Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận Cây lúa với nền văn minh lúa nước của VN trong bối cảnh Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.46 KB, 35 trang )

Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam
Á
MỤC LỤC

1


Phần mở đầu
Trải qua nhiểu thế kỷ, Đông Nam Á đã phát triển một nền sản xuất nông
nghiệp độc đáo, lấy cây lúa làm cây trồng chính. Trên cơ sở ấy đã nảy sinh và
phát triển một nền “văn minh lúa nước” nông dân Đông Nam Á đã sáng tạo và
tích luỹ được nhiều kinh nghiệp trồng lúa phong phú thích hợp với mỗi quốc gia
trong vùng.
Ngày nay các nước Đông Nam Á lại có điều kiện trao đổi giao lưu kinh tế
chính trị văn hoá xã hội, là những thành viên của khối Hiệp hội các nước Đông
Nam Á (ASEAN). Biểu tượng của khối này cũng lấy hình bó lúa để thể hiện tính
chất kinh tế xã hội, văn hoá của vùng là những cư dân nông nghiệp trồng lúa.
Chính vì thế nghiên cứu cây lúa về nghề làm lúa qua cái nhìn văn hoá ở Đông
Nam Á là một đề tài hấp dẫn. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi nền kinh tế
của vùng đang có bước phát triển mạnh mẽ, thì cây lúa vẫn là cây lương thực có
vai trò quan trọng nhất trong xã hội. Nó còn góp phần hình thành có một nền
văn hoá đã tồn tại từ rất lâu đời của vùng Đông Nam Á.
Với quy mô giới hạn trong một bài tiểu luận, người viết chỉ đi sâu làm rõ
sự tương đồng trong việc trồng lúa của cư dân Đông Nam Á. Từ đó mà hình
thành nên nền văn hoá chung trên cơ tầng nông nghiệp trồng lúa. Bên cạnh đó
cũng có những nét riêng, bản sắc và độc đáo trong văn hoá của mỗi quốc gia
trong vùng Đông Nam Á.

1



Chương 1. Điều kiện để hình thành nghề lúa ở Đông Nam Á
Đông Nam Á bao gồm tiểu lục địa: Miến Điện, Thái Lan, Bán đảo Đông
Dương, Philippin, Inđônêxia, Mailaixia, Singapo, Brunay là vùng có một nền
nông nghiệp cổ xưa trên trái đất. Những công trình khảo cổ học gần đây đã phát
hiện ở một hang động của Thái Lan những hạt đậu Hà Lan, đậu đỗ, dưa chuột và
kích thước cho biết là có nguồn gôc trồng trọt, có tuổi khoảng 9400 năn Trước
Công nguyên. Nếu niên đại này mà đúng và nếu khẳng định được đây là những
hạt của những cây trồng, thì đây là nền nông nghiệp cổ xưa nhất của loài người.
Vì những vết tích của hoạt động nông nghiệp đầu tiên đến nay đã tìm thấy ở
Trung Đông và Mêhicô là vào khoảng 7500 năm Trước Công nguyên. Và như

2


vậy, Đông Nam Á có thể là nơi đã xuất hiện những kỹ thuật trồng trọt đầu tiên
và từ đó đã lan tràn sang các lục địa khác của bán cầu Đông, rồi sang cả châu
Mỹ.
1. Điều kiện khí hậu và các vụ lúa ở Đông Nam Á.
1.1. Điều kiện khí hậu.
Đặc điểm địa lý nổi bật của vùng Đông Nam Á là vùng này gồm hai bộ
phận đối lập nhau: Phía Bắc là lục địa kéo dài lục địa châu Á xuống phía Nam,
phía Nam là đại dương kéo dài Ấn Độ Dương lên phía Bắc, phía Đông là Thái
Bình Dương và phía Tây là những sa mạc châu Phi và Ả Rập. Quần đảo
Inđônexia chạy dọc theo đường xích đạo Ấn Độ Dương là nguồn hơi nước lớn
nhất cho gió mùa Tây Nam thổi vào mùa hạ, còn gió mùa Đông Bắc lại mang
hơn nước chủ yếu của biển Trung Hoa, vịnh Thái Lan và vịnh Bengan.
Chính những đặc điểm địa lý trên, với sự đối lập giữa đại dương và lục
địa theo vĩ tuyến ở một phạm vi rộng lớn đã làm cơ sơ cho sự hình thành chế độ
gió mùa châu Á, một hiện tượng khí tượng đặc biệt, có một không hai trên trái
đất.

Chế độ gió mùa châu Á chi phối chặt chẽ các yếu tố khí hậu của toàn
vùng và do đó chi phối hoạt động nông nghiệp và đời sống của con người. Điểm
độc đáo của chế độ gió mùa là sự tương phản của gió mùa Đông Bắc trong mùa
đông, và gió mùa Tây Nam trong mùa hạ. Chế độ gió mùa ngự trị trên toàn vùng
châu Á gió mùa. Tuy nhiên, những dãy núi chắn ngang có tác dụng quan trọng
đến khí hậu, làm nẩy sinh những nét đặc thù của khí hậu từng địa phương. Như
ở Việt Nam, các dãy núi vòng cung vùng Đông Bắc đã để cho gió mùa Đông
Bắc tràn về dễ dàng nên mùa đông ở Việt Bắc và Đông Bắc đến sớm hơn và dài
hơn so với vùng Tây Bắc được dãy Hoang Liên Sơn làm cho khuất gió và nhiệt
độ mùa đông ở vùng núi thấp Tây Bắc chỉ xấp xỉ với nhiệt độ của đồng bằng
sông Hồng.
Gió mùa mùa đông hay gió mùa Đông Bắc thịnh hành nhất từ tháng 12
đến tháng 2 năm sau và gió mùa mùa hạ hay gió mùa Tây nam thịnh hành từ
3


tháng 6 đến tháng 9. Những thời kỳ chuyển tiếp giữa hai mùa gió mùa từ tháng 3
đến tháng 5 và từ tháng 10 đến tháng 11 là những thời kỳ trung gian của mùa
xuân và mùa thu. Tuy nhiên, các thời kỳ chuyển tiếp này cũng dài ngắn khác
nhau tuỳ theo vị trí địa lý và địa hình của từng vùng. Ở Bắc Việt Nam, nhiều
năm gió mùa Đông Bắc bắt đầu tràn về ngày từ tháng 11 và đến cuối tháng 4
đầu tháng 5 vẫn còn có những đợt gió mùa Đông Bắc muộn. Ở Miến Điện, gió
mùa Đông Bắc với hướng Bắc và Đông Bắc, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 với
những ngày đẹp trời. Gió mùa mùa hạ với hướng Nam hay Đông Nam kéo dài
từ tháng 6 đến tháng 9; mùa này, trời nhiều mây và có nhiều mưa. Tháng 4,
tháng 5 là những tháng nóng với những trận mưa giông địa phương, tháng 10 là
tháng chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa mưa.
Thái Lan có một mùa hè nóng và tương đối khô, nước này có lượng mưa
trung bình . Gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 12 và gió mùa Tây
Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Tháng 3 và tháng 4 có những nhiệt độ trung bình

