Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đạn đá trong các di tích khảo cổ học ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.66 MB, 17 trang )


PHẦN MỞ ĐẦU


1.Lý do chọn đề tài
Đất nước ta có bề dày lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đặc
biệt, cùng với sự phát triển của nền văn minh Trung Hoa, các tập đoàn
phong kiến phương Bắc cũng ra đời. Với quyền lực về kinh tế-quân sự, hầu
hết các triều đại thống trị ở Trung Hoa, đều tiến hành mở rộng bờ cõi, đưa
quân chinh phạt vùng dất phương Nam.
Từ những cuộc chiến tranh liên miên đó, yêu cầu về vũ khí là rất lớn.
Tuy vậy, do khoa học kĩ thuật chưa phát triển,nên vũ khí xử dụng năng
lượng cơ bắp vẫn là chủ yếu. Bên cạnh những loại vũ khí như: giáo, mác,
cung tên…thì đạn dá đóng vai trò quan trọng trong các trận đánh, tác động
đến nghệ thuật tác chiến của ta. Trong hệ thống tiến công cũng như phòng
thủ thành, đạn đá đóng một nhân tố lớn, hỗ trợ các hướng, các lực lượng, vị
trí chiến đấu.
Đạn đá là loại vũ khí ra đời sớm,có quá trình phát triển lâu đời, nhưng
loại vũ khí sử dụng sức lực của con người này,hầu như ít có sự tiến bộ về
cấu tạo nên hiệu quả không cao, dần dần bị sự phát triển của loại vũ khí sử
dụng thuốc nổ thay thế. Đến thế kỉ thứ XVIII-XIX, trên thé giới ,vũ khí sử
dụng bằng thuốc nổ đã khá hoàn chỉnh. Tuy vậy, nhìn lại lịch sử, vào thời
điểm đạn đá được sử dụng trong bộ mặt phát triển chung của nền kinh tế-xã
hội, khoa học kĩ thuật ở nước ta thì đó là cả một sự tiến bộ.
Chính vì mối quan tâm về đạn đá, đã thôi thúc tôi chọn đề tài này, dẫu
biết rằng để nhận thức đươc hết vai trò, ý nghĩa của đạn đá là vô cùng khó
khăn. Dưới sự giúp đỡ của thac sĩ Đặng Hồng Sơn, tôi chỉ muốn thong qua
một số nguồn tư liệu và thực tiễn để nhận thức một phần nào đó về vai trò ý
nghĩa của đạn đá trong lịch sử, nhìn về quá khứ để góp tầm nhìn về quân sự
trong tương lai.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề




Đạn đá là một vấn đề đã đươc nghiên cứu từ lâu, nhưng hiên nay nó
vẫn là một vấn đề hoàn toàn mới. Các nhà nghiên cứu hay một số tạp chí chỉ
mới đưa ra việc phát hiện, còn việc mổ xẻ nghiên cứu nguôn gốc, vai trò, ý
nghĩa của đạn đá thì chưa được đề cập kĩ, vẫn còn rất nhiều điều chưa được
giải đáp.
3.Đối tượng nghiên cứu
Đó là những quan điểm, nhận thức chủ quan về nguồn gốc, vai trò, ý
nghĩa của đạn đá trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
4.Phạm vi nghiên cứu
Đạn đá trong lịch sử đấu tranh chống phong kiến phương Bắc.
5.Nguồn tài liệu và phương pháp
Nguồn tài liệu: lấy từ một số tạp chí nghiên cứu và từ thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu: bằng phương pháp tổng hợp,so sánh, bước
đầu đưa ra những đánh giá chủ quan về vấn đề này.
6.Cấu trúc báo cáo khoa học
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục báo cáo được chia
làm:
I.Khái quát về đạn đá
II.Nguồn gốc, vai trò, ý nghĩa của việc dùng đạn đá ở Việt Nam
III.Các vũ khí dung để bắn đá
III.Các di tích phát hiện được đạn đá ở Việt Nam và một vài lien hệ sử
dụng đạn đá trên thế giới.
I.Khái quát về đạn đá
1.Hình dáng
Đạn đá chủ yếu có hình cầu, nhiều viên còn hơi méo (hiện vật
dường như đang trong quá trình chế tác dở)



