Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận bảo hiểm xã hội VN trong cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.14 KB, 21 trang )

LI M U
Nói đến sự phát triển của toàn xã hội, chúng ta không thể không nói
đến bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là một chính sách lớn của Đảng và
Nhà nớc ta, nó là xơng sống bảo đảm ổn định xã hội, nó thể hiện sự phồn
thịnh của nền kinh tế, một sự vững chắc của thể chế chính trị và sự nhân văn
sâu sắc. BHXH góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho ngời lao
động khi gặp rủi ro và các khó khăn khác. BHXH cũng là một chính sách tài
chính nhằm huy động đóng góp của ngời lao động đang làm việc để hình
thành quỹ tài chính tập trung đợc bảo toàn và tăng trởng để thực hiện các chế
độ. Do đó, BHXH là một đề tài khoa học đợc nhiều ngời quan tâm và nghiên
cứu. Với sự mong muốn góp một phần nhỏ bé vào thế giới khoa học và phục
vụ học tập tốt hơn, em chọn đề tài BHXH Việt Nam trong cơ chế thị trờng.
Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài bao gồm:
Phần I: Khái quát chung về BHXH
Phần II: BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trờng.
Phần III: Một số kiến nghị

phần I
khái quát chung về bảo hiểm xã hội
I. Bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế xã hội.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã
hội giữa Nhà nớc với ngời lao động và ngời sử dụng lao động khi ngời lao
động gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập.
BHXH là một chính sách lớn mang tính xã hội rộng rãi và trong đời
sống xã hội của mỗi quốc gia thì BHXH có ý nghĩa rất to lớn:
- Đối với ngời lao động: nó góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân
họ hoặc gia đình khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập. Đặc biệt
BHXH ra đời còn góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc
sống cũng nh lao động, họ không phải lo lắng khi ốm đau, thai sản hoặc khi
hết tuổi lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động trong xã hội.


- Đối với ngời sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất
1


kinh doanh, làm cho họ đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn hoặc nhiều khi rất
lớn, khi ngời lao động mà họ sử dụng gặp khó khăn trong cuộc sống. Nhất là
trong trờng hợp bị ốm đau, tai nạn hàng loạt.
- Đối với Nhà nớc: BHXH ra đời góp phần đảm bảo an toàn cho xã
hội, đặc biệt quỹ BHXH là một trong những nguồn đầu t lớn góp phần phát
triển và tăng trởng kinh tế quốc gia.
- Đối với cả ba bên: BHXH ra đời tạo lập đợc mối quan hệ bền vững,
ổn định để từ đó góp phần điều hoà mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ.
Chính vì những ý nghĩa nêu trên cho nên BHXH luôn luôn là một
trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của một quốc gia và trong đời
sống kinh tế xã hội hiện nay BHXH là một trong những chính sách không
thể thiếu đợc và ngày càng phát triển.
II. Những nội dung cơ bản về BHXH.
1. Bản chất của BHXH.
1.1 Đối tợng của BHXH.
BHXH là một lĩnh vực mang tính chất xã hội rất lớn vì nó có đối tợng là một
bộ phận rất lớn trong xã hội, đó là ngời lao động mà cụ thể là một bộ phận rất lớn và
nghĩa vụ của một công dân theo những tiêu chuẩn luật pháp của Nhà nớc và có việc
làm dới các hình thức khác nhau, tạo ra thu nhập để đảm bảo đời sống và tham gia vào
BHXH nh ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nớc, trong các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở
lên, ngời lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, khu chế
xuất... ngời lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan
hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể thuộc lực lợng vũ trang...
Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác, điều dỡng trong và ngoài nớc mà
vẫn hởng tiền lơng và tiền công thì thuộc đối tợng thực hiện BHXH bắt buộc.

1.2 Vai trò và tính chất của BHXH.
1.2.1 Vai trò của BHXH.
- BHXH bảo đảm ổn định kinh tế cho ngời lao động và gia đình khi họ gặp
rủi ro, giảm hoặc mất thu nhập.
- BHXH đảm bảo đợc tính công bằng trong xã hội và thực hiện phân phối và
phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia BHXH.
- BHXH đã gắn kết lợi ích của ngời lao động, ngời sử dụng lao động và Nhà
nớc.
- BHXH góp phần đảm bảo an toàn xã hội, gắn bó ngời lao động với xã hội.
1.2.2 Tính chất của BHXH.
- Tính kinh tế: ngời lao động đóng góp phí BHXH hình thành nên quỹ BHXH.
Từ quỹ này trợ cấp cho ngời lao động khi an toàn kinh tế của họ bị đe doạ. Sự đóng
góp này đã góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc. Từ phần quỹ nhàn
rỗi và phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc là nguồn vốn đầu t cho nền
kinh tế nhằm bảo đảm bảo tồn và phát triển quỹ và giảm bớt sự đóng góp của ngời lao
động.
- Tính xã hội: thể hiện ngời lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động và có nhu cầu có quyền đợc hởng BHXH và ngời sử dụng lao động cũng nh Nhà

2


nớc có trách nhiệm BHXH cho ngời lao động đó, Tính xã hội thể hiện tính cộng đồng
(tính nhân đạo) rất cao.
- Tính dịch vụ: BHXH thoã mãn nhu cầu đợc tham gia BHXH của ngời lao
động có khả năng vâ có nhu cầu lao động.
2. Quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là tổng hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH,
và phần sinh lời tăng trởng tiền nhàn rỗi hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung để
chi trả cho những ngời đợc hởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất khả

năng lao động hay mất việc làm.
Nh vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa
mang tính kinh tế , vừa mang tính xã hội rất cao, và là điều kiện hay cơ sở vật chất
quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH
hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những
ngời tham gia BHXH với tổng dự trữ ít nhất giúp cho việc dàn trải rủi ro đợc thực hiện
theo cả hai chiều, không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tới mức thấp nhất
những thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà
nớc và ngân sách gia đình ngời lao động.
Quỹ BHXH đợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trớc hết là sự đóng góp
của ngời lao động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc, đây là khoản thu chính chiếm
tỷ trọng lớn của quỹ BHXH. Hai là đợc hình thành từ khoản thu từ hoạt động tài chính
của một phần nhàn rỗi của quỹ. Thứ ba là phần thu từ nộp phạt của những tổ chức và cá
nhân vi phậm điều lệ về BHXH, ngoài ra còn có các khoản thu khác nh viện trợ của
nớc ngoài hợp tác về BHXH.
Quỹ BHXH đảm nhận những khoản chủ yếu nh trợ cấp theo các chế độ BHXH
(khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn), chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH (tiền lơng
của cán bộ nhân viên ngành BHXH, tiền đào tạo cán bộ...)