cao nhất trong năm, nhiệt độ hàng ngày ít khi dưới 32độ C và nhiệt độ cao nhất
nhiều khi vượt 40 độ C.
Bán đảo Đông Dương có khí hậu nhiệt đới ở phía Nam và có một mùa
đông tương đối lạnh ở phía Bắc. Điều kiện địa hình, dãy núi Trường Sơn cũng
có ảnh hưởng nhiều đến tình hình khí hậu thời tiết của bán đảo này. Mùa mưa ở
đây thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 ở nhiều nơi, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 3. Tuy nhiên miền Trung Bộ Việt Nam, các vùng duyên hải và sườn
Đông Trường Sơn có mưa kéo dài sang thời kỳ gió mùan Đông Bắc. Bão ở biển
Đông cũng thường đổ bộ vào vùng duyên hải bán đảo Đông Dương từ tháng 7
cho đến tháng 11.
Malaixia có vùng phía Tây và vùng phía Đông. Vùng phía Đông có khí
hậu gần như khí hậu Inđônêxia. Còn vùng phía Tây có độ ẩm cao, mưa nhiều và
biên độ nhiệt độ nói chung nhỏ giữa các tháng trong năm. Có sự khác biệt khá rõ
trong một ngày, giữa ngày và đêm về mưa cũng như độ che mây. Do ảnh hưởng
của đại dương nên biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm cũng dưới 9 độ C. Nhưng
4


vì độ ẩm cao nên thời tiết rất khó chịu, các tháng mùa hè từ tháng đến tháng 6 .
Inđônêxia ở vùng xích đạo giữa vĩ tuyến 10 độ Bắc và vĩ tuyến 10 độ
Nam giữa vùng biển nhiệt đới có khí hậu nóng và ấm quanh năm; khí hậu có
thay đổi ít nhiều do những điều kiện địa hình và hướng núi.
Philippin có thể chia làm ba vùng khí hậu. Trong thời kỳ gió mùa Đông
Bắc, đảo Luzon và những đảo gần đó thường ít mưa và có mùa đông ấm. Vùng
trung bộ về phía đông lại có mưa nhiều trong thời kỳ này và ở đây lại khô hạn
nhiều từ tháng 3 đến tháng 8. Các vùng phía Nam cũng có mưa trong thời kỳ gió
mùa Đông Bắc. Còn hầu hết các vùng ở Philippin có mưa nhiều từ tháng 5 đến
tháng 10 trong thời kỳ gió mùa Tây Nam. Đỉnh mưa cao nhất thường ở trong
thời kỳ chuyển tiếp sau gió mùa Tây Nam. Bão ở biển Đông thường hình thành
ở giữa Philippin và kinh tuyến 160 độ Đông trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng

11 và di chuyển theo hướng Tây – Tây Bắc và đem lại mưa to và lũ lụt ở đảo
Luzon.
Điểm qua tình hình khí hậu của các vùng Đông Nam Á như trên cũng
thấy là có nhiều nét đặc thù địa phương nhất là giữa vùng nhiệt đới phía Bắc và
vùng xích đạo. Tuy nhiên, chế độ gió mùa đã ảnh hưởng tới cả vùng với những
sai khác nhiều ít do các điều kiện địa hình. Và chế độ gió mùa này đã chi phối
chặt chẽ đời sống của con người về nhiều mặt và trong tình hình mà sản xuất
nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu, đã quyết định bộ mặt sản xuất nông
nghiệp ở từng nơi.
1.2. Các vụ lúa ở Đông Nam Á.
Ở tất cả các vùng ở Đông Nam Á, với mùa mưa chủ yếu nằm trong thời
kỳ gió mùa Tây Nam (trừ một số ngoại lệ do điều kiện địa hình) vụ lúa mùa mưa
là vụ lúa quan trọng nhất, chiếm địa bàn rộng rãi nhất và được phân bổ từ trên
sườn núi cao xuống các vùng châu thổ của các dòng sông đến tận các đồng bằng
ven biển với các chế độ canh tác khác nhau từ gieo thẳng (chọc lỗ bỏ hạt) đến
cấy lúa một lần hay hai lần với những trình độ thâm canh khác nhau. Vụ lúa mùa
mưa là vụ lúa chính từ khi loài người bắt đầu thuần hoá cây lúa và biết trồng lúa,
5


và trong quá trình phát triển của xã hội và của sản xuất đã được phân hoá thành
những trà lúa (sơm, muộn) khác nhau, với những giống lúa khác nhau. Rồi với
những tiến bộ kỹ thuật nhất định, người ta đã làm thêm những vụ lúa nữa trong
mùa tương đối khô trên những diện tích có điều kiện và những cơ sở vật chất và
kỹ thuật cần thiết. Vụ lúa chiêm ở Bắc Việt Nam chẳng hạn, mới chỉ có từ hơn
hai nghìn năm nay trong khi lịch sử của vụ lúa mùa ở vùng này đã dài gấp hơn
hai lần hoặc hơn thế nữa. Ở một số vùng khác, người ta cũng đã lợi dụng của gió
mùa Đông Bắc đem lại để làm một vụ lúa thực chất không phải là vụ lúa mùa
khô (vùng bờ biển phía đông trung tâm Philippin, một số vùng ở Thái Lan) với
những giống lúa ngắn ngày, người ta cũng đã làm một vụ lúa từ giữa sang cuối

mùa khô và được thu hoạch vào đầu hay giữa mùa mưa. Mưa của mùa mưa sẽ
cung cấp nước chó lúa vào những thời kỳ phát triển chủ yếu của nó.
Ở các đồng bằng vùng Đông Nam Á, nói chung điều kiện nhiệt độ thích
hợp cho sự sinh trưởng và phát dục của cây lúa quanh năm, và ở đây người ta có
thể làm nhiều vụ một năm (ít nhất là hai vụ) nếu có đủ nước. Nước tưới là yếu tố
hạn chế chủ yếu đối với việc tăng thêm diện tích lúa có thể phát triển mạnh với
các hệ thống canh tác khác nhau tuỳ theo tình hình sử dụng nước. Nhưng ở các
vùng núi cao, thì nhiệt độ có thể trở thành một yếu tố hạn chế, ngay trong những
trường hợp có đủ nước tưới. Ở đây, thường người ta chỉ làm được một vụ lúa
trong mùa hè (ruộng bậc thang để cấy lúa nước, lúa nương, lúa rẫy) và cũng
không quá một độ cao nhất định, do nhiệt độ tương đối thấp không cho phép cây
lúa sinh trưởng và phát dục bình thường ngay trong mùa hè.
Ở các vùng từ vĩ tuyến 17 độ Bắc trở lên có một mùa đông tương đối
lạnh, nhiệt độ mùa đông cũng đã chi phối khá chặt chẽ các vụ lúa mùa khô và cả
vụ lúa mùa mưa. Như ở miền Bắc Việt Nam, thời vụ của vụ lúa mùa mưa đã
phải căn cứ vào diễn biến tình hình của gió mùa Đông Bắc mang không khí lạnh
và phải sắp xếp để cho lúa mùa trỗ được an toàn trước khi có những đợt lạnh
đầu mùa. Còn vụ lúa mùa khô lại phải tránh được những ảnh hưởng không tốt
của những đợt gió mùa Đông Bắc cuối vụ có thể làm cho lúa mùa khô trỗ sớm
6


