Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cây lúa với nền văn minh lúa nước của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á
MỤC LỤC
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần mở đầu
Trải qua nhiểu thế kỷ, Đông Nam Á đã phát triển một nền sản xuất nông
nghiệp độc đáo, lấy cây lúa làm cây trồng chính. Trên cơ sở ấy đã nảy sinh và
phát triển một nền “văn minh lúa nước” nông dân Đông Nam Á đã sáng tạo và
tích luỹ được nhiều kinh nghiệp trồng lúa phong phú thích hợp với mỗi quốc gia
trong vùng.
Ngày nay các nước Đông Nam Á lại có điều kiện trao đổi giao lưu kinh tế
chính trị văn hoá xã hội, là những thành viên của khối Hiệp hội các nước Đông
Nam Á (ASEAN). Biểu tượng của khối này cũng lấy hình bó lúa để thể hiện tính
chất kinh tế xã hội, văn hoá của vùng là những cư dân nông nghiệp trồng lúa.
Chính vì thế nghiên cứu cây lúa về nghề làm lúa qua cái nhìn văn hoá ở Đông
Nam Á là một đề tài hấp dẫn. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi nền kinh tế
của vùng đang có bước phát triển mạnh mẽ, thì cây lúa vẫn là cây lương thực có
vai trò quan trọng nhất trong xã hội. Nó còn góp phần hình thành có một nền
văn hoá đã tồn tại từ rất lâu đời của vùng Đông Nam Á.
Với quy mô giới hạn trong một bài tiểu luận, người viết chỉ đi sâu làm rõ
sự tương đồng trong việc trồng lúa của cư dân Đông Nam Á. Từ đó mà hình
thành nên nền văn hoá chung trên cơ tầng nông nghiệp trồng lúa. Bên cạnh đó
cũng có những nét riêng, bản sắc và độc đáo trong văn hoá của mỗi quốc gia
trong vùng Đông Nam Á.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1. Điều kiện để hình thành nghề lúa ở Đông Nam Á
Đông Nam Á bao gồm tiểu lục địa: Miến Điện, Thái Lan, Bán đảo Đông
Dương, Philippin, Inđônêxia, Mailaixia, Singapo, Brunay là vùng có một nền
nông nghiệp cổ xưa trên trái đất. Những công trình khảo cổ học gần đây đã phát
hiện ở một hang động của Thái Lan những hạt đậu Hà Lan, đậu đỗ, dưa chuột và
kích thước cho biết là có nguồn gôc trồng trọt, có tuổi khoảng 9400 năn Trước
Công nguyên. Nếu niên đại này mà đúng và nếu khẳng định được đây là những
hạt của những cây trồng, thì đây là nền nông nghiệp cổ xưa nhất của loài người.
Vì những vết tích của hoạt động nông nghiệp đầu tiên đến nay đã tìm thấy ở
Trung Đông và Mêhicô là vào khoảng 7500 năm Trước Công nguyên. Và như
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vậy, Đông Nam Á có thể là nơi đã xuất hiện những kỹ thuật trồng trọt đầu tiên
và từ đó đã lan tràn sang các lục địa khác của bán cầu Đông, rồi sang cả châu
Mỹ.
1. Điều kiện khí hậu và các vụ lúa ở Đông Nam Á.
1.1. Điều kiện khí hậu.
Đặc điểm địa lý nổi bật của vùng Đông Nam Á là vùng này gồm hai bộ
phận đối lập nhau: Phía Bắc là lục địa kéo dài lục địa châu Á xuống phía Nam,
phía Nam là đại dương kéo dài Ấn Độ Dương lên phía Bắc, phía Đông là Thái
Bình Dương và phía Tây là những sa mạc châu Phi và Ả Rập. Quần đảo
Inđônexia chạy dọc theo đường xích đạo Ấn Độ Dương là nguồn hơi nước lớn
nhất cho gió mùa Tây Nam thổi vào mùa hạ, còn gió mùa Đông Bắc lại mang
hơn nước chủ yếu của biển Trung Hoa, vịnh Thái Lan và vịnh Bengan.
Chính những đặc điểm địa lý trên, với sự đối lập giữa đại dương và lục
địa theo vĩ tuyến ở một phạm vi rộng lớn đã làm cơ sơ cho sự hình thành chế độ
gió mùa châu Á, một hiện tượng khí tượng đặc biệt, có một không hai trên trái
đất.