2.Cấu tạo và mầu sắc
Đạn đá được chế tác từ các loại đá bazan và đá cát có kết cấu
chặt, khó vỡ.
Đạn đá có một số mầu sắc chủ yếu như: xám nhạt, xám ghi,
xám xanh, xám trắng.
3.Phương pháp chế tác
Quan sát trên bề mặt hiện vật có những vết lồi, lõm, đường gờ.
Hiện vật hình cầu cho thấy đã có sự chế tác bằng một số phương pháp thủ
công như: chặt, đẽo, mài. Đầu tiên với một tảng đá, người ta chặt ra thành
những khối đá to nhỏ tương ứng với loại đạn đá mình mong muốn to hay
nhỏ. Sau đó, dùng phương pháp đẽo để làm tròn thô hiện vật.
Trên bề mặt có những vết nhẵn chứng tỏ đạn đá đã được mài.
Đặc biệt, đối với các loại đạn đá nhỏ được mài rất nhẵn (có thể bề mặt nhẵn
mới phù hợp với việc đưa vào nòng súng.
II.Nguồn gốc, vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng đạn đá ở nước ta
1.Nguồn gốc, yếu tố cấu thành nên việc sử dụng đạn đá
Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, là trung tâm của Đông Nam Á.
Đặc biệt giáp với nền văn minh Trung Hoa, nơi diễn ra những cuộc chiến
tranh liên miên hàng nghìn năm, với các loại vũ khí đa dạng từ thô sơ tới
hiện đại. Vì thế trong quá trình tiếp xúc giao lưu cưỡng bức cũng như tự
nguyện, Việt Nam cũng đã tiếp thu việc sử dụng đạn đá làm một vũ khí lợi
hại.
Trước thế kỉ XVIII, do trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển, vũ
khí sử dụng bằng thuốc nổ và thuốc súng chưa sử dụng , việc đánh thành
bằng các vũ khí thô sơ còn hết sức khó khăn nên việc xây dựng thành vẫn
chiếm vị trí lớn trong công tác phòng thủ. Vì vậy, việc sử dụng đạn đá vẫn
đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật quân sự.


Việt Nam co ¾ diện tích là đồi núi. Vì thế, nguyên liệu đá rất dễ tìm

kiếm và dễ chế tác. Chỉ cần một vài phương pháp chặt, đẽo, gọt là có thể tùy
ý tạo ra các các loại đạn đá lớn, nhỏ và trung bình cho phù hợp với phương
tiện chiến đấu. Hơn nữa, đá ở nước ta có chất liệu chủ yếu là đá bazan, có
kết cấu chặt, khó vỡ.
Bên cạnh đó việc sử dụng đạn đá cũng phù hợp với con người Việt
Nam về mặt trình độ và sức lực.
Cuối cùng cũng phải khẳng định sự đóng góp không nhỏ trong việc
cải tiến các máy bắn đá, từ thô sơ phải sử dụng sức người, đến máy bắn đá
sử dụng nguyên lý cơ học về lực đòn bẩy. Và cuối cùng là sự ra đời của súng
thần công, đạn đá được đẩy với sức ép của thuốc súng. Đạn có khả năng bay
xa, khả năng trúng mục tiêu cao, gây
sát thương lớn.
Chính vì những yếu tố trên
mà trong các cuộc đấu tranh chống
giặc phương Bắc, quân dân ta đã
triệt để sử dụng đạn đá trong việc
giữ thành, gây khó khăn lớn cho
đừơng tiến công của quân địch.
2.Vai trò của đạn đá
Đạn đá được quân và dân ta sử dụng đóng vai trò lớn trong việc tiêu
diệt quân thù để giữ thành.
Đạn đá có thể chia làm hai loại:
Với các loại đạn đá nhỏ và trung bình nó được dùng để ném tay hoặc
dung với máy bắn đá.


