Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

QUẢN lý rủi RO tại cục hải QUAN TỈNH QUẢNG BỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG THỊ HẢI YẾN

QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH
QUẢNG BỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH SẢN

THỪA THIÊN HUẾ – NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Minh Sản, Phó khoa Sau đại học, Học
viện Hành chính Quốc gia.
Tất cả các số liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày
tháng
Học viên



Đặng Thị Hải Yến

năm



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vòng gần 20 năm trở lại đây, trong hoạt động của cơ quan hải quan
các nước trên thế giới xuất hiện một số cụm từ mới: “quản lý rủi ro”, “tiền kiểm,
hậu kiểm” hoặc “kiểm tra sau thông quan”. Những thuật ngữ này, tuy ngắn gọn,
nhưng chứa đựng những nội dung hết sức quan trọng trong tiến trình đổi mới, hiện
đại hóa của bất kỳ cơ quan hải quan hiện đại nào nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng với quốc tế
trên tất cả các lĩnh vực, kèm theo đó là sự gia tăng các dòng hàng hóa, hành khách
và phương tiện vận tải qua lại biên giới. Trong bối cảnh đó, việc áp dụng biện pháp
quản lý mới chuyển từ quản lý truyền thống dựa trên hoạt động kiểm tra từng lô
hàng hóa để thông quan sang phương pháp quản lý tiên tiến dựa trên kỹ thuật quản
lý rủi ro, tức là trên cơ sở thu thập, phân tích, xử lý thông tin để quyết định thông
quan, cùng với việc sử dụng các giải pháp nghiệp vụ kỹ thuật trong áp dụng quản lý
rủi ro, kiểm soát, thu thập thông tin, đã trở thành yêu cầu tất yếu khách quan.
Quản lý rủi ro là phương tiện hữu hiệu để đảm bảo cùng lúc thực hiện công
tác kiểm soát hải quan và tạo thuận lợi cho thương mại. Nhờ vào việc lựa chọn hàng
hóa và hành khách trọng điểm để kiểm tra, quá trình thông quan và giải phóng hàng
được diễn ra nhanh chóng hơn. Quá trình làm thủ tục hải quan cho các lô hàng,
hành khách và phương tiện vận tải được xác định có độ rủi ro thấp sẽ ít bị cơ quan
hải quan can thiệp và vì vậy, thủ tục sẽ được làm nhanh chóng, thuận lợi hơn.
Để tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ chung đã được BTC và TCHQ giao,

đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa hải quan, Cục Hải quan tỉnh
Quảng Bình, phấn đấu giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa xuống dưới 7% vào năm
2020 (theo Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết
định số 448/QĐ-TTg), công tác quản lý rủi ro cần tiếp tục được cũng cố, hoàn thiện
một cách toàn diện vào hoạt động của đơn vị nhằm đảm bảo sự gắn kết giữa các

1


hoạt động nghiệp vụ, tạo ra sự “cân bằng giữa tạo thuận lợi và kiểm soát”, nâng cao
năng lực quản lý của Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình theo định hướng phát triển bền
vững.
Xác định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan là yêu cầu cấp
bách, có tính thời sự, phù hợp với thực tiễn cũng như tiến trình cải cách, phát triển,
hiện đại hoá của ngành Hải quan nói chung và Cục HQ tỉnh Quảng Bình nói riêng,
đề tài: “Quản lý rủi ro tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình” được thực hiện không
ngoài mục đích trên và tác giả hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp để vấn
đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan như:
- Luận văn thạc sĩ với đề tài "Quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan" của
Nguyễn Tường Linh, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2005;
- Luận văn thạc sĩ với đề tài "Quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải
quan" của Nguyễn Hữu Mẫn, Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2013;
- Đề tài cấp Bộ "Dự án hiện đại hóa Hải quan, phương án quản lý thương
mại và cửa khẩu, chiến lược thực thi và phòng ngừa, chính sách quản lý rủi ro" của
Bộ Tài chính, năm 2005;
- Đề án cấp Bộ: “Tăng cường năng lực quản lý rủi ro của ngành Hải quan

giai đoạn 2013-2015, tầm nhìn 2020” của Bộ Tài chính, năm 2013;
- Báo cáo nghiên cứu khả thi "Dự án hiện đại hóa hải quan bằng nguồn vốn
vay Ngân hàng Thế giới" của Bộ Tài chính, năm 2005;
- "Quản lý rủi ro trong lĩnh vực hải quan", bài viết đăng trong tạp chí
Nghiên cứu Hải quan số 11 của tác giả Thiên An, năm 2005;

2


- "Quản lý rủi ro trong kiểm tra hải quan: những vấn đề cơ bản", bài viết
đăng trong tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương
Huyền, năm 2008;
- Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa Ngành Hải quan giai đoạn
2008-2010 của Bộ Tài chính, năm 2008;
- Kế hoạch thực hiện cải cách, phát triển hiện đại hóa Cục Hải quan Hà Nội
giai đoạn 2008 - 2010 của Tổng cục Hải quan, năm 2008.
Nhìn chung, các nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến một số khía cạnh
mang tính khởi đầu, sự cần thiết phải thay đổi phương thức quản lý của hải quan
truyền thống sang phương thức quản lý dựa trên quản lý rủi ro. Một số nghiên cứu
còn lại thực hiện trên bình diện toàn ngành hải quan, mang tính khái quát và định
hướng chung. Vì vậy, với thực tế và yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác này tại đơn
vị, đòi hỏi phải có một bản nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về lý luận và thực tiễn
áp dụng quản lý rủi ro vào hoạt động nghiệp vụ tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình,
từ đó đưa ra được: thực trạng quá trình triển khai thực hiện áp dụng quản lý rủi ro,
đánh giá những kết quả đã đạt được và hạn chế tồn tại, phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến áp dụng quản lý rủi ro để đưa ra các giải pháp thúc đẩy, nâng cao hiệu
quả áp dụng phương pháp này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ của Cục Hải quan tỉnh Quảng
Bình trong giai đoạn từ năm 2010 đến hết năm 2015.

