Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp cử nhân y tế công cộng ăn bổ sung ở trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.6 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THĂNG LONG
BỘ MÔN Y TẾ CÔNG CỘNG
---o0o---

CHUYÊN ĐỀ

ĂN BỔ SUNG Ở TRẺ

NHÓM SINH VIÊN : Nhóm 1
CHUYÊN NGÀNH : Y TẾ CÔNG CỘNG


HÀ NỘI - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
BỘ MÔN Y TẾ CÔNG CỘNG
---o0o---

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Y TẾ CÔNG CỘNG
Khóa: 2010-2014

ĂN BỔ SUNG Ở TRẺ
NHÓM SINH VIÊN : NHÓM 1

1. Nguyễn Mai Thu
2. Nguyễn Thị Lạc Hồng
3. Nguyễn Tuấn Vũ


GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TRẦN THỊ PHÚC NGUYỆT

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................. 1
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN.................................................................................... 3

Khái niệm ăn bổ sung............................................................................................................ 3
Nguyên nhân của việc ăn bổ sung không đúng cách........................................................... 3
Nguyên nhân..................................................................................................................... 3
1 số sai lầm trong việc cho trẻ ăn bổ sung....................................................................... 4
Lưu ý khi nêm nếm thức ăn của trẻ................................................................................. 4
Hậu quả của việc cho trẻ ăn bổ sung không đúng cách...................................................... 4
Hậu quả chính.................................................................................................................. 4
Ngoài ra

5

Vấn đề dị ứng trong ăn bổ sung............................................................................................ 6
Dị ứng thức ăn ở lứa tuổi ăn bổ sung.............................................................................. 6
Những thực phẩm nào hay gây dị ứng............................................................................ 6
Dị ứng sữa động vật..................................................................................................... 6
Dị ứng các loại hải thuỷ sản........................................................................................ 7
Dị ứng trứng 7
Tầm quan trọng của ăn bổ sung ở trẻ nhỏ........................................................................... 7

CHƯƠNG 2. Thực trạng và tồn tại hiện nay về vấn đề ăn bổ sung, dinh dưỡng
của trẻ em hiện nay...................................................................................................... 8
Thực trạng

8

Tồn tại hiện nay về việc ăn bổ sung...................................................................................... 8
Thời gian cho ăn bổ sung quá sớm.................................................................................. 8
Thức ăn bổ sung đơn điệu, nghèo nàn............................................................................ 8
Ăn bổ sung ở Việt Nam..................................................................................................... 9
Vấn đề cho con ăn bổ sung của các bà mẹ...................................................................... 9
CHƯƠNG 3.

PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ ĂN BỔ SUNG.................................11

Dấu hiệu cho thấy trẻ muốn ăn bổ sung............................................................................. 11
Thực phẩm ăn bổ sung........................................................................................................ 11
Các loại thức ăn cần cho trẻ trong thời kì ăn bổ sung.................................................. 12
Số lượng bữa ăn............................................................................................................. 14
Thực đơn ăn bổ sung cho trẻ ở từng giai đoạn.................................................................. 14
Thực đơn dành cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi....................................................................... 14
Bột đậu xanh + bí đỏ................................................................................................. 14
Bột tôm

14


Bột trứng

15


Bột thịt

15

Bột cá

15

Bột gan (gan gà, gan lợn).......................................................................................... 15
Thực đơn cho trẻ từ 9-11 tháng tuổi............................................................................. 15
Bột lạc

15

Bột đậu xanh+ bí đỏ................................................................................................... 16
Bột cua

16

Bột tôm

16

Bột thịt

16

Bột cá


16

Bột gan (gan gà, gan lợn).......................................................................................... 16
Thực đơn của trẻ từ 12- 23 tháng tuổi (ngày cho trẻ ăn 3-4 bữa).................................17
Cháo lạc

17

Cháo cá

17

Cháo tôm

17

Cháo trứng

17

Cháo thịt (thịt lợn, thịt gà, thịt bò)............................................................................. 17
Cháo lươn

18

Thực đơn ăn cho trẻ từ 2-3 tuổi..................................................................................... 18
Kĩ thuật cho trẻ ăn bộ sung................................................................................................. 18
Thời gian bắt đầu cho bé ăn bổ sung.................................................................................. 19
Thời gian nên cho trẻ tập nhai............................................................................................ 20
Những khó khăn có thể xảy ra khi cho trẻ ăn bổ sung..................................................... 20

CHƯƠNG 4.
Kết luận

22

Kiến nghị

22

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................... 22

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 23


LỜI CẢM ƠN
Báo cáo chuyên đề “Ăn bổ sung ở trẻ” đã được nhóm 1 lớp chuyên đề Dinh
dưỡng – An Toàn Thực Phẩm hoàn thành. Trước hết, nhóm tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất đến Giảng viên hướng dẫn TS. Trần Thị Phúc Nguyệt –
người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chỉ bảo cho tôi trong suốt thời gian làm
chuyên đề.
Nhóm tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo và các cán bộ thư viện Trường
Đại Học Thăng Long cũng như Trường Đại Học Y Hà Nội đã giúp đỡ tạo điều kiện
cho tôi nghiên cứu và tìm tài liệu trong suốt thời gian qua.
Nhóm tôi cũng xin gửi lời cám ơn sự quan tâm giúp đỡ đến các bạn học trong lớp
chuyên đề Dinh dưỡng – An Toàn Thực Phẩm đã góp ý giúp tôi xây dựng báo cáo
trong những buổi đầu nhận chuyên đề.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cám ơn trân trọng nhất đến tất cả những người đã
luôn giúp đỡ, động viên, hỗ trợ, đóng góp ý kiến và hướng dẫn tôi trong quá trình học
tập cũng như thực hiện chuyên đề.


Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 2013
Sinh viên Trường Đại Học Thăng Long
Nguyễn Mai Thu
Nguyễn Thị Lạc Hồng
Nguyễn Tuấn Vũ


ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính có khoảng 500 triệu trẻ em bị suy
dinh dưỡng (SDD) trên toàn cầu, trong đó có 150 triệu trẻ em ở Châu Á,chiếm 44%
tổng số trẻ em dưới 5 tuổi [9].
Tại Việt Nam theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng (6 tháng đầu năm
2013), tỷ lệ SDD thấp còi cuả trẻ em dưới 5 tuổi trong toàn quốc là 26,7%, SDD cân
nặng là 16,2%. [1]
SDD ở trẻ em không đơn thuần chỉ là hậu quả của sự thiếu thức ăn hay thiếu
chăm sóc về y tế, vệ sinh môi trường, mà chất lượng chăm sóc và nuôi dưỡng còn phụ
thuộc nhiều vào kiến thức và thời giancủa người chăm sóc trẻ. Nhiều trẻ em, bố mẹ có
thu nhập khá vẫn bị SDD, vì nhiều là bà mẹ chưa biết cách chăm sóc con cái [1].
Nuôi con bằng sữa mẹ không đúng, đặc biệt là không nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ sung không phù hợp, thức ăn bổ sung nghèo
nàn, đơn điệu... là những yếu tố có nguy cơ cao làm tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ
nhỏ. Những ảnh hưởng do nuôi dưỡng sai lầm trong thời kì này kéo dài trong suốt
cuộc đời của đứa trẻ biểu hiện qua kém trí tuệ, giảm khả năng lao động, thiệt thòi trong
cuộc sống xã hội, cộng đồng... [1]
Ăn bổ sung ( ăn dặm, ăn sam ) ở trẻ nhỏ là bước chuyển lớn từ chế độ ăn hoàn
toàn bằng sữa sang chế độ ăn có thức ăn đặc. Đây là giai đoạn phát triển thiết yếu đối
với trẻ. Sữa vẫn sẽ tiếp tục là nguồn cung cấp dưỡng chất thiết yếu cho bé trong một
thời gian nữa, nhưng khi trẻ đã trở nên lanh lợi hơn, thức ăn đặc sẽ trở thành phần
chính yếu trong chế độ ăn uống cân bằng rất quan trọng đối với sức khỏe của trẻ [1].
Nghiên cứu về vấn đề ăn bổ sung là một việc rất cần thiết đối với sự phát triển

của trẻ em, giúp trẻ hấp thu đầy đủ chất dinh dưỡng cho sự phát triển toàn diện sau
này.Vậy mục tiêu của chuyên đề “Ăn bổ sung ở trẻ nhỏ” bao gồm:
1. Trình bày được khái niệm ăn bổ sung, nguyên nhân, hậu quả của việc cho
ăn bổ sung không đúng cách và các vấn đề dị ứng trong ăn bổ sung ở trẻ
nhỏ.
2. Mô tả thực trạng việc trẻ được cho ăn bổ sung hiện nay.
3. Trình bày được các phương pháp cho trẻ ăn bổ sung, xây dựng khẩu phần ăn và
chế độ ăn hợp lý.


CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN

Khái niệm ăn bổ sung
Theo WHO/UNICEF (1988): Bất kì một loại thực phẩm, dịch lỏng nào ngoài sữa
mẹ có chứa chất dinh dưỡng được dùng cho trẻ ăn uống trong giai đoạn ăn bổ sung
đều được coi là thức ăn bổ sung [2].
Ăn bổ sung ( ăn dặm, ăn sam ) – là bữa ăn đầu đời của trẻ, quan trọng không phải
chỉ vì cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển mạnh mẽ của trẻ mà còn
vì chúng là "sứ giả" giới thiệu thế giới muôn ngàn mùi vị của thức ăn. Những bữa ăn
đầu đời định hướng cảm nhận ẩm thực, thói quen ăn uống cho trẻ.
Trong 4-6 tháng đầu tiên, trẻ chỉ bú sữa. Nhưng trong 6 tháng tiếp theo, trẻ bắt
đầu ăn bổ sung và đến khi 1 tuổi trẻ đã ăn được hầu hết các thức ăn như người lớn. Sự
chuyển tiếp này là một vấn đề lớn vì cả mẹ và trẻ cần làm quen dần với khái niệm
“bữa ăn gia đình”. Để giải quyết vấn đề này, người mẹ cần cho trẻ ăn bổ sung từng
bước để trẻ có thời gian làm quen với thức ăn mới, tuy vậy nhưng trong thời gian này
sữa vẫn là nguồn dinh dưỡng quan trọng nhất cho trẻ. Vì vậy nên tiếp tục cho trẻ bú
mẹ và dùng bổ sung thêm sữa công thức phù hợp với độ tuổi của trẻ.
Nguyên nhân của việc ăn bổ sung không đúng cách

Nguyên nhân
- Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều bà mẹ thiếu kiến thức, thiếu hiểu
biết về lợi ích của sữa mẹ đối với sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
- Trong suy nghĩ của họ vẫn còn có những quan niệm sai lầm và lạc hậu như:
sữa mẹ chưa có trong những giờ đầu sau khi sinh, cần cho trẻ ăn bổ sung sớm để trẻ
cứng cáp. Có người còn nói, nhiều đứa trẻ không bú sữa mẹ vẫn lớn nhanh như thổi
đó thôi.
- Một nguyên nhân khác là hiện nay trên thị trường rất đa dạng sữa cho trẻ em,
nhiều bà mẹ nghĩ rằng nó tốt hơn sữa mẹ nên đã chú trọng nuôi bằng sữa ngoài.
- Nhiều bà mẹ mang thai tháng thứ 7, thứ 8 vẫn phải làm việc, lượng sữa của
những người mẹ rất ít. Có một số chị sau khi sinh vài tháng vì “tham công tiếc việc” nên
lao vào làm việc. Vì thế, không nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.
- Còn đối với chị em là cán bộ công chức, viên chức nhà nước, công nhân thì việc nuôi
con hoàn toàn bằng sữa mẹ cũng gặp không ít khó khăn. Việc chỉ nghỉ sinh 4 tháng
cùng với áp lực công việc đã làm cho nhiều người dù muốn cũng không thể nuôi con
hoàn toàn bằng sữa mẹ. Có một số chị có sự hỗ trợ của người nhà, nhưng phần lớn thì
không được như vậy. Vì thế, cho con ăn dặm khi chưa đủ 6 tháng tuổi là giải pháp mà
nhiều chị em đã lựa chọn.


1 số sai lầm trong việc cho trẻ ăn bổ sung
- Cho trẻ ăn nước hầm (ninh) không rõ từ bao giờ.
- Nấu một nồi cháo to dùng cho 3 bữa trong ngày, hâm đi hâm lại. Do quá bận
rộn, một số bà mẹ đã phải làm cách này vì thời gian hầm một nồi cháo khá lâu, mà bé
lại ăn mỗi bữa không nhiều.
- Cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn.
Lưu ý khi nêm nếm thức ăn của trẻ
Trẻ nhỏ có cảm giác vị giác tốt hơn người lớn rất nhiều, vì con người càng lớn thì
lưỡi càng bị "chai đi" và nhiều người già bị mất cả cảm giác này. Vì vậy khi nêm nếm
thức ăn cho trẻ, bạn cần nêm nhạt hơn một chút. Nếu bạn nêm vừa miệng mình thì có

