Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Hình tượng rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 67 trang )

Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cb: Chủ biên
SWOT: Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức (strenghts, weaknesses,
opportunities, threats)
PTS: Phó Tiến sĩ
tr: Trang

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: 13 đời vua Nguyễn
Bảng 2: Phân loại đồ ngự dụng có gắn hình tượng Rồng thời nhà Nguyễn

Khóa luận tốt nghiệp

i

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu................................................................................................................2
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về Huế.......................................................................2
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thời nhà Nguyễn...................................................3
2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về con Rồng Việt Nam..............................................4
2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu về con Rồng thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn........5
3. Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................................................7


3.1. Mục tiêu chung...............................................................................................................7
3.2. Mục tiêu cụ thể...............................................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................................7
5. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.........................................................................8
6. Nội dung................................................................................................................................8
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài..................................................................................................9
7.1. Ý nghĩa lý thuyết............................................................................................................9
7.2. Ý nghĩa thực tiễn............................................................................................................9
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.......................................................10
1.1. Thời nhà Nguyễn..............................................................................................................10
1.2. Rồng và hình tượng Rồng................................................................................................13
1.2.1. Quan niệm về biểu tượng..........................................................................................13
1.2.2. Quan niệm về hình tượng..........................................................................................17
1.2.3. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa phương Đông...........................................19
1.2.4. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa Việt Nam..................................................25
1.2.4.1. Nguồn gốc Rồng Việt Nam............................................................................................25
1.2.4.2. Đặc điểm Rồng Việt Nam..............................................................................................26
CHƯƠNG 2. ĐỒ NGỰ DỤNG VÀ HÌNH TƯỢNG RỒNG TRÊN..........................................31
MỘT SỐ ĐỒ NGỰ DỤNG TIÊU BIỂU THỜI NHÀ NGUYỄN..............................................31
2.1. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa thời nhà Nguyễn..............................................31
2.2. Rồng và hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng tiêu biểu thời nhà Nguyễn..............37
2.2.1. Đồ ngự dụng..............................................................................................................38
2.2.2. Phân loại đồ ngự dụng có gắn hình tượng Rồng thời nhà Nguyễn...........................38
2.2.3. Khảo tả hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng tiêu biểu thời nhà Nguyễn........39
2.2.3.1. Hình tượng Rồng trên nhóm đồ ngự dụng dùng trong sinh hoạt thường nhật...............39

Khóa luận tốt nghiệp

ii


Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
2.2.3.2. Hình tượng Rồng trên nhóm đồ ngự dụng dùng trong nghi lễ, tế tự..............................41
2.2.3.3. Hình tượng Rồng trên nhóm đồ ngự dụng dùng trong các trò chơi, thú tiêu khiển.......43
2.3. Tiểu kết.............................................................................................................................44
CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT VÀ THẢO LUẬN...........................................................................47
KẾT LUẬN.................................................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................54

Khóa luận tốt nghiệp

iii

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo truyền thuyết, Rồng là loài vật linh thiêng từ xa xưa của người phương
Đông, được coi là loài thú tượng trưng cho điều tốt lành. Theo quan niệm phương
Đông, Rồng là hình tượng của bản nguyên tích cực và sáng tạo, là sức mạnh của sự
sống. Yếu tố sông nước rất quan trọng với người phương Đông, vì vậy họ đã sáng
tạo Rồng với ý nghĩa đầu tiên là biểu tượng cho nước - sự phong đăng, mùa màng
bội thu. Sau này, trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc phương Đông,
Rồng dần được gán thêm các ý nghĩa mới phù hợp với tính chất của thời đại như
biểu tượng nguồn gốc dân tộc, vương quyền, cao sang, may mắn, thịnh vượng...

Trong văn hóa Việt Nam, Rồng được xem là một hình tượng có vị trí đặc
biệt của dân tộc Việt Nam và đã từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền
thuyết “con Rồng cháu Tiên của người Việt”. Rồng là tượng trưng cho quyền uy
tuyệt đối của các đấng thiên tử của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước
kẻ thù. Rồng là hình tượng của mưa thuận gió hòa, là vật linh đứng vào hàng bậc
nhất trong tứ linh "Long, Lân, Quy, Phụng". Các vương triều Việt Nam đều lấy hình
tượng Rồng là biểu tượng quyền uy. Nếu Rồng thời nhà Lý nhẹ nhàng, thanh thoát,
hiền lành; Rồng thời Trần tượng trưng cho uy quyền, sức mạnh của Thiên tử; Rồng
thời hậu Lê mang dáng vẻ bạc nhược thì Rồng thời Nguyễn lại thể hiện đầy đủ
những “tố chất” của vật biểu tượng cho vua: mạnh mẽ, uy nghiêm nhưng cũng rất
thanh thoát, nhẹ nhàng.
Có thể nói, hình tượng Rồng thời nhà Nguyễn chính thức được khai thác vẻ
đẹp vốn có của nó. Cách thể hiện hình tượng Rồng thời nhà Nguyễn rất đa dạng và
phong phú ở khắp mọi di tích và di vật. Có sự phân biệt rõ ràng về hình tượng Rồng
dùng cho vua chúa, quan lại, cũng như trong các kiến trúc nghệ thuật dân gian.
Đồ ngự dụng là những vật quý giá được chế tác riêng cho vua và hoàng tộc,
thường gắn liền với biểu tượng Rồng mang khá nhiều giá trị thẩm mỹ, thể hiện
được đời sống hoàng tộc, vua chúa nhà Nguyễn xưa. Từ chậu rửa mặt, chén, dĩa, đồ
trà đến ấn tín, kiếm lệnh, cơi trầu, áo quần (Long bào, Hoàng bào, Long Cổn, lễ
phục Xuân Thu…) đều phải là đồ quý nhất đương thời, thường phải bằng vàng bạc,
ngọc, ngà hay những vật liệu quý hiếm khác. Mặc dù những đồ ngự dụng được lưu
Khóa luận tốt nghiệp

1

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
giữ hiện nay không nhiều nhưng nó cũng có tầm quan trọng rất lớn đối với nền văn

hóa, lịch sử Việt và Huế nói riêng, có thể nhìn thấy ở đấy một kho tàng vốn cổ nghệ
thuật tạo hình. Đó thực sự là di sản quý giá của dân tộc.
Trên cơ sở những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Hình tượng Rồng trên
một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn” làm khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Việt
Nam học, chuyên ngành Ngôn ngữ - Văn hóa - Du lịch, niên khóa 2012 - 2016.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về Huế
Có nhiều công trình nghiên cứu, trong đó tiêu biểu nhất là các công trình:
Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), trong cuốn Thuận Hóa Phú Xuân - Thừa Thiên Huế: 700 năm hình thành và phát triển, được xuất bản trên
cơ sở tuyển tập 44 tham luận tại Hội thảo khoa học 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân
- Thừa Thiên Huế năm 2006. Cuốn sách là công trình nghiên cứu của các tác giả tập
trung vào các khía cạnh: Quá trình lịch sử, Kinh tế phát triển, Đổi mới và hội nhập,
Văn hóa và xã hội. Đây là công trình nghiên cứu cơ bản, toàn diện về vùng đất, con
người, lịch sử, văn hóa, xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế xưa và nay.
Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), trong bài viết “Cố đô
Huế xưa và nay”, là công trình nghiên cứu được tập hợp trên cơ sở của rất nhiều
Hội thảo, Hội nghị, các bài trên Tạp chí Huế xưa và nay và các tạp chí khác, nhằm
mục đích giới thiệu các kết quả nghiên cứu, những trao đổi, thảo luận, kiến nghị…
của các tác giả liên quan đến vùng đất, con người, lịch sử, xã hội và văn hóa của
tỉnh Thừa Thiên Huế.
Vương Trí Nhàn (2010), trong cuốn Tạp chí nghiên cứu Huế nghiên cứu về sự
hình thành cũng như chiều dài phát triển của Huế, đã viết trong tập 7 phát hành tháng
7/2010 “Nếu như nét đặc sắc của văn hoá Huế là ở tính chất cung đình, cái vẻ quý tộc
hầu như ẻo lả yếu ớt song lại hiếm hoi của nó thì lịch sử hình thành của Huế lại đi liền
với lịch sử triều Nguyễn, một trong những giai đoạn phát triển rực rỡ nhất mà cũng bi
thảm nhất của xã hội nước ta trước khi bước vào lịch sử hiện đại” [21, tr. 2].
Các tác giả Nguyễn Hữu Thông, Trần Đại Vinh, Lê Văn Sách (1993), trong
cuốn Danh lam xứ Huế đã nhận xét: “Trong không gian một kinh đô thơ mộng, núi
đồi thấp và sông bình lặng, cái đẹp của Huế chỉ là cái đẹp tinh tú, không đồ sộ, khoa
Khóa luận tốt nghiệp


