dịch vụ. Tuy nhiên,
không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng được gọi là làng nghề. Làng được là làng
nghề khi các hoạt động của ngành nghề phi nông nghiệp đạt đến quy mô nào đó mang
tính ổn định. Vì vậy, khái niệm làng nghề phải thể hiện được cả định tính và định lượng.
Sản phẩm và phương thức sản xuất của các làng nghề khá phong phú với hàng
trăm loại ngành nghề khác nhau. Căn cứ vào tiêu chí, mục tiêu khác nhau mà có những
các phân loại làng nghề khác nhau. Phân loại làng nghề theo số lượng và thời gian làm
nghề gồm có làng một nghề, làng nhiều nghề, LNTT và làng nghề mới.
Quan điểm của Bộ Tài nguyên và Môi trường phân loại làng nghề như sau:
Theo LNTT và làng nghề mới; Theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm; Theo
quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ; Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm; Theo
mức độ sử dụng tài nguyên, nhiên liệu; Theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng
tồn tại và phát triển.
Mỗi cách phân loại trên có những đặc thù riêng và tùy theo mục đích mà có thể
lựa chọn cách phân loại phù hợp. Dựa trên các yếu tố tương đồng về ngành sản xuất,
sản phẩm, thị trường NVL và tiêu thụ sản phẩm thì nước ta gồm 6 nhóm ngành hoạt
động làng nghề.
Một là, làng nghề chế biến thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: Có số lượng
làng nghề lớn, chiểm 20% tổng số làng nghề, với các làng nghề nổi tiếng như nấu
rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ, miếng dong, bún, bánh đậu xanh…
Hai là, làng nghề dệt, nhuộm, ươm tơ, thuộc da: Nhiều làng có từ lâu đời, có
các sản phẩm mang tính lịch sử văn hóa, mang đậm nét địa phương với những sản
phẩm như tơ tằm, thổ cẩm, dệt, may…

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

13



Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn
Bảng 1: Nhóm ngành hoạt động làng nghề

STT
1
2
3
4
5
6

Nhóm làng nghề
Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và
giết mổ
Làng nghề dệt, nhuộm, ươm tơ, thuộc da
Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá
Làng nghề tái chế phế liệu
Làng nghề thủ công mỹ nghệ
Các nhóm ngành khác

Tỷ lệ (%)
20
17
5
4
39

15
Nguồn: [4]

Ba là, làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: Hình thành từ hàng
trăm năm nay, tập trung ở vùng có khả năng cung c nguyên liệu cơ bản cho hoạt động
xây dựng và sản xuất các sản phẩm TCMN.
Bốn là, làng nghề tái chế phế liệu: Chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số
lượng ít, nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế như tái chế chất thải
kim loại, giấy, nhựa, vải.
Năm là, làng nghề TCMN: Chiếm tỷ trọng lớn về số lượng( gần 40% tổng số
làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao,mang đậm nét văn hóa và
đặc điểm địa phương, văn hóa dân tộc, gồm các làng nghề gốm, sánh sứ thủy tinh mỹ
nghệ; chạm khắc đá, chạm mạ bạc vàng, sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn
mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren.
Sáu là, các nhóm ngành khác: Gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như
cày bừa, cuốc xẻng, liềm hái, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng,
đan vó, đan lưới, làm lưỡi câu … Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản
phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất địa phương [4].
Như vậy, các tiêu chí để phân loại làng nghề chỉ mang tính tương đối, đan xen,
bao hàm lẫn nhau, làng nghề TCMN đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với làng nghề
TCTT, làng nghề TCMN là làng nghề TCTT trong đó TCMN là nghề chính hoặc
chiếm ưu thế so với các nghề chủ công khác.
1.1.1.4. Khái niệm và đặc điểm của làng nghề đúc đồng truyền thống
1.1.1.4.1. Khái niệm
Làng nghề đúc đồng truyền thống là một bộ phận quan trọng của LNTT nói
riêng, và của nền kinh tế đất nước nói chung. Trong làng nghề đúc đồng truyền thống
thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc một vài dòng họ chuyên làm
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