lẽ là quá mặn hoặc quá ngọt so với trẻ.
Hậu quả của việc cho trẻ ăn bổ sung không đúng cách
Hậu quả chính
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến nghị cho trẻ bú hoàn toàn trong 4-6
tháng đầu. Song trong thực tế vẫn còn một số bà mẹ chưa cho con ăn bổ sung khi mới
được 2-3 tháng tuổi. Họ cho rằng cho ăn bột sớm thì bé sẽ cứng cáp hơn. Quan điểm
này không có cơ sở khoa học.
Thức ăn bổ sung thường là tinh bột và các thứ khác. Để tiêu hóa tinh bột phải có
men amylasa.Men này có rất ít ở tuyến nước bọt và tuyến tụy của trẻ 3 tháng tuổi, hoạt
tính lại rất yếu, chỉ bằng 10% so với người lớn. Việc cho trẻ ăn bột sớm sẽ ảnh hưởng
đến sự hấp thụ các chất dinh dưỡng khác, dẫn tới những nguy cơ về sức khỏe của trẻ
trong hiện tại và cả tương lai. Cụ thể là trẻ ăn dặm sớm ít bú mẹ hơn, bà mẹ sẽ tạo
được ít sữa hơn.
Một số nghiên cứu còn cho thấy, thức ăn bổ sung như bột ngũ cốc, rau, quả... có
thể ảnh hưởng tới sự hấp thu sắt trong sữa mẹ. Hậu quả là trẻ bị thiếu máu do thiếu sắt.
Việc ăn bổ sung quá sớm cũng làm tăng nguy cơ béo phì. Khi mới thay đổi chế
độ ăn, trẻ chưa quen nên không muốn ăn, nôn oẹ, rối loạn tiêu hóa... nhưng dần dần cơ
thể cũng phải thích ứng. Men amylasa được tăng tiết khi tinh bột và các thức ăn khác
đưa vào bữa ăn của trẻ. Thận cũng được kích thích làm việc nhiều hơn, tăng khả năng
lọc và bài tiết. Khi trẻ đã thích nghi với chế độ ăn bổ sung, bà mẹ càng tích cực nhồi
nhét vì cho là trẻ ăn càng nhiều càng tốt. Trẻ ăn quá nhiều trở thành thói quen, dẫn đến
tăng cân quá mức. Bệnh béo phì xuất hiện.Nếu không được điều chỉnh thì bệnh phát
triển mãi đến tuổi trưởng thành.
Một nguy cơ có thể gặp nữa là bệnh tăng huyết áp. Trong sữa mẹ, hàm lượng
natri thấp, khoảng 15 mg%, đủ đáp ứng nhu cầu cho trẻ. Khi ăn bổ sung, lượng natri
đưa vào cơ thể tăng lên rất nhiều lần, đặc biệt là khi bà mẹ có thói quen ăn mặn. Đây là


một trong những yếu tố chính gây ra bệnh tăng huyết áp. Trong thực tế, béo phì và
tăng huyết áp có liên quan với nhau.

Ăn bổ sung quá sớm cũng có thể dẫn đến xơ vữa động mạch. Các bà mẹ đều
muốn dành cho con những gì bổ nhất mà không biết rằng mỗi lứa tuổi có nhu cầu ăn
uống khác nhau. Chế độ ăn quá nhiều năng lượng, nhiều axit béo no rất dễ làm phát
triển bệnh xơ vữa động mạch ở tuổi trưởng thành.
Những trẻ được ăn dặm sớm cũng có nhiều nguy cơ dị ứng thức ăn. Một nghiên
cứu được tiến hành với nhóm trẻ từ lúc mới sinh đến 3 tuổi cho thấy, ở những trẻ được
nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và sau đó ăn bổ sung hợp lý, tỷ lệ bị
eczema rất thấp so với nhóm được nuôi bằng sữa bò và ăn bổ sung quá sớm.
Ngược lại, nếu ăn bổ sung quá muộn thì trẻ thường bị thiếu chất, chậm lớn, tăng
nguy cơ mắc bệnh.
Ngoài ra:
- Trước 4 tháng tuổi, sự phát triển thể chất chưa hoàn thiện đủ để bé bắt đầu ăn
dặm. Có 6 nguyên nhân nguy hiểm khi cho bé ăn dặm quá sớm:
+

Dù bé mút sữa khá tốt nhưng tuyến nước bọt chưa thành thục cho việc
tiêu hóa thức ăn. Khoảng 4 tháng tuổi, hệ tiêu hóa của bé mới bắt đầu tiết
ra một enzyme, gọi là amylase, cần thiết cho việc tiêu hóa bột ăn dặm
(chất tinh bột và carbonhydrate). Trước 6 tháng tuổi, cơ thể khá khó khăn
khi tiêu hóa chất béo. Một số chất không thể tiêu hóa nổi sẽ bài tiết theo
phân, ra ngoài. Những thức ăn giàu protein như trứng, thịt, hoặc sữa bò,
nếu được cho ăn quá sớm sẽ gây hại thận.
+ Nếu cho ăn dặm quá sớm, cơ thể của bé chưa đủ phát triển để sẵn sàng
cho việc ăn dặm. Các cơ ở cổ họng còn yếu, chưa phù hợp với hoạt động
nuốt thức ăn, cho đến khi ít nhất bé được 4 tháng tuổi.
- Dưới 4 tháng tuổi, bé cũng chưa biết dùng lưỡi để chuyển thức ăn từ bên
ngoài và bên trong khoang miệng.
+ Chẳng hạn, khi bạn chạm nhẹ vào lưỡi của bé, ngay lập tức, bé phản ứng
bằng cách đẩy lưỡi ra ngoài. Đây là hoạt động tự nhiên ở bé sơ sinh và chỉ
chấm dứt, đến khoảng 16-18 tháng tuổi.

+ Lần đầu tiên dùng thìa xúc thức ăn cho bé, bé thường ngậm chặt miệng
lại. Nhưng gần 5 tháng tuổi, nếu bé nhìn thấy chiếc thìa, bé sẽ sớm há
miệng ra rộng hơn – phản ứng tự nhiên khi bé đã trưởng thành hơn.
+ Bé có thể bày tỏ thái độ rằng: “Con không muốn ăn nữa”; chẳng hạn, khi
cho bé “bú mẹ”, bé chán là phản ứng bằng ngừng bú hoặc ngủ thiếp đi.
Nhưng để bé biết quay đầu, từ chối thức ăn thì phải đợi đến 4-5 tháng tuổi.


+ Dưới 4 tháng tuổi, thường không biết dấu hiệu bé có muốn ăn nữa hay
không. Do đó, nhiều người mẹ thấy việc cho bé ăn dặm trước 4 tháng tuổi
là khá nhàn, vì bé ít quay ngang – quay dọc. Chuyện này dẫn tới việc lạm
dụng bột ăn dặm cho con, khiến bé dễ thừa cân về sau.
- Các nghiên cứu chỉ ra rằng, ăn dặm sớm có liên quan đến những vấn đề sức
khỏe của bé sau này như béo phì, trục trặc ở hệ hô hấp như hen suyễn hay dị ứng thức
ăn.
- Thức ăn dặm không làm bé no bụng, ngon giấc cả đêm. Một số nghiên cứu cho
biết, nhiều bé bắt đầu ngủ một giấc dài về đêm ở giai đoạn 3 tháng tuổi, cho dù có
được ăn dặm hay không. Ngay cả khi, ăn dặm giúp bé ngủ dài hơn thì đó cũng không
phải lý do phù hợp để cho con ăn dặm sớm.
- Nếu cho bé “bú mẹ” hoàn toàn; đồng thời cho con ăn dặm quá sớm thì sữa mẹ có thể
bị giảm.
Vấn đề dị ứng trong ăn bổ sung
Dị ứng thức ăn ở lứa tuổi ăn bổ sung
Lứa tuổi ăn bổ sung (ăn dặm) bắt đầu từ khi trẻ được 6 tháng tuổi, thời kì này
một mình sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng do cơ thể trẻ phát triển rất
nhanh. Đây cũng là giai đoạn trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn do kháng thể thụ động từ
mẹ truyền sang ở thời kì thai nhi giảm dần, trẻ bắt đầu tiếp xúc nhiều với môi trường
xung quanh, trẻ tập ăn những thức ăn khác ngoài sữa mẹ, chính vì vậy nguy cơ dị ứng
thức ăn thường hay gặp ở một số trẻ có cơ địa dị ứng.
Những thực phẩm nào hay gây dị ứng