gặp khó khăn và có tỷ lệ hạt lép cao.
Tuy nhiên ở những vùng vĩ tuyến cao hay ở những miền núi cao mà
không làm được vụ lúa mùa khô (do nhiệt độ thấp) mà chỉ làm được vụ lúa mùa
mưa, thì với những giống mới và kỹ thuật tiến bộ, vẫn có thể đạt những năng
suất khá cao, không kém năng suất lúa mùa khô ở các vùng những tuyến thấp
hay ở đồng bằng mà nhiều khi còn có thể hơn. Ở miền Bắn Việt Nam, năng suất
của lúa mùa với giống mới và phân hoá học ở các vùng cao của Hoàng Liên Sơn
hay tỉnh Cao Bằng đã cho năng suất tương đương như năng suất lúa xuân (thực

chất là lúa mùa khô) ở đồng bằng. Vì ở các vùng trồng lúa ở vĩ tuyến cao hay ở
trên ruộng bậc thang ở sườn núi cao ngay trong mùa mua lại đã có một số điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành những năng suất cao.
2. Địa bàn trồng lúa và loại lúa ở Đông Nam Á.
2.1. Địa bàn trồng lúa.
Qua tình hình trồng lúa trên thế giới, ai cũng nhận thấy là cây lúa dễ thích
nghi với nhiều loại đất khác nhau về nhiều mặt: thành phần của đất, cấu tượng
của đất, các đặc tính lý học, hoá học về lý hoá học cũng như địa mạo và độ cao.
Yếu tố quan trọng nhất đối với lúa nước ở đất thấp là cần có nước ở chân, và đối
với lúa đất cao là có đủ nước trong mùa mưa, thoả mãn được nhu cầu sinh lý của
nó. Ở Đông Nam Á cũng có tình hình tương tự như trên, nên địa bàn trồng lúa,
nhất là trong mùa mưa, khá rộng bao gồm cả các vùng đất cao được hình thành
tại chỗ và các châu thổ thấp của các dòng sông, cũng như tất cả những loại đất
bằng khác có thể giữ nước để cấy lúa hay có đủ độ ẩm cho lúa gieo thẳng sinh
trưởng được bình thường.
Địa bàn trồng lúa ở Đông Nam Á khá rộng và đã phản ánh những điều
kiện địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu rất khác nhau, làm nảy sinh và tồn
tại những tập quán sử dụng đất và trồng lúa khác nhau, từ thâm canh với trình độ
khá cao, đến quảng canh một cách thô sơ.
2.2. Các loại lúa chính
2.2.1. Lúa cạn.
7


Diện tích của lúa trồng cạn không nhiều

so

với tổng diện tích lúa chung. Đối với toàn thế
giới, lúa cạn chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích

lúa. Còn đối với vùng Đông Nam Á mưa
nhiều, có mật độ dân số cao, có nhiều dân tộc



các vùng núi đã áp dụng kỹ thuật san sườn núi làm ruộng bậc thang để cấy lúa
nước, thì tỷ lệ diện tích lúa cạn có thấp hơn, nhưng vẫn có vị trí nhất định trong
sản xuất lương thực ở các vùng này. Lúa cạn được gieo trồng chủ yếu bởi những
người nông dân nghèo và ở những vùng thường nghèo nhất để tự cấp tự túc,
chiếm khoảng dưới 10% diện tích lúa chung của vùng Đông Nam Á và đã có
mặt ở hầu hết các nước.
Lúa cạn được trồng nhiều nhất ở Inđônêxia, Philippin. Ở mỗi nơi có
những khác nhau nhiều ít trong kỹ thuật và tập quán trồng trọt.
Ở Inđônêxia, có khoảng trên 1,5 triệu héc ta lúa cạn, phân bố ở Java,
Xumata, Klimanta, Xulavexi, Malucu, và ở các đảo khác. Lúa cạn thường được
gieo trong tháng 11 hay tháng 12m tuỳ theo mưa và nhiểu khi xen với ngô hay
sắn, trên các độ cao khác nhau từ ven biển đến độ cao trên 2000m.
Ở Miến Điện, có tài liệu cho biết có khoảng hơn 40 vạn héc ta lúa cạn ở
bang phía Bắc.
Ở Thái Lan, lua cạn thường được trồng theo hình thức du canh bởi dân tộc
Hitl theo kỹ thuật thô sơ, chọc lỗ bỏ hạt (lỗ sâu khoảng 3cm). Ở Nam Thái Lan,
lúa cạn cũng được gieo xen dưới cây cao su trong những năm đầu, hay xen với
sắn và ngô.
Philippin, tài liệu ước lượng về tỷ lệ lúa cạn thay đổi từ 10 đến 20%. Lúa
cạn được gieo nhiều ở đảo Minđanao ở phía Nam. Ở đảo Luzon về phía Bắc,
tỉnh Batangat là tỉnh có tỷ lệ lúa cạn cap nhất và thường được gieo trồng xen với
dừa.
Ở Việt Nam, lúa cạn được gieo ở các
nương rẫy ở các vùng núi phía Bắc với kỹ
8



thuật thô sơ (chọc lỗ bỏ hạt) và chế độ du canh (chỉ gieo lúa một vài vụ rồi để
rừng mọc lại). Trên các loại đất đỏ tương đối bằng ở Tây Nguyên, lúa cạn cũng
được gieo trồng trên loại đất đã cày bừa vào đầu mùa mưa hàng năm để được
thu hoạch vào cuối mùa mưa. Cũng có những giống lúa cạn được gieo ở đất bãi
cao, hay trên những sống đất ven sông, ven biển trong mùa mưa, gieo trên đất
khô và lúc thu hoạch đất cũng khô. Ở các vùng ven biển đất cát nhiều, ít giữ
nước từ Nam Thanh Hoá đến Thuận Hải, nông dân cũng có tập quán gieo lúa
cạn vào tháng 5 và tháng 6 trên những loại đất tương đối bằng và đến mùa mưa
nhiều, có nước ở ruộng, lúa cạn tiếp tục sinh trưởng như lúa nước. Các giống lúa
gieo cạn trên đất cao, đất dốc, thường là những giống tương đối ngắn ngày, để
có thể trỗ và chín trước khi lạnh nhiều vào trước cuối mùa mưa. Ngược lại, các
giống gieo cạn ở đất bằng, đất thấp, thường là những giống chịu hạn và chịu
ngập, có thời gian sinh trưởng tương đối dài để cây lúa vượt qua được bão lụt và
cho thu hoạch vào đầu mùa khô năm sau. So với tổng diện tích lúa thì diện tích
lúa cạn không nhiều, khoảng 35 vạn hecta.
2.2.2. Lúa nước.
Quan trọng hơn hết về diện tích, năng suất, sản lượng và mật độ dân số là
các vùng đồng bằng trồng lúa nước ở Đông Nam Á. Các dòng sông ở vùng này
đã và đang còn giữ vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên những loại đất lúa
nước điển hình, vì đã mang một hàm lượng phù sa lớn, nhất là trong các mùa
mưa lũ. Chảy qua nhiều vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc
dễ bị sói mòn với nhiều loại đá kết tầng, nhiều con sông lớn đã đưa về các châu
thổ những loại phù sa màu mỡ, ít gặp đối với những con sông khác trên thế giới.
Khó mà tìm được những trường hợp có thể so sánh được với những con sông
Irauadi ở Miến Điện, Menam ở Thái Lan, Cửu Long ở bán đảo Đông Dương,
hay sông Hồng ở Bắc Việt Nam. Sông Hồng đỏ rực phù sa màu mỡ trong mùa lũ
đã chảy qua những loại đất đỏ của cao nguyên đá vôi Vân Nam, và cũng có khả
năng bồi đắp vào loại mạnh nhất.