+ Đối tượng nghiên cứu :
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước quy định về: Thủ
tục hải quan, quy trình thủ tục hải quan; áp dụng QLRR trong hoạt động nghiệp vụ;
- Quá trình triển khai QLLR trong hoạt động nghiệp vụ hải quan cho hàng
hoá XNK thương mại.

3


4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu là đề xuất định hướng, giải pháp có cơ sở khoa học,
thực tiễn nhằm triển khai nhanh và hiệu quả kỹ thuật quản lý dựa trên sự phân tích
rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan tại Cục HQ tỉnh Quảng Bình.
Phù hợp với mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc áp dụng QLRR vào hoạt động nghiệp
vụ Hải quan;
- Tổng thuật kinh nghiệm QLRR trong hoạt động nghiệp vụ hải quan của
một số nước;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng QLRR trong hoạt động nghiệp vụ
hải quan tại Cục HQ tỉnh Quảng Bình;
- Đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện QLRR trong hoạt động nghiệp
vụ Hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn dự kiến sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính làm chủ đạo,
kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng. Dữ liệu phân tích bao gồm dữ liệu thứ
cấp và dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các website, số liệu thống
kê, báo cáo của ngành Hải quan và Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình, sách báo, tạp chí
và những nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài. Dữ liệu sơ cấp được thu thập
qua quan sát và thông qua việc điều tra mức độ hài lòng của doanh nghiệp.
Dữ liệu sau khi thu thập sẽ được phân tích thông qua các phương pháp như

thống kê, mô tả, phân tích lịch sử, so sánh, hệ thống…để thấy được tình hình thực
trạng công tác quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ tại Cục HQ tỉnh Quảng
Bình và đề ra các giải pháp thực hiện.

4


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Để giải quyết các thách thức trong hoạt động quản lý xuất nhập khẩu trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và
thế giới, Cục HQ tỉnh Quảng Bình phải tham gia vào công cuộc cải cách hành chính
và hiện đại hóa toàn diện nhằm tăng cường năng lực kiểm tra, kiểm soát việc tuân
thủ pháp luật thông qua việc áp dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại- dựa
trên áp dụng QLRR. Do đó, Cục HQ tỉnh Quảng Bình cần nắm bắt được thực trạng,
mặt mạnh, mặt yếu, tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả công tác
QLRR tại đơn vị trong các khâu nghiệp vụ hải quan nói chung, và QLRR trong thủ
tục hải quan đối với hàng hóa XNK thương mại nói riêng.
Bên cạnh đó, việc cơ quan HQ tỉnh Quảng Bình triển khai và áp dụng hiệu
quả công tác QLRR trong hoạt động nghiệp vụ hải quan còn nhằm hướng đến hoàn
thiện các cơ sở để cùng với các đơn vị trong toàn ngành triển khai thực hiện thủ tục
hải điện tử, HQ một cửa quốc gia, HQ một cửa ASEAN, nâng cao tự động hóa
trong thông quan hàng hóa, tự động kiểm tra điều kiện, kiểm tra sơ bộ để đăng ký
và phân loại tờ khai HQ; cung cấp thông tin, dữ liệu đã được phân tích, đánh giá rủi
ro để hỗ trợ cho các hoạt động kiểm tra nghĩa vụ nộp thuế, kiểm tra sau thông quan,
thanh tra và một số hoạt động nghiệp vụ khác.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như nêu trên, đề tài có thể được dùng làm tài
liệu tham khảo khi học tập, nghiên cứu về QLRR trong hoạt động nghiệp vụ HQ.
Công chức thực thi có thể tham khảo kết quả nghiên cứu của luận văn để vận dụng
vào thực tiễn hoạt động kiểm tra, kiểm soát HQ đối với hàng hóa XNK.
7. Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu

thành 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải
quan;
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan của
Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình;
5


Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt
động nghiệp vụ hải quan của Cục Hải quan tỉnh Quảng Bình.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ HẢI QUAN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ HẢI QUAN VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ HẢI QUAN
1.1.1. Quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu
Hoạt động XNK và giao lưu thương mại giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới là một tất yếu khách quan do sự phát triển không ngừng của hoạt động
sản xuất, kinh doanh thương mại. Xét trên phương diện lợi ích của các quốc gia,
việc quản lý, kiểm soát hoạt động XNK hàng hóa không những tạo ra nguồn thu rất
lớn cho ngân sách nhà nước mà còn rất cần thiết để bảo vệ các lợi ích của quốc gia
trong các lĩnh vực an ninh quốc phòng, kinh tế, văn hóa, chính trị. Cơ quan HQ
được Chính phủ các nước thành lập và tổ chức thực hiện với nhiệm vụ kiểm soát
hàng hóa qua biên giới, thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát hàng hóa, vật phẩm và
phương tiện vận tải được phép đưa vào, đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia theo luật lệ
của quốc gia đó và thực hiện chính sách thu thuế đối với hàng hóa XNK.

Giai đoạn ban đầu khi thành lập, mục đích chủ yếu của cơ quan HQ là thu
thuế đánh vào hàng hóa XNK để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hàng hóa
XNK qua biên giới thường có giá trị lớn, những người thực hiện việc buôn bán
hàng hóa qua biên giới các nước thường là các thương nhân, quý tộc giàu có nên
các nhà nước phong kiến muốn thu lại một phần thu nhập của họ.
Cùng với quá trình phát triển của hoạt động XNK, chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan HQ được mở rộng ra ngoài lĩnh vực thu thuế. Ngày nay, Cơ quan HQ của
các nước được giao nhiều nhiệm vụ như: kiểm tra, giám sát hàng hóa XNK, chống
buôn lậu và gian lận thương mại, chống vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới, quản lý nhà nước về HQ đối với hàng hóa XNK xuất nhập cảnh, phương tiện
vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh… ngoài ra, HQ cũng thường được giao