Mức đóng góp của mỗi ngời vào quỹ BHXH gọi là phí BHXH. Phí
BHXH có thể có nhiều loại tuỳ theo cách phân loại cụ thể. theo quá trình lao
động, phí BHXH chia làm 2 loại: phí dài hạn và phí ngắn hạn.
- Phí BHXH dài hạn tạo thành nguồn quỹ để chi trả trợ cấp BHXH dài hạn nh:
hu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Phí BHXH ngắn hạn tạo thành nguồn quỹ chi trả trợ cấp BHXH ngắn hạn nh
thai sản, ốm đau và tai nạn lao động nhẹ.
Quỹ BHXH đợc quản lý trong cơ chế cân bằng thu chi, phần quỹ nhàn rỗi phải
đợc đem đầu t sinh lợi.
3. Hệ thống các chế độ BHXH
BHXH ra đời từ thế kỷ 13 ở Nam châu Âu - khi nền kinh tế hàng hóa bắt đầu

phát triển. Nửa cuối thế kỷ 19 ở Đức và vài nớc công nghiệp phát triển ở châu Âu đã
xuất hiện BHXH. Những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, BHXH đã lan ra hầu hết châu
Âu và các nớc Bắc Mỹ. Đến sau chiến tranh thế giới lần thứ II, BHXH có nhiều thay
đổi về chất, phát triển phong phú đa dạng ở trên 100 nớc trên thế giới và đợc nhiều tổ
chức quốc tế khác quan tâm.
Lúc đầu các chế độ BHXH chỉ đợc thực hiện dới dạng các quỹ ốm đau để
đề phòng khi mất thu nhập vì bệnh tật. Dần dần đã mở rộng các chế độ BHXH
thành bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp, bảo hiểm bệnh tật và tuổi già... Đến ngày

3


28/6/1952 hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế đã nhất trí tập hợp tất cả
các chế độ hiện có về BHXH của các nớc trên thế giới thành một hệ thống bao gồm 9
chế độ sau:
- Chế độ chăm sóc y tế
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Chế độ trợ cấp tuổi già
- Chế độ trợ cấp gia đình
- Chế độ trợ cấp sinh đẻ
- Chế độ trợ cấp khi tàn phế
- Chế độ trợ cấp cho những ngời còn sống
Tại hội nghị này tổ chức lao động quốc tế đồng thời tuyên bố tuỳ theo điều
kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà thực hiện các chế độ BHXH nói trên. Nhng
bắt buộc phải thực hiện các chế độ sau:
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Chế độ trợ cấp sinh đẻ
- Chế độ trợ cấp cho những ngời còn sống


Theo số liệu thống kê ở 140 nớc và khu vực trên thế giới cho thấy tính
đến năm 1993 có 33 nớc thực hiện cả 9 chế độ, có 34 nớc cha thực hiện chế
độ thứ 3, có 62 nớc cha thực hiện chế độ thứ 3 và thứ 6.
Điều kiện và mức hởng các chế độ trợ cấp BHXH tuỳ theo sự thực hiện của mỗi
nớc do mỗi nớc có nguyên tắc, kinh tế chiết lý và chủ nghĩa khác nhau. Công ớc chỉ
đề ra những tiêu chuẩn tối thiểu để các quốc gia phê chuẩn và thực hiện.

phần II

BHXH Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trờng

I. tình hình triển khai BHXH Việt Nam trớc nghị định 43/CP

1. Tổ chức triển khai.
4


Từ thời Pháp thuộc giai đoạn những năm 30 BHXH bắt đầu xuất hiện ở Việt
Nam. Lúc đầu là một chế độ hạn hẹp và mức trợ cấp ít ỏi.

Năm 1962 hoà bình lập lại Đảng và Nhà nớc mới cho thực hiện các
chế độ BHXH ở nớc ta bằng Nghị định 218/CP của Chính phủ ngày
27/12/1961 có hiệu lực từ 1962 đến trớc tháng 6/1993. Theo Nghị định này
hệ thống BHXH ở Việt Nam bao gồm 6 chế độ là:
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Chế độ trợ cấp thai sản
- Chế độ trợ cấp hu trí
- Chế độ trợ cấp mất sức lao động

- Chế độ trợ cấp tử tuất
Qua hơn 30 năm thực hiện đã có rất nhiều văn bản sửa đổi và bổ sung. trong
đó có lần sửa đổi lớn nhất là Nghị định 236 /HĐBT ngày 18/9/1985 đi kàm với Nghị
định 235/ HĐBT về tổng điều chỉnh giá, lơng, tiền... Nhng kết quả cho thấy
BHXHVN có những thành công và tồn tại.
2. Kết quả thấy đợc.
BHXHVN sau hơn 30 năm thực hiện đã tỏ ra có u thế và phát huy tác dụng về
nhiều mặt đối với ngời lao động Việt Nam. Với 6 chế độ chi trả cơ bản trong 9 chế
độ chuẩn của ILO đã ghi trong công ớc phần nào đã đáp ứng đợc nhu cầu cơ bản của
ngời lao động đối với BHXH.
Hơn 3 triệu ngời đã đợc hởng chế độ hu trí, gần 1 triệu ngời đợc hởng chế độ
mất sức lao động. Khoảng 40 vạn ngời đợc hởng chế độ tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp dài hạn, hơn 1,2 triệu ngời đợc hởng chế độ tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp ngắn hạn, hơn 50 vạn lao động nữ đợc hởng chế độ trợ cấp thai sản, hơn
8 triệu lợt ngời đợc hởng chế độ ốm đau.
Trong quá trình thực hiện BHXH thực sự trở thành chính sách xã hội cơ bản ở nớc ta. Đối tợng tham gia BHXH không chỉ riêng công nhân viên chức mà còn là toàn bộ
nhân dân lao động đều có thể tham gia. Do có BHXH mà ngời lao động đ ợc trợ cấp
kịp thời để ổn định cuộc sống không những cho bản thân họ mà còn cho gia đình
họ, khiến cho ngời lao động hoàn toàn yên tâm gắn bó với xã hội. Đồng thời nâng cao ý
thức cộng đồng trách nhiệm giữa những ngời lao động với nhau và giữa ngời lao động
với ngời sử dụng lao động và Nhà nớc XHCN.
3. Những tồn tại và nguyên nhân của nó
3.1 Những tồn tại
BHXHVN trong hơn 30 năm thực hiện mặc dù đã đạt đợc những kết quả nhất
định nhng khi bớc vào kinh tế thị trờng nó đã bộc lộ tất cả những nhợc điểm cần phải
đổi mới và hoàn thiện thể hiện ở những khía cạnh lớn sau:

5



- Về mặt tổ chức: còn phân tán, vì vậy khi thực hiện chính sách còn
nhiều nhất quán, thiếu đồng bộ, có lúc có nơi còn chồng chéo.
- Chính sách BHXH trớc đây chỉ phù hợp với cơ chế bao cấp, bởi lẽ
trong cơ chế bao cấp Nhà nớc đã đứng ra bao phần lớn những vấn đề liên
quan đến BHXH. Mặt khác chính sách BHXH cha thờng xuyên đổi mới cho
nên ở các cấp cơ sở rất khó thực hiện và nhiều khi thực hiện không đúng
chính sách. Đặc biệt chúng ta cha xây dựng đợc luật BHXH cho nên chính
sách BHXH đã sơ cứng lại càng sơ cứng hơn.
Bên cạnh đó hệ thống các chế độ BHXH bộc lộ rất nhiều vấn đề tồn tại trong
nội dung từng chế độ. Đặc biệt chế độ mất sức lao động đã bị lợi dụng, vì thế đã
ảnh hởng nghiêm trọng và làm thâm hụt rất lớn nguồn BHXH.
- Quỹ BHXH trên thực tế coi nh không có bởi vì có một bộ phận ngời lao động
không đóng góp BHXH mà Nhà nớc đóng thay cho họ, lực lợng vũ trang có mức tiền lơng rất cao nhng không đầy đủ, thêm vào đó đóng theo quỹ lơng nhng quỹ lơng lại
mang tính bao cấp nên phần thu BHXH từ nguồn lơng hầu nh không đáng kể.
- Việc quản lý quỹ còn quá nhiều sơ hở và thiếu sót cho nên quỹ BHXH bị
thâm hụt nghiêm trọng và việc điều phối quỹ BHXH giữa hai cơ quan (Tổng liên
đoàn lao động và Sở lao động thơng binh xã hội) không thực hiện đợc, cho nên đã gây
nhiều khó khăn trong công tác thu chi , đặc biệt là chi bảo hiểm.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH số lợng còn thiếu và chất lợng còn yếu đã
ảnh hởng trực tiếp đến việc quản lý thu chi và thực hiện các chế độ BHXH đối với
ngời lao động; nhận thức về BHXH còn rất yếu kể cả cấp lãnh đạo bởi vì ba lý do:
thứ nhất quỹ BHXH không có mà ngân sách Nhà nớc gánh vác toàn bộ, thứ hai đối tợng
tham gia bảo hiểm còn hạn hẹp vì vậy đại đa số lực lợng lao động Việt Nam còn
không biết đến BHXH, thứ ba là mức đợc hởng trợ cấp trong các chế độ bảo hiểm còn
rất thấp. Đặc biệt là sau thời kỳ giá tiền lên, ngời lao động coi tiền lơng cơ bản hoặc
toàn bộ trợ cấp BHXH là một phần.
3.2 Nguyên nhân tồn tại.
Xem xét thực trạng của BHXH ở Việt Nam ta có thể rút ra một số nguyên nhân
sau:
- BHXHVN mới chỉ có hơn 30 năm hình thành và phát triển mà lại còn ở trong

tình trạng chiến tranh kéo dài, kinh tế đất nớc còn kém phát triển, công cuộc khôi
phục sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn. Hậu quả đó ảnh hởng mạnh đến các
chính sách BHXH nói riêng và chính sách kinh tế xã hội nói chung. Bên cạnh đó
BHXH lại chịu ảnh hởng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp vừa cứng
nhắc, thiếu năng động lại vừa lỏng lẻo trong việc đề ra chính sách và điều hành.
Hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trờng thì BHXH cũng đợc cải
tiến rất nhiều nhng vẫn còn hết sức mới mẻ.
- BHXHVN còn hạn chế về mặt nhận thức, đối với những ngời làm công tác

6


BHXH cha đợc tiếp cận với thành tựu và kinh nghiệm hoạt động BHXH của thế giới.
Còn đối với ngời đợc bảo hiểm cũng cha đủ nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình khi tham gia BHXH. Cho nên việc kiểm soát sự hoạt động của hệ
thống BHXH, nhân viên, cán bộ làm công tác BHXH thực hiện không chặt chẽ, từ đó
rễ phát sinh hành vi vi phạm quy định của Nhà nớc.
- Sự kết hợp của các cơ quan, tổ chức trontg công tác BHXH vẫn còn lỏng lẻo,
phân tán: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý ba chế độ, còn cán bộ lao động
thơng binh và xã hội quản lý ba chế độ. Từ đó dẫn đến việc thực hiện các chính
sách xã hội còn thiếu tập trung.
II. thực trạng BHXH Việt Nam sau nghị định 43/CP.
1. Sự ra đời của nghị định 43/CP.
Trong điều kiện kinh tế thị trờng, sự nghiệp BHXH Việt Nam là một trong
lĩnh vực yếu kém nhất và bộc lộ rất nhiều tồn tại. Vì vậy năm 1993 Nhà nớc ban
hành nghị định 43 về BHXH nhằm mục đích khắc phục một phần yếu kém trớc
đây, đồng thời giúp cho lĩnh vực BHXH dần dần đi vào thế ổn định.
Nghị định 43 ra đời là rất kịp thời và đáp ứng đợc nguyện vọng của
ngời lao động và ngời sử dụng lao động, đáp ứng đợc yêu cầu, sự đòi hỏi cấp bách của
Nhà nớc về quản lý lĩnh vực này.

Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế thị trờng, tất các ngành,
các chính sách kinh tế xã hội khác đã chuyển đổi mà BHXH cha chuyển đổi kịp
thời, còn các chính sách BHXH trớc đây không còn phù hợp về nhiều khía cạnh khác
nhau nh tổ chức hình thành, chế độ tiền lơng, ký kết hợp đồng... cho nên Nghị định
43 ra đời là phù hợp với nền kinh tế. Đặc biệt BHXH phải hoà nhập với BHXH quốc
tế.
Bên cạnh đó BHXH là một chính sách không thể thiếu đợc. Vì vậy, ngời lao
động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc đều rất quan tâm bởi lẽ ngời lao động không
còn đợc hởng chế độ bao cấp nh trớc nữa và Nhà nớc không đủ khả năng để bao cấp
nữa. Cho nên để đáp ứng đợc những nhu cầu này đòi hỏi phải có văn bản thống nhất.
Tiếp đó năm 1995 Nhà nớc còn ban hành Nghị định 12/CP về BHXH nhằm
khắc phục một số điểm bất hợp lý và không phù hợp của các văn bản trớc đây trong đó
có cả Nghị định 42 và cũng năm này Nhà nớc còn ban hành Nghị định 19/CP về tổ
chức sự nghiệp BHXH Việt Nam. Đây là một trong những mốc quan trọng nhất của sự
nghiệp BHXHVN kể cả đổi mới về khâu tổ chức.Đồng thời cũng năm này còn ban
hành điều lệ BHXHVN cho phù hợp với cơ chế thị trờng.
2. Tổ chức BHXH.
BHXHVN đợc tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ Trung ơng đến địa phơng
có cơ cấu nh sau:
- ở Trung ơng có BHXHVN
- ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng (gọi chung là tỉnh) là BHXH
tỉnh trực thuộc BHXHVN.
- ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) là
BHXH huyện trực thuộc BHXH tỉnh.

Cơ quan quản lý cao nhất của BHXHVN là hội đồng quản lý
BHXHVN. Hội đồng quản lý BHXHVN gồm có: Chủ tịch, 1 phó chủ tịch và
các thành viên do thủ tớng chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Thành viên
của Hội đồng quản lý bao gồm đại diện có thẩm quyền của Bộ lao động Th7



ơng binh và Xã hội, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và
Tổng giám đốc BHXHVN.

Sơ đồ hệ thống tổ chức BHXHVVN từ sau Nghị định 19/CP:

Ghi chú:

Thông tin chỉ đạo
Thông tin báo cáo

8


3. Quỹ BHXH.
Trong cơ chế mới, theo Nghị định 43CP của Chính phủ ra ngày 22/6/1993
quy định quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách
Nhà nớc do:
- Ngời sử dụng lao động đóng góp 15% quỹ lơng.
- Ngời lao động đóng góp 5% tiền lơng.
- Trợ cấp của ngân sách Nhà nớc.
Ngoài ra quỹ này còn đợc bổ sung thêm phần lãi xuất do đầu t mang lại và các
tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm đóng góp.