9


Lúa

nước

được

gieo cấy chủ yếu trên các
loại đồng bằng châu thổ
của các dòng sông hay
trên những đồng bằng
ven biển. Các châu thổ
của các dòng sông do
phù sa sông bồi đắp ở
vùng hạ lưu của chúng và tuỳ thưo lưu lượng của từng con sông mà có diện tích
rộng hay hẹp. Những chuyển biến địa chất trong lịch sử làm nâng cao những
vùng ven biển và những đảo ở Đông Nam Á đã làm nổi lên những đồng bằng
phù sa biển, sau đó có thể được bồi đắp thêm nhiều, ít phù sa sông.
Ở Miến Điện, châu thổ sông Irauadi và châu thổ sông Si Hang là những
vùng trồng lúa chủ yểu. Các loại đất lúa ở đây không thuộc loại không tốt lắm.
Ở Thái Lan, vùng đồng bằng sông Menam
Chao Fraya và sông Tachin là vùng trồng lúa chính và
hầu hết các châu thổ này đã được dành cho cây lúa
nước.
Ở bán đảo Đông Dương, các vùng trồng lúa quan trọng nhất là châu thổ
sông Hồng ở Bắc Việt Nam và châu thổ sông Cửu Long ở Nam Việt Nam, kéo
dài lên phía Bắc nối liền với đồng bằng rộng lớn của Cămpuchia. Ngoài ra còn

một số đồng bằng và châu thổ ven biển dọc bờ biển Việt Nam từ Thanh Hoá đến
Thuận Hải, và một số đồng bằng trong nội địa dọc theo sông Mê Kông và các
chi nhánh của nó ở Lào. Châu thổ sông Cửu Long được hình thành chủ yếu bằng
phù sa mới, và lại được bồi đắp hàng năm, nên nói chung có độ cao so với mặt
biển tương đối thấp, nên còn có những vùng trũng có hàm lượng chất hữu cơ cao
và những vùng ngập nước sâu trong mùa mưa phải cấy những giống lúa có sức
ngoi nước mạnh – các giống lúa nổi. Diện tích đất bị ngấm mặn, đất phèn khá
rộng. Châu thổ sông Hồng có hệ thống đê điều khá dầy đặc để chống lụt nên có
10


những loại đất ngoài đê được bồi hàng năm và có hàm lượng chất dinh dưỡng
tương đối cao. Các đồng bằng miền trung Việt Nam có nhiều thành phần phù sa
biển lại có những con sông ngắn tương đối ít phù sa từ dãy Trường Sơn chảy
xuống nên nói chung ít màu mỡ hơn.
Ở Inđônêxia, những đồng bằng ven biển ở Bắc Java cũng được bồi đắp
bằng những con sông chảy từ những dãy núi trung tâm xuống như các sông Kali
Sola, Kali Bran.
Ở Philippin, vùng trồng lúa nước quan trọng nhất là đồng bằng trung tâm
đảo Luzon do phù sa sông Pampaga bồi đắp nên, rồi đến châu thổ nhỏ hơn của
sông Cagaygan ở phía Đông Bắc đảo này.
Ở Mailaixia, lúa nước cũng được trồng chủ yếu ở một số vùng đồng bằng
ven biển, nhất là vùng Tây Malaixia. Đáng chú ý là đồng bằng trồng lúa của
bang Keda ở Tây Bắc bán đảo Tây Malaixia, được coi là “vựa lúa” của
Malaixia.
3. Vai trò văn hoá của cây lúa.
Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hoá cho cư
dân bản địa.
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu
thổ. Người Miến đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Irrawady xuống Trung

Myanma rồi Hạ Myanma. Người Thái đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông
Chao Phraya xuống Trung Thái Lan rồi Nam Thái Lan. Người Việt đi từ trung
du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng, rồi đi tiếp qua miền Trung đồng bằng
châu thổ sông Mê Kông. Các dòng sông ở Đông Nam Á giữ vai trò chủ yếu
trong việc hình thành nên những loại đất thích hợp cho cây lúa nước, đó là phù
sa chảy qua những vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc dễ bị
xói mòn với nhiều loại đá kết tầng, những con sông lơn đã đưa về các châu thổ
những loại phù sa màu mỡ, ít có đối với những con sông khác trên thế giới.
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã hội, làng và
các quốc gia nông nghiệp. Ở Đông Nam Á có hai loại quốc gia nảy sinh trên sự
11


phát triển của nông nghiệp lúa nước. Hai là những quốc gia nảy sinh trên nhu
cầu của giao thương quốc tế. Theo Yumio Sakurai, do sự phát triển của nông
nghiệp lúa nước, cho nên ở các thung lũng và ở các châu thổ đã hình thành
những nơi tụ cư lớn mà ở Đông Nam Á người ta hay gọi là mường, một tổ chức
xã hội khá chặt chẽ.
Sakurai gọi mường là tổ chức tiền quốc gia, Đông Nam Á có hai loại quốc
gia: quốc gia nội địa, với nền kinh tế dựa trên việc trồng lúa tưới nước, cùng với
những đặc điểm xã hội là: tổ chức xã hội phân chia đẳng cáp tập trung ở các
kinh thành đô thị, một tầng lớp nông dân đông đảo ở thôn quê lo sản xuất lương
thực, một bộ máy quan liêu và một đội ngũ tăng lữ chủ yếu sống ở thành thị phụ
thuộc vào nhà vua. Lãnh địa bến cảng ở cảng biểnm cửa sông thường có, một
ông vua, một tầng lớp buôn bán đông đảo, một lớp người phục dịch. Những
người làm nghề nông định cư chiếm tuyệt đại đa số cư dân Đông Nam Á, lấy
việc trồng lúa nước làm cơ sở sinh sống, họ vừa làm ruộng vừa làm vườn. Tổ
chức xã hội dựa trên cơ sở gia đình, làng mạc và sau này là nhà nước.
Cây lúa nước thúc đẩy hình thành nên văn hoá nông nghiệp. Nhìn từ mối
quan hệ với đất đai, nền văn hoá nông nghiệp có những đặc điểm sau: bám đất,

tự túc, hướng nội, đóng cửa.