Với các loại đạn đá lớn thì nhiều người tàn thành với việc cho rằng
đây là bi dùng để lăn, vận chuyển đá về phục vụ cho việc xây thành. Người
ta có thể dùng những hòn bi đá cho những khối đá bên trên, người chuyên
chở chỉ cần dùng đòn tre hay gỗ bẩy cho đá trượt. Khi đá trượt qua một số

hòn, người ta lại đem bi đạt lên trước cho khói đá tiếp tục trượt qua. Cứ như
vậy khối đá nhích dần tới nơi xây dựng.
Hoặc như cách giải thích của các hướng dẫn viên-Ban quản lý di tích
thành nhà Hồ cho rằng: Người thợ đặt những khúc gỗ nằm ngang trên đường
chuyển đá về, giữa hai khúc gỗ là những viên bi đá (tạo thành dạng băng
chuyền). Khi khối đá được đẩy qua, những viên bi đá sẽ xoay vòng tại chỗ
để khối đá dịch chuyển được nhẹ, dễ hơn.
Bên cạnh đó, một số đạn đá bề mặt có dính nhiều vôi vữa, theo tác giả
mạnh dạn nhận định đưa ra giả thuyết thì đạn đá chế tác tròn, mài nhẵn, còn
được làm trụ các lan can.
Điều thú vị mà tôi thấy được đó là nhiều nhà dân xung quanh các
thành có đạn đá, thường lấy về để nén vại cà hoặc tran trí trên hai trụ cổng.
4.Ý nghĩa
Trong khi khoa học kĩ thuật ở nước ta chưa phát triển, vũ khí hiện đại
chưa ra đời, đạn đá đã giải quyết được nhu cầu cấp bách về vũ khí của quân
và dân ta. Đạn đá trở thành vũ khí vô cùng lợi hại, đạt hiệu quả cao so với
các loại vũ khí thô sơ trong việc phòng thủ thành. Nó chiếm vị trí quan trọng
trong sơ đồ tác chiến lẫn nghệ thuật quân sự của dân tộc ta.
II.Khái quát về phương pháp bắn đá
Trước khi chế tạo ra các máy bắn đá, con người sử dụng đạn đá bằng
cách ném đá bằngg tay hay vần những tảng đá lớn xuống thành. Điều đó,
làm cho hiệu quả trúng mục tiêu và sát thương không cao, mất nhiều sức lực
và chỉ sử dụng được những hòn đá nhỏ bé.


Dần dần, việc sử dụng dây để ném đá được phổ biến. Đá được quấn
vào dây, xoay vòng, rồi được quăng đi xa nhưng vẫn còn rất hạn chế.
Việc tạo ra máy bắn đá đã đánh dấu một mốc quan trọng, tạo cho đạn
đá có một sức mạnh khủng khiếp. Nó được hoạt động bằng nguyên lý cơ học
về lực đòn bâỷ. Sợi dây treo cánh tay đòn tung lên thành một tư thế thẳng

đứng thường được trợ giúp bằng một cái móc, đoạn cuối sợi dây treo tung ra
đẩy viên đạn về phía trước với tốc độ lớn.
Việc phát minh ra súng thần công mở ra một thời kì mới cho súng
đạn. Tuy nhiên, đạn đá vẫn được sử dụng cùng với súng thần công nhờ sức
ép của thuốc nổ. Súng thần công phân lớn dài từ 40cm đến 100cm, đường
kính ngoài của nòng súng từ 14cm đến 16cm, đường kính trong từ 3cm đến
8cm,đường kính than nơi lớn nhất từ 13cm đến 22cm là phần chứa thuốc
súng. Súng có cấu tạo gồm nòng súng lớn dần đến phần đuôi, quanh vành
miệng nòng có đai dài, ngoài ra than trên của súng còn có một vành đai khác
nhằm giữ cho súng không bị vỡ khi đạn nổ. Lỗ tra nòng ở vào khoảng 1/3
thân từ đuôi súng. Súng thường có đai chống giật và có một rãnh cắt ngang
đuôi súng khớp với một bộ phận ở bệ súng giữ cho súng không giật khi bắn.
Đuôi súng có hình tròn.
III.Một số di tích phát hiện được đạn đá ở Việt Nam và một vài liên hệ
với việc sử dụng đạn đá trên thế giới
1.Một số di tích phát hiện được đạn đá ở Việt Nam
1.1.Khu vực sông Tô Lịch (đoạn đường Láng)
Các viên đạn được chế tạo từ một khuôn, cho nên chúng đều co trọng
lượng và kích thước như nhau và được mài trơn láng. Những viên đạn đá
này được dùng cho súng thần công. Súng thần công thì chúng ta đã phát hiện
được khá nhiều và kích cỡ khác nhau. Tuy nhiên, loại đạn đá này phải phù