7


nhiệm vụ ngăn chặn hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, thiết bị quân
sự như máy bay chiến đấu, tầu ngầm...
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cơ quan HQ thực hiện những vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế và hoạt động quản lý của nhà nước. HQ là cơ quan
đại diện cho một quốc gia trong việc xây dựng và mang hình ảnh quốc gia đến với
bạn bè và đối tác quốc tế. Thái độ, năng lực, trình độ tổ chức và tính chuyên nghiệp
của công chức HQ mang lại ấn tượng về văn hóa ứng xử và trình độ tổ chức quản lý
của quốc gia đó. Cơ quan HQ thực hiện các chính sách của Nhà nước trong việc
định hướng hoạt động XNK hàng hóa phục vụ lợi ích quốc gia, thực hiện các chính
sách khuyến khích hay ngăn cản XNK các loại hàng hóa theo yêu cầu quản lý. Cơ
quan HQ hỗ trợ và tạo điều kiện cho thương mại dịch vụ phát triển, góp phần duy
trì một sân chơi bình đẳng cho cho tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
thương mại quốc tế, qua đó đóng góp vào sự phát triển của hoạt động thương mại
dịch vụ cũng như hoạt động sản xuất, đầu tư trong nước.
Tuy vậy, bên cạnh vai trò và các mặt tích cực, Cơ quan HQ cũng tạo ra một

số rào cản nhất định đối với hoạt động thương mại. Việc kiểm soát hàng hóa XNK
làm tăng thời gian và chi phí trong hoạt động XNK hàng hóa. Với những cơ quan
HQ hoạt động trì trệ, thiếu khoa học, quy trình giải quyết thủ tục về HQ lạc hậu sẽ
làm chậm thời gian thông quan của hàng hóa, tăng chi phí lưu kho, lưu bãi của
doanh nghiệp, từ đó làm giảm lợi nhuận và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cơ quan HQ cũng tác động tiêu cực đến hoạt động XNK thông qua các
rào cản về thuế quan và phi thuế quan. Chính vì tác động cản trở này mà các tổ chức
liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu đang nỗ lực đàm phán để các quốc gia và vùng
lãnh thổ hạ thấp hàng rào bảo hộ ở biên giới.
Như vậy, chúng ta đã phần nào hiểu sơ lược về quá trình hình thành và phát
triển của hoạt động quản lý HQ truyền thống. Hoạt động này đã được David
Widdowson khái quát như sau: “Quá trình hình thành và phát triển của ngành HQ
gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của “người gác cửa nền kinh tế”, để hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình, trước đây, ngành HQ luôn nổ lực kiểm tra, kiểm soát đối với
8


tất cả các dòng dịch chuyển, hàng hoá, phương tiện, qua lại biên giới nhằm đảm
bảo thực thi pháp luật và nguồn thu cho quốc gia.”
1.1.2. Sự ra đời của phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý
HQ
Phương pháp quản lý HQ truyền thống đứng trước yêu cầu phải thay đổi
khi xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới được hình thành từ thập kỷ 80 – 90 của
thể kỷ XX. Các dòng lưu chuyển hàng hóa gia tăng nhanh chóng, trong khi nguồn
nhân lực của ngành HQ có hạn và tăng lên không đáng kể. Thách thức này đặt ra
cho HQ các nước bài toán về tính hiệu quả, phải giải quyết sự quá tải công việc với
nguồn lực có hạn. Sức ép từ yêu cầu cắt giảm thời gian thông quan hàng hóa của
cộng đồng doanh nghiệp ngày càng tăng, trong khi nhiệm vụ của cơ quan HQ trong
việc kiểm soát ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật vẫn phải được thực hiện.
Những điều này làm cho mâu thuẫn giữa việc tạo thuận lợi cho hoạt động thương

mại và đảm bảo kiểm soát đối với hàng hóa XNK của cơ quan HQ ngày càng gay
gắt. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa mâu thuẫn này và mục tiêu quản lý của cơ quan
HQ, sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu ma trận tạo thuận lợi và kiểm soát HQ của

kiểm soát

David Widdowson.

Cao

Phương
pháp quản lý
quan liêu

Phương pháp
quản lý
cân bằng

(1)
Phương pháp
quản lý
khủng hoảng

(2)
Thấp

Tạo thuận lợi

(4)
Phương pháp

quản lý
không can thiệp

(3))
Cao

9


Hình 1.1: Ma trận tạo thuận lợi và kiểm soát
(Nguồn: David Widdowson (2005) Customs Modernization Handbook)
Ma trận đã thể hiện các các cách thức quản lý của cơ quan HQ như sau:
Ô (1): Mục tiêu quản lý: kiểm soát cao, tạo thuận lợi thấp, đây là cách quản lý
quan liêu- quản lý truyền thống của HQ: cơ quan HQ kiểm soát chặt chẽ tất cả các
đối tượng, tạo ra sự cản trở rất lớn cho thuận lợi thương mại toàn cầu;
Ô (2): Mục tiêu quản lý: kiểm soát thấp, tạo thuận lợi thấp, đây là cách quản lý
khủng hoảng, không mang lại lợi ích cho hoạt động thương mại cũng như chính
phủ;
Ô (3): Mục tiêu quản lý: kiểm soát thấp, tạo thuận lợi cao, đây là cách quản lý
không can thiệp, chứa đựng nhiều rủi ro đối với một quốc gia;
Ô (4): Mục tiêu quản lý: kiểm soát cao và tạo điều kiện thuận lợi, đây là cách
quản lý cân bằng, tối đa hoá hiệu quả quản lý của cơ quan HQ và cả lợi ích lớn cho
doanh nghiệp.
Mục tiêu quản lý như tại ô (4) chứa đựng hai yếu tố mâu thuẫn nhau, tuy khó
thực hiện nhưng nó được các cơ quan HQ các nước quan tâm và dành nhiều nguồn
lực thực hiện bởi những lợi ích to lớn mang lại cho công tác quản lý nhà nước và
cộng đồng doanh nghiệp. Phương pháp quản lý cân bằng nhằm đạt mục tiêu tại ô
(4) đã được cơ quan HQ nhiều nước trên thế giới áp dụng hiệu quả với việc thực
hiện QLRR. Và đến tháng 06/1999, tổ chức HQ thế giới đã thông qua công ước
quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục HQ gọi tắt là công ước KYOTO sửa đổi