12


Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá
Đông Nam Á.
Tài liệu nghiên cứu về nhiều mặt cũng như những phát hiện khảo cổ học
gần đây đã dẫn đến kêt luận là nghề trồng lúa Việt Nam đã có một lịch sử lâu
đời, cây lúa trồng là một cây “bản địa”, nông dân Việt Nam đã là những người
trồng lúa giỏi từ nghìn xưa, và trong những hoàn cảnh sản xuất khác nhau đã
tích luỹ được cả một kho tàng kinh nghiệm trồng lúa phong phú và độc đáo.
Những tài liệu đã được giới thiệu ở các chương trên đã cho thấy là nghề
trồng lúa Việt Nam đã phản ánh những sắc thái chung của vùng trồng lúa Đông
Nam Á, đồng thời cũng có những nét đặc thù, nảy sinh sản xuất và lao động cần
cù của dân tộc Việt Nam, tất cả đã làm nổi bật một số đặc điểm chủ yếu của cấy
lúa Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ngoài các vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc và
dãu Trường Sơn hùng vĩ, còn gồm hai châu thổ rộng lớn: châu thổ sông Hồng ở
phía Bắc, châu thổ sông Cửu Long ở phía Nam và một loạt những châu thổ nhỏ
hẹp hơn của các dòng sông tương đối ngắn hơn, và chạy dọc theo ven biển miền
Trung. Cũng như các châu thổ ở các nước khác ở Đông Nam Á, các châu thổ ở
Việt Nam đều được dành chủ yếu để gieo trồng lúa. Lịch sử khai thác các loại
châu thổ này đã có những thời gian dài ngắn khác nhau, theo lịch sử phát triển
cảu dân tộc Việt Nam. Được khai thác sớm nhất là châu thổ sông Hồng, đã được
gieo trồng lúa nước từ trước đây 4000 năm, và có thể còn xa hơn thế nữa. Châu
thổ này với nền văn hoá sông Hồng, lấy cây lúa nước la loại cây trồng chủ yếu
trong sản xuất nông nghiệp, đã được sức lao động cần cù và bền bỉ của nhiều thế
hệ nông dân Việt Nam qua hàng chục thế kỷ làm cho biến đổi sâu sắc: hệ thống
đê điều dày đặc, dọc theo hai bên bờ của những sông ngòi lớn nhỏ, những sông

tự nhiên, cũng như con sông đào do bàn tay người xây dựng đã làm cho phần
lớn ruộng đất ở châu thổ hầu như thoát khỏi ảnh hưởng thường xuyên của lũ
hàng năm của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, và tiến triển theo những
quy luật đặc thù của đất lúa nước, được sử dụng để trồng lúa nước trong nhiều
13


tháng trong năm, ngay cả trong mùa đông lạnh và tương đối khô, do đã bắt đầu
có nước dự trữ ở những vùng sâu, và sau này với sự phát triển của thuỷ lợi cũng
đã có nước ở những cánh đồng tương đối ít sâu hơn. Được khai thác sớm nhất,
châu thổ sông Hồng cũng cho phép dân số tập trung sớm nhất, và mật độ dân số
ngày càng tăng đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc trồng lúa, sớm đi vào thâm
canh, chủ yếu bằng cách dùng lao động thủ công ngày càng nhiều trên một đơn
vị diện tích, với những cách làm mạ, làm đất, cấy lúa, chăm sóc khá tinh vi. Biện
pháp bón phân tập trung dúi vào từng gốc lúa, cho đến những năm sau cách
mạng tháng Tám đã khá quen thuộc với nông dân ở một số vùng của Hà Đông.
Người ta đã dùng những hạt đậu tương lép rồi đến cả đậu tương chắc để sau khi
cấy lúa đã bén rễ xong, thì đem bón bằng cách dúi vào gốc lúa từ 1 đến 2 hạt.
Khi bắt đầu dùng phân hoá học thì nông dân ở đây trước tiên dùng những mảnh
giấy con gói một lượng phân đạm bằng hạt ngô, và sau này thì trộn phân đạm
với đất nhão để vo viên dúi vào gốc lúa. Hay trong việc làm đất đối với vụ lúa
chiêm, nông dân ở Thái Binh và Nam Nam Định cũ đã dùng sức người để xếp
những hòn đất đã cày trong ruộng thành những bức tường thấp dọc theo bờ dài
của thửa ruộng để cho gió thổi bốn bề, nắng hanh làm đất mau khô: cách xếp ải
này đã có hiệu quả tăng năng suất lúa chiếm khá rõ. Một vài thí dụ trên, trong rất
nhiều thí dụ khác có thể kể ra đối với nhiều khâu canh tác khác, cũng đủ để nói
lên trình độ và mức độ dùng lao động thủ công trong việc trồng lúa ở châu thổ
sông Hồng. Với những cơ sở vật chất và kỹ thuật nghèo nàn của nông nghiệp
phong kiến kéo dài hàng mấy nghìn năm, năng suất lúa tất nhiên là không cao,
nhưng việc trồng lúa bằng nhiều lao động thủ công như vậy và việc tận dụng

mọi mảnh đất có thể trồng lúa được đã cung cấp được một khối lượng lương
thực ngày càng nhiều với một số dân ngày càng tăng. Châu thổ sông Hồng vì
vậy đã trở thành vùng có mật độ dân số cao nhất ở Việt Nam không những hiện
nay mà cả trong quá trình phát triển lịch sử của đất nước. Châu thổ sông Hồng
ngày nay cũng thuộc những vùng có mật độ dân số cao nhất thế giới, có những
địa phương có mật độ dân số tuyệt đối cao nhất như Thái Bình.
14


Các châu thổ của sông Mã, sông Chu, sông Cả ở Bắc Trung bộ cũng đã
được khai thác tương đối sớm, nhưng trình độ khai thác ở đây phần nào thấp
hơn trình độ khai thác
của châu thổ sông Hồng.
Do vị trí của các dãy núi



phía Tây, các dòng sông



đây không dài lắm, lượng
phù sa cũng không cao,
dòng sông lại tương đối
dốc, nước thoát nhanh
nên đê ven sông thấp hơn