Chế độ gió mùa châu Á chi phối chặt chẽ các yếu tố khí hậu của toàn
vùng và do đó chi phối hoạt động nông nghiệp và đời sống của con người. Điểm
độc đáo của chế độ gió mùa là sự tương phản của gió mùa Đông Bắc trong mùa
đông, và gió mùa Tây Nam trong mùa hạ. Chế độ gió mùa ngự trị trên toàn vùng
châu Á gió mùa. Tuy nhiên, những dãy núi chắn ngang có tác dụng quan trọng
đến khí hậu, làm nẩy sinh những nét đặc thù của khí hậu từng địa phương. Như
ở Việt Nam, các dãy núi vòng cung vùng Đông Bắc đã để cho gió mùa Đông
Bắc tràn về dễ dàng nên mùa đông ở Việt Bắc và Đông Bắc đến sớm hơn và dài
hơn so với vùng Tây Bắc được dãy Hoang Liên Sơn làm cho khuất gió và nhiệt
độ mùa đông ở vùng núi thấp Tây Bắc chỉ xấp xỉ với nhiệt độ của đồng bằng
sông Hồng.
Gió mùa mùa đông hay gió mùa Đông Bắc thịnh hành nhất từ tháng 12
đến tháng 2 năm sau và gió mùa mùa hạ hay gió mùa Tây nam thịnh hành từ
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tháng 6 đến tháng 9. Những thời kỳ chuyển tiếp giữa hai mùa gió mùa từ tháng 3
đến tháng 5 và từ tháng 10 đến tháng 11 là những thời kỳ trung gian của mùa
xuân và mùa thu. Tuy nhiên, các thời kỳ chuyển tiếp này cũng dài ngắn khác
nhau tuỳ theo vị trí địa lý và địa hình của từng vùng. Ở Bắc Việt Nam, nhiều
năm gió mùa Đông Bắc bắt đầu tràn về ngày từ tháng 11 và đến cuối tháng 4
đầu tháng 5 vẫn còn có những đợt gió mùa Đông Bắc muộn. Ở Miến Điện, gió
mùa Đông Bắc với hướng Bắc và Đông Bắc, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 với
những ngày đẹp trời. Gió mùa mùa hạ với hướng Nam hay Đông Nam kéo dài
từ tháng 6 đến tháng 9; mùa này, trời nhiều mây và có nhiều mưa. Tháng 4,
tháng 5 là những tháng nóng với những trận mưa giông địa phương, tháng 10 là
tháng chuyển tiếp giữa mùa khô và mùa mưa.
Thái Lan có một mùa hè nóng và tương đối khô, nước này có lượng mưa
trung bình . Gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 12 và gió mùa Tây
Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Tháng 3 và tháng 4 có những nhiệt độ trung bình
cao nhất trong năm, nhiệt độ hàng ngày ít khi dưới 32độ C và nhiệt độ cao nhất
nhiều khi vượt 40 độ C.
Bán đảo Đông Dương có khí hậu nhiệt đới ở phía Nam và có một mùa
đông tương đối lạnh ở phía Bắc. Điều kiện địa hình, dãy núi Trường Sơn cũng
có ảnh hưởng nhiều đến tình hình khí hậu thời tiết của bán đảo này. Mùa mưa ở
đây thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 ở nhiều nơi, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 3. Tuy nhiên miền Trung Bộ Việt Nam, các vùng duyên hải và sườn
Đông Trường Sơn có mưa kéo dài sang thời kỳ gió mùan Đông Bắc. Bão ở biển
Đông cũng thường đổ bộ vào vùng duyên hải bán đảo Đông Dương từ tháng 7
cho đến tháng 11.
Malaixia có vùng phía Tây và vùng phía Đông. Vùng phía Đông có khí
hậu gần như khí hậu Inđônêxia. Còn vùng phía Tây có độ ẩm cao, mưa nhiều và
biên độ nhiệt độ nói chung nhỏ giữa các tháng trong năm. Có sự khác biệt khá rõ
trong một ngày, giữa ngày và đêm về mưa cũng như độ che mây. Do ảnh hưởng
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của đại dương nên biên độ nhiệt độ giữa ngày và đêm cũng dưới 9 độ C. Nhưng
vì độ ẩm cao nên thời tiết rất khó chịu, các tháng mùa hè từ tháng đến tháng 6 .