14



Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc dạy nghề được thực hiện bằng phương
pháp truyền nghề. Song sự truyền nghề này luôn có sự tiếp thu cải tiến, sáng tạo làm
cho sản phẩm của mình có những nét độc đáo riêng so với sản phẩm của người khác,
làng khác.
Qua khái niệm nghề và làng nghề được trình bày ở trên thì làng nghề đúc đồng
truyền thống trước hết là làng nghề được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, là
nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia đình chuyên
làm nghề đúc đồng truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên luôn ý thức
tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc.
1.1.1.4.2. Đặc điểm của làng nghề đúc đồng truyền thống
+ Tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp
Làng nghề Việt Nam có lịch sử lâu đời, phát triển đa dạng, phong phú, mang
bản sắc văn hóa của làng Việt. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của làng nghề không tách
rời sự phát triển, phong tục, tập quán, văn hóa, tư duy của làng xã nông thôn Việt
Nam.
Các làng nghề đúc đồng truyền thống ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông
nghiệp. Ban đầu, người lao động ở nông thôn do nhu cầu cuộc sống và việc làm đã làm
một số nghề thủ công bên cạnh nghề nông. Khi lực lượng sản xuất phát triển, nghề đúc
đồng tách ra nghề độc lập, vươn lên thành một nghề chính trong làng. Song để đảm bảo
cuộc sống, người dân thường làm thêm nghề nông hay buôn bán và làm thêm nhiều
nghề khác. Sự kết hợp đa nghề thường thể hiện trong một làng hay gia đình. Bởi người
thợ thủ công cũng chính là người làm nông nghiệp. Do vậy, những đặc tính của người
nông dân đều được thể hiện trong đặc tính của người thợ thủ công, mang những nét văn

hóa làng xã.
+ Sản phẩm làng nghề đúc đồng truyền thống có tính mỹ thuật cao, mang đậm
bản sặc văn hóa dân tộc
Các sản phẩm làng nghề đúc đồng truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có
giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật
trang trí trong nhà, đền chùa, công sở Nhà nước.
Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự
sáng tạo nghệ thuật. Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

15


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

trống đồng và các hoạ tiết trên đồ vật đúc đồng đến những nét chấm phá trên các
tượng đồng... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về
văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
+ Làng nghề đúc đồng truyền thống là sản phẩm của tổ chức nông thôn truyền
thống, theo địa bàn cư trú và có tính gia truyền
Làng nghề đúc đồng truyền thống nói riêng và làng nghề Việt Nam nói chung là
kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài người. Làng xã Việt Nam có tổ chức
chặt chẽ. Đó chính là môi trường sống, là tập thể cộng đồng chủ yếu của người Việt
Nam, là kết quả của nền nông nghiệp tự cấp, tự túc, ít nhu cầu trao đổi hàng hóa, nền
sản xuất nông nghiệp không phát triển. Trong các làng nghề đúc đồng truyền thống,
các sản phẩm đúc đồng thường được sản xuất ngay trong làng, thậm chí ngay trong
từng nhà ở những thời kỳ nông nhàn. Nghề đúc đồng trong các làng nghề mang tính
gia truyền, theo hình thức cha truyền con nối. Mô hình đó, đến nay vẫn còn thích hợp

với làng nghề này.
+ Làng nghề đúc đồng truyền thống là một làng nghề đặc trưng của LNTT, ra
đời trên cơ sở kỹ thuật TCTT. Gần đây do tiến bộ khoa học, công nghệ một số công
đoạn được sử dụng máy móc
Ngành nghề đúc đồng truyền thống kết tinh những truyền thống, tinh hoa của
dân tộc, tạo nên đặc thù phản ánh thói quen của nhân dân bao đời nay. Nhưng cho đến
nay chủ yếu vẫn là kỹ thuật thủ công. Trong đó, nổi bật là thói quen sử dụng nguyên
liệu, công cụ lao động, tạo hình, trang trí hình ảnh, màu sắc và thể hiện tính năng, kỹ
xảo trong các thao tác. Sản phẩm đúc đồng truyền thống không phải sản xuất hàng
loạt, mà mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc dân tộc, vừa có
giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ. Sản phẩm nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo
của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân.
Trước kia do trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn
trong qui trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay cùng với sự phát triển của
khoa học - công nghệ, việc ứng dụng khoa học – công nghệ mới vào nhiều công đoạn
trong sản xuất đã giảm bớt được lượng lao động thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số
loại sản phẩm còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ
thuật lao động thủ công tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức
truyền nghề trong các gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