Tất cả những thực phẩm có chứa protein(chất đạm) nguồn gốc động vật đều có
thể gây dị ứng nhưng hay gặp nhất là sữa động vật (sữa bò, dê, trâu) các loại hải thủy
sản: tôm, cua, cá hoặc nhộng, trứng...
Dị ứng sữa động vật
Do protêin trong sữa các loại động vật khác với protein trong sữa mẹ về thành
phần và số lượng nên một số trẻ ăn vào có thể bị dị ứng. Biểu hiện của dị ứng sữa: Trẻ
bị tiêu chảy, nổi mề đay, mẩn ngứa, một số trẻ có biểu hiện bằng nôn liên tục. Một số
trẻ thiếu men lactaza nên không hấp thu được đường lactoza trong sữa bò cũng gây
tiêu chảy. Gặp những trường hợp này nên dừng lại không cho trẻ ăn sữa bò, dùng sữa
đậu tương thay thế hoặc làm sữa chua cho trẻ ăn.


Dị ứng các loại hải thuỷ sản
Tôm, cua, cá: Sau khi ăn các loại thực phẩm này, trẻ bị nổi mề đay, sẩn ngứa,
một số trẻ có thể bị tiêu chảy, nên ngừng ngay các loại thực phẩm này, sau đó có thể
tập cho trẻ ăn dần từng ít một, nếu vẫn bị dị ứng thì không cho trẻ ăn các loại thực
phẩm này nữa.
Dị ứng trứng
Thường ít gặp hơn các loại trên, khi ăn trứng cũng có trẻ có các biểu hiện của dị
ứng như : nổi mề đay, mẩn ngứa, tiêu chảy...cũng tập cho trẻ ăn dần từng ít một, hoặc
chế biến dưới dạng caramen (trứng sữa hấp) cho trẻ ăn thì có thể không bị dị ứng nữa.
Nếu vẫn dị ứng thì không cho trẻ ăn tiếp và thay thế bằng loại thức ăn khác.
Tầm quan trọng của ăn bổ sung ở trẻ nhỏ
- Trẻ dưới hai tuổi là giai đoạn đặc biệt quan trọng vì chúng đang trong thời kỳ
tăng trưởng và phát triển nhanh, là đối tượng dễ mắc bệnh và có bằng chứng cho rằng
thực hành chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở hầu hết các nước đang phát triển là rất kém.
- Tiếp tục bú mẹ sau sáu tháng kết hợp với cho ăn bổ sung các thực phẩm đủ chất
dinh dưỡng, an toàn và phù hợp giúp đáp ứng các nhu cầu về dinh dưỡng vì sữa mẹ lúc
này không còn cung cấp đủ nữa.
- Từ 6-12 tháng tuổi, sữa mẹ - nếu được bú tối đa có thể cung cấp 1/2 hay nhiều

hơn so với nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và từ 12-24 tháng, ít nhất cung cấp được 1/3
nhu cầu ngoài.
- Bổ sung các loại thực phẩm hợp lý giúp trẻ từ sáu tháng tuổi trở lên hấp thu và
tiêu hóa dễ dàng, cung cấp các chất dinh dưỡng - năng lượng, chất đạm, chất béo, các
vitamin và chất khoáng giúp đáp ứng các nhu cầu tăng năng lượng của trẻ ngoài sữa mẹ.


CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG VÀ TỒN TẠI HIỆN NAY VỀ VẤN ĐỀ ĂN BỔ
SUNG, DINH DƯỠNG CỦA TRẺ EM HIỆN NAY

Thực trạng
Mỗi năm có 7.000 trẻ tử vong liên quan đến dinh dưỡng.Theo số liệu của Viện
Dinh Dưỡng Quốc Gia, Việt Nam có trên 31% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
thể thấp còi năm 2009 và khoảng 7.000 trẻ em chết vì các nguyên nhân liên quan đến
dinh dưỡng mỗi năm trên toàn quốc[10].
Trung tâm dinh dưỡng TPHCM công bố : “Tỉ lệ thiếu hụt dinh dưỡng của trẻ em
ở nước ta hiện chiếm đến 31,9% và cứ khoảng 5 trẻ dưới 5 tuổi thì có 1 trẻ bị thiếu
cân; 3 trẻ dưới 5 tuổi thì có 1 trẻ bị thấp còi.”
Báo cáo về tình hình suy dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi của Viện Dinh
dưỡng quốc gia năm 2010 cho thấy, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo cân nặng ở nước ta hiện
còn 17,5 %, còn suy dinh dưỡng thể thấp còi là 29,3%.
Như vậy, vấn đề về dinh dưỡng hiện nay là:
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn ở mức khá cao : Hiện nay, theo điều tra
của Viện Dinh Dưỡng Quốc gia (2009) có trên 30 % trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
có chiều cao thấp so với tuổi (thấp còi). Trẻ khi bị thấp khi bé sẽ ảnh hưởng đến chiều
cao lúc trưởng thành và như vậy sẽ có ảnh đến giống nòi Việt nam.
- Thiếu vi chất dinh dưỡng ( thiếu vitamin A, thiếu sắt, kẽm): Vẫn phổ biến ở trẻ dưới 2
tuổi. Khi trẻ bị thiếu vi chất dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng đến phát triển thể chất, tinh

thần, trí lực và sức đề kháng, trẻ dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
- Việc nuôi con bằng sữa mẹ đang cần được quan tâm: Số liệu điều tra cho thấy mới chỉ
có 17% trẻ em Việt Nam được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
Tồn tại hiện nay về việc ăn bổ sung
Thời gian cho ăn bổ sung quá sớm :
Nhiều nơi trên thế giới, các bà mẹ thường cho con mình ăn bổ sung quá sớm, khi
trẻ mới được 2-3 tháng tuổi hoặc thậm chí có nơi cho trẻ ăn bổ sung ngay từ tháng đầu
tiên . [3]
Thức ăn bổ sung đơn điệu, nghèo nàn
Dop M.C và Benbouzid D. (1999) cũng nghiên cứu vế thức ăn bổ sung ở Châu
Phi và Trung Đông thấy thức ăn đầu tiên bà mẹ cho trẻ thường là cháo ngũ cốc loãng.
Hầu hết các trường hợp được nấu từ một loại ngũ cốc như gạo hoặc ngô, mỳ, yến
mạch, chỉ một số bà mẹ ở vài nước như Ethiopia, Kennya, Tanzania... đôi khi có cho
thêm đường, sữa bò tươi hoặc sữa chua.


