Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận phương pháp luận kỹ NĂNG GIẢM LO LẮNG và CĂNG THẲNG (STRESS) TRONG học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.44 KB, 38 trang )

PHẦN I: KHÁI QUÁT ĐỀ TÀI

1.

Tên đề tài:
“ Kĩ năng giảm lo lắng và căng thẳng (stress) trong học tập
của sinh viên đại học Thăng Long.”

2.

Tính cấp thiết của đề tài:
a.

Lí do thực tiễn và lí luận
Hiện nay, stress là một hiện tượng diễn ra phổ biến và có tác động phức

tạp trong đời sống xã hội. Stress được rất nhiều các nhà khoa học ở nhiều ngành
nghề quan tâm và nghiên cứu như: y học, sinh học, tâm lý học… nhằm mục đích
đưa ra được những biện pháp tốt nhất để giảm những tác hại của stress. Những
nghiên cứu về stress cho thấy: Ở mức độ nào đó stress vừa là trở ngại, vừa là tác
nhân buộc con người phải phải vượt qua để tồn tại.
Khi ở mức độ nhất định, stress kích thích cơ thể hoạt động, huy động
năng lượng dự trữ, tạo thuận lợi cho hành động trong những điều kiện khó
khăn, nguy hiểm. Đây chính là mặt có lợi của stress. Tuy nhiên, stress thái quá sẽ
làm cho cơ thể kiệt sức, căng thẳng lo âu, kích động, mất ngủ, suy giảm hệ miễn
dịch, giảm khả năng lao động trí óc và chân tay … Trong trường hợp cơ thể
không tự điều chỉnh được để lấy lại cân bằng tâm sinh lý, stress có thể gây ra
bệnh tật ở con người. Đây là mặt có hại của stress cần được nghiên cứu và khắc
phục.
Không phải chối cãi hay tránh né, chắc chắn stress (căng thẳng) đã trở
thành một “yếu tố thời đại”. Stress tồn tại trong mọi nền văn hóa, mọi quốc gia,


và mọi mối quan hệ của con người trên thế giới này. Đặc biệt hơn, những người
sống tại các thành phố lớn, thành phố công nghiệp nói chung và những người làm
việc trong môi trường nhiều cạnh tranh sẽ có nguy cơ đối diện với nhiều vấn đề
gây stress hơn.
Đặc biệt đối tượng học sinh là những đối tượng cần được quan tâm nhiều
nhất vì đó là những thế hệ tương lai của đất nước và cũng là lực lượng nòng cốt
chủ yếu trong xã hội.


Ngày nay do sự phát triển của công nghệ hiện đại, kỹ thuật tinh vi,
nhịp độ sống và làm việc khẩn trương và sôi động, thông tin ngập tràn … đang
làm gia tăng sự căng thẳng tâm lý và chấn thương tinh thần ở con người. Stress
đang là nguyên nhân của những bệnh như: tim mạch, loét dạ dày, tiểu đường,
trầm cảm, tâm thần phân liệt…của con người hiện nay.
Xã hội càng hiện đại, nhịp sống ngày càng tăng và gấp gáp. Một mặt, sự
phát triển làm cho điều kiện sống ngày càng tốt hơn, mặt khác, là sự kéo theo các
tác nhân gây stress với tất cả mọi người. Ai cũng có thể bị stress. Stress có mặt ở
mọi biến cố đời người, nó dường như là một phần không thể thiếu trong cuộc
sống từ nam tới nữ, từ trẻ em, thanh niên tới người trưởng thành và người già. Tỷ
lệ chịu đựng stress đang gia tăng. Stress hiện diện khắp nơi trong cuộc sống với
mọi người và mọi lứa tuổi. Trẻ em đi học cũng bị stress vì áp lực bài vở, đầu
sách, chương trình học thêm, dạy thêm tràn lan. Trẻ em mất cơ hội chơi để phục
hồi sau stress.
Stress gặp ở lứa tuổi học sinh vì gánh nặng thì cử, học hành, vấn đáp.
Ở Việt Nam rối nhiễu tâm lý học đường (trong đó có stress) đã trở thành
vấn đề được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục, phụ huynh học sinh quan
tâm. Đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề học đường đã nhấn mạnh
cách yếu tố như sức ép xã hội, gia đình, chương trình học quá tải, tình trạng dạy
thêm học thêm, bệnh thành tích trong thi cử... là những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng stress học đường ngày càng tăng cao.

Hậu quả stress học đường có ảnh hưởng rất lớn tới sinh hoạt và học tập
của sinh viên. Sinh viên trở nên rất khó tập trung trong học tập, học hành sa sút ở
tất cả các môn bất chấp mọi nỗ lực cố gắng. Nặng hơn, học sinh có những hành
vi bột phát, thiếu kiểm soát như bỏ học, phá rối, bỏ nhà, đánh nhau thậm chí tự
sát hoặc trở nên loạn thần.

Lịch sử nghiên cứu về vấn đề stress của con người:

b.

Ngoài nước:
-

Những nghiên cứu về stress trước thế kỷ XX.

Trong lịch sử phát triển khoa học, mặc dù chưa hiểu bản chất của stress và
cơ chế của nó, nhưng bằng thực tiễn của cuộc sống, con người đă nhận thấy được


những tác hại của nó đối với sức khở và đã đề xuất cách chống stress có hại. Từ
thời Xuân thu Chiến Quốc (403-221 TCN), các danh y người Trung Quốc với
hơn 2000 năm kinh nghiệm, đă đúc kết những nguyên nhơn dẫn đến bệnh tật là
do:
Nguyên nhân bên ngoài: “lục khí - ngũ vận”, (tức là gió - rét, nắng - ẩm
thấp, khô hanh và nóng)
Nguyên nhân bên trong: do rối loạn 7 loại cảm xúc, còn gọi là “thất tình”
tức là:vui, giận, sầu bi, khoái lạc, yêu, ghét, đam mê.
Nguyên nhân do những biến cố trong đời sống như: thiên tai, tai nạn, bị
con vật cắn,
Sự đóng góp của Hooke bởi thuyết “tương đồng cấu trúc” và tư tưởng

“cơ thể như một cỗ máy” đặt nền móng cho hai tư tưởng khác có ảnh hưởng sâu
sắc đến khái niệm về stress. Đó là:
Thứ nhất, cơ thể được xem như cỗ máy là vật bị hư tổn và bào mòn.Sau
này, năm 1956 H.Selye cũng cho rằng stress tác động làm cơ thể “hư tổn và
bàomòn”.
Thứ hai, cỗ máy cần nhiên liệu để hoạt động, cơ thể để hoạt động được
cũng cần năng lượng.Tuỳ thuộc vào năng lượng - sản phẩm của hệ thần kinh, cơ
thể sẽ hoạt động hiệu quả, kém hiệu quả hoặc thậm chí ngừng hoạt động. Các nhà
khoa học nhanh chóng sử dụng những khái niệm “sự cạn kiệt năng lượng thần
kinh” và “những rối loạn thần kinh”
Thế kỷ XVIII, những “cảm xúc mạnh” như: trạng thái tinh thần bị kích
động, chứng hysteri, ảo tưởng được xem xét lại như một lời giải thích cho bệnh
tật. Khi dùng những trạng thái đó để giải thích, nhiều người đă đi tới kết luận “Ít
nhất 1/3 căn bệnh đều có nguồn gốc thần kinh”. Các nhà khoa học và lý luận phê
bình xă hội cùng thời cũng nhận định: “Hệ thần kinh của con người thích nghi
kém và không thể đương đầu với tính phức tạp đang ngày càng tăng của cuộc
sống hiện đại” (Dẫn theo 47, tr.4).
Thế kỷ XIX, George Beard - Bác sĩ thần kinh người Mỹ cho rằng: Cuộc
sống với những yêu cầu đầy áp lực là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự
quá tải của hệ thần kinh - “suy nhược thần kinh”. Tình trạng này được biểu hiện


bởi những triệu chứng như: lo âu không lành mạnh, mệt mỏi không rõ lý do, và
những nỗi lo sợ vô lý - mà nguyên nhân là do hệ thần kinh không có khả năng
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hàng ngày. G.Beard cũng cho rằng suy nhược
thần kinh là hậu quả của “một loại tổ chức xă hội nào đó”, và “cũng cố gắng làm
rõ vai trò của xă hội trong việc tạo ra những căn bệnh tâm thần” (Dẫn theo 47,
tr.5-7), chính ở khía cạnh này, nghiên cứu của ông vẫn còn giá trị cho tới ngày
nay.
Năm 1859, nhà sinh lý học Pháp, Claude Bernard, đă đưa ra khái niệm