16


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

làng. Sau hoà bình lạp lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã (HTX) làm nghề
TCTT ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dạy nghề đã có nhiều thay đổi,

mang tính đa dạng và phong phú hơn.
1.1.2. Phát triển làng nghề truyền thống
1.1.2.1. Khái niệm phát triển làng nghề truyền thống
Phát triển là sự chuyển biến từ trạng thái thấp sang trạng thái cao hơn, với trình
độ và chất lượng cao hơn. Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền
kinh tế trong một giai đoạn nhất định, bao gồm cả sự tăng lên về lượng và sự thay đổi
tiến bộ về chất. Nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển là một quá trình lâu dài và do các nhân tố
nội tại của nền kinh tế quyết định, khái quát thông qua sự gia tăng của tổng mức thu
nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người, sự biến đổi theo
đúng xu thế của cơ cấu kinh tế và sự biến đổi ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội.
Do vậy, phát triển làng nghề là sự tăng lên về cả số lượng, chất lượng, cơ cấu tổ
chức của làng nghề từ mức độ thấp lên đến mức độ cao thể hiện ở việc mở rộng về quy
mô sản xuất, sự gia tăng về mức đóng góp nhân sách và thu thập bình quân đầu người,
việc đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường làng nghề.
1.1.2.2. Tiêu chí đánh giá phát triển làng nghề truyền thống
Phát triển làng nghề được thể hiện trong Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày
17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ với nội dung “Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam” và chỉ rõ “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo về môi trường”. Phát triển
làng nghề biểu hiện về phát triển số lượng làng nghề, về quy mô làng nghề và cơ cấu
sản phẩm làng nghề dựa trên đặc thủ của từng làng nghề. Đối với làng nghề TCMN,
việc đánh giá sự phát triển thể hiện ở một số nội dung sau: [12]
+ Các tiêu chí về lĩnh vực kinh tế: Quy mô sản xuất (doanh thu bình quân);
trình độ công nghệ; quy mô nguồn nhiên liệu; hoạt động thương mại (các kênh tiêu
thụ); hoạt động du lịch.
+ Các tiêu chí về lĩnh vực xã hội: Số việc làm; hình thức tham gia nghề; thu
nhập của người lao động; đào tạo cho người lao động; an toàn lao động.
+ Các tiêu chí về môi trường: Các chỉ tiêu kỹ thuật; nhận thức của người dân
về ô nhiễm môi trường

Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

17


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

1.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển của làng nghề truyền
thống
1.1.3.1. Sự biến động của thị trường
Sự tồn tại và phát triển của LNTT phụ thuộc rất lớn vào thị trường và sự biến
động của nó. Sản xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự chi phối của quan hệ cung cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi
của nhu cầu thị trường thường có tốc độ phát triển nhanh. Đó là những làng nghề mà
sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới cho phù hợp
với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Điều này được chứng minh ở sư phát
triển mạnh của một số LNTT gốm sứ mỹ nghệ, chạm khắc gỗ, chế biến lương thực thực phẩm, đúc đồng mỹ nghệ. Ngược lại một số làng nghề không phát triển được,
ngày càng mai một, thâm chí có nguy cơ mất đi vì những lý do: Không đáp ứng được
những đòi hỏi khắt khe của thị trường hoặc nhu cầu của thị trường không cần đến
loại sản phẩm đó nữa (như nghề sản xuất giấy dó, vẽ tranh dân gian…) Ví dụ nghề
gốm sứ của Bát Tràng (Hà Nội) phát triển mạnh vì có thị trường tiêu thụ rộng và
tương đối ổn định, không những giữ được nghề mà còn lan tỏa sang các làng khác
tạo thành một vùng nghề gốm sứ, trong khi gốm sứ Đông Triều (Quảng Ninh), gốm
(Hải Dương) lại bị sa sút bởi sản phẩm làm ra vẫn chỉ là những sản phẩm truyền
thống, ít chú ý đến sự thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá cả vì vậy không
đáp ứng được sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường. Như vậy, rõ
ràng thị trường và sự phát triển của thị trường đã tác động mạnh tới phương hướng
phát triển, cách thức tổ chức sản xuất, cơ cấu sản phẩm, và là động lực thúc đẩy sản
xuất của LNTT phát triển. Tuy nhiên, nếu thị trường không ổn định sẽ gây ra những