2

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
trương, ngay cả kiến trúc cung đình so với các nước khác vẫn rất khiêm tốn thì chùa
Huế cũng không thể là những chùa đồ sộ” [30, tr. 14].
Tác giả Lê Nguyễn Lưu (2006), với bộ sách Văn hóa Huế xưa bằng những
kết quả nghiên cứu, điền dã và thực tế cảm nhận từ không gian văn hóa của người
dân xứ Huế, tác giả trình bày ba vấn đề thuộc về đời sống văn hóa: Đời sống văn
hóa gia tộc (tập 1), Đời sống văn hóa làng xã (tập 2) và Đời sống văn hóa cung đình
(tập 3 - ảnh). Với văn hóa cung đình Huế, tác giả hệ thống lại những giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể, hệ thống quá trình xây dựng kinh thành Huế suốt 40 năm...
Đây là những tư liệu quan trọng giúp những ai quan tâm đến Huế có được cái nhìn
nghiêm túc theo tinh thần học thuật. Tác giả cũng ghi lại chi tiết những tư liệu cho
thấy đặc danh “Huế” hình thành như thế nào, từ những quan điểm về cách đọc trại
âm từ “hóa” thành “huế”, đến quan điểm kỵ húy, những tư liệu ghi lại sự xuất hiện
từ “Huế” đầu tiên bằng quốc ngữ...
Nhóm tác giả Trung tâm nghiên cứu Quốc học (2005), với Tiếng Huế Người Huế & Văn Hóa Huế là cuốn sách tổng hợp những bài phát biểu, bài nghiên
cứu của nhiều nhà nghiên cứu khoa học và được trình bày tại Diễn đàn khoa học
“TIẾNG HUẾ - NGƯỜI HUẾ - VÀ VĂN HÓA HUẾ” giúp người đọc có được
những suy ngẫm về Huế, khám phá Huế ở chiều sâu, khám phá Huế ở những giá trị
nhân văn về con người Huế - Văn hóa Huế, để từ đó hy vọng một Huế phát triển với
trí tuệ của mình, con người mình. Huế sẽ là và phải là một trung tâm khoa học, văn
hóa, một trung tâm công nghệ cao với những người Huế giàu tiềm năng sáng tạo.
Từ những công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, Huế là đề tài nghiên
cứu xuyên suốt, lâu dài và là mối quan tâm hàng đầu cho những ai yêu Huế và
muốn tìm hiểu về mảnh đất cố đô Huế.

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thời nhà Nguyễn
Trần Thanh Đạm (2008), trong cuốn Góp phần nhận thức về vai trò lịch sử
của vương triều Nguyễn (1802 - 1945), với nội dung rằng nhiều tư liệu đã có hoặc mới
phát hiện đã chứng minh rằng trong nửa thế kỷ XIX, đối với đất nước Việt Nam, nhà
Nguyễn đã làm được không ít việc, và nhiều việc có thể được gọi là những thành tựu. Ví
dụ: Đối với sự nghiệp thống nhất đất nước, dù rằng việc này được khởi đầu từ phong trào
Tây Sơn song việc thống nhất đang còn dở dang, thậm chí cuối thời Tây Sơn cũng đang có

Khóa luận tốt nghiệp

3

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
nguy cơ phân liệt. Chính Nguyễn Ánh đã hoàn thành công việc dở dang này, hoàn thành sự
nghiệp thống nhất, kết thúc tình trạng đất nước chia hai, quy giang sơn về một mối.

Nguyễn Đắc Xuân (2001), với cuốn sách Chín đời chúa mười ba đời vua
Nguyễn đã viết rằng nếu không kể thời gian trị vì ngắn ngủi của nhà Tây Sơn
(1788 - 1801) thì từ khi Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận
Hóa (1558) cho đến ngày vua Bảo Đại thoái vị, dòng họ Nguyễn đã cai trị và trị vì
ngôi báu non 4 thế kỉ với 9 đời chúa và 13 đời vua. Trong 9 đời chúa, nhiều vị có
công, đức độ, nhưng cũng có vị bất tài đưa nhân dân đến tình trạng đói khổ; và
trong 13 đời vua có vị có công thống nhất đất nước, có vị có công xây dựng đất
nước, có ông có công cứu nước, có ông cam tâm bán nước và cũng có ông làm bù
nhìn cho thực dân Pháp.
Phan Huy Lê (2014), bằng tác phẩm Huế & triều Nguyễn đã đề cập đến
thành tựu to lớn của nhà Nguyễn trong suốt thời gian trị vì: Trong thời gian trên ba

thế kỷ từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, thời các Chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn đã để lại một di sản văn hóa khá đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và
phi vật thể cho Huế nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung. Di sản đó một
phần đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam và tất cả đã hòa đồng với toàn bộ di sản
dân tộc, đồng hành với nhân dân, với dân tộc, với cuộc sống hôm nay và mãi mãi về
sau, góp phần tạo ra bản sắc và bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự phát triển bền vững
của đất nước.
Như vậy, các tác phẩm đã giới thiệu cơ bản về nhà Nguyễn trong chiều dài
lịch sử Việt Nam.
2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về con Rồng Việt Nam
Tác giả Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV), với tác phẩm Lĩnh Nam chích quái là
tập truyện dã sử biên soạn vào cuối thời nhà Trần kể về truyền thuyết và nguồn gốc
xa xưa của hình tượng Rồng Việt: “Một hôm, Long Quân nói: Ta là nòi Rồng, đứng
đầu thuỷ tộc, Nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh
ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, khó ở lâu với nhau được, từ nay phải chia ly. Ta
đem năm mươi con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo Nàng về ở trên

Khóa luận tốt nghiệp

4

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên
nhau. Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt nhau mà đi” [24, tr. 43 - 45].
Hoàng Văn Khoán (2013), với cuốn Nguồn gốc con Rồng, đã cho rằng con
Rồng có từ thời Lý và gắn với truyền thuyết về việc nhà vua gặp Rồng vàng bay lên
trong khi đang dời đô từ Hoa Lư ra Đại La: “Con Rồng xuất hiện sớm nhất là con