“milieu intộrieur (môi trường bên trong cơ thể), xem cơ thể con người phức tạp
như một “tập hợp những tồn tại đơn giản, như là những nhân tố giải phẫu”. Khái
niệm này mô tả nguyên lý:Chính sự hoà hợp và ổn định của môi trường bên trong
được quyết định bởi môi trường bên ngoài (nhiệt độ, da thú .) là điều kiện để có
cuộc sống bình thường, tức là những thay đổi của môi trường bên ngoài sẽ không
ảnh hưởng đến cơ thể, nếu cơ thể bù trừ và làm cân bằng những thay đổi đó. Tuy
nhiên nếu chúng bị xáo trộn quá mức bình thường, con người sẽ đau ốm hoặc có
thể chết.Theo đó, chính hệ thần kinh đảm bảo chức năng điều tiết bằng cách sắp
đặt và làm hài hoà hoạt động của cơ thể.Ông nhấn mạnh, chỉ có động vật cao cấp
nhất trong sự phát triển chủng loại mới có hệ thần kinh làm được nhiệm vụ này.
Dựa vào sự phát hiện của Claude Bernard, các nhà nghiên cứu sau này đă khám
phá bản chất của những thay đổi thích ứng mà nhờ đó tình trạng ổn định được
duy trì.

-

Những nghiên cứu stress ở thế kỷ

XX. Trên thế giới:
Đầu thế kỷ XX, Walter Cannon - nhà sinh lý học trường Harvard (Mỹ)
người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thực nghiệm tương đối trong hệ thống
về những ảnh hưởng của stress qua các quan sát chi tiết của ông (1927) về sự
thay đổi của cơ thể khi bị đau đớn, đói và một số cảm xúc căn bản khác. Đặc biệt
trong tác phẩm nổi tiếng “Sự khôn ngoan của cơ thể” đă đưa ra khái niệm “tự


điều chỉnh, cân bằng nội mụi” (“homeostasis”) và khái niệm “chống trả hoặc bỏ
chạy” (“the fight or fight reaction”) (Dẫn theo 10, tr.7). dễ nhận thấy có một
trình tự hoạt tính được phát khởi trong các dây thần kinh và các tuyến nội tiết
nhằm chuẩn bị để có thể chiến đấu chống lại hoặc bỏ chạy để bảo toàn tính mạng

trước những đe doạ của ngoại cảnh. Con người nhanh chóng nắm được bản chất
của kích thích và những hành động bỏ chạy hay chiến đấu với kích thích. Thậm
chí, nếu không có hành động nào xảy ra, có thể giữ nguyên trong trạng thái thức
tỉnh một khoảng thời gian kèm theo là sự cảm nghiệm kích thích hàng loạt phản
ứng ở vị trí đầu tiên. “Homeostasis” là khuynh hướng của cơ thể trở về trạng thái
sinh lý trước khi xảy ra stress (thở, nhịp tim .). Trung tâm của đáp ứng với stress
là vùng dưới đồi, đôi khi được gọi là trung tâm stress là vì nó kiểm soát hệ thần
kinh tự chủ và hoạt hoá tuyến yên. Nghiên cứu của Cannon, đặc biệt khái niệm
“chống trả hoặc bỏ chạy” là tiền đề cho các nghiên cứu sau này.
Năm 1932, I.P.Pavlov cũng đă nêu ra đặc trưng của khái niệm “Tự điều
chỉnh, cơn bằng nội môi”: “ .Cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh, và là một hệ
thống tự điều chỉnh bản thơn ở mức cao nhất, hệ thống ấy tự duy trì bản thân, tự
hiệu chỉnh bản thân, tự cân bằng bản thân và thậm chí hoàn thiện bản thân”.
Sau Đại chiến thế giới lần II, W.H.Rivers, một bác sỹ tâm thần, cũng là
nhà nhân chủng học làm việc ở Anh, đă đặt ra những tiền đề cho các nhà nghiên
cứu khoa học ngày nay về tình trạng được gọi là rối loạn stress sau sang chấn.
Năm 1936, Hans Selye, nhà nội tiết học người Canada đă mở rộng nghiên cứu
của Cannon và là người đầu tiên theo phương pháp hiện đại nghiên cứu các ảnh
hưởng của stress nặng tác động liên tục lên cơ thể. Ông mô tả stress theo thuật
ngữ “Hội chứng thích nghi chung” (GAS: General Adaptation Syndrome) qua 3
giai đoạn (báo động, kháng cự và kiệt sức).
Giai đoạn thứ nhất (báo động và huy động sức lực): xảy ra khi người ta ý
thức sự hiện diện của tác nhân gây stress. Về mặt tâm lý, phân hệ thần kinh giao
cảm được kích thích trong suốt giai đoạn báo động và động viên này. Sự kéo dài
tình trạng phát động hệ thần kinh này có thể dẫn đến các rối loạn trong hệ tuần
hoàn máu hoặc bệnh loét dạ dày và cơ thể dễ mắc nhiều thứ bệnh khác.


Giai đoạn thứ hai (kiệt sức): Trong giai đoạn này, khả năng thích ứng với
tác nhân gây stress của con người sút giảm xuống đến mức các hậu quả tệ hại của

stress xuất hiện: bệnh cơ thể, các triệu chứng tâm lý dưới dạng mất khả năng tập
trung tinh thần, dễ cáu giận hoặc trong vài trường hợp bị mất định hướng và mất
khả năng tiếp xúc với thực tại. Theo một ý nghĩa nào đó người ta hoàn toàn kiệt
sức. Nếu stress chấm dứt, giai đoạn ba sẽ dẫn đến sự chết đi của một cơ quan nào
đó. Nghiên cứu của H. Selye giúp chúng ta hiểu tác động ngắn hạn của những sự
kiện gây stress đồng bộ.
H. Selye đă đóng góp ba thuật ngữ quan trọng là: eustress (stress tích
cực), neustress (stress hữu ích), distress (stress tiêu cực). Năm 1970, ông phân
làm

bốn

loại: eustress(stress

hữu

ích), distress (stress

tiêu

cực),

hyperstress (overstress: stress quá mức), và hypostress (understress: stress dưới
mức). Theo H. Selye, không phải tất cả các loại stress đều xấu, nhưng khi nói về
stress là người ta nghĩ đến stress tiêu cực (distress). H.Selye đă có hơn 1500 công
bố khoa học, và 30 cuốn sách chuyên khảo.Công tŕnh của ông cũn được tiếp tục
tại Đại học Selye - Toffler để xem xét những vấn đề thách thức của xă hội hiện
đại là căng thẳng thần kinh về thể xác, sự thay đổi và tương lai. Tuy nhiên đánh
giá về mô hình GAS chúng ta thấy mô hình hoàn toàn căn cứ vào các nhân tố
sinh lý nên không quan tâm đến các nguyên nhân tâm lý. Dù vậy mô hình vẫn đề

ra cơ sở cho việc tìm hiểu stress.
Năm 1972 Viện sĩ V.V.Parin đă nhận xét: “Khái niệm stress của H.Selye
đă thay đổi phần lớn quy tắc chữa trị và phòng ngừa hàng loạt bệnh. Quan điểm
của ông lúc đầu gặp không ít sự phản đối, bây giờ đă nhận được sự phổ biến rộng
khắp. Nói một cách tổng quát, học thuyết của nhà bác học Canada nổi tiếng này
có thể được coi là hệ thống luận điểm cơ bản, đặt nền móng cho sự phát triển của
khoa

học

y

học

hiện

đại”

(Dẫntheo10,tr.10)

Không quên công lao đóng góp và tiếp tục công tŕnh của ông, kể từ hội nghị quốc
tế tại Montreux (1988) đến nay đó cú gần 20 hội nghị về stress được tổ chức. Các
hội nghị là nơi quy tụ nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới nhằm loại bỏ đi
những rào cản đối với sự tiến bộ trong phương pháp nghiên cứu stress, đồng thời
trao giải thưởng “Hans Selye” cho những người có nhiều đóng góp cho việc
nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đă tŕnh bày về nhiều vấn đề khác nhau như: ảnh


hưởng của stress và cảm xúc đến sức khoẻ (Charles Spielberger); Nghiên cứu
stress trong bối cảnh thế giới thứ 3 (Nicola Malan); Tự nhận thức và sức khoẻ Tầm quan trọng của thái độ về sức khoẻ và bệnh tật (Daniel Goleman).