Chất dinh dưỡng trong 100g thức ăn bổ sung rất thấp, năng lượng chỉ khoảng 3090kcal, protein khoảng 0,5-2,5g.
Tỷ lệ trẻ được cho ăn trước 4 tháng ở Malawi 42%, Togo 38%, một số nước khác
như Benin, Cameroon, Tunisia khoảng 25%, riêng Congo 1/3 số trẻ được cho ăn bổ
sung trước 2 tháng tuổi. [4]
Ăn bổ sung ở Việt Nam :
Một nghiên cứu cách đây hơn 30 năm cho thấy, một nửa số trẻ em dưới 3 tháng
đã được cho ăn bổ sung, thức ăn chủ yếu trong và sau khi thôi bú là bột gạo có thêm
nước mắm và mì chính.[5]
Nguyễn Đình Quang, Phạm Duy Tường ( 1989) nghiên cứu trên 185 trẻ dân tộc
Thái ở một vùng núi phía Bắc Việt Nam cho thấy, số trẻ được ăn bổ sung trước 3
tháng là 43,3% và ăn muộn sau 6 tháng là 31,8%, chất lượng bữa ăn bổ sung nghèo
nàn, chủ yếu là gạo, thiếu các thực phẩm giàu đạm, thiếu dầu mỡ, rau xanh. Theo các
tác giả thì nguyên nhân là do điều kiện kinh tế gia đình, đặc biệt là thiếu kiến thức của
bà mẹ về thức ăn bổ sung cho trẻ.[6]

Cao Thị Hậu và cs (1993) nghiên cứu ở Ninh Bình cho thấy 97,9% bà mẹ cho
con ăn bổ sung sớm, 41,9% bà mẹ kiêng cho con ăn rau xanh, dầu mỡ khi trẻ bị tiêu
chảy, 50% bà mẹ thiếu kiến thức nuôi con và chăm sóc sức khỏe bản thân.[7]
Tìm hiểu các khía cạnh văn hóa xã hội về quyết định nuôi trẻ nhỏ của bà mẹ tại
một vùng đồng bằng Bắc Bộ, Hà Huy Khôi, Nguyễn Công Khẩn và cs ( 1993) thấy trẻ
được ăn bổ sung khá sớm trong 2-3 tháng đầu tiên sau sinh, thức ăn chủ yếu là bột gạo,
muối, nước mắm.[6]
Một nghiên cứu Ở Hà Tĩnh (1996) cho thấy : 37,6% trẻ được ăn bổ sung trước 4
tháng và 5,8% ăn muộn sau 6 tháng. Ở những trẻ đang ăn bột: 56,3% bà mẹ đã biết
cho thêm đậu xanh, nhưng trẻ vẫn được ăn chủ yếu là bột đường (59,4%) dầu mỡ và
rau xanh trong bột hầu như không có. [8]
Nghiên cứu gần đây của Trịnh Bảo Ngọc và cộng sự (2006) ở Quảng Nam cho
thấy, mặc dù bà mẹ cho con ăn trong ngày trung bình 2-3 bữa nhưng số lượng bột
trong mỗi bữa trung bình chỉ có 90g bột đã nấu chín, chưa bằng 1/2 khả năng trẻ có thể
ăn. Đậm độ năng lượng của bột cũng rất thấp, khoảng 70kcal/100g. Do vậy , trẻ luôn ở
trong tình trạng thiếu năng lượng. [5]
Vấn đề cho con ăn bổ sung của các bà mẹ :
- Các bà mẹ ở thành phố cũng như nông thôn khi cho con ăn bổ sung, ăn dặm
thường cho ăn nhiều loại thức ăn chưa phù hợp, quá nhiều đạm nhiều chất hoặc lại
không đủ chất dinh dưỡng cần thiết.


- Đối với những bà mẹ trẻ hoặc những người có tư tưởng hiện đại thì lại thường
nuôi con theo phong cách tây, hiện đại nhưng thực tế thì lại không phù hợp với trẻ.
Tất cả đều dẫn đến tình trạng là sự phát triển của trẻ bị ảnh hưởng, trẻ bị suy dinh
dưỡng hoặc thừa cân béo phì…


CHƯƠNG 3.


PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ ĂN BỔ SUNG

Dấu hiệu cho thấy trẻ muốn ăn bổ sung
- Sau khi bú no sữa, bé vẫn còn khóc và đòi bú thêm.
- Bé có vẻ không muốn đợi đến lần bú kế tiếp và trở nên cáu kỉnh hoặc mút tay.
- Trước đây bé ngủ suốt đêm, bây giờ thì bé lại thức dậy đòi bú.
- Những giấc ngủ ban ngày cũng trở nên thất thường, ngủ không yên hoặc thức
dậy sớm sau khi ngủ chợp mắt.
- Em bé trông rất hứng khởi khi bạn ăn, và dường như muốn đưa tay với lấy thức
ăn mà bạn đang cầm.
Thực phẩm ăn bổ sung

- Thức ăn cơ bản: gồm ngũ cốc và khoai, củ như gạo, mỳ, ngô, khoai sắn…
Nhóm thức ăn này cung cấp nhiệt lượng chủ yếu trong khẩu phần. Chất đường từ tinh
bột. Ở nước ta hay dùng gạo, ngô được chế biến dưới dạng bột để sử dụng cho trẻ.
- Thức ăn giàu protein: Nguồn protein động vật có giá trị dinh dưỡng cao, hấp thu tốt
như: trứng, sữa, thịt, cá, tôm, cua… Các loại thịt lợn, bò, gà đều cho trẻ ăn được và
không cần thiết phải ăn toàn thịt nạc mà nên sử dụng cả nạc lẫn mỡ. Nguồn Protein
thực vật có giá trị dinh dưỡng là đậu đỗ (đậu nành, đậu xanh, đậu đen… ). Trong đó
đậu nành có hàm lượng Protein, lipit cao nhất. Có thể chế biến đậu nành dưới dạng
sữa, bột đậu nành, đậu phụ.


- Thức ăn giàu năng lượng: gồm mỡ động vật và các loại dầu thực vật như dầu
lạc, dầu vừng, dầu đậu nành… Dầu mỡ ngoài việc cung cấp năng lượng còn giúp cơ
thế hấp thu các loại Vitamin A, D, E, K.
- Thức ăn giàu vitamin và chất khoáng: Các loại rau và hoa quả là nguồn cung
cấp vitamin và chất khoáng,đặc biệt là các loại quả, củ có màu vàng đỏ như đu đủ,
muỗm xoài, cà chua, bí đỏ, cà rốt, gấc… và các loại rau có màu xanh thẫm như rau
ngót, rau dền, rau muống chứa nhiều vitamin C, Beeta Caroten và Sắt giúp trẻ phòng

chống khô mắt và thiếu máu.