trong đó đã đưa ra một số khuyến nghị về việc áp dụng phương pháp QLRR trong
hoạt động HQ.
1.1.3. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý hải
quan
1.1.3.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro trong hoạt động quản lý HQ
Rủi ro là thuật ngữ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, do chưa có định
nghĩa thống nhất nên trong mỗi lĩnh vực thường có các định nghĩa riêng. Các định
10


nghĩa về QLRR khá đa dạng và phong phú, hiện có thể chia ra làm hai trường phái:
truyền thống; và hiện đại. Theo quan niệm truyền thống, “rủi ro là điều không lành,
không tốt, bất ngờ xảy đến” (Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1995), theo Từ điển
Oxford “rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm hoặc bị đau đớn thiệt hại”. Theo quan
niệm hiện đại: “rủi ro là những biến động xảy ra ngoài mong muốn” hay “Rủi ro là
sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, nó có thể xuất hiện trong hầu hết mọi hoạt
động của con người mà người ta không thể dự đoán được chính xác kết quả. Sự
hiện diện của rủi ro gây nên sự bất định, nguy cơ rủi ro phát sinh bất cứ khi nào
một hành động dẫn đến khả năng được hoặc mất không thể đoán được”.
Trong ngành HQ, người ta định nghĩa rủi ro là nguy cơ không tuân thủ pháp
luật của các chủ thể kinh tế khi XNK hoặc quá cảnh qua biên giới. Tổ chức HQ Thế
giới (WCO) cho rằng, rủi ro là sự không tuân thủ pháp luật về HQ. Theo quan điểm
của HQ Việt Nam được dẫn tại Điều 4 Luật HQ năm 2014, rủi ro là nguy cơ không
tuân thủ pháp luật về HQ trong thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải.
1.1.3.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động quản lý HQ
Trong lĩnh vực HQ, rủi ro có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau. Ở đây chúng ta tập trung đi vào nghiên cứu hai tiêu chí về nguồn gốc của rủi
ro; và lĩnh vực xuất hiện rủi ro.
a) Xét về tiêu chí nguồn gốc, rủi ro trong lĩnh vực HQ gồm ba loại:

- Rủi ro tiềm ẩn: Là những rủi ro bắt nguồn từ động cơ vụ lợi của các chủ
hàng khiến họ cố tình làm sai quy định của pháp luật, ví dụ rủi ro về buôn lậu, gian
lận thuế quan, buôn bán hàng bị cấm;
- Rủi ro quy định: là những rủi ro phát sinh từ sự sơ hở, thiếu thống nhất,
thiếu đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật, đã tạo cơ hội cho các người
khai HQ, chủ hàng lợi dụng để gian lận thương mại hoặc nhập lậu hàng hóa;

11


- Rủi ro phát hiện: là những sai phạm của người khai HQ hoặc chủ hàng mà
công chức HQ không phát hiện được do năng lực, trình độ yếu kém hoặc do thông
đồng, tiếp tay cho sai phạm của đối tượng chiu sự quản lý HQ.
b) Xét về tiêu chí lĩnh vực xuất hiện, rủi ro trong lĩnh vực HQ được chia ra
làm năm loại sau:
- Rủi ro trong hoạt động vận chuyển hàng hóa qua biên giới. Đây là những
rủi ro phát sinh do công chức HQ không phát hiện được hành vi vận chuyển hàng
hóa trái phép qua biên giới. Loại rủi ro này dễ xảy ra ở các cửa khẩu, biên giới và các
cảng biển, nơi các lực lượng buôn lậu sử dụng nhiều phương thức và hình thức che
giấu, vận chuyển. Rủi ro này có xác suất lớn do lực lượng buôn lậu và vận chuyển
hàng hóa trái phép lớn, khó kiểm soát với phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày
càng tinh vi. Trong khi lực lượng kiểm soát của HQ gặp nhiều khó khăn do các
nguồn lực về lực lượng, trình độ cán bộ và trang bị kỹ thuật có hạn, không theo kịp
yêu cầu thực tế;
- Rủi ro trong quá trình khai báo thủ tục HQ của người khai HQ: Loại rủi
ro này liên quan đến việc người khai HQ không kê khai đúng, đủ số thuế phải nộp
vào ngân sách nhà nước hoặc khai báo sai nhằm vi phạm các chính sách áp dụng
đối với lô hàng XNK. Loại rủi ro này xảy ra do chủ hàng cố ý khai báo hàng hóa
không đúng thực tế (khai báo sai tên hàng, sai số lượng, sai đặc điểm tính chất của
hàng hóa...); áp sai thuế suất của hàng hóa để giảm số thuế phải nộp hoặc cố tình

chây ỳ, không nộp thuế theo quy định. Rủi ro loại này cũng có thể xuất hiện do một
số doanh nghiệp không nắm vững chính sách mặt hàng và chính sách thuế;
- Rủi ro trong quá trình giải quyết thủ tục HQ của công chức hoặc cơ quan
HQ. Rủi ro này là nguy cơ công chức HQ phạm sai lầm trong kiểm tra hồ sơ; kiểm
tra thực tế hàng hóa dẫn đến việc áp dụng sai chính sách thuế và chính sách mặt
hàng. Nguyên nhân của nguy cơ này xuất phát từ trình độ năng lực yếu kém của cán
bộ HQ trong thực thi nhiệm vụ hoặc xảy ra trong trường hợp lượng hàng hóa và số
tờ khai HQ đăng ký làm thủ tục vượt quá khả năng giải quyết của công chức được
phân công, trong khi áp lực từ việc thông quan nhanh chóng cho hàng hóa là rất lớn;
12