Nhờ có cơ chế mới này nguồn thu quỹ BHXH đã không ngừng tăng
lên và có thể đáp ứng đợc nhu cầu chi phí BHXH. Tuy nhiên nguồn quỹ này
tăng là do hiện nay ngời phải đóng nhiều, trong khi đó ngời đợc hởng cha
nhiều, số đang đợc hởng thì vẫn do ngân sách Nhà nớc đảm nhiệm vì quỹ
BHXH là xơng sống. Cho nên quỹ BHXH cha vững chắc do vậy ngay từ
bây giờ Nhà nớc phải có chính sách hợp lý. Bởi vì chúng ta đang phấn đấu

quỹ BHXH nằm ngoài ngân sách, tơng lai quỹ BHXH không còn ngân sách
tài trợ nữa. Và lúc đó ngời đợc hởng BHXH cũng tăng lên. Sự tăng lên đó do
nhiều nguyên nhân khác nhau nh ngời đợc hởng tăng nhanh hơn ngời phải
đóng, thời gian hởng trợ cấp dài hơn. Do tuổi thọ của dân c ngày một tăng,
hiện nay tuổi thọ bình quân sẽ tăng lên 70,4 tuổi đến 75,4 tuổi và đến năm
2030 là đến 72,4 đến 74,4 tuổi. Điều này cho thấy phải có sự điều chỉnh
trong chính sách phát triển quỹ BHXH, việc này có thể bằng nhiều cách:
tăng thêm tỷ lệ đóng hoặc kéo dài thời gian đóng bằng cách tăng tuổi nghỉ hu hoặc tính lại mức hởng của từng chế độ, trong đó đặc biệt lu ý dùng lơng 5
năm cuối trớc khi nghỉ hu làm căn cứ tính mức hởng. Để thấy rõ hơn ta có
thể tham khảo bảng số liệu sau.
Dự báo những yếu tố ảnh hởng đến quỹ BHXH.
Năm
1997
2000
2010
2020
2030
Số ngời đóng BHXH (nghìn)
3100
3271
4406
5233
5897
Số hởng BHXH (nghìn)
Trong đó:

1792

1802


1739

1808

1867

;

1732
60

1635
167

1195
544

706
1102

290
1577

7,9

11,6

23,4

35,1


49,6

Chi BHXH (nghìn tỷ)

5,9

8,7

17,9

33,4

63

Chênh lệch thu chi (nghìn tỷ)

+2,0

+2,8

+5,5

+1,8

-13,5

Hởng trớc năm 1995

; Hởng sau năm 1995

Thu BHXH (nghìn tỷ)

Qua bảng số liệu trên ta thấy chênh lệch thu-chi ngày càng giảm
chứng tỏ số ngời đợc hởng BHXH ngày càng tăng trong tơng lai và họ đợc hởng nhiều hơn họ đóng.
4. Hệ thống các chế độ
9


Bắt đầu từ nghị định 43 trở lại đây, BHXHVN thực hiện 5 chế độ
BHXH sau đây:
4.1 Chế độ trợ cấp ốm đau
Con ngời sinh ra, lớn lên và chết đi nó nh là một qui luật vận động tự
nhiên, tất yếu của xã hội. Trong quá trình vận động đó con ngời nói chung và
ngời lao động nói riêng không thể tranh khỏi ốm đau. Đặc biệt với ngời lao
động, là ngời tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy khi họ bị ốm đau phải
đợc nghỉ nghơi, điều trị an dỡng. Trong thời gian này họ đợc xét hởng trợ
cấp BHXH thay vì tiền lơng, mức hởng trợ cấp đợc quy định nh sau:
- Tất cả ngời lao động nghỉ việc và ốm đau, tai nạn, rủi ro mà có xác
nhận của tổ chức y tế do bộ y tế quyết định đợc hởng chế độ trợ cấp ốm đau,
trừ những ngời tự huỷ hoại sức khoẻ do say rợu hoặc dùng chất ma tuý thì
không đợc trợ cấp ốm đau.
- Với những ngời lao động làm việc ở điều kiện bình thờng thì đợc hởng tối đa 30 ngày trong một năm, nếu đã đóng BHXH dới 15 năm. Đợc hởng 40 ngày trong năm nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến dới 30 năm. Đợc
hởng 50 ngày trong một năm nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên.
- Đối với những ngời lao động làm các nghề hoặc công việc nặng
nhọc, độc hại, làm việc ở những nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên
thì đợc hởng 40 ngày trong một năm, nếu đóng BHXH dới 15 năm; 50 ngày
trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 15 đến 30 năm và đợc hởng 60 ngày
trong một năm nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên.
Mức tự cấp của những ngời mắc bệnh cần chữa từ 180 ngày trong một
năm trở lên bằng 65% - 70% mức lơng hởng trớc khi ốm đau.

Với ngời lao động có con thứ 1, thứ 2 dới 7 tuổi bị ốm đau thì đợc
nghỉ chăm sóc con và đợc hởng trợ cấp BHXH. Và nếu ngời lao động thực
hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số thì thời gian nghỉ do bộ y tế quy
định và cũng đợc hởng trợ cấp BHXH.
ở Việt Nam khi thực hiện chế độ trợ cấp này có u điểm sau:
- Đáp ứng đợc nguyện vọng, nhu cầu của ngời lao động trong thực tế
giúp họ yên tâm lao động sản xuất để từ đó góp phần tăng năng suất lao
động.
- Trong vòn hơn 30 năm thực hiện, các chế độ này đã thực hiện cho
hàng chục triệu lợt ngời bị ốm đau, đặc biệt là những ngời làm trong ngành
nghề nặng nhọc, độc hại, từ đó góp phần ổn định cuộc sống cho gia đình họ,
đặc biệt thời kỳ chiến tranh.
Mặc dù đã đạt đợc một số u điểm nhng khi thực hiện chế độ này vẫn
còn tồn tại một số điểm sau:
- Khâu giám định y khoa quá dễ dãi, vì vậy phát sinh hiện tợng tiêu
cực làm thâm hụt quỹ BHXH.
- Việc quản lý chế độ này còn lỏng lẻo và thiếu sự kiểm tra, kiểm soát.

10


- Khi xét trợ cấp cho chế độ này còn mang tính bình quân giữa các
ngành nghề cho nên không khuyến khích ngời lao động làm những ngành
nghề nặng nhọc, độc hại.
4.2 Chế độ trợ cấp thai sản.
Nh chúng ta đã biết phụ nữ có vai trò chủ yếu trong việc tái sản xuất
con ngời, tạo ra những sản phẩm tinh thần cho xã hội, và chiếm hơn một nửa
lực lợng lao động trong xã hội. Do vậy trợ cấp thai sản cho lao động nữ là rất
cần thiết và quan trọng, giúp lao động nữ sinh và nuôi con tốt hơn. Cụ thể
chế độ hởng nh sau.