Rồng thời Lý. Lý Công Uẩn lên làm vua, thấy Hoa Lư chật hẹp bèn quyết định dời
đô về Đại La. Trên đường đi, Lý Thái Tổ thấy một đám mây vàng bay lơ lửng, nhà
vua cho là điềm tốt, bèn đặt tên cho thủ đô mới là Thăng Long. Các nhà mỹ thuật
đương thời sáng tác một con Rồng đang bay theo ý tưởng của vua là Thăng Long Rồng bay lên” [13, tr. 56].
Chu Quang Trứ (2012), hình tượng Rồng cũng được nhắc đến trong cuốn Mỹ
thuật Lý - Trần - Mỹ thuật Phật giáo, dựa vào hình thuyền trên trống và thạp đồng
(nhất là thạp Đào Thịnh) có dáng dấp hình con rắn và con cá sấu để giải thích về
nguồn gốc con Rồng, gợi lên bóng dáng đầu tiên của con Rồng Việt Nam với cái
tên Giao Long.
Theo Nguyễn Văn Hiệu (1983), với cuốn Từ hình tượng thực của con Rồng Việt
Nam đến tên Lạc Long Quân trong tiếng Việt thì Rồng là vật tổ của dân tộc: “Vật tổ của
dân tộc ta là con cá sấu. Lạc Long Quân là cha Rồng của dân tộc ta” [9, tr. 62].
Cùng với những tác phẩm của các tác giả nước ngoài, các nhà nghiên cứu
Việt Nam đã giới thiệu và định hình một cách sơ lược và khái quát nhất về con
Rồng Việt.
2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu về con Rồng thời chúa
Nguyễn và nhà Nguyễn
Tác giả Trần Đức Anh Sơn (2012), trong bài viết “Con Rồng trong mỹ thuật
thời Nguyễn”, in và xuất bản trên Tạp chí xưa và nay, cũng có đề cập đến hình
tượng Rồng trong mỹ thuật thời Nguyễn có sự kế thừa và phát triển những thế hệ
Rồng Việt trước đó, nhưng vẫn có những điểm tương đồng với con Rồng Trung
Hoa thời Thanh (1644 - 1911).
Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh dịch và giới thiệu cuốn Đại Nam Thực Lục
Chính Biên đệ lục kỷ Phụ biên là bộ sử ký do Quốc sử quán triều đình nhà Nguyễn
soạn trong đó nội dung vềtrang phục của chư hầu, hoàng thân, hoàng tử, hoàng tôn
Khóa luận tốt nghiệp

5

Nguyễn Thị Thảo



Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
đều thêu Rồng 4 móng. Khi triều phục của hoàng thái tử đã được quy định, vua
Gia Long bèn ban chỉ dụ cho triều thần: Tất cả gấm, vóc, the, lụa... của nhà Thanh
có thêu Rồng 4 móng đã ban cho nhà vua đang cất chứa trong kho thì đưa ra ban
cấp cho hoàng thân, hoàng tử, hoàng tôn và ban cho vua Vạn Tường (Chân Lạp)
may triều phục.
Tác giả Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm Biền, Chu Quang
Trứ (1992), trong cuốn Mỹ thuật Huế đã đề cập đến hình tượng con Rồng Huế thời
nhà Nguyễn được biểu hiện dưới nhiều tư thế đa dạng phong phú: “Ở Huế, chúng
có mặt trên các nóc kiến trúc, dưới dạng đắp tròn, thường với chất liệu vôi khảm
sành sứ”, “đó là một linh vật phổ biến nhất trong mỹ thuật cung điện Huế. Nhìn
chung chúng có nhiều loại, bằng nhiều chất liệu và nhiều cách thể hiện” [2, tr. 59].
Tác giả Trần Quang Đức (2013), trong tác phẩm Ngàn năm áo mũ - lịch sử
trang phục Việt Nam giai đoạn 1009 - 1945 cũng đã nghiên cứu và khảo tả hình
tượng Rồng trên trang phục của vua ở các triều đại phong kiến Việt Nam trong đó
có triều Nguyễn. Điển hình là chiếc áo Cổn của vua Nguyễn dùng trong lễ tế Nam
giao đã miêu tả như sau: “Áo Cổn may bằng sa mát bóng thuần chỉ, màu thiên
thanh, thêu 6 chương: Nhật, Nguyệt, Tinh Thìn, Sơn, Long, Hoa trùng. Dải thùy lưu
thêu hình Rồng mây, hoặc may bằng sa mát bóng thuần chỉ màu tuyết bạch. Ống tay
áo thêu hình Rồng mây. Cổ áo may bằng đoạn Bát ti bóng màu quan lục. Áo lót
trong may bằng lụa màu trắng thêu hoa văn chữ Á, dải thùy lưu thêu hình Rồng
mây, sóng nước” [6, tr. 280].
Nguyễn Hữu Thông (2001), với cuốn Mỹ thuật Huế - Nhìn từ góc độ ý nghĩa
và biểu tượng trang trí viết về kiệt tác có trang trí hình tượng Rồng: “Ở Huế, hiện
nay còn tồn tại một số công trình mỹ thuật dưới dạng bích họa, những kiệt tác của
dòng hội họa trang trí đầu thế kỷ XX, đó là bức “Long vân khế hội” (Rồng mây gặp
gỡ) với bố cục nhiều con Rồng uốn lượn trong mây của nghệ nhân Phan Văn Tánh.
Đây là một bức tranh trang trí lớn trên phần trần của hai kiến trúc cung Thiên Định

lăng Khải Định và chánh điện chùa Diệu Đế - Bằng kỹ thuật di chuyển trên giàn giá
trong tư thế nằm, tác giả tạo nên cho toàn bộ tác phẩm Rồng mây sự sống động
không ngờ” [29, tr. 32].

Khóa luận tốt nghiệp

6

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Dương Phước Luyến, Lê Văn Sách, Nguyễn Hữu Thông (cb), Mai Khắc
Ứng, Trần Đại Vinh (1992), với tác phẩm Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế: “Con
Rồng Nguyễn ở cung đình và con Rồng Nguyễn ở đình, chùa, miếu mạo, phủ đệ,
nhà cửa ở Huế lại không phải là phiên bản của nhau. Ở các đầu kèo, bậc tam cấp
hay vật dụng, bộ phận trang trí kiến trúc, mỗi nơi con Rồng có một thần thái và nét
sống động riệng, điều này có thể nhìn thấy ngay qua những chi tiết dễ so sánh nhất
như đầu, sừng, vẩy, móng, vuốt” [15, tr. 135].
Có thể thấy, hầu hết các bài viết, tuy đã có các công trình nghiên cứu về
Rồng thời nhà Nguyễn nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tập trung miêu tả đặc điểm tạo
hình, các biến thể, biến thân của hình tượng Rồng trong mỹ thuật mà chưa có công
trình, tác phẩm nào tập trung nghiên cứu về hình tượng Rồng trên đồ ngự dụng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về nguồn gốc, tính chất, đặc điểm, ý nghĩa của
các hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng tiêu biểu thời nhà Nguyễn. Trên cơ
sở đó, khẳng định tính đặc trưng của con Rồng thời nhà Nguyễn so với con Rồng
của các triều đại khác trong lịch sử Việt Nam và có sự đối sánh với lịch sử phong
kiến Trung Hoa.