Inđônêxia ở vùng xích đạo giữa vĩ tuyến 10 độ Bắc và vĩ tuyến 10 độ
Nam giữa vùng biển nhiệt đới có khí hậu nóng và ấm quanh năm; khí hậu có
thay đổi ít nhiều do những điều kiện địa hình và hướng núi.
Philippin có thể chia làm ba vùng khí hậu. Trong thời kỳ gió mùa Đông
Bắc, đảo Luzon và những đảo gần đó thường ít mưa và có mùa đông ấm. Vùng
trung bộ về phía đông lại có mưa nhiều trong thời kỳ này và ở đây lại khô hạn
nhiều từ tháng 3 đến tháng 8. Các vùng phía Nam cũng có mưa trong thời kỳ gió
mùa Đông Bắc. Còn hầu hết các vùng ở Philippin có mưa nhiều từ tháng 5 đến
tháng 10 trong thời kỳ gió mùa Tây Nam. Đỉnh mưa cao nhất thường ở trong
thời kỳ chuyển tiếp sau gió mùa Tây Nam. Bão ở biển Đông thường hình thành
ở giữa Philippin và kinh tuyến 160 độ Đông trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng
11 và di chuyển theo hướng Tây – Tây Bắc và đem lại mưa to và lũ lụt ở đảo
Luzon.
Điểm qua tình hình khí hậu của các vùng Đông Nam Á như trên cũng
thấy là có nhiều nét đặc thù địa phương nhất là giữa vùng nhiệt đới phía Bắc và
vùng xích đạo. Tuy nhiên, chế độ gió mùa đã ảnh hưởng tới cả vùng với những
sai khác nhiều ít do các điều kiện địa hình. Và chế độ gió mùa này đã chi phối
chặt chẽ đời sống của con người về nhiều mặt và trong tình hình mà sản xuất
nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu, đã quyết định bộ mặt sản xuất nông
nghiệp ở từng nơi.
1.2. Các vụ lúa ở Đông Nam Á.
Ở tất cả các vùng ở Đông Nam Á, với mùa mưa chủ yếu nằm trong thời
kỳ gió mùa Tây Nam (trừ một số ngoại lệ do điều kiện địa hình) vụ lúa mùa mưa
là vụ lúa quan trọng nhất, chiếm địa bàn rộng rãi nhất và được phân bổ từ trên
sườn núi cao xuống các vùng châu thổ của các dòng sông đến tận các đồng bằng
ven biển với các chế độ canh tác khác nhau từ gieo thẳng (chọc lỗ bỏ hạt) đến
cấy lúa một lần hay hai lần với những trình độ thâm canh khác nhau. Vụ lúa mùa
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mưa là vụ lúa chính từ khi loài người bắt đầu thuần hoá cây lúa và biết trồng lúa,
và trong quá trình phát triển của xã hội và của sản xuất đã được phân hoá thành
những trà lúa (sơm, muộn) khác nhau, với những giống lúa khác nhau. Rồi với
những tiến bộ kỹ thuật nhất định, người ta đã làm thêm những vụ lúa nữa trong
mùa tương đối khô trên những diện tích có điều kiện và những cơ sở vật chất và
kỹ thuật cần thiết. Vụ lúa chiêm ở Bắc Việt Nam chẳng hạn, mới chỉ có từ hơn
hai nghìn năm nay trong khi lịch sử của vụ lúa mùa ở vùng này đã dài gấp hơn
hai lần hoặc hơn thế nữa. Ở một số vùng khác, người ta cũng đã lợi dụng của gió
mùa Đông Bắc đem lại để làm một vụ lúa thực chất không phải là vụ lúa mùa
khô (vùng bờ biển phía đông trung tâm Philippin, một số vùng ở Thái Lan) với
những giống lúa ngắn ngày, người ta cũng đã làm một vụ lúa từ giữa sang cuối
mùa khô và được thu hoạch vào đầu hay giữa mùa mưa. Mưa của mùa mưa sẽ
cung cấp nước chó lúa vào những thời kỳ phát triển chủ yếu của nó.