Lao động nữ có thai sinh con thứ nhất, thứ hai đợc hởng trợ cấp theo
những nội dung sau:
- Trớc khi sinh con, đối với ngời làm việc trong điều kiện bình thờng
đợc nghỉ ba ngày trong ba lần đi khám thai. Trong trờng hợp ngời lao động
có thai làm việc ở xa tổ chức y tế hoặc ngời mang thai có bệnh lý, thai không
bình thờng thì đợc nghỉ 2 ngày cho mỗi lần đi khám thai, trờng hợp xảy thai
thì đợc nghỉ 20 ngày nếu thai dới 3 tháng, 30 ngày nếu thai 3 tháng trở lên.
- Sau khi sinh con, với những ngời làm việc ở điều kiện bình thờng thì
đợc nghỉ 4 tháng. Còn trong điều kiện hệ số khu vực là 0,5 - 0,7 thì đợc nghỉ
4 tháng. Nếu hệ số khu vực là một và làm việc ở điều kiện độc hại thì đợc
nghỉ 6 tháng. Hết thời hạn nghỉ nếu muốn nghỉ thêm phải đợc sự đồng ý của
ngời sử dụng lao động và không đợc hởng trợ cấp. Nếu đã làm trớc thời hạn
nghỉ thì phải báo trớc 1 tuần lễ và đợc hởng trợ cấp theo quy định.
Ngời lao động nam hay nữ nếu muốn nuôi con sơ sinh theo quy định
của luật hôn nhân và gia đình thì đợc nghỉ việc và đợc hởng trợ cấp BHXH 4
tháng, mức hởng là 100% lơng làm căn cứ đóng BHXH. Việt Nam khi thực
hiện chế độ này có u điểm:
- Góp phần động viên chị em phụ nữ yên tâm và hăng hái lao động sản
xuất. Đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh.
- Góp phần làm giảm tỷ lệ suy dinh dỡng khi sinh đẻ.
- Góp phần thực hiện quyền bình đẳng về mọi mặt giữa nam và nữ.
Những tồn tại:
+ Có những thời kỳ việc quy định thời gian nghỉ đẻ của lao động nữ
còn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn.
+ Đại đa số lao động nữ khi sinh đẻ bị suy dinh dỡng nghiêm trọng cả
mẹ và con.
+ Trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện nay chế độ này có ảnh hởng
tiếp tục đến công ăn việc làm của lao động nữ.
4.3 Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Ngời lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp,

Nhà nớc hoặc cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm xét trợ cấp BHXH
để họ tiếp tục ổn định ổn định và duy trì cuộc sống. Những trờng hợp sau
đây đợc hởng trợ cấp:
11


- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm việc ngoài
giờ do yêu cầu của ngời sử dụng lao động.
- Bị tai nạn ngoài giờ làm việc, khi thực hiện công việc theo yêu cầu
của ngời sử dụng lao động.
- Bị tai nạn trên tuyến đờng đi và về đến nơi làm việc.
Ngời lao động đợc hởng trợ cấp tuỳ thuọc vào mức độ suy giảm khả
năng lao động đợc tính theo mức tiền lơng tối thiểu, nếu bị suy giảm từ 5%
đến 30% thì đợc hởng trợ cấp một lần, nếu từ 31% đến 100% thì đợc hởng
trợ cấp hàng tháng. Mức độ hởng phụ thuộc vào từng khoảng tỷ lệ mất sức
lao động.
Việt Nam khi thực hiện những chế độ này có một số điểm sau:
+ Còn nhầm lẫn giữa tai nạn lao động và tai nạn giao thông.
+ Khâu giám định y khoa có những lúc, những nơi cha nghiêm túc và
đặc biệt chúng ta cha định kỳ giám định lại y khoa. Vì vậy việc sử dụng và
bố trí lao động không hợp lý và cha có hiệu quả.
+ Khi xét trợ cấp chế độ này vẫn còn mang tính bình quân giữa các
ngành nghề cho nên cha khuyến khích ngời lao động làm việc ở những
ngành nghề độc hại.
4.4 Chế độ trợ cấp hu trí
Ngời lao động khi hết tuổi lao động họ phải đợc nghỉ ngơi an dỡng bởi
lẽ sau một thời gian cống hiến cho Nhà nớc, cho cơ quan, doanh nghiệp thì
sức khoẻ bị giảm sút nghiêm trọng. Tuy nhiên thời gian này có một số nhu
cầu họ không giảm đi mà còn tăng lên. Vì vậy họ vẫn tiếp tục đợc xét BHXH
dới hình thức tiền hu trí.

Quy định năm công tác với nữ là 55 tuổi và 60 tuổi đối với nam, nếu
làm việc ở điều kiện nặng nhọc, độc hại thì công tác đóng BHXH hạ xuống
20 năm (trớc đây là 15 năm). Thay chế độ mất sức trớc đây, điều kiện nghỉ
hu còn quy định ba trờng hợp đợc hởng thấp hơn tuổi nghỉ hu năm đủ 60, nữ
đủ 55 có 15 năm đóng BHXH hoặc nam đủ 50 nữ đủ 45 có hai mơi năm
đóng BHXH trong đó có 15 năm làm việc nặng nhọc, độc hại, mất sức 61%
trở lên thì không phụ thuộc vào tuổi đời.
Mức hởng có sự tiến bộ hơn trớc, điểm khởi đầu là 15 năm đợc hởng
45% lơng bình quân 5 năm về cuối và cao nhất là 75%.
ở Việt Nam khi thực hiện chế độ này mặc dù đã đạt đợc một số u
điểm rất cơ bản sau:
- Giúp cho hàng triệu ngời về hu có cuộc sống ổn định, tạo ra một tâm
lý yên tâm ổn định khi lao động sản xuất bởi vì họ biết rằng sau khi về hu họ
vẫn tiếp tục đợc xét trợ cấp BHXH.
- Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nớc đã động viên đợc rất nhiều đang
trong quá trình lao động sản xuất đi chiến đấu bởi vì thời gian làm nghĩa vụ
cũng đợc tính là thời gian công tác liên tục để đực tình trợ cấp BHXH.
12


Tuy nhiên chế độ này hiện nay là một trong những chế độ có nhiều
tồn tại nhất và khó giải quyết.
- Đại đa số những ngời về hu hiện nay ở nớc ta cha đủ tuổi quy định.
- Chúng ta cha bóc tách một cách cụ thể các chế độ u đãi xã hội ra
khỏi chế độ hu trí.
- Đại đa số những ngời đã về hu ở Việt Nam hiện nay có cuộc sống rất
khó khăn bởi vì thu nhập thấp, tiền lơng hu thấp. Thêm vào đó có những lúc,
những nơi tiền lơng hu đợc nhận không đúng kỳ hạn cho nên cuộc sống của
họ lại càng khó khăn hơn.
4.5. Chế độ trợ cấp tiền tuất.