khó khăn và bấp bênh cho sản xuất.
1.1.3.2. Trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
Công nghệ là nhân tố quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất. Trong các
LNTT bao giờ cũng có thợ cả, nghệ nhân có trình độ tay nghề cao, có kinh nghiệm sản
xuất, tâm huyết với nghề, là những hạt nhân để duy trì những nét độc đáo của làng
nghề, đó là sự khác biệt của các sản phẩm làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, chỉ có kinh nghiệm cổ truyền thôi chưa
đủ mà phải có khoa học công nghệ hiện đại, đó là mặt tiêu cực của yếu tố truyền
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

18


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

thống. Đồng thời những quy định khắt khe, hạn chế trong luật nghề, lệ làng đã làm cản
trở không nhỏ đến việc mở rộng sản xuất-kinh doanh của làng nghề.
Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường ngày càng gay gắt, sản phẩm sản xuất ra
chịu sự cạnh tranh về năng suất, chất lượng, giá cả cùng loại trong nước cũng như
nhập khẩu. Vì vậy, đòi hỏi các sản phẩm phải đa dạng, phong phú hơn, chất lượng
được nâng cao hơn. Để được như vậy, các làng nghề phải không ngừng đổi mới trang
thiết bị, công nghệ tiên tiến và hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, giao lưu thương mại mang tính toàn cầu thì việc
ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ càng có tác động to lớn đến khả năng
cạnh tranh, tăng năng suất lao động và chất lượng của sản phẩm.
1.1.3.3. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống các đường giao thông, điện, cấp thoát nước,
bưu chính viễn thông. Thực tế ngày càng thấy rõ LNTT chỉ có thể phát triển mạnh ở

những nơi có kết cấu hạ tầng đảm bảo và đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều
kiện, tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các cơ sở sản xuất, tạo điều kiện khai
thác và phát huy tiềm năng sẵn có của làng nghề. Sự phát triển của yếu tố này đảm
bảo vận chuyển và cung ứng NVL, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng giao lưu hàng hóa,
đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, đồng thời làm giảm
thiểu ô nhiễm môi trường. Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông đã giúp
các doanh nghiệp nắm bắt thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thởi. Tuy
nhiên, cho đến nay sự phát triển của LNTT vẫn gặp phải không ít khó khăn do ảnh
hưởng của sự yếu kém và thiếu đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng ở đây.
1.1.3.4. Nguồn vốn cho phát triển sản xuất-kinh doanh
Nguồn vốn là nguồn lực quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Để đầu
tư sản xuất, phát triển cơ sở sản xuất, đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ đều cần
đến nguồn vốn. Số lượng vốn do nhu cầu quy mô, đặc điểm sản xuất sản phẩm của
từng ngành nghề. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất-kinh doanh trong các làng nghề
rất nhỏ, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng,
láng giềng nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn rất lớn, đòi hỏi các hộ sản
xuất-kinh doanh trong các làng nghề phải có đủ lượng vốn để đầu tư cải tiến công
nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, nhằm nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng cao
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

19


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

hiệu quả kinh doanh.