Nếu như trước đây, những tài liệu khoa học đă công bố về stress phần lớn
thuộc lĩnh vực sinh lý học và y học, ít đề cập đến khía cạnh tâm lý học của stress
thì trong những năm gần đây ngày càng có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề tâm
lý học của stress.
Những khái niệm: “Các biến cố quan trọng của cuộc sống” và “sự khủng
hoảng” đă gợi lên nhiều định hướng lý thuyết khác nhau trong nghiên cứu tâm lý
học
Gương mặt tiêu biểu là Adolf Meyer, người đứng đầu chuyên khoa Tâm
lý lâm sàng của Bệnh viện Johns Hopkins (Hoa Kỳ), đă đề xuất ra biểu đồ người
(life chart) làm công cụ chẩn đoán y khoa (50). Nghiên cứu của ông đă định
hướng cho sự phát triển một dụng cụ đo lường những biến cố đời sống và
stress(47).
Năm 1940, A.Meyer đă thiết lập một thư mục các biến cố của đời sống
như: chuyển nhà, thành công, thất bại, sinh tử .trong gia đình. Ông là người đầu
tiên đưa ra giả thuyết về sự liên hệ giữa các biến cố đời sống và bệnh tật . Kế
thừa kết quả nghiên cứu của A.Meyer, để ước lượng tỷ lệ tiêu hao sức khoẻ do
stress gơy nên, hai nhà nghiên cứu Hoa Kỳ là T.H.Holmes và R.H.Rahe cùng
cộng sự (1967) đă xây dựng “Thang sự kiện cuộc sống” (Life Events Sacle) gồm
43 biến cố của đời sống thuộc về gia đđ nh, cá nhân, việc làm, và tài chính. Mỗi sự
việc đều được ấn định một số điểm cố định, tiêu biểu cho số lượng đơn vị thay
đổi đời sống (L.C.Us = Life Change Units ). Cao điểm nhất là 100 điểm (LCUs)
cho biến có qua đời của người phối ngẫu.Trung bđ nh là 500 điểm (LCUs) cho việc
hôn nhơn. Thấp nhất là 11 điểm (LCUs) cho lỗi vi phạm nhỏ về pháp luật. Sau
khi áp dụng cho hàng ngàn người trong cuộc thí nghiệm, Homes và Rahe nhận
thấy tổng số điểm (LCUs) của những sự việc xảy ra cho một người, trong một
năm, đều có liên hệ trực tiếp và tỉ lệ thuận với tiêu hao sức khoẻ của người đó,
trong ṿng hai năm sau. Điều này có nghĩa là tổng số điểm (LCUs) trong năm
càng cao, cơ hội sinh bệnh tiêu hao sức khoẻ càng trầm trọng trong ṿng hai năm



sắp tới. Để tìm ra đáp số trong ước lượng này, Holmes và Rahe đă lập ra tiêu
chuẩn chỉ dẫn và bảng liệt kê:
0-150 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 10% sức khoẻ trong vòng hai năm tới.
150-300 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 50% sức khoẻ trong vòng hai năm tới.
300 điểm trở lên sẽ có bệnh nguy hiểm, tiêu hao 90% sức khoẻ trong hai năm tới.
Nghiên cứu này đă được thực hiện với mẫu 394 người từ nhiều dơn tộc,
văn hoá khác nhau, chia làm 15 cặp của các phơn nhúm đối nghịch nhau về: kinh
tế, xă hội, tôn giáo .Tiếp tục theo dõi các biến cố và sức khoẻ của 88 người trong
10 năm, họ nhận thấy 93% bệnh tật gắn liền với biến cố trong đời sống xảy ra
trong vòng 2 năm. Sau đó, công tŕnh này đă được thử nghiệm với nhiều cách
thức khác nhau bởi Wyler, Masuda và Holmes (1974) và đi đến kết luận: các
biến cố cuộc sống liên quan đến nguyên nhơn xảy ra bệnh tật, thời điểm xuất
hiện và mức độ trầm trọng của nó. Tuy nhiên, thang đo này vẫn cũn một vài
nhược điểm như: khó thích hợp với một nhóm cư dơn đặc biệt và không kể đến
sự khác biệt nhân cách trong ứng phó với stress.
Năm 1979, Kosaba xem xét lại thang đo này và đưa ra giả thuyết: nhân
cách có lẽ là một biến cố điều hòa giữa các biến cố đời sống và sự xuất hiện
bệnh. Để chứng minh giả thuyết, Kosaba đă nghiên cứu trên mẫu gồm nhiều
những cán bộ trung và cao cấp, nam giới, tuổi từ 40 - 49. Tất cả đều có chỉ số
đơn vị thay đổi đời sống rất cao theo thang đo của Wyler, Masuda và Holmes.
Ông đưa thêm vào 6 biến cố liên quan đến nhơn cách: 3 biến cố liên quan đến sự
tự chủ, 1 biến cố đo lường sự rối trí (alienation) và 2 biến cố đo lường sự thách
đố. Kết quả cho thấy những cá nhơn khoẻ mạnh nghĩ rằng họ làm chủ được môi
trường xung quanh họ, cảm thấy ít bị rối trí và thích thách đố hơn.
Năm 1977, nhà nghiên cứu Caroline Bedell Thomas đă công bố kết quả
nghiên cứu từ năm 1946 đến năm 1977 cho thấy: những người thường kỡm nộn
cảm xúc, che giấu các tđ nh cảm mạnh, cả tiêu cực lẫn tích cực - trước những tđ nh
huống khó - dễ bị ung thư. Những nghiên cứu khoa học khác của Rogentine, Fos,
van Krammen, Rosenblatt, và cộng sự (1978); Jemmott và Locke (1984); Le
Shan (1966) đều có chung một nhận định: Stress không gây ra ung thư, nhưng

ảnh hưởng đến diễn biến của căn bệnh, bằng cách làm cạn kiệt sức mạnh của hệ
thống miễn dịch. O’Leary (1990) nghiên cứu psychoneuro-immunology (Tâm


thần kinh- Miễn dịch học) cho đến nay xác định rằng stress ảnh hưởng trực tiếp
đến hệ thống miễn dịch.