hợp với nòng súng. Nếu nòng súng rộng quá thì sức đẩy kém hiệu quả, nếu
chặt quá thì hay bị tắc nòng.
Khẩu súng trưng bày ở Viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam mang đăng
kí là LS 18246 có chiều dài toàn thân 135cm, đường kính toàn miệng
17,5cm, đường kính miệng nòng là 8cm. Những viên đạn đá tìm thấy ở trên
phù hợp với miệng của khẩu súng hơn cả. Đến năm thứ “thập ngũ niên tuế
thứ Bính Tý” tức năm Gia Long phong cho khẩu súng này là một vị tướng

thứ 41 trong 216 vị. Như vậy, những viên đạn đá ở trên có thể được chế tạo
từ thời Tây Sơn và đầu triều Nguyễn.
1.2.Di tích Tử Cấm Thành – thành Hoàng Đế (Bình Định)
Bên cạnh các đồ sứ Champa, gạch xây dựng được phát hiện thì hiện
vật làm nhiều người chú ý nhất là đạn đá, có kích cỡ khác nhau từ 5cm-7cm,
hình tròn. Như vậy ngoài súng thần công dùng đạn lớn, có những loại súng
dùng loại đạn nhỏ.
1.3.Khu vực cửa Nam thành nhà Hồ (xã Vĩnh Tiến- huyện Vĩnh Lộc- tỉnh
Thanh Hóa)
Trong hố một tìm được 60 viên đạn đá chiếm 40,54% tổng số đạn đá
của cuộc khai quật.
Đạn đá đươc phân
chia thành ba loai theo
kích thước từ nhỏ đến
lớn:
Đạn đá loại nhỏ:
có đường kính từ
4,3cm-8,5cm


Đạn đá loại trung bình: có đường kính từ 10,5cm-16cm
Đạn đá loại lớn:có đường kính trung bình từ 18cm-trên 30cm
Theo tiêu chí phân loại trên, đạn đá hố một được phân chia:
Loại nhỏ có 57 viên chiếm 95% lượng đạn đá hố một. Trong đó có 37
viên thuộc lớp mặt (chiếm 61,67% đạn đá hố một), 20 viên thuộc lớp một
(chiếm 33,33% lượng đạn đá hố một)
Loại trung bình có 1 viên thuộc lớp một chiếm 2% số lượng đạn đá hố
một.
Đạn đá loại lớn có 2 viên đều thuộc lớp một chiếm 5% lượng đạn đá
hố một.

Về số liệu cũng như kích thước, chất liệu và những mô tả chi tiết một
số loại đạn đá hố 1 đã được tôi lập bảng thống kê đầy đủ trong bảng kê 1.
Trong hố hai tìm được 88
viên đạn đá chiếm 59,46% tổng số
đạn của cuộc khai quật (bảng kê 2)
Theo tiêu chí phân loại, đạn
đá hố hai được phân chia:
Loại nhỏ có 84 viên chiếm 95,45% lượng đạn đá hố hai. Trong đó có
23 viên thuộc lớp mặt (chiếm 26,14% đạn đá hố hai), 61 viên thuộc lớp một
(chiếm 69,32% đạn đá hố hai).
Loại trung bình có 2 viên thuộc lớp một chiếm 2,27% số lượng đạn đá
hố hai.
Loại lớn có 2 viên đều thuộc lớp một chiếm 2,27% lượng đạn đá hố
hai.
2.Liên hệ việc sử dụng đạn đá trên thế giới