Ngời lao động không may bị chết thì Nhà nớc, cơ quan doanh nghiệp
phải có trách nhiệm đối với những ngời còn sống trong gia đình họ bao gồm
bố mẹ già không nơi nơng tựa, con cái cha đến tuổi trởng thành. Nó có vai
trò rất quan trọng thể hiện tính nhân đạo cao cả sâu sắc của BHXH.
Khi ngời lao động đang làm việc bị chết thì gia đình đợc hởng 8 tháng
lơng tối thiểu. Hiện nay mức lơng tối thiểu là 144.000VNĐ, nếu ngời lao
động chết còn nuôi con dới 15 tuổi hoặc 18 tuổi.
Nếu ngời đợc ngời chết đó nuôi dỡng, sau khi ngời lao động chết
không còn ai nuôi dỡng thì đợc nhận trợ cấp 70% lơng tối thiểu hàng tháng.
Trong trờng hợp vẫn còn ngời nuôi dỡng thì vẫn đợc hởng 40% lơng
tối thiểu/Tháng. Số ngời đợc nhận tiền tuất tối đa 4 ngời. Nếu không có thân
nhân của ngời chết thuộc diện hởng trợ cấp hàng tháng thì gia đình đợc hởng
trợ cấp một lần phụ thuộc vào thời gian đóng BHXH và phụ thuộc vào ngời
đó đã và đang hởng trợ cấp hu trí hoặc trợ cấp bệnh nghề nghiệp, tai nạn là
bao nhiêu rồi.
Đây là chế độ mang tính nhân đạo nhất của BHXH. Vì thế khi tiến
hành BHXH quốc gia nào cũng phải thực hiện chế độ này. Khi thực hiện chế
độ này, Việt Nam còn một số điểm sau:
- Có những lúc, những nơi ngời ta còn lợi dụng cả ngời chết.
- Có những lúc, những nơi khi giải quyết chế độ này còn chậm chễ, vì
vậy đã ảnh hởng đến tâm t, tình cảm của những ngời còn sống.
Trên đây là 5 chế độ của BHXHVN. Ngoài 5 chế độ chi trả này Nhà
nớc còn đề ra chế độ dành cho chi trả quản lý xã hội và sự nghiệp quản lý
BHXH.
III. sự cần thiết phải đổi mới hoạt động BHXHVN

1. Quan điểm đổi mới:
BHXH đã ra đời hơn 30 năm nay ở nớc ta, trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử khác nhau, chính sách và các chế độ BHXH đã qua nhiều lần sửa đổi.
Có thể nói rằng BHXHVVN đã có hiệu quả hết sức to lớn, nó đã góp phần

ổn định đời sống của ngời lao động trong biên chế Nhà nớc, đảm bảo đời
sống của gia đình họ, động viên họ gắn bó với chế độ, tin tởng vào đờng lối
chính sách của Đảng, hăng hái trong lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ
13


xây dựng tổ quốc, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới đất nớc. Đặc
biệt từ khi chính phủ quyết định thành lập ngành BHXH theo hệ thống dọc
và ban hành bộ luật lao động, điều lệ BHXH thì hoạt động BHXH đã có
những chuyển biến đáng khích lệ, nó đảm bảo tốt hơn các quyền lợi BHXH
cho ngời lao động. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện trong nền kinh tế thị
trờng song cũng không tránh khỏi và còn nhiều hạn chế, vì vậy nó cũng cha
thực sự tạo đợc động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo công
bằng xã hội, ổn định đời sống ngời lao động và gia đình của họ cả khi còn
lao động hoặc khi đã nghỉ.
Hiện nay nớc ta đang thực hiện đờng lối đổi mới, xây dựng nền kinh
tế thị trờng theo định hớng XHCN, đồng thời thực hiện đờng lối kinh tế mở
cửa, tăng cờng quan hệ hợp tác với các nớc trên thế giới. Với đờng lối chính
sách đó các doanh nghiệp Nhà nớc đang chuyển sang cơ chế sản xuất kinh
doanh gắn với thị trờng và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn
chất lợng. Kinh tế hộ gia đình, các doanh nghiệp t nhân, các đơn vị kinh tế
liên doanh với nớc ngoài và công ty 100% vốn nớc ngoài ngày càng phát
triển. Cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế trên cả nớc cũng thay đổi, số ngời
lao động làm trong các doanh gnhiệp Nhà nớc, t nhân và liên doanh, làm
thuê trong các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài ngày càng nhiều. Đồng
thời do thực hiện đờng lối kinh tế đổi mới, phát triển nên thu nhập của ngời
lao động ngày càng nâng cao. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế xã hội và cơ chế
quản lý kinh tế xã hội cũng nh thay đổi theo hớng đi lên của đời sống ngời
lao động, nh vậy đơng nhiên đòi hỏi các chính sách kinh tế xã hội nói chung
và chính sách chế độ BHXH nói riêng cũng phải đổi mới cho đồng bộ, phù

hợp. Trong văn kiện Đại hội 8 của Đảng đã xác định: Mở rộng chế độ
BHXH đối với ngời lao động thuộc các thành phần kinh tế, áp dụng bắt buộc
đối với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức quản lý và sử dụng tốt các quỹ
BHXH, bảo đảm đời sống của ngời về hu. Và đổi mới phải đợc thực hiện
một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nhằm mục đích tạo điều kiện cho
chính sách BHXH nớc ta nhập đợc với BHXH quốc tế.
Thực hiện đờng lối trên của Đảng, công tác hoạt động BHXH trong
thời gian tới phải tiến hành đổi mới theo phơng hớng dới đây.
2. Nội dung đổi mới
2.1 Đổi mới về nhận thức BHXH.
Ngày nay BHXH không còn là sự đảm bảo điều kiện vật chất và tinh
thần của Nhà nớc đối với ngời lao động nữa, mà là sự đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động khi họ bị giảm, mất khả năng
lao động hoặc mất việc làm bằng một quỹ tài chính độc lập và tập trung, đợc
hình thành bằng cách tồn tích dần sự đóng góp của ngời sử dụng lao động,
ngời lao động và có sự hỗ trợ của Nhà nớc. Quỹ này do ngành BHXH đảm
nhận thu, quản lý và tổ chức chi trả cho ngời lao động.
Nh vậy BHXH tồn tại và phát triển là trên cơ sở mối quan hệ ba bên,
bên tham gia BHXH gồm: ngời sử dụng lao động phải đóng BHXH để đảm
bảo quyền lợi cho ngời lao động và Nhà nớc cũng là bên tham gia đóng góp
14


quỹ BHXH. Bên đợc nhận BHXH là những ngời lao động có tham gia đóng
BHXH. Bên thứ ba là ngành BHXH. Nhờ có chế độ ba bên này nó đã thực
hiện đợc việc phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc, sự
dàn trải rủi ro theo cả không gian và thời gian vừa bảo đảm thu nhập thay thế
cho phần thu nhập theo nghề nghiệp đợc thay thế lại vừa mang tính xã hội
cao.
Đồng thời càng phải nhận thức BHXH không phải là ngành làm nhiệm