1.1.3.5. Nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất
Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất của các LNTT.
Trong những giai đoạn trước đây, gần nguồn NVL được coi là một trong những điều
kiện tạo nên sự hình thành và phát triển của LNTT. Song hiện nay, vấn đề này trở nên
không quan trọng đối với sự phát triển của các làng nghề bởi việc hỗ trợ tích cực của
các phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng,
chất lượng, chủng loại và khoảng cách của các nguồn NVL này vẫn có những ảnh
hưởng nhất định tới chất lượng và giá cả sản phẩm, hàng hóa sản xuất ra. Chất lượng
sản phẩm tốt được bảo đảm, càng thu hút được người tiêu dùng và nâng cao được thị
phần sản phẩm của các làng nghề trên thị trường.
Cho đến nay, nguồn nguyên liệu cung cấp cho một số LNTT vẫn phong phú,
đặc biệt là nguyên liệu cho các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm (riêng nghề
này nguồn nguyên liệu đã giải quyết được từ 95-97% nhu cầu cho sản xuất). Nhưng
đối với nhiều làng nghề thì đây lại là một khó khăn gây nhiều cản trở đến sản xuất, các
nguyên liệu khai thác phục vụ cho các làng nghề này chủ yếu từ môi trường tự nhiên
nên vùng nguyên liệu ngày càng suy giảm (như gỗ …), gây khó khăn cho sản xuất vì
nguyên liệu đang cạn kiệt.
1.1.3.6. Số lượng và trình độ đội ngũ lao động
Tại các làng nghề, những nghệ nhân, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh, thợ lành
nghề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển làng nghề. Họ là
những người truyền nghề, dạy nghề đồng thời là người sáng tao ra các sản phẩm độc
đáo, mang nét riêng của làng nghề. Thực tế để tạo ra được những sản phẩm tinh xảo
thì ngoài năng khiếu bẩm sinh, người lao động cần trải qua một thời gian đào tạo lâu
dài mà nhiều khi họ không đủ kiên nhẫn để theo đuổi đến cùng. Bên cạnh đó, với
phương thức đào tạo theo kiểu nghề truyền thống như hiện nay, những kỹ năng bí
quyết nghề nghiệp nhiều khi chỉ truyền lại cho gia đình. Chính điều này đã làm cho số
lượng thợ cả, nghệ nhân mới ngày càng hạn chế trong khi đó những nghệ nhân cũ
ngày càng mất đi, như vậy những tinh hoa của làng nghề ngày càng bị mai một.
Ngày nay, việc phát triển sản xuất theo hướng hiện đại, hội nhập, tính cạnh
tranh cao đòi hỏi nguồn nhân lực phải có chất lượng cao. Đây chính là yếu tố quan

trọng để đưa làng nghề phát triển và đáp ứng được đòi hỏi của xu thế mới. Trong
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

20


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

các làng nghề, các nghệ nhân, thợ cả có tay nghề cao là những hạt nhân để bảo tồn,
duy trì và phát triển làng nghề. Những nét độc đáo của sản phẩm truyền thống gắn
với đặc trưng văn hóa của từng làng nghề là những giá trị vô hình tạo nên sự tồn tại
phát triển của làng nghề. Khi làng nghề tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì
ngoài kỹ năng, bí quyết riêng của người thợ, sự phát triển của làng nghề đòi hỏi
người sản xuất, nhất là các chủ hộ phải có những kiến thức về kinh doanh như quản
lý sản xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên về trình độ học vấn và năng lực
quản lý của các chủ cơ sở nhìn chung vẫn còn những hạn chế. Vấn đề đào tạo nâng
cao trình độ kỹ thuật và chất lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ chuyên môn
và văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
1.1.3.7. Môi trường trong làng nghề
Môi trường lao động ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý, sức khỏe bệnh tật của
người lao động. Với điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của nước ta, lại cộng
thêm tác động của các yếu tố độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất như hơi khí độc,
cường độ ồn, cường độ rừng, bụi…sẽ có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người lao
động. Trong những điều kiện như thế, người lao động sẽ bị ảnh hưởng về thần kinh, tâm
lý và dẫn đến rối loạn sinh lý, suy giảm sức khỏe, giảm khả năng lao động, tăng ốm đau,
bệnh tật, bệnh nghề nghiệp. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm. Mặt khác, ô nhiễm môi trường lao động cũng sẽ lan tỏa gây ô