Tại website tìm kiếm bởi từ khoá “psychology
of stress”, xuất hiện 200.000.000 kết quả, và 25.000.000 hình ảnh cho
stress.Nhiều trường Đại học trên thế giới đă có chương trình giảng dạy, nghiên
cứu với những phương pháp khoa học cụ thể, tin cậy. Các vấn đề tâm lý học
stress được nghiên cứu là:
Những nhân tố ảnh hưởng tới đối phó stress: mô tả và phân biệt giữa
stress và tác nhân gây stress; ảnh hưởng của nhận thức cá nhân với việc thích ứng
với tác nhân gây stress; những nhân tố bên trong và bên ngoài làm giảm nhẹ tác
dụng thích ứng stress; cơ chế đối phó làm giảm stress.
Các chức năng đáp ứng sinh lý với stress: mô tả sự thích ứng stress trên
hệ thống cơ thể (thần kinh, hệ nội tiết .) mối liên hệ giữa những nhân tố làm giảm
stress và thích ứng sinh lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa người lớn và trẻ
em.
Thích ứng tâm lý với stress: nhận biết nguyên nhân gây stress; nguyên
nhân và các tính chất của stress hậu sang chấn; tương quan giữa kiểu nhân cách
và sự thích ứng stress; phân tích các loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống
phòng thủ, những hành vi thích ứng không hiệu quả .
Những năm gần đây, qua kinh nghiệm điều trị, bác sỹ Petre D’sdamoCeterine Whitney nhận thấy có mối quan hệ giữa nhóm máu và stress. Theo ông,
những người nhóm máu A và B thường rất dễ bị stress kể cả khi có những nhân
tố nhỏ nhất và thường có hàm lượng cortisol trong máu cao ; ngược lại những
người nhóm máu O và AB ít bị stress và khi bị stress thđ hàm lượng cortisol và
adrenalin trong máu của người nhóm máu O và AB thấp.
Pakers năm 1997 chú ý tới lĩnh vực mới gọi là: Psychoneuroimmunology

(PIN), nghiên cứu mối liên hệ giữa năo bộ, hệ thống miễn dịch của cơ thể và các
yếu tố tâm lý, đă phát hiện thấy stress gây ra nhiều tác động khác nhau. Trước hết
là sự biến đổi các tiết tố trong cơ thể, ảnh hưởng hoạt động tuyến thượng trong
máu. Trong một số trường hợp, những ảnh hưởng này là có ích, vỡ nó tác động
lên hệ thần kinh giao cảm (the sympathetie nervour system) giúp cho con người


có thể chống đỡ một cách tốt hơn với những tình huống bất ngờ, nguy hiểm trong
cuộc sống .

Trong nước
Bắt đầu từ thập niên 60, một số nhà nghiên cứu đă quan tâm đến stress
nhưng chủ yếu là các nhà khoa học thuộc lĩnh vực sinh lý học và y học. Người
đầu tiên nghiên cứu stress dưới góc độ sinh lý và y học là giáo sư Tô Như Khuê.
Những công tŕnh của ông và cộng sự trong thời chiến tranh (1967-1975) chủ yếu
phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nơng cao sức chiến đấu cho bộ đội
và cac binh chủng đặc biệt của Quân đội nhơn dơn ViệtNam. Sau năm 1975 đến
nay, những nghiên cứu của ông về stress và cách chống stress đă được công bố
trong một đề tài cấp Nhà nước “Tìm hiểu tác dụng dưỡng sinh của võ thuật”.

Sau ông, tác giả Nguyễn Văn Nhận và cộng sự, các bác sỹ Phạm Ngọc
Rao và Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh” cảnh
báo với mọi người đang sống trong xă hội văn minh về nguy cơ stress và hậu quả
ghê gớm của nó.
Đặc biệt, các tác giả Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện cũng bắt
tay vào nghiên cứu lư thuyết stress. Tuy nhiên, hai ông chỉ tập trung chủ yếu đến
vấn đề stress ở trẻ em.Nhiều bài viết của hai ụng đó được tập hợp trong các bài
giảng tại Trung tâm nghiên cứu trẻ em (N-T). Một số tác phẩm sau này của Đặng
Phương Kiệt chủ yếu tổng hợp và chuyển dịch từ các tác phẩm nước ngoài
như: Tâm lý và sức khoẻ, Cơ sở tâm lư học ứng dụng, Bách khoa y học phổ

thông, Chung sống với stress, Stress và đời sống, Stress và sức khoẻ, Tâm lý học
chuyên sâu, Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện đại. Những công trình của các
ông đă góp phần làm cơ sở lý luận để nghiên cứu stress tại Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của Phạm Thị Thanh Hương với đề tài:
“Stress trong học tập của sinh viên” (2003)
Đề tài nghiên cứu: “Căng thẳng và bệnh tim” (2006) của Phạm Mạnh
Hùng - Trường Đại học Y Hà Nội.


Luận văn thạc sỹ tâm lý của tác giả Phạm Thị Hồng Định với đề
tài: “Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ
trợ trẻ em 18001567” (2007).

3.

Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu kỹ năng giảm lo lắng và căng thẳng của sinh viên

Thăng Long nhằm đánh giá mức độ căng thẳng của sinh viên khi tham gia học
tập, sinh hoạt tại trường đại học Thăng Long và nhằm đưa ra những giải pháp
hiệu quả nhất nhằm tối thiểu hóa mức độ stress cho sinh viên.

4.

Nhiệm vụ
-

Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu lí luận ( Tổng quan về đề tài, định nghĩa khái
niệm liên quan)


5.

-

Nhiệm vụ 2: khảo sát thực tiễn, thu thâp thông tin

-

Nhiệm vụ 3: đề xuất giải pháp xử lí vấn đề

Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng giảm stress trong học tập của sinh viên Đại học Thăng Long

6.

7.

8.

Khách thể nghiên cứu
-

Sinh viên Thăng Long

-

Giảng viên thăng long

-


Một số cha mẹ của sinh viên

-

Bác sĩ tâm lí một số bệnh viện lớn trên địa bàn Hà Nội

Phạm vi nghiên cứu
-

Nghiên cứu trong 1 kì học (3 THÁNG)

-

Số lương: 1000 sinh viên, 100 giảng viên. 100 phụ huynh

Giả thuyết nghiên cứu:


Sinh viên Thăng Long phải sinh hoạt và học tập trong một môi trường áp
lực tuơng đối lớn. Hầu hết là do vấn đề học tập và thi cử gây nên. Tuy nhiên, hầu
hết các sinh viên đều thích nghi rất tốt và có kỹ năng để tối thiểu hóa stress.
Luận cứ: Sinh viên Thăng Long có một chương trình học yêu cầu sinh
viên cần phát triển cho mình rất nhiều kiến thức và kĩ năng trong trung binh từ 3
đến 5 năm học tại trường. vì thế sinh viên luôn phải cố gắng học tập nếu muốn
đạt kết quả cao.
Nhờ có cơ sở vật chất tuyệt vời của nhà trường, sự giảng dạy nhiệt tình
của thầy cô, cộng với sự năng động của bản thân, sinh viên thăng Long có thể
trang bị cho mình kỹ năng giảm stress để đạt hiệu quả cao trong học tập mà
không ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần.



PHầN 2: PHƯƠNG PHÁP, Tổ CHứC NGHIÊN
CứU
1. Các phương pháp sử dụng:
-

Quan sát

-

Phỏng vấn

-

Bảng hỏi

-

Trắc nghiệm

2. Tổ chức nghiên cứu
Công việc cụ thể sẽ làm
-

Xây dựng kế hoạch nghiên cứu (các phương pháp nghiên cứu), thu
thâp thông tin.

-

Tiến hành


-

Tập hợp kết quả. Đánh giá, xử lí thông tin.

-

Đưa ra kết luận


PHẦN 3: CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1. NHữNG VấN Đề LÍ LUậN CÓ LIÊN QUAN ĐếN Đề TÀI :
Kỹ NĂNG GIảM STRESS TRONG HọC TậP
CủA SINH VIÊN ĐạI HọC THĂNG LONG

1.

Các khái niệm có liên quan đến đề tài

 Kỹ năng
Kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực
tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành
động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.

 Stress
Theo Encarta và một số từ điển tâm lý học của Mỹ, danh từ stress có hai
nghĩa:

Thứ nhất, đó là “lực kháng lại được hình thành trong cơ thể chống lại tác
động bên ngoài” hoặc “một tình trạng gây khó chịu hoặc gây những ảnh hưởng
trái ngược bên ngoài có thể ảnh hưởng tới sức khỏe thể lực, dễ nhận thấy qua dấu
hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác khó chịu, và ưu phiền”
(Dẫn theo 10, tr.20)
Thứ hai, “stress là một kích thích thể lư hoặc tâm lư có thể gây ra sự căng
thẳng tinh thần hoặc các phản ứng sinh lý - những phản ứng có thể dẫn đến các
bệnh”; c c n động từ stress chỉ việc “chịu áp lực, căng thẳng về thể lực và tinh thần”
(Dẫn theo 10, tr.20).
Trong từ điển tâm lý học của Nga, theo V.P.Dintrenko và
B.G.Mesiriakova, “Stress - trạng thái căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người
trong quá trình hoạt động ở những điều kiện phức tạp, khó khăn của đời sống
hàng ngày, cũng như trong những điều kiện đặc biệt” (Dẫn theo 22, tr.18).