3.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu một số mục tiêu cụ thể sau:
- Giới thiệu về nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
- Quan niệm về hình tượng Rồng trong văn hóa Phương Đông và trong Văn
hóa Việt Nam.
- Khảo tả, phân biệt, giới thiệu nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa các đồ ngự
dụng tiêu biểu thời nhà Nguyễn.
- Khẳng định tính đặc trưng của Rồng thời nhà Nguyễn trên một số đồ ngự
dụng tiêu biểu so với các triều đại phong kiến trong lich sử Việt Nam và có sự đối
sánh với Rồng Trung Hoa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Một số đồ ngự dụng tiểu biểu dưới thời nhà Nguyễn.
- Phạm vi: Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945), một số đồ ngự dụng tiêu biểu
thời nhà Nguyễn.
Khóa luận tốt nghiệp

7

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
5. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, ngành Việt Nam Học nên
tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Hướng tiếp cận: Đề tài sử dụng hướng tiếp cận liên ngành của Khu vực học
nhằm nhận thức tổng hợp về hình tượng Rồng trên các đồ ngự dụng tiêu biểu thời
nhà Nguyễn.
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là nền
tảng để xem xét, so sánh, đối chiếu các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp logic và phương pháp nghiên cứu của các nghành Lịch sử,
Nhân học, Dân tộc học, Văn hóa học, Biểu tượng học, Kí hiệu học để nghiên cứu
vấn đề trong cái nhìn đồng đại và lịch đại cũng như kết hợp với phương pháp phân
tích SWOT, so sánh, đối chiếu giữa các nguồn tư liệu khác nhau.
+ Phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp với phương pháp nghiên cứu liên
ngành như đối chiếu, thống kê, phân loại, định tính, định lượng… trên cơ sở khảo
sát, khảo tả trực tiếp các đồ ngự dụng cụ thể tại các địa điểm trong phạm vi cho
phép mà sinh viên có khả năng tiếp cận được.
Do các nguồn tài liệu không liên tục và chưa thống nhất được ý kiến, đòi hỏi
phải được xử lý đồng bộ để vận dụng một cách có hiệu quả nên tất cả các phương
pháp trên đều được vận dụng một cách đồng thời, kết hợp với nhau, bổ sung cho
nhau trong quá trình nghiên cứu, khai thác vấn đề, nhằm mục đích tái hiện lại quá
trình phát sinh, phát triển, tồn tại của hình tượng Rồng trên đồ ngự dụng thời nhà
Nguyễn một cách tương đối, mạch lạc và có tính thuyết phục nhất.
6. Nội dung
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo(3
trang), Phụ lục (8 trang), nội dung khóa luận tốt nghiệp được chia thành 3 chương
(38 trang):
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thời nhà Nguyễn
1.2. Rồng và hình tượng Rồng
1.2.1. Quan điểm về biểu tượng

Khóa luận tốt nghiệp

8

Nguyễn Thị Thảo



Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
1.2.2. Quan điểm về hình tượng
1.2.3. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa phương Đông
1.2.4. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa Việt Nam
Chương 2. ĐỒ NGỰ DỤNG VÀ HÌNH TƯỢNG RỒNG TRÊN MỘT SỐ
ĐỒ NGỰ DỤNG TIÊU BIỂU THỜI NHÀ NGUYỄN
2.1. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa thời nhà Nguyễn
2.2. Rồng và hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng tiêu biểu thời nhà
Nguyễn
2.2.1. Đồ ngự dụng
2.2.2. Phân loại đồ ngự dụng có gắn hình tượng Rồng thời nhà Nguyễn
2.2.3. Khảo tả hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng tiêu biểu
2.3. Tiểu kết
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ THẢO LUẬN
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý thuyết
Các kết quả nghiên cứu của khóa luận về hình tượng Rồng trên một số đồ
ngự dụng thời nhà Nguyễn có thể giá trị làm tài liệu tham khảo cho các đề tài có nội
dung liên quan.
Là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về hình tượng
Rồng trên đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài với nội dung “Hình tượng Rồng trên một số đồ
ngự dụng thời nhà Nguyễn” giúp sinh viên chuyên ngành Việt Nam học có kiến
thức chuyên sâu hơn về ý nghĩa của đồ ngự dụng, ý nghĩa hình tượng Rồng và ý
nghĩa của hình tượng Rồng trên đồ ngự dụng của một triều đại phong kiến sử dụng
Nho giáo để cai trị đất nước. Từ đó, Rồng thời nhà Nguyễn được định hình một
cách hoàn thiện về biểu tượng, tái hiện được một phần nào đó đời sống của tầng lớp
vương quyền, đồng thời thấy được những điểm tương đồng và khác biệt của Rồng

thời nhà Nguyễn so với hình tượng Rồng ở các triều đại khác và Rồng Trung Hoa.

Khóa luận tốt nghiệp

9

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Giúp phân biệt được đặc điểm, tính chất của hình tượng Rồng trên đồ ngự
dụng, cho thấy được tầm quan trọng của đồ ngự dụng và hình tượng Rồng trên đồ
ngự dụng đối với nền khoa học, văn hóa, lịch sử của Việt Nam và cả trên thế giới.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thời nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn là triều đại Phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, đã tồn
tại trong suốt hơn 143 năm (1802 - 1845) với 13 đời vua Nguyễn, được tính từ vua
Gia Long - người sáng lập nên triều Nguyễn, đến vua Bảo Đại - vị hoàng đế cuối
cùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi nói đến vương triều Nguyễn, người ta không thể
không nói đến 9 đời chúa Nguyễn - tổ tiên của các vị vua Nguyễn sau này, và cũng
là những người đã có công khai phá, mở mang bờ cõi về phương Nam.
Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), vị chúa đầu tiên - Đoan quận công Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, mở ra một trang sử mới cho vùng đất này. Cùng
với sự phát triển và củng cố quyền lực của họ Nguyễn ở Đàng Trong, mâu thuẫn với
họ Trịnh ở Đàng Ngoài cũng ngày càng gay gắt, gây nên cuộc chiến tranh chia cắt
đất nước trong suốt hơn 200 năm. Bên cạnh đó, công cuộc Nam tiến để mở rộng bờ
cõi cũng được đẩy mạnh. Đến năm 1757, các chúa Nguyễn đã xác lập chủ quyền
trên toàn bộ vùng đất Nam bộ như chúng ta thấy ngày nay.
Cùng với quá trình xây dựng và phát triển chính quyền xứ Đàng Trong, các

chúa Nguyễn đã nhiều lần dời lập thủ phủ từ Ái Tử (1558 - 1570) đến Trà Bát (1570 1600), Dinh Cát (1600 - 1626), Phước Yên (1626 - 1636), Kim Long (1636 - 1687),
Phú Xuân (1687 - 1712), Bác Vọng (1712 - 1738) để rồi trở về dừng chân ở Phú
Xuân một lần nữa (1738 - 1775). Năm 1775, dưới nhiều tác động của bối cảnh chính
trị - xã hội, vị chúa Nguyễn cuối cùng đã để mất Phú Xuân vào tay quân Trịnh, tiếp
đó là sự sụp đổ hoàn toàn trước sức mạnh của quân Tây Sơn cho đến khi một hậu duệ
của họ Nguyễn khôi phục lại cơ đồ, dựng nên vương triều Nguyễn sau này.
Năm 1802, sau khi đánh bại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh - hậu duệ của các
chúa Nguyễn đã thâu tóm giang sơn về một mối, lập nên vương triều Nguyễn, lấy
niên hiệu là Gia Long. Phú Xuân trở thành kinh đô của cả nước trong suốt 143 năm
tồn tại của triều đại này. Kế tục sự nghiệp của ông, lần lượt 12 vị vua Nguyễn sau
đó đã xây dựng Phú Xuân thành trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một

Khóa luận tốt nghiệp

10

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam, phản ánh bước phát triển cao hơn
của lãnh thổ quốc gia, quy tụ được các giá trị văn hóa của cả lãnh thổ rộng lớn.