vụ ban phát chế độ cho ngời lao động mà là ngành đợc hình thành để đảm
nhận việc bảo vệ, đảm bảo quyền lợi BHXH theo chế độ chính sách cho ngời
lao động, hoạt động của BHXH là hoàn toàn theo luật định.
2.2 Phải xây dựng hệ thống BHXH có cơ cấu phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội của nớc ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN.
Trớc hết phải nhận thức rằng: cần phải thành lập hệ thống BHXH độc
lập thống nhất chuyên trách về BHXH, không nên để phân tán do nhiều
ngành quản lý đảm nhận nh trớc đây, hệ thống này đợc thành lập theo hệ
thống dọc do Nhà nớc tổ chức ra và bảo hộ đặc biệt, thực hiện bắt buộc đối
với khu vực do Nhà nớc trả lơng từ ngân sách và khu vực ngời lao động làm
công ăn lơng có quan hệ lao động, mặc dù hệ thống BHXH này do Nhà nớc
lập ra và bảo hộ đặc biệt nhng Nhà nớc không nên và không thể quản lý, tổ
chức thực hiện trực tiếp nh đã làm trớc đây mà phải để nó tồn tại và hoạt
động độc lập theo quy định của pháp luật.
Hệ thống BHXH theo nghị định 12/ CP ngày 26/1/1995 của chính phủ
gồm ba cấp: trung ơng, tỉnh huyện, thành phố. Để hệ thống chuyên trách này
thực hiện chức năng, nhiệm vụ thì cần thiết phải hình thành nên một mạng lới các đại lý ở các đơn vị sử dụng lao động và các xã phờng, thị trấn. Đây
chính là các chân rết của BHXH để trực tiếp quản lý, tuyên truyền giải thích
chính sách chế độ BHXH và thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho ngời lao
động.
2.3 Đổi mới cơ chế quản lý BHXH
Theo chủ trơng tách quản lý Nhà nớc về BHXH ra khỏi hoạt động
quản lý kinh tế và nghiệp vụ chuyên môn của BHXH, tách quỹ BHXH ra
khỏi ngân sách Nhà nớc để hình thành hệ thống tổ chức quản lý Nhà nớc đối
với BHXH riêng và hệ thống tổ chức quản lý kinh tế chuyên môn nghiệp cụ
BHXH riêng. Đây là quan điểm hoàn toàn phù hợp tình hình quản lý hiện
nay. Theo quan điểm này thì Nhà nớc đối với BHXH phải đảm bảo tính
thống nhất, tính nhất quán và chỉ đạo thực hiện trên tầm vĩ mô đối với những
vấn đề lớn, những mối quan hệ lớn và cơ bản của BHXH. Những giới hạn
quan trọng trong hệ thống các chế độ trợ cấp bằng pháp luật cũng nh một số

công cụ cần thiết khác. Không nên để tồn tại cơ chế cũ vừa quản lý Nhà nớc
vừa thực hiện nghiệp vụ BHXH ở cùng một ngành, điều này dẫn đến lẫn lộn
chức năng quản lý Nhà nớc và chức năng thực hiện.
Theo hớng tách này thì BHXH là ngành độc lập, xong chỉ là cơ quan
chức năng thực hiện các chế độ chính sách BHXH cho ngời lao động. Nh
15


vậy BHXH chỉ là thực hiện theo luật định, không thể tự xây dựng chế độ
chính sách ban hành chế độ chính sách BHXH đợc
Về mối quan hệ giữa BHXH với chế độ tiền lơng, cần đợc lựa chọn
mức độ quan hệ phù hợp với tính chất hoạt động và sự biến động của từng
lĩnh vực trong nền kinh tế thị trờng, với viên chức Nhà nớc và lực lợng vũ
trang do Nhà nớc trả lơng từ ngân sách thì có thể thực hiện mối quan hệ chặt
chẽ giữa BHXH đối với mức lơng hu cá nhân ngời lao động và quỹ lơng của
chủ sử dụng lao động. Đối với khu vực sản xuất kinh doanh thì phải lựa chọn
quan hệ mềm dẻo cho phù hợp, là căn cứ vào mức lơng cơ bản theo thang
bảng lơng cấp bậc, chức vụ, nghề nghiệp và không nên áp dụng cơ chế tiền lơng thực tế. Riêng các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu
t 100% vốn của nớc ngoài thì phải vận dụng một cơ chế tiền lơng sao cho
phù hợp với từng địa phơng, từng vung. Không nên cứng nhắc và máy móc,
cần lấy một mức bình quân theo từng vùng, từng tỉnh vì ta cha thể kiểm soát
đợc tiền lơng và thu nhập của khu vực này.
2.4 Đổi mới chế độ chính sách BHXH
Chính sách BHXH là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh
tế xã hội của Nhà nớc ta. Vì vậy không thể đổi mới chính sách BHXH một
cách đơn lẻ mà phải đợc tiến hành đồng thời với sự đổi mới đồng bộ của các
chính sách kinh tế xã hội có liên quan nh chính sách u đãi xã hội, chính sách
tiền lơng (tiền lơng, việc làm, bảo hộ lao động, bảo hiểm y tế, quản lý lao
động... )
Mặt khác, chính sách BHXH đợc đề ra phải xuất phát từ đòi hỏi thực

tế của cuộc sống, song phải tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị xã hội
của đất nớc trong từng thời kỳ, đồng thời chính sách ra sau phải mang tính
kinh tế và có tính phát triển u việt hơn.
Chính sách chế độ BHXH không phải là một vấn đề cố định cứng
nhắc mà nó tính nguyên tắc và ổn định trong thời gian nhất định, nó luôn đợc sửa đổi điều chỉnh cho ngày càng hoàn thiện và tốt hơn, chế độ chính
sách BHXH phải xuất phát từ quyền lợi và bảo vệ của ngời lao động.
2.5 Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trớc
hết cần có con ngời XHCN. Con ngời là chủ thể của mọi hoạt động, cán bộ
quyết định hết thảy mọi công việc: BHXH là ngành phục vụ, bảo vệ và thực
hiện chế độ quyền lợi cho ngời lao động, vì vậy muốn BHXH thực hiện tốt
vai trò chức năng của mình phải có quan điểm đúng về việc lựa chọn, đào tạo
bồi dỡng, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH các cấp.
Quan điểm này phải thể hiện rõ ngời làm công tác BHXH nhất thiết phải am
hiểu về chế độ chính sách BHXH, phải có tâm, có đức, trong đó cái tâm là
cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên cũng phải có quan điểm đào tạo bồi dỡng đội
ngũ cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nớc.
Những định hớng cơ bản trên đây là sự thể hiện những quan điểm lớn
của Đảng và Nhà nớc về BHXH. Đảng ta luôn xác định BHXH là chính sách
16


lớn của Đảng và Nhà nớc, góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho ngời lao
động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng
đất nớc, bảo vệ tổ quốc.