Dictionary of Psychology của Andrew M. Colman, Oxford (2003) có cái
nhìn tổng quát hơn: “stress là căng thẳng thể lực và tâm lý phát sinh do những
tình huống, sự kiện, trải nghiệm, khó có thể chịu đựng được hoặc vượt qua, như
những biến cố nghề nghiệp, kinh tế, xă hội, cảm xúc hoặc thể lực”.
Theo từ điển Y học Anh-Việt (2007) NXB Khoa học: “Bất kỳ nhân tố nào
đe doạ đến sức khoẻ cơ thể hay có tác động phương hại đến các chức năng cơ
thể, như tổn thương, bệnh tật hay tâm trạng lo âu đều gọi là stress”.
Bác sỹ Eric Albert, nhà tâm lý học, sáng lập viên Viện nghiên cứu
stress định nghĩa: “Stress là sự nỗ lực của cơ thể để thích nghi với những đổi
thay”
Khái niệm stress lần đầu tiên được nhà sinh lý học Canada Hans Selye sử
dụng để mô tả hội chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật. Vào thập
niên 80, L.A.Kitaepxmưx đã nêu các quan điểm khác nhau về stress: Stress là
những tác động mạnh ảnh hưởng không tốt và tiêu cực đến cơ thể, quan điểm này
tồn tại một thời gian dài, nhưng nó lạt trùng với khái niệm về tác nhân gây stress.

Stress là những phản ứng mạnh không tốt của cơ thể về sinh lý hoặc tâm lý đối
với tác động của tác nhân gây stress, cách hiểu này ngày nay khá phổ biến. Stress
là những phản ứng mạnh đủ loại, không tốt hoặc tốt đối với cơ thể. Hai cách hiểu
này đều khẳng định stress là những phản ứng mạnh của cơ thể trước các tác động
khác nhau của môi trường. Nhưng trong thực tế không phải phản ứng mạnh nào
của cơ thể cũng đều là stress và không phải chỉ có phản ứng mạnh mới là biểu
hiện stress.
Tác giả Tô Như Khuê quan niệm :
“Stress chính là những phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách
chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình thế mà con
người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò quyết định không chủ
yếu do các tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân đó”
Theo Nguyễn Thành Khải
“Dưới góc độ tâm lý học, có thể hiểu stress là trạng thái căng thẳng
về tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt động cũng như trong
cuộc sống”. Dưới góc nhìn nhận từ góc độ tâm lý học, stress được hiểu


như sau: “Stress là trạng thái căng thẳng về mặt tâm lý, xuất hiện ở người
trong quá trình hoạt động gặp phải những biến cố, những khó khăn trong cuộc
sống hàng ngày, dễ nhận thấy qua các dấu hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ
năng, cảm giác mệt mỏi khó chịu, hoặc ưu phiền chán nản...có thể dẫn đến
những hậu quả nhiều mặt tuỳ theo khả năng ứng phó của mỗi người”.

 Stress trong học tập
Stress trong học tậ p là phản ứng tâm- sinh lý của sinh viên trước tác động
của môi trường học tậ p ( gia đinh, bạn bè, nhà trường…) có ảnh hưởng tới sự
cân bằng của cơ thế.

2.


Một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài

a. Biểu hiện chung khi bị stress
Stress có thể hoành hành theo nhiều cách, gây ra các hậu quả về mặt tâm
lư và sinh lý. Nếu tiếp cận thường xuyên với stress, toàn bộ chức năng sinh học
của cơ thể sẽ bị giảm sút bởi các loại hormon liên quan đến stress tiết ra không
ngừng. Nếu bị stress lâu ngày, cỏc mụ cơ thể, như mạch máu và bộ phận tim có
thể bị thoỏi hoỏ thực sự. Không kể đến các triệu chứng nghiêm trọng, rất nhiều
cơn đau lặt vặt bao gồm: nhức đầu, đau lưng, ban ngứa ở da (skin rashes) khó
tiêu, mệt mỏi và táo bón .gây ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống.
Ngoài ra , stress cũng có thể dẫn đến một nhóm rối loạn bệnh lý gọi là
các rối loạn cơ thể tâm thần (Psychosomatic disorders). Các dạng rối loạn bệnh
lư này phát sinh do sự tương tác giữa các rối loạn tâm lư , tđ nh cảm và cơ thể
gây ra. Các rối loạn cơ thể tâm thần thường thấy nhất là loét bao tử (ulcer), hen
suyễn, viêm khớp (arthritis), áp huyết cao và chàm (eczema).
Về lâm sàng, phản ứng stress cấp tính làm người bệnh hưng phấn quá
mức về tâm lư lẫn cơ thể, với các biểu hiện: tăng trương lực cơ làm cho nét mặt
căng thẳng, cử chỉ cứng nhắc, có cảm giác đau bên trong cơ thể; rối loạn thần
kinh thực vật như nhịp tim tăng nhanh, có cơn đau vùng trước tim, huyết áp
tăng, khó thở, ngất xỉu, vă mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều nơi, nhất là đau các cơ
bắp. Bệnh nhân bị tăng cảm giác (giảm ngưỡng kích thích của các giác quan ),
nhất là thính giác , làm cho tiếng động bđ nh thường cũng trở nên khó chịu . Họ
cũn cú biểu hiện rối loạn hoạt động trí tuệ (khó tập trung suy nghĩ do nhớ lại


các tđ nh huống stress ), dễ nổi cáu, kích động, bất an, rối loạn hành vi và khó
khăn khi giao tiếp với người khác; lo âu, sợ hăi, mơ hồ, trầm cảm, ý thức thu
hẹp.
Như vậy, stress ảnh hưởng đến cơ thể theo nhiều cách, có thể tăng nguy

cơ bị các bệnh tật cơ thể, cũng có thể là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh, hoặc
cũng có thể làm cho khả năng phục hồi cơ thể làm giảm khả năng đương đầu
với stress trong tương lai
b. Phân loại stress
Có thể phân loại khác nhau về stress, nếu dựa vào những cơ sở khác
nhau và cách phân loại này đều có ý nghĩa nhất định:
* Dựa vào tác nhân gây stress: người ta có thể phân ra stress vật lý,
stress thoỏi hoỏ, stress tâm lý, stress sinh lý.
*

Dựa vào thời điểm của yếu tố tác động gây ra stress có thể có:

Stress quá khứ (khi nhớ về quá khứ tốt đẹp hoặc không tốt đẹp người ta
có thể bị stress trở lại, ví dụ như vô tình gặp lại những người quen trong quá
khứ, những kỷ niệm với người đó lại hiện về có thể kỷ niệm tốt đẹp làm cho
chúng ta cứ luyến tiếc, hoặc những kỷ niệm là đau buồn làm cho chúng ta buồn
rầu, đó chính là yếu tố gây stress.
Stress hiện tại: yếu tố gây stress đang tác động và phát huy tác dụng
trong hiện tại gặp nhiều những biến cố không mong muốn và không chờ đợi
khiến cho cơ thể không chuẩn bị sự đáp ứng, thích nghi dẫn đến stress.
Stress tương lai: cá nhân bị stress khi nghĩ về tương lai (ví dụ: những
sinh viên năm cuối nghĩ về tương lai không biết mình ra trường đi đâu, về đâu,
làm gì cũng có thể bị stress).
* Căn cứ vào cấp độ của stress: có thể phân ra stress sơ cấp và stress
thứ cấp:
Stress sơ cấp là stress lần thứ nhất do yếu tố gây stress khách quan

gây

ra.