Ở các đồng bằng vùng Đông Nam Á, nói chung điều kiện nhiệt độ thích
hợp cho sự sinh trưởng và phát dục của cây lúa quanh năm, và ở đây người ta có
thể làm nhiều vụ một năm (ít nhất là hai vụ) nếu có đủ nước. Nước tưới là yếu tố
hạn chế chủ yếu đối với việc tăng thêm diện tích lúa có thể phát triển mạnh với
các hệ thống canh tác khác nhau tuỳ theo tình hình sử dụng nước. Nhưng ở các
vùng núi cao, thì nhiệt độ có thể trở thành một yếu tố hạn chế, ngay trong những
trường hợp có đủ nước tưới. Ở đây, thường người ta chỉ làm được một vụ lúa
trong mùa hè (ruộng bậc thang để cấy lúa nước, lúa nương, lúa rẫy) và cũng
không quá một độ cao nhất định, do nhiệt độ tương đối thấp không cho phép cây
lúa sinh trưởng và phát dục bình thường ngay trong mùa hè.
Ở các vùng từ vĩ tuyến 17 độ Bắc trở lên có một mùa đông tương đối
lạnh, nhiệt độ mùa đông cũng đã chi phối khá chặt chẽ các vụ lúa mùa khô và cả
vụ lúa mùa mưa. Như ở miền Bắc Việt Nam, thời vụ của vụ lúa mùa mưa đã
phải căn cứ vào diễn biến tình hình của gió mùa Đông Bắc mang không khí lạnh
và phải sắp xếp để cho lúa mùa trỗ được an toàn trước khi có những đợt lạnh
đầu mùa. Còn vụ lúa mùa khô lại phải tránh được những ảnh hưởng không tốt
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của những đợt gió mùa Đông Bắc cuối vụ có thể làm cho lúa mùa khô trỗ sớm
gặp khó khăn và có tỷ lệ hạt lép cao.
Tuy nhiên ở những vùng vĩ tuyến cao hay ở những miền núi cao mà
không làm được vụ lúa mùa khô (do nhiệt độ thấp) mà chỉ làm được vụ lúa mùa
mưa, thì với những giống mới và kỹ thuật tiến bộ, vẫn có thể đạt những năng
suất khá cao, không kém năng suất lúa mùa khô ở các vùng những tuyến thấp
hay ở đồng bằng mà nhiều khi còn có thể hơn. Ở miền Bắn Việt Nam, năng suất
của lúa mùa với giống mới và phân hoá học ở các vùng cao của Hoàng Liên Sơn
hay tỉnh Cao Bằng đã cho năng suất tương đương như năng suất lúa xuân (thực
chất là lúa mùa khô) ở đồng bằng. Vì ở các vùng trồng lúa ở vĩ tuyến cao hay ở
trên ruộng bậc thang ở sườn núi cao ngay trong mùa mua lại đã có một số điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành những năng suất cao.
2. Địa bàn trồng lúa và loại lúa ở Đông Nam Á.
2.1. Địa bàn trồng lúa.
Qua tình hình trồng lúa trên thế giới, ai cũng nhận thấy là cây lúa dễ thích
nghi với nhiều loại đất khác nhau về nhiều mặt: thành phần của đất, cấu tượng
của đất, các đặc tính lý học, hoá học về lý hoá học cũng như địa mạo và độ cao.
Yếu tố quan trọng nhất đối với lúa nước ở đất thấp là cần có nước ở chân, và đối
với lúa đất cao là có đủ nước trong mùa mưa, thoả mãn được nhu cầu sinh lý của
nó. Ở Đông Nam Á cũng có tình hình tương tự như trên, nên địa bàn trồng lúa,
nhất là trong mùa mưa, khá rộng bao gồm cả các vùng đất cao được hình thành
tại chỗ và các châu thổ thấp của các dòng sông, cũng như tất cả những loại đất
bằng khác có thể giữ nước để cấy lúa hay có đủ độ ẩm cho lúa gieo thẳng sinh
trưởng được bình thường.
Địa bàn trồng lúa ở Đông Nam Á khá rộng và đã phản ánh những điều
kiện địa lý, địa hình, thổ nhưỡng và khí hậu rất khác nhau, làm nảy sinh và tồn
tại những tập quán sử dụng đất và trồng lúa khác nhau, từ thâm canh với trình độ
khá cao, đến quảng canh một cách thô sơ.
2.2. Các loại lúa chính
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.1. Lúa cạn.