phần III
một số kiến nghị
BHXH là một chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia vì nó

liên quan đến đời sống của đông đảo ngời lao động, vì vậy quản lý BHXH là
nhiệm vụ quan trọng của hệ thống BHXH.
Trớc hết xét về mặt xã hội của BHXH là sự tơng trợ cộng đồng. Khi
ngời lao động gặp phải những rủi ro nh ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, già yếu
thì đợc trợ cấp. Nguồn tài chính bảo đảm việc trợ cấp là trích góp từ thành
quả lao động của ngời lao động.
Xét về mặt kinh tế BHXH là sự phân phối lại thu nhập mọi ngời lao
động, mọi đơn vị sử dụng lao động đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH
để trợ cấp cho những ngời lao động gặp phải rủi ro. Hai mặt xã hội và kinh tế
của BHXH gắn chặt với nhau không thể tách rời và đó chính là bản chất của
BHXH. Vì vậy BHXH là hiện tợng tự phát cục bộ mà đối tợng là phạm vi mở
rộng khi liên quan nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội khác cần có sự quản lý
của Nhà nớc, đó là một yêu cầu khách quan chỉ có Nhà nớc mới đủ khả năng
điều chỉnh các quan hệ liên quan đến BHXH. Sự quản lý của Nhà nớc về
chính sách BHXH thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp
quy về BHXH và ban hành thực hiện rồi hớng dẫn kiểm tra, thanh tra và các
tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách. Việc đảm bảo vật chất của BHXH thì
vao trò quản lý của Nhà nớc phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nớc
quy định. Ngoài việc quản lý của Nhà nớc về đảm bảo vật chất cần xem xét
sự bảo trợ của Nhà nớc đối với vấn đề này một khi đã thực hiện nguyên tắc
hạch toán độc lập và tự chủ về tài chính mà bản chất của BHXH là sự tơng
trợ cộng đồng, BHXH mang tính nhân đạo, nhân văn rất cao và đóng góp
tích cực vào sự đảm bảo an toàn xã hội.
BHXH có đặc điểm là thực hiện liên tục tiếp diễn từ năm này sang
năm khác, vì thế trong công tác quản lý phải sử dụng những phơng tiện đảm
bảo cho việc theo dõi đối tợng chặt chẽ việc thu BHXH, quản lý BHXH, việc
17


chi trợ cấp đúng quy định những phơng tiện quản lý BHXH bao gồm sổ

sách, biểu mẫu, dung nạp đầy đủ thông tin cần thiết có tính pháp lý và bảo
đảm những quy định và hành chính. Học tập kinh nghiệm quản lý BHXH
của các nớc để có thể áp dụng một loại hình nào đó sao cho phù hợp với điều
kiện và tình hình ở nớc ta hiện nay.
BHXHVN là một tổ chức mới đợc thành lập, lại phải đảm nhiệm một
khối lợng công việc rất lớn, bởi vậy phơng tiện và điều kiện làm việc còn
thiếu đồng bộ, bộ máy nhân sự còn cha hoàn chỉnh phù hợp với yêu cầu
quản lý BHXH trong cơ chế mới. Đòi hỏi cán bộ quản lý phải có trình độ
chuyên môn về tài chính, kế toán, có trách nhiệm để quản lý quỹ đợc tốt
hơn.
Cần tiến hành khẩn trơng công tác đăng ký, cấp sổ BHXH cho mọi đối
tợng tham gia, sổ BHXH là chứng từ để theo dõi chặt chẽ thu chi quỹ BHXH
và chế độ mức hởng của đối tợng tham gia.
Quỹ BHXH hiện nay đợc quản lý theo chế độ tự quản và tự chịu trách
nhiệm của cơ quan BHXHVN. Quỹ phải đợc quản lý theo nguyên tắc thu
phải đủ chi trả cho các đối tợng. Vì vậy quỹ BHXHVN luôn luôn đổi mới
một cách toàn diện và phát huy vai trò tiềm năng vốn có để ngày càng hoàn
thiện, phát triển đảm bảo tăng trởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội.

Kết luận
BHXHVN ra đời từ năm 1961, tuy còn nhiều hạn chế nhng từ khi thực
hiện đến nay nó luôn là công cụ đắc lực cho Đảng và Nhà nớc ta thực hiện
các chính sách về bảo đảm xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh
tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng có sự điều
tiết của Nhà nớc thì hệ thống BHXH cũ đã bộc lộ rõ những điểm yếu của
mình, đòi hỏi phải đổi mới cho phù hợp. Đáp ứng yêu cầu đó, hệ thống
BHXH mới ra đời hoạt động đúng hớng trong nền kinh tế thị trờng.
18



BHXH vẫn tồn tại và phát triển là phù hợp với nhu cầu của mọi ngời
dân lao động và sự ổn định về kinh tế - xã hội trong chính sách xã hội của
mỗi quốc gia. Phát triển BHXH nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
và thực hiện chính sách đảm bảo xã hội là một định hớng chiến lợc của Đảng
và Nhà nớc, hoàn toàn phù hợp với xu hớng hiện nay của các nớc, BHXHVN
sẽ cùng với sự nghiệp xây dựng đất nớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện
dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tuy em đã có cố gắng học hỏi song đề án này không thể tránh khỏi
thiếu sót. Vì vậy em rất mong sự chỉ bảo, góp ý của thầy để đề án này đợc
hoàn thiện hơn.

tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - Trờng đại học kinh tế quốc dân - Hà Nội
1994.
2. Bài giảng của PTS Nguyễn Văn Định.
3. Các văn bản pháp luật về BHXH ở Việt Nam.
; Điều lệ tạm thời, điều lệ chính thức về BHXH
; Nghị định 43CP, 12CP, 19CP và các văn bản đi kèm
; Một số thông tin trong công ớc 102 (1952) của tổ chức lao động thế
giới ILO
4. Tạp chí lao động xã hội
5. Tạp chí tài chính.

19


Mục lục
lời nói đầu
Phần I

Khái quát chung về BHXH
I
BHXH trong đời sống kinh tế xã hội
II
Những nội dung cơ bản về BHXH
1
Bản chất của BHXH
1.1
Đối tợng của BHXH
1.2
Vai trò và tính chất của BHXH
1.2.1 Vai trò của BHXH
1.2.2 Tính chất của BHXH
2
Quỹ BHXH
3
Hệ thống các chế độ BHXH
Phần II
BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trờng
I
Tình hình triển khai BHXHVN trớc Nghị định 43/ CP
1
Tổ chức triển khai
2
Kết quả thấy đợc
3
Những tồn tại và nguyên nhân của nó
3.1
Những tồn tại
3.2

Nguyên nhân tồn tại
II
Thực trạng BHXHVN sau Nghị định 43/CP
1
Sự ra đời của Nghị định 43/CP
2
Tổ chức BHXH
3
Quỹ BHXH
4
Hệ thống các chế độ BHXH
4.1
Chế độ trợ cấp ốm đau
4.2
Chế độ trợ cấp thai sản
4.3
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4.4
Chế độ trợ cấp hu trí
4.5
Chế độ trợ cấp tiền tuất
20

Trang
1

2
2
2
2

3
3
3
4
5
7
7
7
7
8
8
9
10
10
10
12
14
14
15
16
17
18


III
1
2
2.1
2.2
2.3

2.4
2.5

Sự cần thiết phải đổi mới hoạt động BHXHVN
Quan điểm đổi mới
Nội dung đổi mới
Đổi mới về nhận thức BHXH
Xây dựng hệ thống BHXH có cơ cấu phù hợp
Đổi mới cơ chế quản lý BHXH
Đổi mới chế độ chính sách BHXH
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH
Phần III
Một số vấn đề kiến nghị
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

21

19
19
20
20
21
21
22
23
24
26
27




×