đê

sông Hồng và cũng đơn giản hơn, đất cũng kém phì nhiêu hơn, chưa kể những

vùng ven biển từ Tĩnh Gia trở vào lại có những vùng đất cát biển rời rạc ít màu,
kém giữ nước. Trình độ thâm canh lúa ở đây vì vậy đã thấp hơn trình độ thâm
canh của châu thổ sông Hồng.
Dọc duyên hải miền Trung từ đèo Ngang trở vào cho đến Thuận Hải, với
vị trí của dãy Trường Sơn án ngữ phía Tây, với những dòng sông nói chung là
ngắn chảy từ Tây sang Đông, lại ít phù sa, đã hình thành nhiều châu thổ nói
chung là hẹp và cách quãng nhau. Các châu thổ này cũng đã được khai thác dần,
sớm hay muộn trong quá trình dân tộc Việt Nam phát triển từ Bắc vào Nam.
Những hoàn cảnh sản xuất mới, không cho phép lặp lại ở đây nguyên vẹn những
kinh nghiệm khai thác châu thổ sông Hồng hay các châu thổ khác ở Bắc Trung
Bộ. Sông ngắn, địa bàn theo thể mái nhà, lũ mạnh trong mùa mưa và cũng lại rút
nhanh, người ta không cần và cũng không thể đắp những hệ thống đề dày đặc để
ngăn nước chống lũ bảo vệ ruộng lúa, mà phải bố trí thời vụ cho thật khớp với
qui luật của lũ lụt hàng năm. Đất ven biển, cát nhiều khó giũ nước, và mưa nắng
lại thất thường, không cho phép ở đâu cũng áp dụng kỹ thuật gieo mạ rồi cấy
vào ruộng có nước sẵn đã chuẩn bị kỹ. Gieo thẳng, trĩa, vãi trên những loại đất
khô chua có nước, gieo ngay từ trước mùa mưa và đợi mưa cho lúa sinh trưởng
15


tốt và dùng những giống dài ngày, chỉ trổ sau khi mùa mưa bão đã qua để được
gặt an toàn vào cuối năm là một biện pháp trồng lúa đã được áp dụng từ lâu ở
đây, để sử dụng các loại đất ven biển. Nhưng người ta cũng đã có nhiều cố gắng
để tranh thủ chủ động nước trên một số vùng nhất định của các châu thổ, những
nơi cơ nguồn nước và cũng có khả năng tiêu nước trong mùa lũ, để chủ động
trồng lúa nước theo kỹ thuật gieo và cấy phổ biến của châu thổ sông Hồng. Ở
đây cũng đã có những kinh nghiệm khá tinh vi trong việc lấy nước vào ruộng;
những guồng nước chuyển động với dòng nước chảy của Quảng Nam, Quảng
Ngãi và tuỳ theo dòng chảy mà được lắp từng cặp hay từng bộ gồm nhiều xe nối
tiếp nhau..., cũng nói lên những cố gắng và những sáng tạo của nông dân các

vùng này trong việc tìm nguồn nước để cấy lúa. Tuy nhiên diện tích những địa
bàn chủ động nước này không
nhiều lắm và trước đây cũng phát
triển một cách chậm chạp, do các
công trình thuỷ lợi qui mô lớn
chưa được xây dựng bao nhiêu. Và
các địa bàn lúa nước của mỗi châu
thổ đều cũng đã là những nơi tập
trung dân số với mật độ cao.
Những đảo lộn do mấy chục năm chiến tranh vừa tăng nhanh một cách đặc biệt.
Châu thổ sông Cửu Long ở miền Nam là châu thổ rộng nhất của Việt
Nam, và cũng là một châu thổ quan trọng của vung Đông Nam Á. Châu thổ này
được khai thác muộn nhất, chỉ vào khoảng từ 500 – 600 năm trở lại đây, và chủ
yếu cùng là để trồng lúa. Châu thổ sông Cửu Long đã sớm trở thành vựa lúa của
Việt Nam do diện tích rộng, tiềm năng lớn, điều kiện thời tiết, thuỷ văn, địa hình
và cả thổ nhưỡng có nhiều mặt thuận lợi đối với nghề trồng lúa. Châu thổ này
chưa được khai thác hết và còn đang trong quá trình hình thành. Ven sông không
có đê, nước sông tràn dễ dàng vào ruộng lúa trong mùa lũ đem lại một khối
lượng phù sa khá lớn với khối nước lớn chảy qua châu thổ. Việc dùng lao động
16


trong nghề trồng lúa ở đây đã ít hơn nhiều so với các châu thổ duyên hải Trung
bộ hay châu thổ sông Hồng, do mật độ dân số ở đây thấp hơn và do những thuận
lợi tự nhiên của châu thổ này. Tuy mật độ dân số ở châu thổ sông Cửu Long có
thấp hơn mật độ dân số của các châu thổ dọc duyên hải Trung bộ và nhất là của
châu thổ sông Hồng, nhưng mật độ này vẫn cao hơn nhiều so với mật độ của các
vùng đất cao của vùng Đông Nam Bộ hay Tây Nguyên. Lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam đã gắn liền với lịch sử phát triển của nghề trồng lúa ở Việt
Nam. Trong quá trình phát triển từ Bắc vào Nam, tổ tiên ta đã lấy cây lúa nước

làm loại cây trồng chính để khai phá đất hoang, mở thêm diện tích trồng trọt, mở
mang bờ cõi, biển đầm lầy và rừng rậm thành những đồng lúa phì nhiêu. Quá
trình đấu tranh để phát triển sản xuất nông
nghiệp và nhất là để phát triển nghề trống
lúa, phát triển diện tích cũng như đúc rút
kinh nghiệm nâng kỹ thuật trống lúa lên
trình độ cao hơn, và có những trường hợp
đến trình độ khá tin vi với số lượng lao động
thủ công dùng khá nhiều. Có một quan hệ khá mật thiết giữa diện tích lúa và mật
độ dân số. Ngay ở miền núi Việt Bắc, Tây Bắc, những bản làng trù phú tương
đối đông dân. Cũng có quan hệ khá mật thiết giữa mật độ dân số và mức độ
dùng lao động thủ công để thâm canh lúa ở mỗi vùng. Mật độ dân số càng cao
thì có khả năng dùng thêm lao động trong nhiều khâu canh tác, để tăng năng
suất lúa, để tăng thêm vụ lúa, nhằm đáp ứng yêu cầu về lương thực của mật độ
dân số ấy. Không phải ngẫu nhiên mà châu thổ sông Hồng là nơi có trình độ
thâm canh lúa với lao động thủ công nhiều nhất, có những kỹ thuật trồng lúa khá
tỉ mỉ mà các tác giả nước ngoài cho rằng ở đây người ta đã trồng lúa như trồng
hoa. Cũng không phải ngẫu nhiên mà vụ lúa mùa khô đã có hơn 2000 năm lịch
sử ở châu thổ sông Hồng và đã dần dần được mở rộng để chiếm một diện tích
đạt trên 70% diện tích lúa mùa mưa, trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long đến
ngay những năm gần đây trước ngày giải phóng vụ lúa mùa khô hầu như chưa
17


đáng kể, mới chiếm 5 – 7% diện tích đất lúa.
Cũng từ ngàn xưa nông dân Việt Nam đã
là những người trồng lúa có kinh nghiệm: và
trong mỗi địa bàn sản xuất khác nhau, với những
điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn... khác
nhau, nông dân Việt Nam đã sáng tạo ra những

kinh nghiệm, những kỹ thuật trồng lúa có những
nét độc đáo, phù hợp với điều kiện thích hợp với
thiên nhiên ở từng nơi. Phát hiện từ châu thổ
sông Hồng đến các châu thổ phía Nam, nhẽng
đặc điểm chủ yếu của nông thôn Việt Nam, vẫn
biểu hiện thống nhất với ruộng lúa, bờ tre, và con
trâu cày quen thuộc. Những mùa vụ lúa, các loại giống lúa, các công cụ làm đất
lúa cũng như các biện pháp canh tác lúa đã có nhiều thay đổi, tất cả để thích
nghi với điều kiện sản xuất và cũng để khai thác có thể đúc kết được những kinh
nghiệm trồng lúa có những sắc thái đặc thù, nói lên quá trình sáng tạo của các
thế hệ nông dân trồng lúa nước ở mỗi địa phương ở Việt Nam.