nhiễm các khu vực lân cận, ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Việc phát triển các ngành công nghiệp và TTCN ở vùng nông thôn nước ta lại
sử dụng cộng nghệ lạc hậu, trang thiết bị cụ kỹ cũng làm cho vấn đề ô nhiễm môi
trường sống ở làng nghề nông thôn ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ô nhiễm môi
trường do công nghiệp nông thôn tạo ra rất đa dạng, đó là chất thải rắn, khí thải, bụi,
tiếng ồn…
Làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ôn nhiễm làng nghề càng gia tăng, người
lao động trong làng nghề chịu ít nhất là 3 tác động tiêu cực trong môi trường lao động.
Đó là nhiệt độ cao, bụi và tiếng ồn hoặc mặt bằng nhà xưởng. Nếu làm việc trong môi
trường độc hại, nhiều nguy hiểm, người lao động sẽ chịu hậu quả là làm giảm năng
suất lao động, suy giảm về sức khỏe, tăng nguy cơ mắc bệnh tật, điều này sẽ làm tăng
chi phí khám chữa bệnh, giảm thu nhập của người lao động, đồng thời lan tỏa ảnh
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

21


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Vì vậy, môi trường cũng là một
yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề.
1.1.3.8. Truyền thống của làng nghề
Yếu tố truyền thống là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao vị thế và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm truyền thống. Yếu tố truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét
đặc trưng văn hóa của từng làng nghề, của dân tộc, làm cho sản phẩm làng nghề có tính
độc đáo và có giá trị cao. Những người thợ cả, những nghệ nhân, các truyền thống tốt đẹp
là tài sản của quốc gia. Những quy ước và ràng buộc trong các làng nghề, lệ làng đề ra
những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, đòi hỏi người thợ phải sản xuất-kinh doanh một

cách trung thực, bảo đảm chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, do sự thay đổi của nền kinh tế,
sự phát triển của công nghệ khoa học trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhưng
con người có đầu óc kinh doanh năng động, sáng tạo. Điều đó nhiều khi yếu tố truyền
thống, những kinh nghiệm chủ nghĩa lại cản trờ sự phát triển của nền kinh tế nói chung,
của làng nghề nói riêng. Đồng thời những quy định ngặt nghèo, hạn chế trong luật nghề,
lệ làng đã làm cản trở không nhỏ tới việc mở rộng sản xuất-kinh doanh của làng nghề.
Trong điều kiện kinh tế thị trường không thể chỉ có kinh ngiệm mà phải có khoa học công
nghệ kết hợp. Tóm lại, nếu có thể đưa được những tiến bộ của khoa học-công nghệ hiện
đại vào, nhưng vẫn giữ được những yếu tố truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc và
những sản phẩm đó của các làng nghề phải được tiếp nhận trong thị trường của xã hội
hiện đại.
1.1.3.9. Mặt bằng cho sản xuất
Mặt bằng, nhà xưởng đang là vấn đề nóng ở hầu hết các làng nghề. Do lịch sử
phát triển của làng nghề, nên không gian sản xuất gắn liền với không gian sinh hoạt,
cư trú của chủ nhân các cơ sở sản xuất, vì vậy trải qua nhiều thập kỷ, thậm chí hàng
thế kỷ, việc cải tạo cũng như quy hoạch lại mặt bằng nhà xưởng là hết sức khó khăn.
Việc quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề với mặt bằng, nhà xưởng tốt hứa hẹn
sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển làng nghề. Tuy nhiên, việc quy hoạch
và thực hiện giải phóng mặt bằng đang gặp rất nhiều khó khăn và kéo dài nhiều năm.
1.1.3.10. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Các làng nghề TCTT, trên thực tế bao giờ cũng hoạt động trong một môi trường
thể chế. Nói cách khác môi trường thể chế luôn tác động trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh ở các làng nghề. Môi trường thể chế bảo đảm cho làng nghề phát triển
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