Trên thế giới. con người từ lâu đã biết đến tính năng của đá, đá đóng
một vai trò lớn trong đời sống con người như: dụng cụ canh tác nông nghiệp,
săn các loại động vật…
Các cuộc chiến tranh xảy ra, con người dùng đá tạo thành những viên
đạn đá làm vũ khí tiêu diệt quân thù. Vào thời văn hóa Myxen, con người
dùng dây để ném đá.
Vào thời trung cổ, người ta đã chế tạo một máy
bắn đá trebuchet, là một vũ khí vây hãm. Nó còn được
gọi là máy bắn đá đối trọng để phân biệt với máy bắn
đá sức kéo, sử dụng lực kéo của con người thay vì sử
dụng cân bằng đối trọng. Nó phát triển ở vùng Cơ đốc
giáo và Hồi giáo quanh Địa Trung Hải. Chúng có thể
ném hòn đá 140kg với tốc độ cao. Nó xuất hiện ở Trung Quốc lần đầu tiên

vào thế kỉ IV trước Công nguyên và ở châu Âu là thế kỉ VI sau Công nguyên
đến thế kỉ XVI.
Hoạt động bằng nguyên lý cơ
học về lực đòn bẩy để đẩy đạn đá hay
các loại đạn khác. Sợi dây cheo và
cánh tay đòn vung lên thành tư thế
thẳng đứng thường được trợ giúp
bằng móc, đoạn cuối sợi dây cheo
tung ra, đẩy viên đạn về phía trước
với một sức mạnh khủng khiếp.


Người Vikings biết dùng vào giai đoạn sớm nhất. Theo như tu sĩ
Abbo de St.Germain viết về cuộc vây hãm Pari (885-886) trong sử thi “De
bello Parisaco” của ông thì cỗ máy bắn đá được sử dụng.
Người Nauy cũng sử dụng vũ khí này trong cuộc vây hãm
Anges(873).
Nó phát triển tới Địa Trung Hải vào khoảng cuối thế kỉ VI, được biết
đến tại thế giới Ảrập và được sử dụng với hiệu quả to lớn từ quân đội hồi
giáo.
Máy ném đá được đưa vào hệ thống sử dụng tháp canh, để ngăn chặn
pháo binh kẻ thù trong phạm vi hiệu quả. Những tháp canh này, được thiết
kế như một ụ pháo có quy mô khổng lồ để thích hợp với các cỗ máy lớn.
Lâu đài được vây quanh với một vài tháp canh nhỏ trong những cụm tháp
canh lớn nối liền với tường thành. Những ngọn tháp ở các pháo đài
Damascus, Cairo, Bosra thực sự là những công trình kiến trúc đồ sộ.
Trong cuộc bao vây Acre năm 1191 vua Richard của Anh đã lắp ráp
hai cỗ máy bắn đá. Năm 1304, ở cuộc vây hãm tại lâu đài Stirling đạn đá
cũng được sử dụng.
Năm 1412, Chales VII của Pháp máy bắn đá được dùng máy bắn đá nặng

800kg. Trong khi, năm 1188 tại Ashyun, những hòn đá lên đến 1500kg đã
được sử dụng.
Stt