18


Chương 3. Nét văn hoá truyền thống từ nghề làm lúa ở Đông Nam Á.
Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây
khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh
này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát
triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh
lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương
thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng
có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình
thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi
vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã.
1. Tín ngưỡng.
Tín ngưỡng ở Đông Nam Á hình thành rất sớm. Mặc dù ở mỗi dân tộc, mỗi
cộng đồng dân cư có quá trình hình thành và tồn tại của những tín ngưỡng khác
nhau, song do có cùng cơ tầng văn hoá nông nghiệp lúa nước trong điều kiện địa
lý tự nhiên chung, hình thành nếp sống, lối sống gần gũi cư dân Đông Nam Á

cũng có chung yếu tố tín ngưỡng... Những tín ngưỡng bản địa của Đông Nam Á
có thể quy tụ thành các yếu tố sau đây: Sùng bái tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, tín
ngưỡng phồn thực, thờ thần, trong đó cây lúa có vai trò chính trong việc hình
thành tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con
người. Với người Việt Nam cũng như người Đông Nam Á sống bằng nghề nông
nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt. Việc
đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả
trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín
ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong
lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh
vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt
Nam hướng tới là sự phồn thực cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái
trẻ đẹp mà là các Bà mẹ, các Mẫu.
19


Trước hết, đó là Bà Trời, bà Đất, Bà Nước - những nữ thần cai quản các
hiện tượng tự nhiên, quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của
người làm nông nghiệp lúa nước. Về sau, tuy do ảnh hưởng của văn hoá Trung
Hoa gốc du mục nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá, song tục thờ bộ
ba nữ thần này vẫn lưu truyền trong dân gian dưới dạng tín ngưỡng Tam Phủ với
Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ).
Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải (= thủy) - cai quản ba vùng trời-đất-nước.
Nhiều nhà, ở góc sân vẫn có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên (hay
bà Thiên Đài). Nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực
như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Bà Đất còn tồn tại dưới tên gọi
Mẹ Đất (Địa Mẫu) . Bà Nước cũng tồn lại dưới tên Bà Thuỷ ( Đi liền với bà
Thuỷ là bà Hoả dương tính như lửa mà cũng là Bà, đủ biết chất âm tính của văn
hoá Việt mạnh đến như thế nào!).

Tục thờ Mặt Trời là một tín ngưỡng bắt nguồn từ vùng nông nghiệp Đông
Nam Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm; ở
phương Nam, toàn dân thờ trời (bàn thờ bà Thiên Đài), ở Trung Hoa thời Kiệt Trụ chưa thờ Trời, về sau cũng chỉ có vua (con trời) là thờ trời thôi, dân Trung
Hoa không thờ trời (Kinh Xuân Thu ghi : "Dân thờ trời là đắc tội với Thiên tử").
Lễ Nam giao và lễ Tịch Điền mà trước đây triều đình thường tổ chức có thể xem
là một hình thức nhà nước hoá tục Trời và thờ Đất.
Tiếp theo trời - đất - nước là các bà Mây – Mưa - Sấm - Chớp những hiện
tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp
lúa nước. Đến khi đạo Phật vào Việt nam và Đông Nam Á, nhóm nữ thần MâyMưa-Sấm-Chớp này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp : Pháp Vân (thần
Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi
(Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn.
Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều
lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí
rước theo đoàn quân đi đánh giặc...
20


Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và
thời gian. Thần không gian được hình dung thco nguyên lí Ngũ Hành Nương
Nương. Ngũ Phương chi thần coi sóc trung ương và bốn hướng; Ngũ Đạo chi
thần trông coi các ngả đường. Theo địa chí, người ta thờ thần thời gian là Thập
Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm thco Tí, Sửu, Dần, Mão,...).
Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này đồng thời có trách
nhiệm coi sóc việc sinh nở - đó là Mười Hai Bà Mụ. Trong mảng tín ngưỡng
sùng bái giới tự nhiên còn có việc Thờ Động vật và thực vật . Trong khi nếp
sống trọng sức mạnh của loại hình văn hóa gỗc du mục dẫn đến tục tôn thờ
những con thú dữ (như chó sói, hổ, chim ưng, đại bàng....) thì nếp sống tình
cảm, hiếu hòa của loại hình văn hóa nông nghiệp dẫn người Việt Nam và Đông
Nam Á đến tục thờ các con thú hiền như hươu, nai, trâu, cóc...; riêng loại hình
nông nghiệp lúa nước của ta còn thờ một số động vật sống ở nước như: chim,

nước, rắn, cá sấu.
Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước,
và do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu: nhất
điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa
nông nghiệp còn đẩy các con vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo
truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" và là "giống Rồng
Tiên" (thành ngữ : con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng chính
là một loài chim nước lớn ("bàng" là lớn, chữ "hồng"(chữ Hán) ghép bởi chữ
giang là sông nước và chữ điểu là chim). Tiên Rồng là một cặp đôi (chỉ có dân
tư duy theo lối triết lí âm dương mới có vật tổ cặp đôi), trong đó Tiên được trừu
tượng hoá từ giống chim (cho nên mẹ Âu Cơ đẻ trứng ! ), còn Rồng được trừu
tượng hoá từ hai loại bò sát rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng nước Đông Nam á.
Hình tượng Con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đông Nam á - đó là điều đã
được giới khoa học khẳng định. Nếp sống tình cảm hiếu hòa của người nông
nghiệp đã biến con cá sấu ác thành con rồng hiền, con vật phù hộ cho người dân
nông nghiệp. Hình cá sấu là mô típ trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng
21


Đông Sơn. Cá Sấu - Rồng được coi là chúa tể cai quản vùng sông nước với tên
gọi Bua Khú (Vua Sấu) ở người Mường, Long Quân, Long Vương ở người Việt.
Con Rồng Việt Nam mang đầy đủ hai nét đặc trưng cơ bản của tư duy nông
nghiệp là tổng hợp và linh hoạt : là kết hợp của cá sấu và rắn, sinh ra từ nước và
bay lên trời, bay lên trời mà không cần phải có cánh, miệng vừa phun nước vừa
phun lửa. Rất nhiều địa danh Việt Nam được đặt tên "rồng": Hàm Rồng, Hàm
Long, Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Bạch Long Vĩ, Long Đỗ, Long Điền,
Long Môn, v.v.
Từ vùng Đông Nam á này, hình tượng con rồng đã được hội nhập vào văn
hóa Trung Hoa và đồng thời được đưa đến những vùng xa xôi nhất của châu Âu
từ rất sớm. Ở những xứ này con rồng đã bị dương tính hóa : thân hình thì thu