- Rủi ro trong công tác cung cấp trao đổi thông tin. Đây là loại rủi ro xảy ra
khi cơ quan HQ thiếu thông tin hoặc được cung cấp thông tin nhưng chậm trễ hoặc
thiếu chính xác dẫn đến định hướng sai hoạt động kiểm tra, kiểm soát và giám sát
HQ. Trên thực tế với lượng hàng hóa XNK ngày càng nhiều, cơ quan HQ không đủ
khả năng kiểm tra tất cả các hồ sơ và lô hàng, việc kiểm tra dựa trên việc tổng hợp,
xử lý các kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật của người khai HQ để phân loại rủi ro.
Do đó, nếu thông tin không đầy đủ, không chính xác, không kịp thời thì dễ dẫn đến
sự phán đoán sai, lãng phí nguồn lực vào lô hàng không có vấn đề, bỏ qua lô hàng
vi phạm;
- Rủi ro bất khả kháng: nguy cơ thiếu trang thiết bị máy móc hỗ trợ cho
công việc kiểm tra hoặc do các yếu tố khách quan khác dẫn đến kết luận kiểm tra
sai. Loại rủi ro này có xác suất xảy ra lớn, thường xảy ra ở những nơi thiếu thốn
trang thiết bị phục vụ công tác, điều kiện ngoại cảnh khó khăn.
1.1.3.3. Khái niệm QLRR trong hoạt động nghiệp vụ HQ
Cơ quan HQ áp dụng QLRR để quyết định việc kiểm tra, giám sát HQ
đối với hàng hóa, phương tiện vận tải, hỗ trợ hoạt động phòng, chống buôn lậu và
vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Theo quy định tại Khoản 18 Điều 4
Luật Hải quan số 54/2014/QH13: “là việc cơ quan hải quan áp dụng hệ thống các

biện pháp, quy trình nghiệp vụ nhằm xác định, đánh giá và phân loại mức độ rủi
ro, làm cơ sở bố trí, sắp xếp nguồn lực hợp lý để kiểm tra, giám sát và hỗ trợ các
nghiệp vụ hải quan khác có hiệu quả. ”
Cơ quan HQ áp dụng QLRR dựa trên việc thu thập, phân tích, đánh giá
thông tin về các đối tượng (tổ chức, cá nhân) thực hiện hoạt động XNK, XNC hàng
hóa, XNC phương tiện vận tải; các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài là
đối tác hoặc có liên quan đến các hoạt động này. Ngoài ra, các thông tin về nơi xuất
xứ hàng hóa NK; quốc gia, khu vực XNK hàng hóa hoặc là địa điểm trung chuyển
hàng hóa vào Việt Nam; thông tin về chính sách quản lý của cơ quan quản lý nhà
nước đối với hàng hóa XNK; chính sách ưu đãi trong hoạt động XNK hàng hóa, ưu

13


đãi về hạn ngạch thuế quan của Việt Nam hoặc giữa Việt Nam với các quốc gia đều
là cơ sở để phục vụ QLRR.
Cơ quan HQ áp dụng quy trình QLRR trong hoạt động nghiệp vụ HQ theo
trình tự quy định, theo đó để điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện hoạt động nghiệp vụ
HQ một cách có hiệu quả, cơ quan HQ theo dõi, kiểm tra đánh giá lại việc thực hiện
nội dung các bước theo quy trình, đo lường, đánh giá mức độ chấp hành pháp luật về
HQ của các tổ chức, cá nhân.
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng QLRR trong lĩnh vực HQ
Nguyên tắc 1: Cơ quan HQ áp dụng QLRR để phòng ngừa, phát hiện và
ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đồng thời khuyến khích, tạo
thuận lợi đối với các đối tượng quản lý tuân thủ tốt pháp luật. Như vậy, khi áp dụng
QLRR trong lĩnh vực HQ, cơ quan HQ sẽ tập trung nguồn lực để kiểm tra, kiểm
soát các lô hàng và người khai HQ có nguy cơ sai phạm cao, đồng thời tạo thuận lợi
đối với các tổ chức, cá nhân chấp hành tốt pháp luật (hình thức kiểm tra HQ ở mức
đơn giản, khối lượng hàng được tiến hành kiểm tra thực tế giảm,thời gian thông
quan nhanh chóng giúp cho các chi phí lưu kho, lưu bãi hàng hóa tại cửa khẩu).

Nguyên tắc 2: Cơ quan HQ áp dụng QLRR nhằm xây dựng ý thức tuân thủ
pháp luật của các đối tượng quản lý. Hàng hóa XNK, phương tiện vận tải XNC
được đánh giá mức độ rủi ro để áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát HQ và các
biện pháp nghiệp vụ khác ở mức độ phù hợp nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật.
Việc áp dụng QLRR sẽ giúp cơ quan HQ xác định trọng tâm kiểm tra HQ với các
đối tượng quản lý khác nhau dựa trên thông tin về sự tuân thủ pháp luật. Mục đích
của việc tập trung, xác định trọng điểm kiểm tra, giám sát này là tạo ưu đãi cho
doanh nghiệp tuân thủ pháp luật để khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp tuân thủ
pháp luật tốt hơn.
Nguyên tắc 3: Việc đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật của người
thực hiện XNK dựa trên tiêu chí QLRR, thông tin nghiệp vụ và thông tin, dữ liệu có
trên hệ thống thông tin của ngành HQ tại thời điểm đánh giá. Cơ quan HQ thực