Khóa luận tốt nghiệp

11

Nguyễn Thị Thảo



Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Bảng 1: 13 đời vua Nguyễn
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Đời Vua Nguyễn
Vua Gia Long
Vua Minh Mạng
Vua Thiệu Trị
Vua Tự Đức
Vua Dục Đức
Vua Hiệp Hòa
Vua Kiến Phúc
Vua Hàm Nghi
Vua Đồng Khánh
Vua Thành Thái
Vua Duy Tân
Vua Khải Định

Vua Bảo Đại

Thời gian trị vì
1802 - 1819
1820 - 1840
1841 - 1847
1848 - 1883
1883, 3 ngày
30.7.1883 - 29.11.1883
2.12.1883 - 31.7.1884
1884 - 1885
1886 - 1888
1889 - 1907
1907 - 1916
1916 - 1925
1926 - 1945

Nhà Nguyễn cũng đã để lại một di sản cực kỳ đồ sộ bao gồm một khối lượng
lớn các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả... Một phần
rất quan trọng nữa là các di sản văn hóa vật thể không những của thời kỳ này mà
của cả thời đại trước đều được bảo tồn, trùng tu vào thời nhà Nguyễn, kể cả những
di sản lâu đời có từ thời Lý đến Hậu Lê như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa
Dâu... nhờ đó vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay.
Cố đô Huế là nơi hội tụ và kết tinh các giá trị văn hóa dân tộc trong một
thời kỳ lịch sử khi mà kinh đô này lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc trở thành
trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội quốc gia với lãnh thổ được xác lập của lãnh
thổ hiện đại trải dài từ Bắc chí Nam, từ đất liền đến hải đảo. Bên cạnh đó, trên
mảnh đất cố đô, nhà Nguyễn đã có công trong việc phát triển giáo dục, văn hóa
với việc lập Quốc Tử Giám, mở các khoa thi Hương và thi Hội nhằm khuyến
khích và đào tạo nhân tài.

Bên cạnh đó, các vua thời nhà Nguyễn còn tích cực khai hoang, phát triển
thủy lợi, hệ thống giao thông thủy bộ cũng phát triển mạnh. Tuy nhiên thì xã hội
không ổn định, trong gần như suốt quãng thời gian trị vì của nhà Nguyễn, khởi
nghĩa nông dân nổ ra liên miên và nhà Nguyễn không thể nào giải quyết nổi.
Cống hiến to lớn nhất của nhà Nguyễn đóng góp cho Huế nói riêng và Việt
Nam nói chung chính là những thành tựu văn hóa mang giá trị nổi bật toàn cầu với
ba di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận, bao gồm hai Di sản Văn hóa Thế

Khóa luận tốt nghiệp

12

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
giới (Quần thể di tích Cố đô Huế và phố cổ Hội An) cùng với Nhã nhạc - Nhạc
cung đình Huế, Di sản Kiệt tác Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.
1.2. Rồng và hình tượng Rồng
1.2.1. Quan niệm về biểu tượng
Trên thực tế, nghiên cứu biểu tượng là một công việc đã được các nhà khoa
học trên thế giới đề cập đến từ lâu thông qua các chuyên ngành khoa học đã ra đời
từ trước Công Nguyên như toán học, triết học, sử học, xã hội học, nghệ thuật học...
Mặc dù các chuyên ngành khoa học nêu trên ít nhiều đều đề cập đến biểu
tượng như một đối tượng nghiên cứu của chúng nhưng chưa có một chuyên ngành
nào thực sự là một chuyên ngành khoa học độc lập nghiên cứu các biểu tượng.
Chuyên ngành đầu tiên đề cập đến các biểu tượng như một chuyên ngành khoa học
độc lập là ký hiệu học (semiotics/semiology) vào đầu thế kỷ XX. Ký hiệu học là bộ
môn nghiên cứu ý nghĩa của các ký hiệu, tín hiệu, biểu tượng, hiện tượng văn hoá…
và hành vi sử dụng chúng. Ký hiệu học giải nghĩa các thành tố văn hoá do con

người tạo ra trong quá trình phát triển của văn hoá như ngôn ngữ, biểu tượng, hoạt
động, hành vi sống… của con người. Các nhà ký hiệu học hiện đại như Claude
Lévi-Strauss, Jacques Lacan, Michel Foucault, Jacques Derrida, Roland Barthes,
Julia Kristeva... đã áp dụng cấu trúc luận dưới góc nhìn ký hiệu học cho nhiều lĩnh
vực như mỹ học, nhân học, tâm lý, truyền thông, ngôn ngữ…
Các biểu tượng có một tính chất đặc thù là luôn biến đổi theo thời gian và
không gian. Hai trong số những đặc tính căn bản nhất của biểu tượng là tính thông
tin và giao tiếp. Nhờ những đặc tính này mà con người ngay từ thời tiền sử đã biết
sử dụng các biểu tượng như một loại ngôn ngữ để giao tiếp khi hệ thống ngôn ngữ
nói và hệ thống chữ viết chưa hoàn thiện. Cho đến thế kỷ XXI, con người vẫn tiếp
tục sử dụng loại ngôn ngữ này trong hầu hết mọi thành tố văn hoá xã hội. Thậm chí,
đã có rất nhiều loại biểu tượng và ngôn ngữ biểu tượng đã trở thành những ngôn
ngữ giao tiếp toàn cầu. Vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ biểu tượng của một tộc người
hay một cộng đồng có tính liên kết cao trong xã hội (chẳng hạn một tôn giáo) cũng
chính là nghiên cứu văn hoá của tộc người hay cộng đồng người đó.
Về mặt thuật ngữ, biểu tượng (symbol trong tiếng Anh) là một từ bắt nguồn
từ ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng
Khóa luận tốt nghiệp

13

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Hy Lạp). Theo Từ điển biểu tượng (Dictionary of Symbols) của C. G. Liungman
thì ông định nghĩa rằngnhững gìđược gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm
người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó.
Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai nghĩa chính là
biểu hình và biểu ý. Ở giai đoạn ban đầu có lẽ ngôn ngữ biểu tượng thường mang

tính đơn giản và ước lệ. Về sau, do sự phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ
biểu tượng ngày càng được mở rộng đến mọi thành tố văn hoá và mọi mặt đời
sống của con người.
Ở góc độ khác, nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn nhân học biểu tượng.
Theo Spencer (1996), trong cuốn Bách khoa thư nhân học văn hoá và xã
hội (Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology), ông định nghĩa nhân học
biểu tượng đề cập đến văn hoá như một thực thể có tính độc lập tương đối, là một
hệ thống ý nghĩa mà qua đó các nhà nhân học muốn tạo ra để giải mã và diễn dịch
các biểu tượng và các nghi lễ trọng tâm.
Des Chene (1998), với cuốn Bách khoa thư nhân học văn hoá (Encyclopedia
of Cultural Anthropology) thì nhân học biểu tượng theo ông chính là khoa học
nghiên cứu ý nghĩa trong đời sống xã hội loài người, bằng cách nào chúng ta tri
nhận và diễn giải những gì diễn ra xung quanh và bằng cách nào chúng ta sáng tạo
và sẻ chia với thế giới hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Nhân học biểu tượng tiếp cận
với một góc nhìn rộng lớn về các biểu tượng, biểu tượng hoá, sự vật và ý nghĩa mà
con người đặt cho với ý nghĩa, sự nhận biết, quá trình giao tiếp.
Nhân học biểu tượng còn được biết đến với một cái tên khác lànhân học
diễn giải (interpretive anthropology) nơi các nhà khoa học ủng hộ việc giải thích
văn hoá thông qua ý nghĩa của các biểu tượng. Quan niệm của các nhà nhân học
theo trường phái này là tiếp cận các “quan điểm tự nhiên” để tìm hiểu tính chất
trừu tượng và đa nghĩa của các biểu tượng. Tại đây các biểu tượng được sáng tạo
và sử dụng trong cộng đồng và trong quá trình giao tiếp của xã hội loài người.
Mỗi biểu tượng đặc trưng thường đại diện cho một ý nghĩa văn hoá riêng nhưng
sự cộng hưởng của chúng lại chính là sự định dạng của đời sống văn hoá thông
qua tính “động” đặc thù của văn hoá. Dưới đây chúng tôi xin lược qua một số