Diện tích của lúa trồng cạn không nhiều so
với tổng diện tích lúa chung. Đối với toàn thế
giới, lúa cạn chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích
lúa. Còn đối với vùng Đông Nam Á mưa
nhiều, có mật độ dân số cao, có nhiều dân tộc ở
các vùng núi đã áp dụng kỹ thuật san sườn núi làm ruộng bậc thang để cấy lúa
nước, thì tỷ lệ diện tích lúa cạn có thấp hơn, nhưng vẫn có vị trí nhất định trong
sản xuất lương thực ở các vùng này. Lúa cạn được gieo trồng chủ yếu bởi những
người nông dân nghèo và ở những vùng thường nghèo nhất để tự cấp tự túc,
chiếm khoảng dưới 10% diện tích lúa chung của vùng Đông Nam Á và đã có
mặt ở hầu hết các nước.
Lúa cạn được trồng nhiều nhất ở Inđônêxia, Philippin. Ở mỗi nơi có
những khác nhau nhiều ít trong kỹ thuật và tập quán trồng trọt.
Ở Inđônêxia, có khoảng trên 1,5 triệu héc ta lúa cạn, phân bố ở Java,
Xumata, Klimanta, Xulavexi, Malucu, và ở các đảo khác. Lúa cạn thường được
gieo trong tháng 11 hay tháng 12m tuỳ theo mưa và nhiểu khi xen với ngô hay
sắn, trên các độ cao khác nhau từ ven biển đến độ cao trên 2000m.
Ở Miến Điện, có tài liệu cho biết có khoảng hơn 40 vạn héc ta lúa cạn ở
bang phía Bắc.
Ở Thái Lan, lua cạn thường được trồng theo hình thức du canh bởi dân tộc
Hitl theo kỹ thuật thô sơ, chọc lỗ bỏ hạt (lỗ sâu khoảng 3cm). Ở Nam Thái Lan,
lúa cạn cũng được gieo xen dưới cây cao su trong những năm đầu, hay xen với
sắn và ngô.
Philippin, tài liệu ước lượng về tỷ lệ lúa cạn thay đổi từ 10 đến 20%. Lúa
cạn được gieo nhiều ở đảo Minđanao ở phía Nam. Ở đảo Luzon về phía Bắc,
tỉnh Batangat là tỉnh có tỷ lệ lúa cạn cap nhất và thường được gieo trồng xen với
dừa.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở Việt Nam, lúa cạn được gieo ở các
nương rẫy ở các vùng núi phía Bắc với kỹ
thuật thô sơ (chọc lỗ bỏ hạt) và chế độ du
canh (chỉ gieo lúa một vài vụ rồi để rừng mọc
lại). Trên các loại đất đỏ tương đối bằng ở
Tây Nguyên, lúa cạn cũng được gieo trồng trên loại đất đã cày bừa vào đầu mùa
mưa hàng năm để được thu hoạch vào cuối mùa mưa. Cũng có những giống lúa
cạn được gieo ở đất bãi cao, hay trên những sống đất ven sông, ven biển trong
mùa mưa, gieo trên đất khô và lúc thu hoạch đất cũng khô. Ở các vùng ven biển
đất cát nhiều, ít giữ nước từ Nam Thanh Hoá đến Thuận Hải, nông dân cũng có
tập quán gieo lúa cạn vào tháng 5 và tháng 6 trên những loại đất tương đối bằng
và đến mùa mưa nhiều, có nước ở ruộng, lúa cạn tiếp tục sinh trưởng như lúa
nước. Các giống lúa gieo cạn trên đất cao, đất dốc, thường là những giống tương
đối ngắn ngày, để có thể trỗ và chín trước khi lạnh nhiều vào trước cuối mùa
mưa. Ngược lại, các giống gieo cạn ở đất bằng, đất thấp, thường là những giống
chịu hạn và chịu ngập, có thời gian sinh trưởng tương đối dài để cây lúa vượt
qua được bão lụt và cho thu hoạch vào đầu mùa khô năm sau. So với tổng diện
tích lúa thì diện tích lúa cạn không nhiều, khoảng 35 vạn hecta.
2.2.2. Lúa nước.
Quan trọng hơn hết về diện tích, năng suất, sản lượng và mật độ dân số là
các vùng đồng bằng trồng lúa nước ở Đông Nam Á. Các dòng sông ở vùng này
đã và đang còn giữ vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên những loại đất lúa
nước điển hình, vì đã mang một hàm lượng phù sa lớn, nhất là trong các mùa
mưa lũ. Chảy qua nhiều vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc
dễ bị sói mòn với nhiều loại đá kết tầng, nhiều con sông lớn đã đưa về các châu
thổ những loại phù sa màu mỡ, ít gặp đối với những con sông khác trên thế giới.