14


hiện thu thập, phân tích thông tin, đánh giá rủi ro ở các giai đoạn trước, trong và sau
thông quan theo các tiêu chí được xác định trong từng thời điểm, cập nhật vào hệ
thống thông tin QLRR làm cơ sở để ra quyết định việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát
HQ, KTSTQ đối với hàng hóa XNK, phương tiện vận tải XNC.
Nguyên tắc 4: Cơ quan HQ tập trung kiểm tra, giám sát, kiểm soát những
rủi ro cao, áp dụng các biện pháp phù hợp đối với các rủi ro thấp. Cơ quan HQ sẽ
tập trung kiểm soát chặt chẽ các đối tượng không tuân thủ các quy định của pháp
luật theo quá trình. Các biện pháp kiểm tra được áp dụng phụ thuộc vào mức độ rủi
ro của đối tượng quản lý, theo đó các đối tượng có mức độ rủi ro cao và rất cao sẽ
được kiểm tra chặt chẽ, đối tượng có mức rủi ro thấp sẽ được hạn chế kiểm tra, tuy
nhiên sẽ được bổ sung bằng KTSTQ để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của
doanh nghiệp.
Nguyên tắc 5: Trường hợp xảy ra vi phạm pháp luật HQ, pháp luật thuế
nhưng trước đó công chức HQ đã thực hiện đúng, đầy đủ và kịp thời các quy định

của pháp luật, quy định và hướng dẫn về QLRR theo phân cấp thì được miễn trách
nhiệm cá nhân. Đây là nguyên tắc bảo vệ các cán bộ công chức HQ đã làm hết trách
nhiệm và tuân thủ các quy định, quy trình QLRR trong công tác đấu tranh tiềm ẩn
nhiều yếu tố bất khả kháng, các đối tượng quản lý có phương thức thủ đoạn hoạt
động ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
1.2. QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ HẢI QUAN
1.2.1. Cơ sở pháp lý, quy định hiện hành của Việt Nam về quản lý rủi ro
- Tại Luật HQ số 54/2014/QH13 ngày 23/6/2014, khoản 2 Điều 16 quy định:
“Kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở áp dụng QLRR nhằm đảm bảo hiệu
quả, hiệu lực quản lý nhà nước về hải quan và tạo thuận lợi cho hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh”. Tại khoản 18, 19 Điều 4 Luật này cũng
đưa ra định nghĩa về rủi ro và QLRR, Điều 17 đưa ra quy định về QLRR trong hoạt
động nghiệp vụ HQ. Nghị Định 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/1/2015
hướng dẫn chi tiết và biện pháp thi hành Luật HQ 2014 đã quy định về việc áp dụng

15


QLRR trong thủ tục HQ, kiểm tra, giám sát HQ tại các Điều 13, Điều 14, Điều 15.
Thông tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 25/3/2015 cũng dành ra 8 Điều
(từ Điều 8 đến Điều 15) để quy định về việc áp dụng QLRR trong hoạt động kiểm
tra, giám sát HQ;
- Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH13 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 đã đưa vào các nội dung về công tác
QLRR trong hoạt động quản lý thu thuế nói chung; Nghị định hướng dẫn Luật Quản
lý thuế cũng đã có Điều 4 quy định cụ thể các nội dung nguyên tắc về QLRR;
- Quyết định số 464/QĐ-BTC ngày 29/6/2015 của Bộ trưởng BTC ban hành
quy định quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan;
- Quyết định số 464/QĐ-BTC ngày 29/6/2015 của Bộ trưởng BTC ban hành
Bộ tiêu chí quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan;

- Quyết định 200/QĐ-TCHQ ngày 24/8/2015 của TCHQ ban hành Bộ chỉ số
tiêu chí quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan;
- Quyết định 282/QĐ-TCHQ ngày 10/11/2015 của TCHQ ban hành Hướng
dẫn thực hiện, áp dụng quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan.
1.2.2. Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro
Phương pháp QLRR đòi hỏi việc tiếp cận toàn diện, đánh giá thường xuyên
đối với các rủi ro tiềm ẩn ở các cấp độ quản lý hành chính, việc tập hợp các kết quả
ở nhiều cấp độ là cơ sở để thiết lập các trật tự ưu tiên, trọng điểm quản lý, và nâng
cao chất lượng ra quyết định quản lý. Việc xác định, đánh giá và QLRR trên phạm
vi càng lớn sẽ giúp việc QLRR được nhìn ở góc độ tổng thể, toàn diện hơn, từ đó
đưa ra được bức tranh toàn cảnh của các rủi ro và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các
bộ phận nghiệp vụ.
QLRR toàn diện đòi hỏi một hệ thống vững chắc, mạnh mẽ và có tính tổ
chức cao, trong đó, cán bộ, công chức tại tất cả các cấp quản lý được giao quyền để
đưa ra các quyết định dựa trên rủi ro một cách có cấu trúc và có hệ thống. Hệ thống
QLRR phải cho phép các hoạt động QLRR được thực hiện phù hợp với mục tiêu

16


tổng thể của cơ quan HQ, với nhiệm vụ trọng tâm, định hướng chiến lược, điều kiện
hoạt động thực tiễn và văn hóa nội bộ của cơ quan HQ.
Để đảm bảo QLRR được coi là một nội dung ưu tiên hàng đầu và phải được
sắp xếp, tập trung nguồn lực phù hợp thì QLRR phải là một bộ phận không thể tách
rời trong quá trình ban hành quyết định quản lý cả ở cấp độ chiến lược (trung ương)
lẫn cấp độ thực thi (địa phương).
Việc xây dựng, tổ chức hệ thống QLRR bao gồm các yếu tố chính sau:

1.2.2.1. Yêu cầu và cam kết đối với hệ thống QLRR
Các yêu cầu và cam kết cấp cao là yếu tố quan trọng, là cơ sở để việc triển

khai, giám sát và cải thiện hiệu quả công tác QLRR trong hoạt động quản lý HQ
được tiến hành liên tục, đồng bộ và toàn diện. Để thực hiện được điều đó, các nhà
quản lý cao cấp trong cơ quan HQ cần thống nhất và cam kết thực hiện các nội dung
công việc liên quan đến hệ thống QLRR sau đây:
- Thiết lập ra chính sách, mục tiêu và có phương án giao quyền hoạch định
công việc, phân bổ nguồn lực và ra quyết định về QLRR và đánh giá rủi ro;
- Nâng cao nhận thức và ý thức về công tác QLRR;
- Nghiên cứu và áp dụng một số nguyên tắc hướng dẫn chung, và theo đó
xây dựng biện pháp thực hiện ở tất cả các cấp quản lý;
- Việc quản lý các rủi ro phải giúp cải tiến phương pháp thực thi và đánh giá
hiệu quả thực thi của hoạt động quản lý nghiệp vụ HQ;
- Xây dựng và thực thi các chiến lược và kế hoạch phù hợp để nâng cao hiệu
quả QLRR cùng với tất cả các hoạt động khác của cơ quan HQ;
- QLRR phải bao gồm cả các yếu tố con người và văn hóa, xác định năng
lực, nhận thức và mục tiêu của các đối tượng bên trong và bên ngoài Ngành nhằm
bảo đảm cho sự phù hợp giữa văn hóa tổ chức của cơ quan HQ với các chính sách
và nguyên tắc QLRR;