Stress thứ cấp là khi chủ thể đang ở trạng thái stress sơ cấp cho rằng có
tình trạng như hiện nay là bởi lỗi lầm của mình, do đó rất ân hận, hối tiếc, giận
bản thân làm cho stress tăng nặng thành thứ cấp.
*Dựa vào mức độ, theo H.Selye phân ra stress tích cực (eustress) và
stress tiêu cực (distress)
Stress tích cực(eustress):


Trong một tình huống stress bình thường, cơ thể phản ứng lại với các tác
động của môi trường bằng giai đoạn báo động và giai đoạn chống đỡ.
Giai đoạn báo động: bị chi phối bởi sự cảnh tỉnh cao độ, kích thích các
quá tŕnh tâm lư, đặc biệt là quá tŕnh tập trung chú ư, ghi nhớ, phán đoán, trong
cơ thể triển khai những phản ứng đến trước đối với một tác động có thể xảy ra
thể hiện bằng việc tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng nhịp thở, tăng lực cơ bắp.
Các thay đổi tâm sinh lư này góp phần vào việc đánh giá tình huống stress đối
với chính bản thân người đó, cũng như đối với môi trường xung quanh.
Giai đoạn chống đỡ: Đặc trưng bởi việc huy động các đáp ứng thích hợp
nhằm giúp cơ thể làm chủ được tđ nh huống stress và có được một cân bằng mới
đối với chính bản thân người đó. Tuy nhiên, cường độ của stress có thể khác
nhau, và động cơ cá nhân cũng có thể thay đổi. Như vậy, một hoàn cảnh gây
stress bđ nh thường có thể chuyển sang distress khi có sự thay đổi về một trong
các cực của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và môi trường.
Stress tiêu cực (distress):
Phản ứng stress trở thành distress khi tđ nh huống bất ngờ , quá dữ dội,
hoặc ngược lại, quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng thích ứng
của chủ thể. Distress là stress có cả giai đoạn tiếp sau giai đoạn báo động và
chống đỡ.Đó là giai đoạn kiệt sức. Trong distress, các rối loạn tâm lư ở cơ thể
có thể xuất hiện ở cấp tớnh, tạm thời hoặc nhẹ hơn hoặc kéo dài.
Stress cấp tính: Các biểu hiện của stress này thường gặp trong các tính
huống không lường trước, có tính chất dữ dội, như lúc bị tấn công, gặp thảm

hoạ, hoặc khi thân chủ biết ḿnh hay người thân bị bệnh nặng nguy hiểm, khó
cứu chữa (AIDS, ung thư). Trong stress bệnh lý cấp tính, các phản ứng xúc cảm
cấp diễn, tức thì, trạng thái cấp tính của stress được đặc trưng bởi những cử chỉ
cứng nhắc, không linh hoạt, kèm theo cảm giác đau do căng thẳng bên trong; có
sự rối loạn thần kinh thực vật như: tim đập nhanh, cơn đau tim, cao huyết áp,
khó thở, ngất xỉu, chóng mặt, ra mồ hôi, nhức đầu, đau ở nhiều nơi, nhất là ở cơ
bắp; phản ứng giác quan quá mức, nhất là tai có cảm giác khó chịu trước những
tiếng động thường ngày. Distress cấp tính dẫn đến các rối loạn trí tuệ thể hiện ở
việc khó tập trung suy nghĩ , kèm theo tư duy bị nhiễu do nhớ lại các tđ nh huống
gây stress. Những biểu hiện khác thường thấy là dễ cáu gắt, trên cơ sở cảm giác
bất an có thể đưa đến những rối loạn trong hành vi, nhất là trạng thái kích động
nhẹ kèm theo khó khăn trong quan hệ với những người xung quanh. Chủ thể ở
trạng thái lo âu lan rộng, kèm theo sợ hăi mơ hồ. Phản ứng distress cấp tính
thường kéo dài từ vài phút đến vài giờ, rồi mờ nhạt đi. Sự có mặt của những


người xung quanh, nhất là người thân sẽ làm cho chủ thể distress yên tâm hơn
và khuây khoả ít nhiều tuỳ theo tính chất và tiến triển của stress.
Khi có những phản ứng cảm xúc cấp tính thđ các rối loạn tâm sinh lư đều xảy ra
chậm, chủ thể có vẻ chịu đựng và chống đỡ được với tđ nh huống gây stress .
Nhưng thực tế , các biểu tượng của tđ nh huống gây stress vẫn tiếp tục phát huy
tác dụng và từng bước xâm chiếm chủ thể. Giai đoạn chống đỡ của chủ thể tiếp
diễn, nhưng chỉ tạo ra một sự cân bằng rất tạm thời, không bền vững, và chỉ kéo
dài trong vài giờ hoặc vài ngày , sau đó đột nhiên xuất hiện một phản ứng
distress cấp tính xảy ra chậm , có biểu hiện và tiến triển giống như phản ứng
cấp, thức thđ . Chứng tỏ về mặt tâm lư chủ thể không c nc khả năng dàn xếp được
tđ nh huống stress nữa. Chủ thể bị suy sụp và mất khả năng bù trừ một cách chậm
chạp.
Distress kéo dài: thường gặp nhất trong các tđ nh huống stress quen thuộc
lặp đi lặp lại như xung đột, bất toại, phiền nhiễu trong cuộc sống hàng ngày. Nó

có thể xảy ra tiếp theo như một phản ứng cấp ban đầu và không thoỏi lùi hoàn
toàn, hoặc sau một loạt nhiều phản ứng cấp trung nhưng không mạnh. Nhưng
dù cho nó cú nguồn gốc nào, những biểu hiện của stress kéo dài cũng rất đa
dạng thay đổi tuỳ theo ưu thế của các biểu hiện tâm lư, thể chất và có sự pha
trộn của nhiều hiện tượng khác nhau. Con người khi bị stress kéo dài thường
phản ứng quá mức với hoàn cảnh xung quanh và đây là biểu hiện nổi trội nhất.
Nó kèm theo với sự cáu giận, cảm giác khó chịu, căng thẳng tâm lư, mệt mỏi về
trí tuệ không thể thư giăn được. Ngoài ra, cũn cú biểu hiện về rối loạn giấc ngủ,
như khó ngủ, giấc ngủ chập chờn , hay thức giấc, về cảm giác không thấy phục
hồi sau khi ngủ. Những rối loạn này tuỳ theo bối cảnh , tính chất cũng như mức
độ lặp đi lặp lại của tđ nh h uống stress, có thể tiến triển thành trạng thái bi quan
kéo dài, tính dễ cáu giận và sự căng thẳng nội tâm . Chủ thể thậm chí có biểu
hiện lo âu, ám ảnh sợ khi gặp lại những nơi đă gây nên tđ nh huống distress ,
hoặc nhớ lại tình huống này.
Khi bị stress kéo dài, cơ thể thường có những rối loạn thực vật ở mức độ vừa
phải, chúng chỉ tăng lên khi hồi tưởng về các tình huống stress, hay khi phải
đương đầu với những tình huống đó. Con người thường xuất hiện cùng với các
rối loạn tâm lý và biểu lộ trong những lời than phiền của chủ thể về các rối loạn
chức năng cơ thể. Đó là những than phiền về:
+

Trạng thái suy nhược kéodài.

+

Căng thẳng cơ bắp với cảm giác bị chuột rút.

+

Chứng run và đổ mồ hôi.



+

Nhức đầu cho căng thẳng và đau nửa đầu kéo dài.

+

Đau cột sống dai dẳng.

+

Đau vùng trước tim, huyết áp tăng và không ổn định.

+

Bệnh đại tràng chức năng.