22


Đề cương chi tiết


PGS. TS Trịnh Văn Sơn

bền vững, phát huy được giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội các giá trị đạo đức, tín nhiệm
và lương tâm người thợ thông qua chất lượng sản phẩm được làm ra. Môi trường thể
chế gồm quy chế của làng và chính sách pháp luật của nhà nước.
Những quy định nghiêm ngặt trong các làng nghề là biện pháp giữ bí mật và bí
quyết nghề nghiệp của những người thợ trong các làng nghề. Điều đó có tác dụng tích
cực đối với việc duy trì lâu dài hoạt động sản xuất của mỗi làng nghề. Tuy nhiên, sự độc
quyền của các thế hệ thợ thủ công trong mỗi làng nghề như thế đã kìm hãm sự phát triển
của nghề trong phạm vi cả nước. Sau này, khi các trường dạy nghề mở ra, cùng với sự
tiến bộ khoa học công nghệ thì những hạn chế trên thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ trước đổi mới, trong chính sách đổi
với các thành phần kinh tế, chúng ta chỉ tập trung phát triển kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể, không chấp nhận kinh tế tư nhân, cá thể, nên các làng nghề theo nghĩa
là đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành HTX, hoặc các tổ, đội ngành nghề phụ trong
các HTX sản xuất nông nghiệp, làm cho các làng nghề không phát triển được. Từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh
tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển
chính thức thì các làng nghề đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh.
Trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp nông
thôn đã được quan tâm đặc biệt. Đây chính là nội dung cơ bản của quá trình CNH đất
nước nhằm đạt mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm
2020. Chính vì vậy, các chính sách về doanh nghiệp, vốn, thuế, đào tạo nguồn nhân
lực, quản lý thị trường… Là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông thôn
nói chung và làng nghề nước ta nói riêng. Nếu không có các chính sách phát triển hợp
lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với TTCN thì các làng nghề cũng khó có
điều kiện phát triển.
1.1.4. Vai trò của phát triển làng nghề đúc đồng truyền thống
1.1.4.1. Giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống lâu đời, độc đáo của từng địa phương

Giá trị văn hóa của LNTT thể hiện qua sản phẩm, cơ cấu của làng, lối sống,
phong tục tập quán của cộng đồng. Những sản phẩm TCTT hầu hết là những sản phẩm
hàng hóa mang tính nghệ thuật, nó là sản phẩm văn hóa vật thể vừa chứa đựng những
giá trị văn hóa phi vật thể. Những sản phẩm thủ công thể hiện sự ứng xử của con
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

23


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

người trước nguyên liệu, trước thiên nhiên. Từ nguyên liệu thô sơ, qua bàn tay tài hoa,
tâm huyết của người thợ đã thở thành những sản phẩm xinh xắn, duyên dáng vì sản
phẩm là nơi gửi gắm tâm hồn, tài năng, thể hiện khiếu thẩm mỹ lao động, sự thông
minh sáng tạo, tinh thần lao động của người thợ-nghệ nhân. Mỗi làng nghề thực sự là
một địa chỉ văn hóa, phản ánh nét văn hóa độc đáo của từng địa phương, từng vùng.
LNTT từ lâu đã trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu của văn hóa dân gian.
Những giá trị văn hóa chứa đựng trong các LNTT đã tạo nên những nét riêng độc đáo
đa dạng nhưng cũng mang bản sắc chung của văn hóa dân tộc Việt Nam. Làng nghề là
cả một môi trường kinh tế, văn hoá xã hội. Làng nghề là nơi cộng đồng dân cư có lối
sống văn hóa: sống yêu lao động; sống cần cù, giản dị, tiết kiệm; sống ñùm bọc, giúp
nhau cùng rèn luyện tay nghề. Làng nghề là nơi không có đất để văn hóa phẩm độc
hại, các tệ nạn: ma túy, cờ bạc, rượu chè, đua xe… nẩy nở. Phải chăng chính vì lẽ đó
mà nảy sinh nhận thức: làng nghề TCTT chắc chắn sẽ đóng góp tích cực, thiết thực
vào việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
1.1.4.2. Góp phần giải quyết việc làm
Bất chấp sự thừa nhận muộn màng chính thống đối với vai trò, vị trí của nó
trong nền kinh tế hàng hóa, làng nghề TCTT đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng

chục ngàn, trăm ngàn cư dân, đặc biệt là thanh niên. Tại các làng nghề, thanh niên (đa
số là nữ thanh niên) có được "tay nghề", dù tay nghề cao hay thấp thì những người lao
động này cũng thoát khỏi cuộc đời chạy tìm việc lao động phổ thông. Để làm nghề
TCTT, người thợ không cần có nhiều vốn, chỉ cần một ít công cụ thủ công cùng đôi
bàn tay khéo léo và đặc biệt là sự siêng năng cần mẫn. Với điều kiện như thế, khi sản
phẩm nghề thủ công có chỗ đứng trong nền kinh tế hàng hóa, thì làng nghề thu hút
được nhiều lao động.
Làng nghề Việt Nam hàng năm góp phần giải quyết số lượng lớn lao động nông
thôn nhàn rỗi. Lao động ở khu vực nông thôn hiện nay đang chiếm một tỉ lệ rất lớn
trong tổng số lao động của cả nước. Tính mỗi năm có thêm một triệu lao động ở nông
thôn không có việc làm. Trong khi đó hàng năm có khoảng 20 vạn đất sản xuất nông
nghiệp phải chuyển đổi mục đích sử dụng nên tiếp tục có thêm hàng ngàn người lao
động ở nông thôn không có việc làm. Các làng nghề thủ công hoạt động chủ yếu dựa
vào lao động cá nhân, lao động sống thường chiếm tỉ lệ lớn (50%-60%) giá thành sản
phẩm, cho nên việc phát triển LNTT được xem là cơ sở ñể giải quyết việc làm cho
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

24


Đề cương chi tiết

PGS. TS Trịnh Văn Sơn

người lao động. Điều này được thể hiện như sau:
Phát triển làng nghề giải quyết được việc làm tại chỗ cho người lao động, thể
hiện được chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta là xoá đói giảm nghèo, tạo cơ hội
làm giàu ngay tại địa phương.
Phát triển làng nghề sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động dôi dư và lao
động thời vụ tại các địa phương, góp phần làm giảm bớt thời gian lao động nông nhàn

không những ở gia ñình mình làng xóm mình mà còn thu hút lao động ở các địa
phương khác, do đó góp phần giải quyết lao động dư thừa trên diện rộng.
Làng nghề TCTT ngoài việc tạo việc làm cho người tại chỗ, còn cung cấp việc
làm cho một số người làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu, dịch vụ hoàn chỉnh và dịch
vụ tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy làng nghề TCTT đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
một cách hiệu quả theo phương châm "ly nông bất ly hương".
1.1.4.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH
Mục tiêu cơ bản của CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn là tạo ra một cơ cấu
kinh tế mới phù hợp và hiện đại ở nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển
các làng nghề đã có vai trò tích cực trong việc tăng trưởng tỷ trọng của công nghiệp,
TTCN và du lịch dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông nghiệp. Sự phát triển lan toả của
làng nghề đã mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đồng thời nó
còn đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ, độc
canh, mang tính tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, hoặc tiếp nhận công nghệ mới
làng thuần nông.
Sự phát triển của các làng nghề trong những năm qua đã thực sự góp phần thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng cơ cấu ngành
công nghiệp dịch vụ, giảm cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp, góp phần bố trí lực
lượng lao động hợp lý theo hướng "ly nông bất ly hương". Đặc biệt sự phát triển của
những làng nghề mới đã phá thế thuần nông, tạo đà cho công nghiệp phát triển, thúc
đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế ở nông thôn.
Các làng nghề sẽ là cầu nối giữa công nghiệp lớn hiện đại với nông nghiệp phi
tập trung, làm tiền đề xây dựng công nghiệp hiện đại ở nông thôn, là bước trung gian
chuyển từ nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ phân tán lên công nghiệp lớn. Làng nghề sẽ là
điểm thực hiện tốt phân công lao động tại chỗ, là nơi tạo ra sự liên kết công nông nghiệp
có hiệu quả.
Học viên: Nguyễn Thị Hồng Minh_K15B Quản lý kinh tế

25



×