17


- QLRR được đưa vào áp dụng ở tất cả các hoạt động nghiệp vụ quản lý HQ.
Khi đó, QLRR đòi hỏi phải có những cam kết bền vững liên quan đến các chính
sách và kế hoạch hành động.

1.2.2.2. Xây dựng hệ thống QLRR có tính tổ chức cao
a) Bối cảnh xây dựng Hệ thống.
Nhận thức rõ ràng về môi trường hoạt động là bước quan trọng trong quá
trình phát triển hệ thống QLRR có tổ chức. Từ đó, cơ quan quản lý có thể xác định
các nhân tố và rủi ro khác nhau từ bên trong và đến từ bên ngoài tổ chức, mà những

yếu tố đó có thể ảnh hưởng đến cách thức và con đường hoàn thành nhiệm vụ.
Các nhân tố bên ngoài cần được xem xét có thể bao gồm các vấn đề về chính
trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Tiến hành rà soát toàn diện môi trường hoạt động
sẽ giúp cho nhận thức tốt hơn về các đặc điểm cơ bản, cũng như các thuộc tính của
những rủi ro có nguy cơ phát sinh, bao gồm các loại và nguồn gốc của rủi ro, lĩnh
vực có nguy cơ gặp rủi ro, và mức độ năng lực kiểm soát rủi ro. Tiếp đó là xác định
một định hướng chiến lược QLRR, từ đó tăng cường nguồn lực cho bộ phận thực
thi QLRR hiện có để đạt được mục tiêu quản lý tổng thể ở mức độ cao nhất.
Cơ quan HQ cũng cần nhận thức về mặt khái niệm và thực tiễn áp dụng đối
với việc chấp nhận rủi ro trong bối cảnh áp dụng quản lý trên cơ sở rủi ro. Việc rà
soát môi trường công việc sẽ giúp xác định những đối tác bị ảnh hưởng hay chịu tác
động của các quyết định hay hoạt động cụ thể của cơ quan HQ, cũng như xác định
các đối tác đó ở cấp độ rủi ro nào là phù hợp. Nhận thức được về thực trạng cơ quan
HQ, các cơ quan quản lý khác, các cá nhân, các nhà lập pháp, và các nhóm lợi ích
có thể hỗ trợ tích cực cho quá trình ban hành một quyết định hành chính, mà trong
đó các rủi ro tiềm ẩn đã được nghiên cứu và có hướng xử lý phù hợp, về cách thức
hay phạm vi áp dụng.
b) Chính sách QLRR. Trong quá trình xây dựng chính sách QLRR phải
nghiên cứu mục tiêu chiến lược và mục tiêu ngắn hạn cùng với các kế hoạch hành
động tương ứng, phù hợp với tình hình thực tế hoạt động. Trong đó bao gồm những

18


mục tiêu định hướng phát triển chung của cơ quan HQ, và định hướng phát triển đối
với hoạt động QLRR.
c) Trách nhiệm QLRR. Đưa QLRR vào văn hóa hoạt động của cơ quan HQ
thông qua việc phân quyền, phân nhiệm cho các đơn vị để xử lý rủi ro, đây chính là
yếu tố cơ bản cho phép hòa nhập công tác QLRR vào tất cả các hoạt động của cơ
quan HQ. Việc phân định trách nhiệm bao gồm xác định và giao nhiệm vụ cho từng

cấp quản lý tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện và duy trì hệ thống QLRR,
cung như xác định các đơn vị chịu trách nhiệm chính đối với yếu tố rủi ro khác
nhau trong cơ quan HQ.
d) Phân bổ nguồn lực, việc phân bổ các nguồn lực phù hợp cho công tác
QLRR thông qua kết quả phân tích các yêu cầu đối với công chức HQ làm việc
trong lĩnh vực QLRR về con người, kỹ năng, kinh nghiệm và năng lực nghiệp vụ.
Lãnh đạo và công chức QLRR cần phải được trang bị những kiến thức và kỹ năng
phù hợp để bảo đảm rằng họ có đủ năng lực thực hiện các công việc về QLRR ở
mọi khía cạnh nghiệp vụ. Công tác tự động hóa trong thu thập, phân loại và phân
tích dữ liệu, thông tin QLRR đang ngày càng trở nên quan trọng hơn. Đánh giá
năng lực công nghệ thông tin để bảo đảm có những công cụ phù hợp để thực hiện
đánh giá rủi ro, tạo ra được những sản phẩm QLRR có chất lượng cao ở tất cả các
cấp quản lý, các khâu nghiệp vụ quản lý với chỉ dẫn rủi ro khuyến nghị cách xử lý
rủi ro một cách hợp lý nhất.
e) Áp dụng QLRR vào các quy trình nghiệp vụ khác
QLRR là một yếu tố căn bản trong phương pháp quản lý hiện đại nên là một
bộ phận không thể thiếu trong các hoạt động tác nghiệp hàng ngày của mỗi cán bộ,
công chức HQ. Tùy thuộc tình hình thực tế của mỗi quốc gia mà các cơ quan HQ
đưa QLRR vào cơ cấu ra quyết định nghiệp vụ nhưng phải đảm bảo những vấn đề:
Thống nhất QLRR với các mục tiêu chính trị, mục tiêu quản lý ở tất cả các cấp quản
lý HQ; Đưa QLRR vào các hoạt động thực thi nghiệp vụ, hoạt động xây dựng chiến
lược phát triển của cơ quan HQ; Tuyên truyền chính sách và các hướng dẫn chung