Như vậy, dựa vào ảnh hưởng có lợi hay có hại của stress đối với cơ thể,
người ta có thể thấy có hai loại stress: Stress tích cực (eustress) là stress mà chủ
thể có thể đối phó được. Đó là phản ứng stress thích nghi, loại stress này không
thể thiếu được trong cuộc sống của người , không có stress này cơ thể sẽ chết .
Ccn stress tiêu cực (Distress) xuất hiện khi cơ thể không c nc khả năng đối phó với
tình huống đe doạ, cơ thể đă mất khả năng bù trừ để lấy lại cân bằng, hay nói
cách khác, khả năng thích nghi bị rối loạn (Dẫn theo22,tr.23-28).
* Dựa vào đặc tính của stress người ta cũng chia ra làm 2 loại: Stress lạc quan

(Positive) và stress bi quan (Negative).
* Dựa vào đặc tính của stress
Stress lạc quan: trong tính chất lạc quan, stress đưa đến những thử thách,

kích thích, để tạo cho đời sống thêm phần thú vị, vui tươi, nhưng không làm tổn
hại đến sức khoẻ. Theo các nhà chuyên môn, stress là một kinh nghiệm học tập,
giúp con người có cơ hội trưởng thành và phát triển.Ngoài ra, stress giúp tập
trung sức lực nhằm vào mục tiêu, và thực thi, để tiến đến hiệu quả công việc,
trong một thời gian ngắn nhất. Sau một tiến tŕnh vội vă, đầy áp lực (stress), để
hoàn thành công việc chúng ta dành thời gian cho việc nghỉ ngơi, và thư giăn cơ
thể, để phục hồi sinh lực thân tâm, nhằm chuẩn bị cho những thử thách sắp tới.
Sự nghỉ ngơi, để phục hồi sinh lực, chính là một trong những yếu tố của tính
chất stress lạc quan.
Stress bi quan: trong tính chất bi quan, stress có liên quan đến việc gây
nên nhiều chứng bệnh chứng cho cơ thể như : nhức đầu, cao huyết áp, đau tim,
nhức mỏi gân thịt, suy nhược thể chất và tinh thần . Khi cơ thể bị đặt trong tđ nh
trạng thử thách dài hạn, hoặc những kích thích ngắn hạn liên tục và thiếu thời
gian nghỉ ngơi, thư giăn thích đáng, stress là tiêu hao sinh lực, đưa cơ thể đến
tình trạng kiệt sức và tổn hại sức khoẻ.
* Theo bác sỹ Đặng Phương Kiệt, có các mức độ stress như sau:
Stress mức độ nhẹ: là mức độ mà bạn có thể cảm nhận như một thách
thức làm tăng thành tích.
Stress mức độ vừa: là mức độ phá vỡ ứng xử và có thể dẫn đến những
hành động rập khuôn, lặp đi lặp lại.


Stress mức độ nặng: là mức độ dẫn đến ngăn chặn ứng xử và gây ra
những phản ứng lệch lạc, dễ bối rối, giận dữ và trầm nhược.
Tham khảo những ý kiến khác nhau đồng thời dựa vào số mặt biểu hiện
của chủ thể khi bị stress, chúng tôi phân loại stress theo các mức độ như sau:
Ít trầm trọng: stress chỉ biểu hiện ở một mặt, không kéo dài, nó chỉ như
một thách thức và chủ thể có thể tự khắc phục được.
Trầm trọng: stress biểu hiện ở hai hay một số mặt, dẫn đến hậu quả phá
vỡ những ứng xử và có những hành động rập khuôn, lặp đi lặp lại trong một

thời gian tương đối dài, phải khắc phục trong một thời gian nhất định.
Rất trầm trọng: stress biểu hiện ở nhiều mặt, diễn ra trong một thời gian
dài, dẫn đến hậu quả ngăn chặn những ứng xử phù hợp và gây ra những phản
ứng lệch lạc, dễ bối rối, có thể có những hành bi tự huỷ hoại ḿnh và người
khác, phải khắc phục trong một thời gian rất dài.
Tuy nhiên chúng tôi áp dụng các tiêu chí này một cách linh hoạt , nhiều
khi chúng tôi chỉ dựa vào 1 tiêu chí hay 2 tiêu chí để sắp xếp loại mức độ , đặc
biệt là dựa vào hậu quả, cách khắc phục và thời gian khắc phục. Bởi vđcó những
trường hợp chỉ biểu hiện ở một hoặc hai mặt nhưng phải mất thời gian dài mới
có thể khắc phục hậu quả. Những trường hợp này vẫn phải xếp loại stress ở
mức độ trầm trọng.


CHƯƠNG 2. THựC TRANG STRESS TRONG HọC TậP
CủA SINH VIÊN ĐạI HọC THĂNG LONG
Nghiên cứu đã cho thấy , có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
stress lo âu với giới tính và học lực, đó là, giới nữ có tỷ lệ stress lo âu cao hơn ở
giới nam (44% so với 29%), bên cạnh đó, học sinh sống ở trọ có tỷ lệ stress lo
âu cao hơn học sinh sống ở gia đình mình (44% so với 37%).
Quan sát ở nhiều góc độ để tìm hiểu mối quan hệ của stress
, người ta
thấy rằng, ở góc độ nào , cũng thấy stress lo âu có liên quan đến một hay nhiều
vấn đề. Ví dụ, ở góc độ gia đình , người ta thấy có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa stress lo âu với sức khỏe người thân và với những áp lực, kỳ
vọng học tập từ gia đình. Đó là, có 5% trong tổng số học sinh thường hay bị
stress lo âu về kinh tế gia đình, 45% trong tổng số học sinh thường hay bị stress
lo âu do sức khỏe thành viên trong gia đình mình, 33% trong tổng số học sinh
thường hay bị stress lo âu vì áp lực , kỳ vọng học tập từ gia đình và 78% trong
tổng số học sinh thường hay bị stress lo âu vì xung đột trong quan hệ gia đình .
Đứng từ góc độ nhà trường, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa stress lo

âu với những áp lực học tập và áp lực thi cử, đó là có 29% học sinh thường hay
bị stress lo âu vì áp lực thi cử và 33% học sinh thường hay có stress lo âu vì áp
lực học tập ở trường. Nghiên cứu cũng cho thấy, 70% trong tổng số học sinh
thường hay bị stress lo âu vì học môn học không thích , 48% trong tổng số học
sinh bị stress lo âu vì không hợp thầy cô , 25% trong tổng số học sinh thường
hay có stress lo âu về an ninh của trường . Đứng từ góc độ bản thân học sinh,
có stress lo âu với những cạnh tranh trong học tập , với ngoại hình bản thân ,
với những bệnh lý liên quan đến học tập như bệnh cận thị và có liên quan cả với
việc không đều đặn tập thể dục thể thao . Mặt khác, ở góc độ xã hội, nghiên cứu
còn thấy có stress lo âu liên quan với việc thiếu bạn bè thân và về an ninh nơi ở.
Với câu hỏi: "Ông, bà có cảm thấy xấu hổ khi con mình học hành không
bằng người khác không?", có 78,3% trả lời: "Đáng xấu hổ !". Vì vậy không
ngạc nhiên chút nào nếu áp lực học tập và áp lực thành tích không chỉ đặt lên
vai các em ở trường mà ngay từ trong ngôi nhà các em đang sống. Rất nhiều
phụ huynh quan niệm rằng“thế hệ con trẻ bây giờ sung sướng, chỉ đơn giản có
việc ăn và học không phải vất vả lo toan như ngày xưa”, nên các luôn đặt ra vô
số mục tiêu cho con em hơn là lắng nghe chúng.
Cha mẹ nào cũng mong muốn cho con những điều tốt đẹp, nhưng nhiều
người đã truyền tải điều đó bằng “áp lực” đối với con trẻ, mà ngay chính bản


thân họ cũng không nhận ra. Người lớn đôi khi là ích kỉ, biến con cái trở thành
công cụ đi xây dựng ước mơ cao cả của cuộc đời mình.
“Con phải học giỏi, con phải ngoan, phải được học bổng, phải chơi với
bạn tốt…” người lớn thường hay nói những câu như vậy. Nhưng chỉ dạy cho
con cách học thế nào để giỏi, như thế nào là ngoan, làm sao để đạt học bổng và
chơi với bạn nào thì tốt… hẳn ít người lớn làm được.
Một “căn bệnh” nữa mà người lớn hay mắc (dù rằng khi còn là trẻ con
họ rất ghét) đó là đem ngày xưa ra so sánh để kết luận đi học bây giờ là rất
sướng. Nếu ngày xưa, khi điều kiện còn vô cùng khó khăn, thiếu thốn, việc đi