Ký hiệu

1

H1LmD12:Đ5

Đường
kính
(cm)
4,8

Chất
liệu
Bazan

Mô tả
Màu xám trắng, còn khá nguyên
vẹn, bề mặt khá nhẵn có một vài


2

H1MR1LmB2

6,8


Bazan

3

H1MR1LmB2

8,4

Bazan

4

H1L1A3:Đ12

4,85

Bazan

5

H1MR1L1

5

Đá cát

6

H1L1E11


8,5

Bazan

7

H1MR1L1

5,6

Bazan

8

H1L1E11:Đ6

7

Bazan

9

H1MR2L1

22

Bazan

21


Bazan

33

Bazan

H1L1C1
10
11

H1L1A5

vết sứt nhỏ.
Màu trắng, vỡ mất khoảng 1/3
viên.
Màu nâu xám, bề mặt khá nhẵn.
Vỡ chỉ còn ½ viên.
Màu xám xanh, còn nguyên
vẹn. Bề mặt tròn nhẵn.
Màu nâu xám, bề mặt có nhiều
vết sứt nhỏ, một vế bị vỡ mảnh
lớn.
Màu xám xanh, bề mặt tròn
nhẵn. Vỡ chỉ còn khoảng 1/3
Màu nâu xám, bề mặt có nhiều
vết vỡ nhỏ. Hiện vật còn khá
nguyên vẹn.
Màu xám xanh, bề mặt vẫn còn
một số vết nhỏ của quá trình chế
tác. Bị vỡ mất 1/3

Màu xám nhạt, bị vỡ còn
khoảng 1/4
Màu xám xanh, vỡ chỉ còn ½,
trên than còn nhiều vết vỡ khá
sâu
Màu xám trắng, bị vỡ còn ½
trên mặt có nhiều vết vỡ nhỏ

Bảng kê 1: Phân loại chi tiết đạn đá 08.TNH.H1
Địa điểm cửa Nam-Thành Nhà Hồ

Đường kính Chất
(cm)
Liệu

Stt

Ký hiệu

1

H2LmD5:Đ5

5,8

2 H2L1A’14:Đ46

7,5

Mô tả


Màu xám trắng, vỡ còn khoảng
½, bề mặt khá nhẵn.
Bazan Màu xám xanh, vỡ còn khoảng ½
Bazan


3

H2L1A8:Đ38

4,6

Bazan

4

H2L1B8:Đ47

4,85

Bazan

5

H2L1A’9:Đ50

4,7

Đá cát


6

H2L1C3:Đ54

4,5

Bazan

7

H2L1E14:Đ60

4,6

Bazan

8

H24L1C4:Đ81

4,35

Bazan

9

H2L1A’14:Đ42

11,5


Bazan

10

H2L1B10:Đ62

13

Bazan

11

H2L1D14:Đ63

18

Bazan

12

H2L1E12:Đ61

24

Bazan

viên
Màu xám trắng, còn khá nguyên
vẹn.

Màu nâu xám, còn khá nguyên
vẹn. Bề mặt có một vết vỡ khá
sâu.
Màu xám trắng, còn nguyên vẹn,
bề mặt dính nhiều vôi vữa.
Màu xám ghi. Hiện vật hơi méo,
còn nguyên vẹn.
Màu xám ghi. Hiện vật còn
nguyên vẹn.
Màu nâu xám, còn nguyên vẹn
Màu xám nhạt, bị vỡ chỉ còn
khoảng 1/3.
Màu xám nhạt, hiện vật dường
như đang trong quá trình chế tác
dở:còn có góc cạnh và chưa được
tròn.
Màu xám nhạt. Còn nguyên vẹn,
không tròn lắm, một mặt hơi
phẳng.
Màu xám nhạt. Hiện vật bị tách
một mảng khoảng 1/3 nhưng đã
ghép lại được. Hiện vật khá tròn.

Bảng kê 2: Phân loại chi tiết đạn đá 08.TNH.H2
Địa
điểm cửa
Hồ

Nam- Thành Nhà




KẾT LUẬN


Theo thời gian và năm tháng nhìn lại lịch sử, đạn đá đã giữ một vai trò
quan trọng trong diễn trình lịch sử đấu ttranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, đặc biệt trong thời kì giặc phương Bắc đô hộ:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai họa”
Lịch sử sẽ vẫn mãi ca vang bài ca đạn đá, một trong những loại vũ
khí cùng với long yêu nước của toàn dân tộc, góp phần đẩy lùi kẻ thù, giữ
gìn độc lập cho đất nước.



×