Khóa luận tốt nghiệp

14


Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
quan điểm chính của các nhà lý thuyết nhân học biểu tượng tiêu biểu: Clifford
Geertz, Victor Turner và David Schneide.
Quan điểm của Clifford Geertz coi biểu tượng như một loại phương tiện của
văn hoá, tại đây các biểu tượng chuyển tải ý nghĩa và thông tin mà con người nhìn
thấy, nhận thức và suy nghĩ về thế giới của họ. Theo ông, văn hoá không đóng
khung trong tiềm thức của từng cá nhân đơn lẻ mà bao gồm một tập hợp hệ thống
các biểu tượng thể hiện thế giới quan về nhận thức, đặc tính, giá trị... Trong khi
Victor Turner lại không coi các biểu tượng như những khuôn mẫu có chứa những
đặc tính và nhận thức xã hội mà là một cách điều khiển tiến trình xã hội. Turner căn
cứ vào đó để trả lời các câu hỏi: bản chất thực tế của các biểu tượng là gì? Chúng
ảnh hưởng tới tiến trình xã hội ra sao?... Turner có xu hướng tập trung vào những
vấn đề mâu thuẫn và xung đột nội tại của xã hội. Ông coi các biểu tượng và hành
động biểu tượng có ý nghĩa quan trọng là duy trì và thống nhất xã hội. Schneider lại
tiếp cận nhân học biểu tượng bằng một cách nhìn mang tính “động”. Theo ông, hệ
thống văn hoá được xác định bởi tính lô-gíc nội tại của hệ thống biểu tượng và ý
nghĩa của nó, điều mà ông gọi là hệ thống các biểu tượng, thông qua các biểu tượng
trọng tâm (core symbols). Hệ thống này có tác dụng thông tin và đưa ra những hình
mẫu, quy tắc căn bản của hành vi ứng xử.
Qua cách nhìn của Geertz, Turner và Schneider ở trên, chúng ta có thể nhận
thấy một đặc điểm chung xuyên suốt trong lý thuyết của họ là sự diễn giải những
đặc tính của văn hoá thông qua các biểu tượng được hình thành trong xã hội loài
người. Nói cách khác, hệ thống lý thuyết nhân học biểu tượng hướng tới một mục
tiêu chung: nghiên cứu các biểu tượng văn hoá bằng công cụ của nhân học. Có thể
thấy rằng, nghiên cứu các biểu tượng văn hoá không chỉ giúp chúng ta tiếp cận
được với những thành tố cụ thể của văn hoá và ý nghĩa biểu đạt của chúng mà còn
có thể tiếp cận được với quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Qua

đây chúng ta cũng có thể xác định được những bộ phận cấu thành của nhân học biểu
tượng dựa trên ba đối tượng chính là con người, xã hội và văn hoá. Đây cũng chính
là những trọng tâm mà những người làm công tác nghiên cứu văn hoá thường xuyên
phải tiếp xúc. Vì vậy, có thể nói rằng lý thuyết nhân học biểu tượng trong nhân học
cũng chính là một phần quan trọng của các lý thuyết nghiên cứu văn hoá.
Khóa luận tốt nghiệp

15

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Biểu tượng trong tiếng Việt là một từ gốc Hán được dùng khá trừu tượng.
Theo Hoàng Phê (1998), trong cuốn Từ điển Tiếng Việt biểu tượng có hai nghĩa,
nghĩa thứ nhất là: “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là: “hình thức của nhận
thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác
động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt” [22, tr. 26].
Trên thực tế, các biểu tượng đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống của con
người ở mọi nền văn minh. Theo tiến trình phát triển của văn hoá, các biểu tượng
ngày càng mở rộng thêm về số lượng cũng như ý nghĩa, đồng thời, quá trình giao
thoa văn hoá cũng đã tiếp nhận thêm ngày càng nhiều các biểu tượng mới từ các
nền văn hoá bản địa lân cận và du nhập... Đối với Việt Nam, tính chất phức tạp của
các biểu tượng cộng thêm sự đa dạng của văn hoá bản địa và sự giao thoa với các
yếu tố văn hoá du nhập đã khiến cho ý nghĩa của các biểu tượng càng trở nên phức
tạp. Trong quá trình nghiên cứu văn hoá Việt Nam, hầu hết các nhà khoa học đều
tiếp cận nghiên cứu biểu tượng một cách “bán chính thức” thông qua phương pháp
luận của các chuyên ngành khoa học khác như văn học, nghệ thuật học, dân tộc học,
xã hội học… Ký hiệu học tuy đã được hình thành trên thế giới hàng trăm năm qua
nhưng ở Việt Nam nó rất ít được nhắc tới. Ở Việt Nam, chuyên ngành ký hiệu học

cho tới nay vẫn chưa được thành lập, nhưng một phân ngành của ký hiệu học làKý
hiệu học văn hoá đã được cấp phép đào tạo từ năm 2009.
Từ sau giai đoạn hội nhập với văn hoá phương Tây, khoa học nói chung và
ngành khoa học xã hội ở Việt Nam nói riêng đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều
trào lưu khoa học của thế giới đã được tiếp nhận, nhiều hệ thống lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu được du nhập… Nhờ đó, cách tiếp cận đối với các vấn đề
khoa học hoặc các đối tượng nghiên cứu đã được mở rộng hơn rất nhiều. Một số
nghiên cứu về các biểu tượng văn hoá thông qua dân tộc học, nghệ thuật học… đã
được các nhà khoa học Việt Nam áp dụng với những kết quả khả quan. Nổi bật
trong số các nhà khoa học này là Từ Chi với các công trình nghiên cứu về hoa văn
cạp váy của người Mường. Thông qua đối tượng nghiên cứu này, Từ Chi (1974) đã
tìm được những mối quan hệ cội nguồn giữa người Việt với người Mường trong
không gian văn hoá Đông Sơn. Gần đây, một công trình của Tạ Đức xuất bản năm
1999 đã tập hợp một cách khá đầy đủ các dữ liệu về hệ biểu tượng kiến trúc và ngôn
Khóa luận tốt nghiệp

16

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
ngữ Đông Sơn. Từ đó tác giả đã cho thấy mối quan hệ giữa các tộc người thông qua
các biểu tượng trong ngôn ngữ và kiến trúc. Ngoài ra còn có khá nhiều những cuốn
sách và bài viết đề cập đến các biểu tượng theo cảm nhận riêng của từng ngành,
từng người. Tuy nhiên, nghiên cứu văn hoá dưới góc nhìn nhân học biểu tượng nói
riêng và một góc nhìn rộng hơn từ khoa học nghiên cứu biểu tượng nói chung vẫn
cần có sự quan tâm nhiều hơn của các nhà khoa học cũng như các cơ quan quản lý.
Nghiên cứu các biểu tượng là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp, nó
đòi hỏi người nghiên cứu phải có cách tiếp cận vừa cụ thể lại vừa bao quát theo cả hai

chiều đồng đại và lịch đại. Nghiên cứu các biểu tượng có thể được coi là một trong
những cách tiếp cận cụ thể nhất đối với văn hóa vì biểu tượng chính là sự kết tinh các
giá trị văn hóa được con người tạo nên. Ở một phương diện khác, văn hoá lại chính là
tập hợp của một hệ thống các biểu tượng do con người tạo ra. Và như vậy, biểu tượng
chính là đối tượng để con người thể hiện bản sắc văn hoá thông qua nhân sinh quan
và thế giới quan của họ. Biểu tượng là một sản phẩm văn hóa được hình thành một
cách tự nhiên trong “hành trình văn hóa” của loài người. Tuy nhiên, khi nền văn minh
của nhân loại càng phát triển thì những thành tố văn hóa đó càng trở nên phức tạp. Vì
vậy, khoa học hiện đại đã phân chia các cách tiếp cận đối với biểu tượng thành những
ngành hoặc nhóm ngành nghiên cứu khác nhau. Với tốc độ phát triển của khoa học
hiện nay thì sẽ ngày càng có thêm nhiều ngành khoa học mới ra đời để đáp ứng và
thích nghi với nhu cầu ngày càng cao của con người. Vì vậy, việc nghiên cứu các
biểu tượng rất cần có một cái nhìn tổng thể không chỉ với các đối tượng nghiên cứu
mà còn phải bao quát tới các ngành khoa học có liên quan.
1.2.2. Quan niệm về hình tượng
Hình tượng là một lĩnh vực được bao hàm trong phạm trù rộng hơn là biểu tượng.
Theo học thuật Nga thì khái niệm hình tượng “obraz” rất đa nghĩa và phân
hóa về phạm vi sử dụng, nhưng nhấn mạnh ước lệ nghệ thuật. Còn theo mỹ học
Anh - Mỹ thì thuật ngữ này (image) có nghĩa hẹp và chuyên sâu hơn (không có
“image” của thời gian và con người, chỉ có “image” của chi tiết, tình tiết, sự vật mô
tả hoặc “image” như 1 ẩn dụ).
Ở Việt Nam, trong tư tưởng mỹ học từ thế kỷ 19 trở về trước không thấy đề
xuất phạm trù “hình tượng”. Lý luận về hình tượng nghệ thuật chỉ mới được tiếp
Khóa luận tốt nghiệp