Hình ảnh 3.1. Tháp dinh dưỡng đơn giản, đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ.
Các loại thức ăn cần cho trẻ trong thời kì ăn bổ sung
- Thức ăn cơ bản là loại giàu tinh bột (gồm ngũ cốc và các loại củ, thường được
chế biến dưới dạng bột, cháo, súp), thức ăn giàu đạm nguồn động vật như thịt, cá,
trứng, sữa, tôm, cua (được trộn vào bột cháo cho trẻ ăn).
- Các loại đậu đỗ và hạt có dầu: đậu tương, đậu xanh, đậu đen, đậu trắng, đậu
đũa, lạc, vừng, hạt hướng dương khi phối hợp với ngũ cốc sẽ trở thành những món
giàu đạm lại rẻ tiền.
- Rau lá màu xanh thẫm và rau quả củ màu vàng: rau muống, rau ngót, rau cải,
rau giền, bí đỏ, cà chua, cà rốt, đu đủ, xoài... cung cấp sắt, vitamin A, vitamin C và
chất xơ chống táo bón.


- Dầu, mỡ (dầu đậu nành, dầu lạc, dầu ngô, dầu cọ và mỡ các loại động vật) là nguồn bổ
sung năng lượng cho bữa ăn của trẻ và làm cho thức ăn mềm dễ nuốt, tăng hấp thu
vitamin.
Mỗi bữa ăn bổ sung cần có 4 nhóm thực phẩm sau:
- Nhóm chất đạm: nguồn động vật (thịt, cá, trứng, sữa...), nguồn thực vật (đậu,
đỗ, vừng/mè, lạc/đậu phộng...). Đặc biệt là cá, có nhiều thông tin cho rằng ăn cá không
tốt bởi một số loài cá có thể chứa hàm lượng thủy ngân cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
phải công nhận rằng, cá là một trong các loại thực phẩm rất tốt cho não.
- Nhóm chất bột : gạo , mỳ , ngô, khoai, sắn. Ngũ cốc chứa một lượng tinh bột
và đường vừa phải giúp tăng năng lượng cho não. Hãy cho trẻ ăn uống ngũ cốc hàng
ngày để giúp trẻ thông minh hơn.
- Nhóm chất béo: dầu, mỡ, bơ.
- Nhóm cung cấp vitamin, chất khoáng: rau, quả, đặc biệt các loại rau có màu
xanh thẫm (rau ngót, rau muống, rau dền, mồng tơi, rau cải... và các loại quả có màu
vàng (đu đủ, xoài, hồng, chuối...).

+ Táo: Bạn đã biết mỗi ngày ăn một quả táo có thể giúp chúng ta không bị
bệnh tật và phải đi khám bác sĩ. Ngoài ra, vỏ táo đỏ còn chứa các chất
dinh dưỡng mà chắc chắn để tăng cường sức não bộ của trẻ.
+ Nho: Màu đỏ, đen, và màu tím nho cũng có chứa các chất dinh dưỡng tăng
cường cho não.
+ Cam hoặc nước cam: Nước cam có chứa nhiều vitamin C, vừa có tác dụng
ngăn ngừa cảm lạnh, lại có thể tăng sức đề kháng và bổ sung “sức mạnh’
cho não.
+ Nước: Chúng ta ai cũng cần uống đủ nước, đặc biệt là trẻ con. Tại sao
nước lại tốt cho “sức khỏe” của não? Bởi tình trạng mất nước hoặc thiếu
nước có thể làm chậm xuống quá trình hoạt động của não.
+ Mơ: Loại trái cây này chỉ vào mùa trong khoảng vài tuần, nhưng bạn có
thể dùng mơ khô làm món ăn cho trẻ. Mơ khô giống như món ăn hơn là
một lợi thực vật, không những ngon miệng mà nó còn rất tốt cho sức khỏe
của con trẻ.
+ Cacao: Chocolate tốt cho việc tăng “sức mạnh” của não, giúp tập trung trí
tuệ. Hầu hết các chocolate được bày bán chỉ chứa một ít cacao nguyên
chất. Do vậy, trước khi mua sản phẩm này, cha mẹ cần kiểm tra nhãn hàng
cẩn thận. Chocolate cũng có thể gây béo phì, vì vậy, chỉ nên cho trẻ ăn
vừa phải.


Số lượng bữa ăn
Do bé cần rất nhiều chất dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu lớn và phát triển của cơ
thể. Vì thế, thức ăn bổ sung của bé cần đảm bảo cung cấp năng lượng, đủ các chất dinh
dưỡng.
Số lượng bữa ăn bổ sung: Số lượng bữa ăn và số lượng của mỗi bữa bổ sung của
bé trong ngày tuỳ thuộc vào lứa tuổi.
-


Bé 6-7 tháng: Bú mẹ là chính, bổ sung 1-2 bữa bột và nước quả.
Bé 8-9 tháng: Bú mẹ, 2-3 bữa bột đặc, nước quả hoặc hoa quả nghiền.
Bé 10-12 tháng: Bú mẹ,3-4 bữa bột đặc hoặc cháo, hoa quả nghiền.
Bé 1-2 tuổi : Bú mẹ, 3 bữa chính (cháo), 2 bữa phụ, hoa quả
Bé 2-3 tuổi: 3 bữa chính (cơm nát), 2 bữa phụ, hoa quả.

Bé trên 1 tuổi nếu không được bú mẹ, nên cho bé uống thêm 500ml bình. Từ 3
tuổi trở lên, cho bé ăn cơm như người lớn nhưng phải được ưu tiên thức ăn ( thức ăn
nấu riêng ) và cho ăn thêm 2 bữa phụ: cháo, phở, bún, súp, sữa.
Khi bé bước sang tháng thứ 7, bé có thể ăn thức ăn dạng bột lỏng 3 lần/ngày.
Những thực phẩm thiết yếu của giai đoạn này gồm:
- Bú mẹ hay uống sữa công thức giàu chất sắt. Một lượng nhỏ nước quả ít
ngọt pha với nước sôi, nước mát (1 phần nước quả cho 10 phần nước) và có thể cho bé
uống bằng thìa thay vì bú bình.
- Ngũ cốc bổ sung chất sắt
- Các loại rau củ như khoai tây, súp lơ xanh, súp lơ trắng, khoai lang, bí ngô
- Một lượng nhỏ thịt, cá, sữa chua, trứng chín kỹ, đậu lăng ninh nhừ, phô mai.
- Quả tươi
Lưu ý chung:
Không cho bé uống mật ong trước 1 tuổi để phòng nguy cơ ngộ độc.
Thực đơn ăn bổ sung cho trẻ ở từng giai đoạnnhật ngày: 07/10/2010 13:54:53
Thực đơn dành cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi
Bột đậu xanh + bí đỏ
-