ngắn lại và giống thú, còn tính cách thì ác độc và dữ tợn. Đến phương Tây, nó
được xem như một con vật xấu xa và còn bị lối tư duy phân tích gán thêm cho
đôi cánh.
Cây Lúa là loài thực vật được tôn sùng nhất: khắp nơi - dù là vùng người
Việt hay vùng các dân tộc - đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ
Lúa,...Thứ đến các loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây
Dâu, quả Bầu,....
2. Lễ hội.
Trên cơ tầng văn hoá nông nghiệp luá nước, Đông Nam Á là nơi ra đời và
tồn tại của nhiều lễ hội đặc sắc và độc đáo thống nhất trong vùng văn hoá Đông
Nam Á. Những lẽ hội nổi trội làm nên những thành tựu của văn minh Đông
Nam Á.
Có vô số lễ hội lớn nhỏ ở mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân tộc ở Đông
Nam Á trong một năm. Vì thế chưa có nhà nghiên cứu nào thống kê đầy đủ và
cho ra con số chính xác. Nhưng có những lễ hội tiểu biểu ở Đông Nam Á trước
hết đó là những lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, liên quan đến mùa
màng, gieo trồng và thu hái. Ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, tổ chức lễ hội, hình
thức thể hiện có khác nhau do tác động của tín ngưỡng, tôn giáo và tập quán dân
22


gian. Lễ hội ở Đông Nam Á có thể kể đến như những giá trị nổi bật. Đây là
những lễ hội gắn liền với nông nghiệp là lễ Mở Đường Cày của người Thái, Hội
Mùa ở Sahu (Inđônêxia), lễ Xuống Đồng của Việt Nam, lễ Ban Giống Lúa
Thiêng và lễ Té Nước của người Khơ me ở Cămpuchia, lễ hội Bun Khua Khau
Nay Lan của người Lào... Những lễ hội này gồm cả phần hội với nhiều trò chơi
dân gian sôi động. Sự tham gia của đông đảo cộng đồng dân cư đã góp phần gắn
kết cộng đồng, giáo dục lòng yêu lao động, trân trọng với sản xuất nông nghiệp.
Có thể nói lẽ hội gắn liền với nông nghiệp ở Đông Nam Á là lễ hội lớn và phổ
biến của hầu hết cư dân Đông Nam Á. Lễ hội này tồn tại qua nhiều thế kỷ và

còn đến ngày nay, dù hình thức và quy mô có những thay đổi.
3. Một số tín ngưỡng và lễ hội tiêu biểu từ cư dân trồng lúa ở Đông Nam Á.
3.1. Tín ngưỡng hồn lúa
Ở Đông Nam Á bản thân lúa được tôn thờ như một tôn giáo. Năm 1954,
ông bà Proux có viết cuốn sách là “Hồn lúa”, nói về tín ngưỡng hồn lúa của
người Ê đê: “Cột trụ của cuộc sống ở Đăk lăk là một thứ lúa tuyệt vời... Lúa là
thức ăn chủ yếu. Lúa do thần linh ban cho. Lúa là thần linh”
Trong cuốn sách nói về người Lamet ở Bắc Lào, một học giả Thụy Điển
K.G.Izikowitz có viết: “Lúa có linh hồn, giống như con người. Nếu hồn lúa bỏ
đi… sẽ dẫn đến đói kém. Nó là một vật nhẹ rất dễ lạc đi nơi khác. Vì vậy, nó
phải được dẫn dắt và hướng dẫn đi đúng đường, và một khi đã nắm giữ được thì
phải cột nó vào đá, cũng giống như buộc giữ một người ở trong hang vậy…
Không có cây trồng nào khác có hồn”.
Người Tagbanuwa ở Philippin cho rằng: lúa là cây thiêng, một tặng vật
của thần kinh, và là lương thực đích thực của con người và các thần linh. Mặc
dù người Tagbanuwa còn trồng nhiều loại cây khác nữa, ở ruộng có bắp kê, ở
vườn có khoai lang, đậu, chuối…, nhưng chỉ có bắp là còn có một ít nghi lễ mà
thôi. Người ta không dùng khoai lang hay sắn để cúng.
Ở Java, cây lúa nước gắn với nghi lễ phồn thực và thuộc về nữ tính là hiện
thân của nữ thần Devi Sri. Do vậy có nhiều cấm kỵ đối với đàn ông trong sự tiếp
23


xúc với cây lúa. Đàn ông không được gần nữ thần lúa. Họ chỉ làm các công việc
cày bừa, chuẩn bị đất…, còn các công việc gieo hạt, nhổ mạ, cấy lúa, tưới bón
chỉ phụ nữ mới được làm. Bên cạnh nữ thần lúa là Deci Sri, còn có nam thần là
Wisna (còn gọi là Sedona). Đến mùa gặt, sau khi gặt hái xong và thóc đã chuyển
vào kho, người ta làm lễ cưới cho hai vị thần ấy.
Người Malaixia, theo truyền thống, xem cây, đá, sông, lúa đều có hồn như
một sức mạnh bảo hộ hay là sự sống đích thực của chính sự vật đó. Những nghi

lễ về lúa rất nhiều, nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với môi trường.
Cây lúa được đối xử rất tử tế vì nó nuôi sống con người. Có khi lúa được gọi là
công chúa và được trông nom hết sức cẩn thận từ khi gieo đến khi gặt vào kho.
Cấm không được gõ, đập, đá vào bồ lúa, kho lúa vì làm như vậy hồn lúa sợ bỏ
đi, và mùa sau sẽ mất mùa.
Người Khmer xem Mẹ lúa là một người đàn bà cưỡi trên minh cá, tay cầm
bông lúa. Người Mảng, Khơ mú hình dung Mẹ lúa là cô gái trong trắng xinh đẹp
trú ngụ trên vạt nương. Người Ba na gọi thần lúa là Yang. Sở ri, một nữ thần
quyết định sự no ấm của con người. Hàng năm vào dịp trước khi thu hoạch lúa,
họ làm lễ SaMơk (Mừng cơm mới) để tạ ơn nữ thần Yang Sơ ri.
Nhiều dân tộc miền núi Việt Nam có tập quán thờ ông bà lúa. Dân tộc Ka
tu ở Tường Sơn Thừa Thiên dành chỗ đẹp nhất trong bếp và làm cây Tơ ru để
thờ lúa. Tơ ru là cái rọ đan dày, treo trên cột bếp, trong có những mảnh vải đẹp
và có một cái hộp nhỏ đựng thóc. Mỗi năm chọn một ít hạt thóc mới, đẹp và
mẩy đặt vào hộp, thay cho thóc cũ. Khi chuyển bản, dời nhà thì mang theo hộp
thóc thờ, và làm Tơ ru mới. Khi gặt lúa và tuốt lúa, tất cả các lối vào bản đều
treo cành cây giữa đường, để cấm không cho ai vào bản. Tuốt xong lúa là ngày
hội, thanh niên múa hát, nhà nhà đồ những nồi cơm trắng, đơm vào giỏ chia cho
nhau. Càng chia cho nhiều người, ông bà lúa càng bằng lòng. Sau khi múa hát,
thanh niên tung hết các giỏ cơm lên trời cho rơi xuống đất xong xuôi, người Ka
tu mời tiếp khách.
Một số dân Tây Nguyên khi phát nương là rẫy cũng tuân thủ những điều
24


×