17

Nguyễn Thị Thảo



Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
nhận vào giữa thế kỷ XX, chủ yếu từ mỹ học châu Âu, mà trước hết là của học thuật
Nga - Xô Viết.
Như chúng ta đã biết, nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm để nhận thức và cắt nghĩa
đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, giúp con người thế nghiệm ý vị
của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ của bản thân
và thế giới xung quanh. Nhưng khác với các nhà khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt
trực tiếp ý nghĩ và tình cảm bằng khái niệm trừu tượng, bằng định lý hay công thức
cụ thể mà bằng hình tượng, nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi
cảm những sự việc, những hình tượng đang làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận,
về tình đời, tình người qua một chất liệu cụ thể.
Theo Nguyễn Phan Cảnh (2006), trong cuốn Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học,
Hà Nội định nghĩa về hình tượng nghệ thuật như là bức tranh sinh động nhất của
cuộc sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng tượng, óc sáng tạo và
cách đánh giá của nhà nghệ.
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt thì khái niệm hình tượng được giải thích là
những hình ảnh dùng trong nghệ thuật để diễn tả sự phản ánh hiện thực.
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì hình tượng nghệ thuật được định
nghĩa đó chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng
sáng tạo trong những tác phầm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm
quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có
thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong
cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận. Hình tượng có thể tồn tại
qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó là phương diện tinh thần.
Theo nguồn từ điển điện tử vi.wiktionary.org thì hình tượng là sự phản ánh
hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ
thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính.
Hình tượng nghệ thuật có những đặc điểm riêng của nó và thường phản ánh
một hình ảnh, một hiện tượng cụ thể trong thế giới khách quan. Hình tượng nghệ
thuật là kết quả của hoạt động tưởng tượng nhằm tạo ra một thế giới ứng với

những nhu cầu và định hướng của con người. Mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng
một loại chất liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của hội họa là
Khóa luận tốt nghiệp

18

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
đường nét, màu sắc. Của kiến trúc là mảng khối, của âm nhạc là giai điệu và âm
thanh, của văn học là ngôn từ. Chính vì thế, cùng một đối tượng thuộc thực thể
khách quan, khi đi vào các lĩnh vực nghệ thuật khác nhau thì hình tượng của nó lại
mang những vẻ đẹp khác nhau.
Tóm lại có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hình tượng nghệ thuật, và nó đã
và đang là đề tài mới và xuyên suốt trong quá trình tìm tòi, phân tích và làm rõ của
các nhà nghiên cứu đương đại.
1.2.3. Rồng và hình tượng Rồng trong văn hóa phương Đông
Rồng là một biểu tượng văn hóa có độ phổ biến vào loại cao nhất thế giới.
Rồng ra đời ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người. Con Rồng trong quan
niệm của người phương Tây lẫn phương Đông đều xem là con vật mang nhiều
huyền thoại truyền thuyết nhất. Dưới ảnh hưởng của những yếu tố như môi trường,
loại hình sinh hoạt kinh tế, truyền thống văn hóa… con người phát họa nên hình
tượng Rồng với nhiều dáng dấp, đặc điểm qua trí tưởng tượng phong phú của con
người. Phong phú đến mức con Rồng không chỉ khác nhau trong quan niệm của
nhiều dân tộc, ở những không gian cư trú cách biệt, mà còn biến đổi hình tượng
ngay trong lòng mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng theo từng thời đại.
Nếu như ở phương Tây, họ xem Rồng là một điều xui xẻo, nguy hiểm, độc
ác, và tìm cách để chế ngự nó thì ở phương Đông, Rồng là biểu tượng của bản
nguyên tích cực và sáng tạo, là sức mạnh của sức sống vĩnh hằng và thịnh vượng và

họ luôn tìm cách để dung hòa nó. Nguồn gốc sâu xa của biểu tượng này là do điều
kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) qui định. Môi trường
sống của các cộng đồng cư dân ở phương Đông là xứ nóng, mưa nhiều, tạo nên
những vùng đồng bằng nằm trong các lưu vực các con sông lớn. Yếu tố sông nước
quan trọng với người phương Đông, vì vậy họ đã sáng tạo Rồng với ý nghĩa đầu
tiên là biểu tượng cho nước - sự phong đăng, mùa màng bội thu. Cả hai mặt hoạt
động có lợi cũng như phá hoại của nước đều được xem là do Rồng thúc đẩy. Cũng
chẳng có gì là lạ khi những vị thần đầu tiên trong tín ngưỡng xa xưa của phương
Đông là những vị thần có liên quan đến nước. Mùa màng bội thu hay không là phụ
thuộc vào yếu tố nước. Do đấy, thần nước cũng chính là thần Rồng.

Khóa luận tốt nghiệp

19

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
Sự mô tả con Rồng trong văn hóa phương Đông như là một loài bò sát với thân
hình uốn lượn; đầu được cấu thành bởi những phần đầu của các con vật khác nhau;
răng Rồng mang đặc trưng của động vật ăn thịt có vú và chân Rồng mang hình ảnh của
loài chim. Trong 369 loài bò sát có vảy chẵng hạn như cá, rắn, thằn lằn... Rồng cũng
được xếp vào đầu tiên và được xem là loài linh vật có sức mạnh hơn cả.
Theo Ernest Ingersoll: Khái niệm nằm trong chữ "Rồng" có từ lúc bắt đầu
những suy nghĩ được ghi lại của con người về những điều bí ẩn của nhà tư tưởng và
thế giới của anh ta. Nó gắn liền với những quyền lực và hành động của các vị thần
đầu tiên, và giống như những quyền lực cùng hành động đó, nó mơ hồ, dễ thay đổi
và mâu thuẫn trong các thuộc tính của nó, chỉ duy trì từ đầu đến cuối một đặc điểm
có thể xác định - kết hợp với nước và kiểm soát nước.