Bột gạo tẻ
-

: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
Bột đậu xanh : 10gam (tương đương 2 thìa cà phê)

Bí đỏ
: 4 miếng nhỏ nghiền nát
Mỡ ăn (dầu ăn): 1 thìa cà phê
Nước
: 1 bát con

Bột tôm
- Bột gạo tẻ

: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)


-

Tôm biển tươi (bỏ vỏ, giã nhỏ)
Rau xanh giã nhỏ
Mỡ (dầu ăn)
Nước

: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
: 2 thìa
: 1 thìa
:1 bát con

Bột trứng
-

Bột gạo tẻ
Trứng gà
đương với 10gam)


: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
: 1 lòng đỏ trứng gà hoặc 4 lòng đỏ trứng chim cút (tương

- Rau xanh giã nhỏ : 2 thìa cà phê
- Nước
: 1 bát con
Bột thịt
-

Bột gạo tẻ : 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
Thịt nạc
: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê)
Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê
Nước
: 1 bát con

Bột cá
-

Bột gạo tẻ
: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
Cá quả gỡ bỏ sạch xương : 10gam (tương đương 2 thìa cà phê)
Mỡ (dầu ăn)
: 1 thìa cà phê
Rau xanh giã nhỏ
: 2 thìa cà phê
Nước
: 1 bát con


Bột gan (gan gà, gan lợn)
-

Bột gạo tẻ
Gan (gà, lợn) băm hoặc nghiền nát
Mỡ (dầu ăn)
Rau xanh giã nhỏ
Nước

: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê)
: 1 thìa cà phê
: 2 thìa cà phê
: 1 bát con

Thực đơn cho trẻ từ 9-11 tháng tuổi
Bột lạc
-

Bột gạo tẻ
Lạc rang chín giã nhỏ mịn
Rau xanh
Nước

: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
: 1 thìa cà phê
:1 bát con



Bột đậu xanh+ bí đỏ
-

Bột gạo
Bột đậu xanh
Bí đỏ
Mỡ (dầu ăn)
Nước

: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
: 40g - 4 miếng nhỏ nghiền nát
: 1,5 thìa cà phê
: 1 bát con

Bột gạo tẻ
Cua đồng
Rau xanh giã nhỏ
Dầu ăn

: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 30gam (tương đương 6 thìa cà phê)
: 2 thìa cà phê
: 1 thìa cà phê

Bột cua
Bột tôm
-

Bột gạo tẻ

: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
Tôm tươi ( bỏ vỏ, giã nhỏ): 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
Rau xanh giã nhỏ
: 2 thìa cà phê
Mỡ (dầu ăn)
: 1,5 thìa cà phê
Nước
:1 bát con

Bột thịt
-

Bột gạo tẻ
Thịt nạc
Mỡ (dầu ăn)
Nước

: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 16gam (tương đương 3 thìa cà phê)
: 1 thìa cà phê
: 1 bát con

-

Bột gạo tẻ
Cá quả gỡ bỏ sạch xương
Rau xanh giã nhỏ
Mỡ (dầu ăn)
Nước


Bột cá
: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
: 2 thìa cà phê
: 1 thìa cà phê
: 1 bát con

Bột gan (gan gà, gan lợn)
-

Bột gạo tẻ
: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
Gan ( gà, lợn) băm hoặc nghiền nát : 15gam (tương đương 3 thìa cà phê)
Mỡ (dầu ăn)
: 1 thìa cà phê
Rau xanh giã nhỏ
: 2 thìa cà phê
Nước
: 1 bát con


Thực đơn của trẻ từ 12- 23 tháng tuổi (ngày cho trẻ ăn 3-4 bữa)
Cháo lạc
-

Gạo tẻ
: 50gam
Lạc rang chín bỏ vỏ giã nhỏ : 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
Rau xanh băm nhỏ
: 3 thìa cà phê

Nước vừa đủ
Cháo đậu xanh hoặc đậu đen
- Gạo tẻ
: 35gam
- Đậu xanh hoặc đậu đen
: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê)
- Rau xanh thái nhỏ
: 2 - 3 thìa cà phê
- Mỡ (dầu ăn)
: 2 thìa cà phê
- Nước vừa đủ
Cháo cá
-

Gạo tẻ
: 40gam
Cá chép luộc chin gỡ xương : 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
Rau xanh thái nhỏ
: 2 - 3 thìa cà phê
Mỡ (dầu ăn)
: 1,5 thìa cà phê
Nước vừa đủ

Cháo tôm
-

Gạo tẻ
Tôm bóc vỏ giã nhỏ
Rau xanh thái nhỏ
Mỡ (dầu ăn)

Nước vừa đủ

: 40gam
: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 2 - 3 thìa cà phê
: 2 thìa cà phê

Cháo trứng
-

Gạo tẻ
Trứng gà
Rau xanh thái nhỏ
Mỡ (dầu ăn)
Nước vừa đủ

: 40gam
: 1 quả
: 2 - 3 thìa cà phê
: 2 thìa cà phê

Cháo thịt (thịt lợn, thịt gà, thịt bò)
-

Gạo tẻ
Thịt gà ta
Rau xanh thái nhỏ
Mỡ (dầu ăn)

: 50gam

: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
: 2 - 3 thìa cà phê
: 2 thìa cà phê


-

Nước vừa đủ
Cháo lươn

-

Gạo tẻ
: 40gam
Lươn
: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê)
Rau xanh thái nhỏ
: 2 - 3 thìa cà phê
Mỡ (dầu ăn)
: 1,5 thìa cà phê
Nước vừa đủ

Thực đơn ăn cho trẻ từ 2-3 tuổi
- Giai đoạn này trẻ đã có đầy đủ răng vì vậy trẻ đã có thể ăn cơm được, nhưng
ngoài các bữa cơm ăn chung với gia đình trẻ cần được ăn thêm các bữa phụ như: cháo,
súp, bún, phở, sữa 2 - 3 bữa/ngày, đối với những trẻ biếng ăn, ăn được ít cơm thì
những bữa phụ này lại rất quan trọng.
- Số bữa ăn trong ngày của trẻ:
+ 2 bữa cơm nát ăn với các loại thức ăn chế biến từ thịt, cá, tôm, cua, trứng,
lạc, vừng, đậu đỗ, rau xanh và dầu mỡ.