Khó mà tìm được những trường hợp có thể so sánh được với những con sông
Irauadi ở Miến Điện, Menam ở Thái Lan, Cửu Long ở bán đảo Đông Dương,
hay sông Hồng ở Bắc Việt Nam. Sông Hồng đỏ rực phù sa màu mỡ trong mùa lũ
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã chảy qua những loại đất đỏ của cao nguyên đá vôi Vân Nam, và cũng có khả
năng bồi đắp vào loại mạnh nhất.
Lúa nước được
gieo cấy chủ yếu trên các
loại đồng bằng châu thổ
của các dòng sông hay
trên những đồng bằng
ven biển. Các châu thổ
của các dòng sông do
phù sa sông bồi đắp ở
vùng hạ lưu của chúng và tuỳ thưo lưu lượng của từng con sông mà có diện tích
rộng hay hẹp. Những chuyển biến địa chất trong lịch sử làm nâng cao những
vùng ven biển và những đảo ở Đông Nam Á đã làm nổi lên những đồng bằng
phù sa biển, sau đó có thể được bồi đắp thêm nhiều, ít phù sa sông.
Ở Miến Điện, châu thổ sông Irauadi và châu thổ sông Si Hang là những
vùng trồng lúa chủ yểu. Các loại đất lúa ở đây không thuộc loại không tốt lắm.
Ở Thái Lan, vùng đồng bằng sông Menam
Chao Fraya và sông Tachin là vùng trồng lúa chính và
hầu hết các châu thổ này đã được dành cho cây lúa
nước.
Ở bán đảo Đông Dương, các vùng trồng lúa quan trọng nhất là châu thổ
sông Hồng ở Bắc Việt Nam và châu thổ sông Cửu Long ở Nam Việt Nam, kéo
dài lên phía Bắc nối liền với đồng bằng rộng lớn của Cămpuchia. Ngoài ra còn
một số đồng bằng và châu thổ ven biển dọc bờ biển Việt Nam từ Thanh Hoá đến
Thuận Hải, và một số đồng bằng trong nội địa dọc theo sông Mê Kông và các
chi nhánh của nó ở Lào. Châu thổ sông Cửu Long được hình thành chủ yếu bằng
phù sa mới, và lại được bồi đắp hàng năm, nên nói chung có độ cao so với mặt
biển tương đối thấp, nên còn có những vùng trũng có hàm lượng chất hữu cơ cao
và những vùng ngập nước sâu trong mùa mưa phải cấy những giống lúa có sức
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoi nước mạnh – các giống lúa nổi. Diện tích đất bị ngấm mặn, đất phèn khá
rộng. Châu thổ sông Hồng có hệ thống đê điều khá dầy đặc để chống lụt nên có
những loại đất ngoài đê được bồi hàng năm và có hàm lượng chất dinh dưỡng
tương đối cao. Các đồng bằng miền trung Việt Nam có nhiều thành phần phù sa
biển lại có những con sông ngắn tương đối ít phù sa từ dãy Trường Sơn chảy
xuống nên nói chung ít màu mỡ hơn.
Ở Inđônêxia, những đồng bằng ven biển ở Bắc Java cũng được bồi đắp
bằng những con sông chảy từ những dãy núi trung tâm xuống như các sông Kali
Sola, Kali Bran.
Ở Philippin, vùng trồng lúa nước quan trọng nhất là đồng bằng trung tâm
đảo Luzon do phù sa sông Pampaga bồi đắp nên, rồi đến châu thổ nhỏ hơn của
sông Cagaygan ở phía Đông Bắc đảo này.
Ở Mailaixia, lúa nước cũng được trồng chủ yếu ở một số vùng đồng bằng
ven biển, nhất là vùng Tây Malaixia. Đáng chú ý là đồng bằng trồng lúa của
bang Keda ở Tây Bắc bán đảo Tây Malaixia, được coi là “vựa lúa” của
Malaixia.
3. Vai trò văn hoá của cây lúa.
Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hoá cho cư
dân bản địa.