Sau này, trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc phương Đông,
Rồng dần được gán thêm các ý nghĩa mới phù hợp với tính chất của thời đại như
biểu tượng nguồn gốc dân tộc, vương quyền, cao sang, may mắn, thịnh vượng...
Ở Trung Hoa xưa, người ta xem Rồng là tinh linh núi, là thần linh bảo hộ năm
vùng, nghĩa là bốn phương và vùng trung tâm, là kẻ bảo vệ năm hồ bốn biển (có
nghĩa là mọi hồ, mọi biển). Về khả năng của Rồng, trong dân gian Trung Hoa có rất
nhiều truyền thuyết cho rằng Rồng có khả năng hô gió gọi mưa, có thể đội sông lật
bể, gọi mây che mặt trời. Họ quan niệm rằng con Rồng có thể thu mình bé nhỏ như
một con dâu tằm, hay phình lớn đầy cả không gian trời đất với khát vọng trèo lên, trổi
cao, thách thức với mây trời và lặn xuống đáy cùng độ sâu. Không ít nơi ở Trung
Quốc, người ta quan niệm Rồng ăn thịt chim én, chính vì lý do này, khi cầu nguyện
để được mưa, họ đã ném những con chim én vào trong nước.
Đối với người Nhật, con Rồng là chủ yếu trong những vật lý tưởng ở Nhật
Bản. Người Nhật đã phân biệt 4 loại Rồng: Loại sống trên trời, loại gây mưa, loại
sống trên cạn và dưới nước, loại sống trong lòng đất.
Đối với người Triều Tiên, Rồng là một trong bốn con vật siêu tự nhiên có
phép lạ. Nó là hiện thân của mọi sức di động, thay đổi và năng lực để tiến công. Về
mùa xuân, nó bay lên trời, và về mùa thu nó náu mình dưới đáy nước sâu. Ngày xưa
người Triều Tiên tin là các sông suối cũng như các đại dương bao quanh Triều Tiên
là nơi ở của một con Rồng, và người dân thường cứ đúng kỳ lại thờ cúng quyền lực
Khóa luận tốt nghiệp

20

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
này. Sự quan trọng của việc biểu lộ niềm tôn kính hình thức lớn đến thế với Rồng là
do Rồng kiểm soát mưa và cần được người ta làm cho vui vẻ để cho mùa màng khỏi

bị nguy hiểm vì mưa không đủ, hơn nữa nó có khả năng làm phiền nhiễu nhiều cho
những người chèo thuyền và những thủy thủ ở biển khơi trừ khi nó được người ta
làm cho dịu lòng một cách thích đáng. Do đó, không những các người dân nông
thôn và người làm ruộng ở nông trại, mà cả chủ tàu bè muốn có thời tiết thuận lợi
để đi xa, đều làm lễ cầu an, không những các chiến thuyền lớn, mà cả các thuyền
chở hàng hóa, thuyền đánh cá, đò, phà... đều mỗi loại làm một thứ lễ riêng để đảm
bảo an toàn. Lễ đó được coi như một thứ cống nộp cho thần nước.
Đối với người Việt Nam, trong ký ức dân gian thần mưa và thần nước mang
hình hài một con Rồng to thường xuyên ra biển Đông hút nước mang vào đất liền
tưới tắm cho đất đai. Rồng là nguồn nước tưới cho ruộng đồng tốt tươi và giúp nhà
nông hình thành kinh nghiệm dân gian:
“Rồng đen lấy nước thì nắng
Rồng trắng lấy nước thì mưa”.
Được xem là vua của tạo sinh động vật, nên dễ hiểu Rồng là biểu tượng của
điềm lành, sự may mắn và tốt đẹp đối với phương Đông. Trong truyền thuyết, thần
thoại của phương Đông, dù cốt truyện có khác nhau nhưng Rồng bao giờ cũng ẩn
chứa ý nghĩa là một biểu tượng cho sự cao quý tốt đẹp. Đối với một số quốc gia
phương Đông, Rồng còn là biểu tượng cho nguồn gốc dân tộc.
Đối với phương Đông, Rồng được xem là con vật nằm trong cung hoàng
đạo, đứng thứ 5 trong số 12 con giáp. Nó là biểu tượng của phương Đông, của mùa
xuân. Rồng hiện diện trong nhiều loại hình nghệ thuật như trong múa, kịch; trang trí
trên điêu khắc, kiến trúc... Múa Rồng là một sinh hoạt văn hóa truyền thống của
phương Đông, nhất là ở các vùng nông nghiệp trồng lúa nước. Hầu hết các quốc gia
phương Đông đều có điệu múa Rồng vào các ngày lễ Tết cổ truyền. Rồng mang
màu sắc rực rỡ, uốn lượn theo nhịp trống rộn rã tạo không khí hội hè, biểu thị niềm
vui sướng, hạnh phúc cho tất cả mọi người, cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa
màng bội thu... Ngày đầu năm mới ở Inđônêxia, một đoàn người trẻ tuổi đội lốt
Rồng bằng giấy nhảy múa trên đường, trong khi những người dân đổ dồn ra ở các
cửa sổ dâng lên Rồng những mớ rau cải xanh mà nó nhai ngốn trong niềm vui lớn
Khóa luận tốt nghiệp


21

Nguyễn Thị Thảo


Hình tượng Rồng trên một số đồ ngự dụng thời nhà Nguyễn
của mọi người. Bộ phận người Inđônêxia ở Hà Lan vẫn duy trì nghi lễ hàng năm
này trên các đường phố Amsterdam.
Quan niệm Rồng là cao quý, tốt đẹp đã dẫn đến ở phương Đông thời kỳ xa
xưa có nơi người ta coi những xương hóa thạch từ lâu là bộ xương cũ kỹ của những
con Rồng và đã sử dụng chúng như một dược liệu để chữa bệnh.
Cho đến ngày nay, theo thói quen khi nói về các quốc gia phát triển với ý
nghĩa khen ngợi người ta vẫn sử dụng chữ "Rồng", chẳng hạn: Nhật Bản, Singapo,
Đài Loan... được gọi là những con Rồng châu Á, hàm ý chỉ về khả năng tiềm ẩn, sự
vượt trội...
Nhìn chung, Rồng mang ý nghĩa tốt lành ở phương Đông, tuy nhiên đôi khi
cũng có những trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn với người Nhật, Rồng bên cạnh ý
nghĩa nguồn nước, mùa màng phong đăng, thì còn là biểu hiện của cái xấu. Thần
Fudô khuất phục một con Rồng chính là đã thắng sự ngu dốt và tối tăm. Đó là biểu
hiện về sự pha trộn, ảnh hưởng của biểu tượng Rồng phương Tây với biểu tượng
Rồng phương Đông.
Về hình dạng, Rồng phương Đông là sự hỗn hợp của nhiều loài động vật
khác nhau: Đầu lạc đà, sừng của hươu, tai của bò, mắt của thỏ, mình rắn phủ đầy
vẩy cá, vẩy theo hàng xương Rồng cho tới quanh mồm, đuôi rắn tận cùng bằng vây
sắc nhọn, chân phối hợp giữa chân hổ và gót móng chim ưng, phần phụ ở vai và
háng như những tia lửa, hơi thở của Rồng bao gồm mây và nước. Số móng của
Rồng bình thường có bốn hàng, riêng Rồng của nhà vua thì có năm hàng. Tuy
nhiên, mỗi dân tộc lại có sự sáng tạo riêng của mình trong đề tài Rồng. Chẳng
hạn, mô típ Cửu Long của Trung Hoa là dựa theo truyền thuyết Chín Rồng giỡn

nước. Tương truyền kể rằng thời xa xưa việc làm mưa gió là do một con Rồng điều
khiển. Nhưng nó không có cách nào để làm cho nơi nơi đều mưa thuận gió hòa.
Rồng tâu với Ngọc Hoàng cử thêm mấy con Rồng nữa để cùng nó điều khiển gió
mưa. Ngọc Hoàng chuẩn tấu, sai tám con Rồng nữa xuống hạ giới và phong cho con
Rồng ấy làm đầu đàn. Nhân dân khắp nơi vui mừng đón tiếp. Chín con Rồng ăn
uống thoả thích, say túy lúy, hăng hái làm gió mưa khiến khắp nơi lụt lội, nhấn
chìm làng mạc. Rồi chín con Rồng rủ nhau bay lên núi cao, rừng sâu ngủ một giấc
dài. Khi nạn lụt qua đi, vào vụ mùa, người dân cầu có mưa thì chẳng được, kéo dài
Khóa luận tốt nghiệp

22

Nguyễn Thị Thảo


×