+ 2 bữa: cháo hoặc súp, bún, phở, mỳ, sữa
- Ăn hoa quả chín sau các bữa ăn theo nhu cầu của trẻ
- Một số điều cần lưu ý:
+ Trẻ vẫn cần được chế biến thức ăn riêng và sự quan tâm chăm sóc của mẹ
hoặc người nuôi dưỡng.
+ Tuyệt đối không cho trẻ ăn các loại bánh, kẹo, nước ngọt, bim bim, bỏng
ngô... và các loại hoa quả ngọt trước bữa ăn.
- Lượng thực phẩm trong ngày:
+
+
+
+
+
+

Gạo tẻ
Thịt mỗi bữa
Rau xanh
Sữa
Cá/tôm
Dầu mỡ

: 150 - 200g nếu ăn bún, mỳ, phở thì rút bớt gạo đi
: 10g
: 150 - 200g
: 400 – 500
: 120 - 150g chia 4 bữa mỗi bữa 30 - 40g
: 40g ml

Kĩ thuật cho trẻ ăn bộ sung

Nguyên tắc khi bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung:
+ Thức ăn phải từ lỏng đến đặc dần
+ Số lượng thức ăn nên tăng từ ít đến nhiều
+ Chuyển dần từ khẩu vị ngọt sang khẩu vị mặn ( nêm vị nhạt, không nên
tập cho trẻ thói quen ăn mặn )


+ Tập cho trẻ ăn bằng thìa ( tập dần cho trẻ thói quen há miệng để đút, khép
miệng để nhai )
+ Thức ăn đa dạng ( tô màu bát bột )
+ Đảm bảo vệ sinh.
Thời gian bắt đầu cho bé ăn bổ sung
- Sau khi bé tạm thoát khỏi cơn đói bằng cách bú mẹ hay sữa công thức, lúc
này có thể cho bé nhấm nhấp 1 - 2 thìa súp được làm từ ngũ cốc khô có pha với sữa
mẹ hoặc sữa công thức.
- Thìa cho trẻ ăn là loại thì mềm (thìa cao su) và sau khi bé nhấm nháp hết 2
thìa súp ngũ cốc thì lại cho bé bú mẹ hay uống sữa bình.
- Với cách này, bé sẽ không cảm thấy bị đói đến mức mà bé buộc phải thử
một thực phẩm mới cũng như quá no để chẳng thiết tha gì.
- Không nên cho bé ăn vào buổi sáng. Hãy chọn một thời điểm phù hợp với cả 2 mẹ
con.
- Lúc đầu, bé sẽ có vẻ như là ăn rất ít nhưng bạn hãy kiên nhẫn, cho bé ăn từng chút
một thôi bởi bé đang học kỹ năng mới mà.
- Khi bé ăn 2 - 3 thìa bột/ngày thì có thể cho thêm những thực phẩm khác vào.
- Khi bé đã biết ăn các thực phẩm nghiền thì bạn có thể quấy bột đặc hơn.
- Điều này sẽ giúp bé học kỹ năng nhai và nuốt.
- Cảm giác thèm ăn sẽ đến sau khi bé được thưởng thức đúng món.
- Đặc biệt các bà mẹ khi bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung nên áp dụng kỹ thuật “ Tô màu bát
bột ”, làm cho bát bột của trẻ có màu sắc của các loại thực phẩm. Khi nấu thức ăn cho
trẻ các bà mẹ nên sử dụng nhiều loại rau củ, thịt cá có màu sắc giúp trẻ bổ sung

vitamin, các chất đạm có trong thực phẩm đó.
- Màu xanh từ các loại rau như rau ngót, bắp cải, rau muống, rau dền..
- Màu cam từ cà rốt, bí đỏ, cà chua…
- Màu vàng từ trứng, thịt gà
- Màu nâu từ các loại thịt, tôm, cua, cá, lươn…
- Đây là phương pháp giúp kích thích thị giác của trẻ đồng thời cũng giúp trẻ ăn ngon
miệng hơn.
- Cho trẻ “làm quen” với thức ăn một cách từ từ:
+ Những thực phẩm mới nên có thời gian “làm quen” vì thế hãy cho ăn từng
chút một. Bé cũng cần có thời gian để thích ứng với hương vị mới và cảm
giác nữa.


+ Ngoài ra, việc cho bé tập làm quen với thức ăn mới một cách từ từ sẽ cho
phép bạn phát hiện các dấu hiệu của dị ứng thực phẩm chẳng hạn như tiêu
chảy, đau bụng hay nổi mày đay.
+ Cho bé ăn một loại thực phẩm mới trong vài ngày. Bắt đầu với các loại
quả và rau màu vàng, vốn rất dễ tiêu hóa đối với trẻ.
+ Một số chuyên gia khác lại cho rằng nên ăn bắt đầu với rau xanh tuy
nhiên thường thì rau quả màu vàng có vị ngọt nên bé sẽ chấp nhận hơn vì
thé bạn có thể trộn 2 loại rau quả với nhau để bé không “phản đối”.
+ Bắt đầu là một vài thìa rau quả trong cùng bữa ăn bột. Những thực phẩm
tốt cho thời điểm bắt đầu ăn dặm là: chuối, cà rốt, rau, táo, đào, lê, khoai
lang, súp lơ và bí ngô hầm nhừ. Các loại rau quả nghiền nhuyễn này có
thể cho thêm nước sôi, nước mát hay sữa mẹ, sữa công thức để làm loãng
trước khi cho bé ăn.
+ Cũng có thể nấu cháo rau cho bé. Nước dừa, nước quả và nước rau ép
cũng có thể giới thiệu cho bé trong thời gian này.
+ Nếu thấy bé không muốn ăn món ăn mới, bạn dừng lại vài ngày rồi cho
bé thử lại. Bé có thể sẽ chỉ thích thú với vài loại thực phẩm nhưng bạn nên

tiếp tục thử lại các món bé không thích cho tới khi bé chịu ăn nhiều hơn.
Thời gian nên cho trẻ tập nhai
- Khi trẻ đã có nhiều kinh nghiệm ăn uống hơn, có thể tăng cường thêm những thực
phẩm cắt miếng được nấu mềm. Ở thời điểm 7 – 9 tháng, bé đã sẵn sàng với các món
ăn cần tới khả năng gặm.
- Một số món ăn dễ nhai và tốt cho tiêu hóa ở thời điểm này bao gồm: bánh
mỳ, chuối chín, dưa thơm, cà rốt luộc chín, khoai lang.
- Không được để bé một mình với các món ăn này đề phòng nguy cơ bé bị hóc.
Những khó khăn có thể xảy ra khi cho trẻ ăn bổ sung
- Bé chống cự lại, không chịu ăn: Hãy đổi qua một loại thức ăn khác, vì có thể
bé không thích bột ngọt (bột sữa) mà lại thích ăn bột mặn (bột thịt, tôm...) hay ngược
lại. Thay vì dùng thìa đút,có thể lấy ngón tay sạch quẹt thức ăn cho bé nuốt. Nếu
không thành công, hãy tạm dừng 1-2 tuần sau rồi thử lại. Không nên ép bé.
- Bé đi tiêu hơi lỏng: Nếu bé vẫn ăn, bú tốt, chơi khỏe, cứ an tâm cho bé tiếp tục ăn.
Nếu bé đi tiêu nhiều nước và đi hơn 3 lần mỗi ngày, kèm theo nôn trớ, chướng bụng,
bỏ bú... thì nên ngừng cho ăn ngay. Nửa tháng sau hãy tập ăn trở lại như hướng dẫn
trong những ngày đầu ăn dặm.


×