học là niềm khao khát thì ngày nay, con em chúng ta đang sống trong một xã
hội “sẵn có” việc đi học lại là quyền và nghĩa vụ.
Ngày xưa nền giáo dục chỉ đơn giản ở mức phổ thông, ngày nay giáo
dục nước nhà đã nâng lên một tầm cao mới, có nhiều môn học hơn đồng nghĩa
với khối lượng kiến thức nhiều hơn, khó hơn… đòi hỏi các em phải phát triển
tư duy, sáng tạo, rèn luyện kĩ năng, đạo đức lối sống một cách toàn diện.
Hơn nữa, trường lớp của các em giờ đây thực sự là một xã hội thu nhỏ.
Xã hội ấy cũng có nhiều vấn đề mà các em phải đối mặt như: bạo lực học
đường, mất đồ dùng học tập, bị đối xử thiếu công bằng…. Chưa kể đến những
kì thi phải dốc sức ôn luyện, những ganh đua trong học tập và những diễn biến
tình cảm, tâm lý yêu ghét phức tạp ở lứa tuổi các em. Rồi tiếp tục chịu sức ép từ
phía bố mẹ về điểm số môn học. Vậy thì đi học quả là không hề đơn giản và
sung sướng như nhiều người vẫn quan niệm?

1. Ảnh hưởng tiêu cực
Tác hại của stress
Như đã nói, stress lôi kéo sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng
trong cơ thể nên nếu cố tình "lờ" nó đi, bạn sẽ phải trả giá rất đắt vì sự cọi
thường nó.
Stress có ảnh hưởng tới:
Não: Stress gây mất ngủ thường xuyên khiến não trở nên kém linh hoạt,
có thể bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu bạn không chợp mắt 20 giờ liên tục,
não giảm khả năng kiểm soát tương đương với tình trạng nồng độ cồn trong
máu tăng 50% so với mức cho phép. Stress làm bạn ủ rũ, rã rời, lười vận động.


Tim: Bị stress, tim giải phóng hóc-môn cortisol, làm xuất hiện các bệnh
cao huyết áp, béo phì và tiểu đường. Nguy cơ mắc các bệnh tim mạch khó tránh
khỏi.
Phổi: Stress kích thích tuyến thượng thận giải phóng hóc-môn adrenalin

khiến bạn hồi hộp, lo lắng không yên, thở hổn hển như hụt hơi. Với người bị
hen suyễn, tình hình càng tồi tệ gấp bội.
Mắt và da: Mất ngủ do stress gây mệt mỏi, mắt đỏ và quanh mi bị thâm
quầng, có thể giảm thị lực và các bệnh khác về mắt. Stress kích thích các tuyến
nhờn hoạt động mạnh làm da trở nên thô ráp, nhanh lão hóa, nổi mụn, nhăn
nheo.
Lưng và cổ: Hóc-môn adrenalin làm các cơ bắp căng cứng, lưng và cổ bị
"ngay đơ", đau nhức.
Dạ dày: Stress làm các hóc-môn có chức năng tăng cường lưu thông máu
giảm xuống rõ rệt. Dạ dày không được cung cấp đủ máu sẽ dẫn đến tình trạng
khó tiêu, đầy hơi và chướng bụng. Nhiều trường hợp stress là nguyên nhân
viêm loét dạ dày.
Răng miệng: Khi thần kinh suy sụp, hoạt động của hệ miễn dịch trở nên
kém hiệu quả, nên viêm miệng, lưỡi, lợi và xuất hiện những nốt nhỏ, thường
gọi là "nhiệt".
Đầu óc: Stress là nguyên nhân chính gây đau đầu, chóng mặt,
váng.

choáng

Giảm sức đề kháng với các bệnh truyền nhiễm.

Cuối cùng, stress còn làm giảm khả năng tình dục, ít ham muốn chuyện
gối chăn.
Thật khó thấy một loại "bệnh" nào (tạm gọi như vậy) có thể làm tổn
thương cả sức khỏe thể lực và sức khỏe tinh thần, ảnh hưởng đến toàn thân như
stress. Nó dai dẳng, thường xuyên hành hạ thể xác và dẫn đến nhiều bệnh nguy
hiểm có thể xuất hiện đồng thời. Nó làm thui chột mọi khả năng tư duy, trí nhớ,
khả năng tự kiểm soát, phán đoán. Stress không trực tiếp gây tử vong, nhưng
trong cơn buồn chán, tuyệt vọng, không ít trường hợp stress đã đưa người ta

đến tự sát.
Stress thường xảy ra nhiều nhất ở nhóm tuổi học sinh, sinh viên. Nguyên
nhân là do lứa tuổi này có nhiều sự thay đổi và phát triển về mặt tâm sinh lí, thể
chất, chịu nhiều áp lực về học tập và công việc. Một trong những nguyên nhân
trực tiếp và phổ biến dẫn đến stress ở các bạn trẻ là mâu thuẫn giữa mục tiêu, lí


tưởng quá cao với khả năng thực hiện. Bên cạnh đó, khi thất bại, các bạn lại hay
có suy nghĩ tiêu cực.
Không những thế stress còn là nguyên nhân căn bản gây ra bệnh trầm
cảm: Ngày nay trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến và có
xu hướng ngày một tăng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang
phát triển. Trầm cảm là một vấn đề lớn cần được quan tâm, đặc biệt trong công
tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở cộng đồng.
Trầm cảm có đặc điểm lâm sàng, bệnh nguyên, bệnh sinh rất đa dạng, phức tạp.
Có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng hiện vẫn chưa nghiêng hẳn về một giả
thuyết nào.Tuy nhiên, các tác giả đều thống nhất cho rằng trầm cảm là phản ứng
cảm xúc của con người trước những tác động không thuận lợi, tiêu cực của môi
trường vào các hoạt động cân bằng của đại năo.
Rối loạn trầm cảm ở trẻ em có nhiều nét đặc thù riêng, đó là tính đa dạng chưa
ổn định. Bên cạnh các biểu hiện về khí sắc trầm , mất quan tâm thích thú , giảm
năng lượng, dễ mệt mỏi thđ các triệu chứng như rèi loạn hành vi, tăng hoạt động,
cáu bẳn, không tuân thủ nề nếp gia phong, chán học, tù cô lập hoặc gia nhập
nhóm trẻ “chậm tiến” gây rối trật tự xă hội. Ngoài ra, trẻ thường có các biểu
hiện cơ thể (đau mái, ngột ngạt khó chịu, rối loạn tiêu hóa, đau tức vùng ngực,
bụng .), các biểu hiện này nhiều khi nổi trội che lấp những biểu hiện khí sắc,
làm cho thực hành lâm sàng rất khó nhận dạng và chẩn đoán
Trầm cảm ở vị thành niên ảnh hưởng rất lớn đến năng lực học tập, giao tiếp, sù
hình thành phát triển các mối quan hệ xă hội, sự phát triển hoàn thiện thể chất
và tinh thần, tính cách của trẻ. Nếu rối loạn trầm cảm không được phát hiện và

điều trị kịp thời sẽ tăng gánh nặng cho gia đđ nh và xă hội . Ngược lại, việc phát
hiện và điều trị sớm mang lại hiệu quả cao , cải thiện đáng kể tđ nh trạng sức
khỏe, đem lại cho trẻ sự hoàn thiện nhân cách và nâng cao chất lượng cuộc
sống.
• Khi một đứa trẻ hoặc một thanh thiếu niên cảm thấy buồn chán quá thường
xuyên, quá nhiều, hoặc quá lâu, em có thể đã mắc chứng trầm cảm.
Khi đứng trước những áp lực trong cuộc sống mà không biết phải giải
quyết như thế nào có một số học sinh, sinh viên đã chọn cái chết để giải quyết
mọi việc. Hiện nay chúng ta có thể thấy rất nhiều bài báo đăng tin về các vụ tự
tử của học sinh, sinh viên vì những lí do có thể nói là không đáng chút nào cả
Và những bài báo đề cập đến những áp lực mà học sinh phải chịu


×