19


của cơ quan HQ đối với các rủi ro có thể chấp nhận; Tăng cường hệ thống kiểm tra,
giám sát đối với công tác QLRR và các kết quả của QLRR.
Ngoài ra, việc đưa QLRR vào các quy trình nghiệp vụ sẽ đạt hiệu quả cao
hơn nếu tư tưởng và văn hóa của cơ quan HQ cũng ủng hộ công tác QLRR. Điều

này có thể đạt được bằng việc thực hiện cac công tác: Tìm kiếm các phương pháp
quản lý có hiệu quả cao, trong đó có QLRR; Khuyến khích việc chủ động nâng cao
kỹ năng, nghiệp vụ, trau dồi kiến thức và năng lực về QLRR; Gắn QLRR trở thành
một phần của công tác đo lường hiệu quả hoạt động ở tất cả các cấp, đơn vị trong
Ngành; Áp dụng chính sách thưởng phạt nghiêm minh; Khuyến khích tất cả các
hoạt động cải tiến trong QLRR.
f) Công tác tuyên truyền, báo cáo
Tuyên truyền cũng là một cấu phần cốt lõi của công tác QLRR. Nó bao gồm
cả tuyên truyền bên trong lẫn bên ngoài cơ quan HQ. Hệ thống tuyên truyền và cơ
chế báo cáo nội bộ cơ quan HQ sẽ giúp khuyến khích các bộ phận có rủi ro nâng
cao trách nhiệm quản lý, đồng thời tạo luồng thông tin thông thoáng, cung cấp dữ
liệu cho hoạt động QLRR.
Công tác tuyên truyền, báo cáo để thông tin cho các khách hàng về chiến
lược QLRR và về việc đưa QLRR vào thành một phần của quy trình quản lý nghiệp
vụ.
g) Thực hiện QLRR
Để thực thi theo khuôn khổ QLRR, điều trước tiện là phải xây dựng được
một kế hoạch hành động và một chiến lược thực thi có tính toàn diện, mô tả tất các
những hoạt động của cơ quan HQ đối với công tác thực hiện QLRR, xác định thời
gian và chiến lược cho từng hoạt động cụ thể. Nó bao gồm cả việc áp dụng chính
sách QLRR vào các hoạt động của cơ quan HQ.
Quy trình QLRR chính là một phương pháp luận có chu trình kép kín, trong
đó có những bước công việc được định danh cụ thể, hỗ trợ cho việc đưa ra các
quyết định nghiệp vụ thông qua phân tích bản chất của rủi ro, xem xét các tác động

20


có thể của nguy cơ rủi ro, xác định cơ sở cho các quyết định quản lý trong điều kiện
hài hòa với các nguồn lực được phân bổ, cũng như với thứ tự ưu tiên của các biện

pháp xử lý. Quy trình này gồm các bước sau đây:

Hình 1.2 – Quy trình QLRR trong hoạt động nghiệp vụ HQ
- Xây dựng bối cảnh quản lý: xác định bối cảnh diễn ra hoạt động QLRR, các
mục tiêu của việc phân tích các đối tượng quản lý, và những rủi ro cần được quản
lý. Việc xác định đối tượng cần quản lý sẽ giúp xây dựng thước đo chuẩn cho toàn
bộ quy trình QLRR.
- Xác định rủi ro: chỉ ra và ghi lại tất cả những rủi ro tiềm ẩn thông qua một
quy trình mang tính hệ thống, theo đó chỉ ra những rủi ro có thể phát sinh, lý do và
cách thức phát sinh rủi ro, từ đó hình thành cơ sở để phân tích sâu hơn những rủi ro
đó;
- Phân tích rủi ro: lượng hóa rủi ro, phân tích, đánh giá hậu quả có thể nếu
xảy ra rủi ro, cách thức xử lý nếu có hậu quả xảy ra. Việc phân tích cần trả lời cho
21


các câu hỏi sau: Làm cách nào mà một sự kiện có thể xảy ra? Hậu quả tiềm ẩn là gì?
Mức độ của hậu quả? Kết hợp được các yếu tố nêu trên, chúng ta sẽ có cấp độ dự
kiến của rủi ro. Việc đánh giá và dự tính rủi ro phải có tính định lượng và định tính,
hoặc kết hợp cả hai tính chất;
- Đánh giá và xếp thứ tự các rủi ro: so sánh các rủi ro đã được đánh giá với
các tiêu chí chủ đạo đã được xác định từ trước. Thông qua xem xét cấp độ của từng
rủi ro theo kết quả phân tích tương ứng để có thể đánh giá và sắp xếp thứ tự cho các
rủi ro cơ bản, là những rủi ro cần được phân tích sâu hơn, cần phải sử dụng các
nguồn lực theo dự kiến để chuẩn bị hoặc ngăn ngừa hoặc đối phó với rủi ro đó.

Hình 1.3 – Ma trận phân tích về mức độ rủi ro và biện pháp xử lý.
Kết quả thu được từ cách phân tích và đánh giá, sắp xếp thứ tự rủi ro này sẽ
cho phép nghiên cứu, định lượng và sắp xếp rủi ro theo các cấp độ của rủi ro, kết
nối rủi ro với các đơn vị có thể xảy ra rủi ro để các đơn vị đó có trách nhiệm trong

việc tìm cách giảm thiểu rủi ro và theo dõi rủi ro.
- Xử lý rủi ro: quyết định và hành động nhằm phản ứng với các rủi ro đã
được xác định. Có thể sử dụng bốn cách phản ứng, gọi là “bốn T”, gồm: chịu đựng
(tolerate); xử lý (treat); chuyển giao (transfer); và chấm dứt (terminate). Trong
nhiều trường hợp, chúng ta có thể chấp nhận chịu rủi ro. Chịu đựng hay chấp nhận
rủi ro không có nghĩa là không kiểm soát và theo dõi các rủi ro đó. Công việc giám

22


×