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu
thổ. Người Miến đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông Irrawady xuống Trung
Myanma rồi Hạ Myanma. Người Thái đi từ vùng cao phía Bắc theo dòng sông
Chao Phraya xuống Trung Thái Lan rồi Nam Thái Lan. Người Việt đi từ trung
du xuống đồng bằng châu thổ sông Hồng, rồi đi tiếp qua miền Trung đồng bằng
châu thổ sông Mê Kông. Các dòng sông ở Đông Nam Á giữ vai trò chủ yếu
trong việc hình thành nên những loại đất thích hợp cho cây lúa nước, đó là phù
sa chảy qua những vùng núi tương đối trẻ ở phía Bắc, có những sườn dốc dễ bị
xói mòn với nhiều loại đá kết tầng, những con sông lơn đã đưa về các châu thổ
những loại phù sa màu mỡ, ít có đối với những con sông khác trên thế giới.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cây lúa nước thúc đẩy quá trình hình thành các tổ chức xã hội, làng và
các quốc gia nông nghiệp. Ở Đông Nam Á có hai loại quốc gia nảy sinh trên sự
phát triển của nông nghiệp lúa nước. Hai là những quốc gia nảy sinh trên nhu
cầu của giao thương quốc tế. Theo Yumio Sakurai, do sự phát triển của nông
nghiệp lúa nước, cho nên ở các thung lũng và ở các châu thổ đã hình thành
những nơi tụ cư lớn mà ở Đông Nam Á người ta hay gọi là mường, một tổ chức
xã hội khá chặt chẽ.
Sakurai gọi mường là tổ chức tiền quốc gia, Đông Nam Á có hai loại quốc
gia: quốc gia nội địa, với nền kinh tế dựa trên việc trồng lúa tưới nước, cùng với
những đặc điểm xã hội là: tổ chức xã hội phân chia đẳng cáp tập trung ở các
kinh thành đô thị, một tầng lớp nông dân đông đảo ở thôn quê lo sản xuất lương
thực, một bộ máy quan liêu và một đội ngũ tăng lữ chủ yếu sống ở thành thị phụ
thuộc vào nhà vua. Lãnh địa bến cảng ở cảng biểnm cửa sông thường có, một
ông vua, một tầng lớp buôn bán đông đảo, một lớp người phục dịch. Những
người làm nghề nông định cư chiếm tuyệt đại đa số cư dân Đông Nam Á, lấy
việc trồng lúa nước làm cơ sở sinh sống, họ vừa làm ruộng vừa làm vườn. Tổ
chức xã hội dựa trên cơ sở gia đình, làng mạc và sau này là nhà nước.
Cây lúa nước thúc đẩy hình thành nên văn hoá nông nghiệp. Nhìn từ mối
quan hệ với đất đai, nền văn hoá nông nghiệp có những đặc điểm sau: bám đất,
tự túc, hướng nội, đóng cửa.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2. Nghề trồng lúa của Việt Nam trong bối cảnh văn hoá
Đông Nam Á.
Tài liệu nghiên cứu về nhiều mặt cũng như những phát hiện khảo cổ học
gần đây đã dẫn đến kêt luận là nghề trồng lúa Việt Nam đã có một lịch sử lâu
đời, cây lúa trồng là một cây “bản địa”, nông dân Việt Nam đã là những người
trồng lúa giỏi từ nghìn xưa, và trong những hoàn cảnh sản xuất khác nhau đã
tích luỹ được cả một kho tàng kinh nghiệm trồng lúa phong phú và độc đáo.
Những tài liệu đã được giới thiệu ở các chương trên đã cho thấy là nghề
trồng lúa Việt Nam đã phản ánh những sắc thái chung của vùng trồng lúa Đông
Nam Á, đồng thời cũng có những nét đặc thù, nảy sinh sản xuất và lao động cần
cù của dân tộc Việt Nam, tất cả đã làm nổi bật một số đặc điểm chủ yếu của cấy
lúa Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ngoài các vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc và
dãu Trường Sơn hùng vĩ, còn gồm hai châu thổ rộng lớn: châu thổ sông Hồng ở
phía Bắc, châu thổ sông Cửu Long ở phía Nam và một loạt những châu thổ nhỏ
hẹp hơn của các dòng sông tương đối ngắn hơn, và chạy dọc theo ven biển miền
Trung. Cũng như các châu thổ ở các nước khác ở Đông Nam Á, các châu thổ ở
Việt Nam đều được dành chủ yếu để gieo trồng lúa. Lịch sử khai thác các loại
châu thổ này đã có những thời gian dài ngắn khác nhau, theo lịch sử phát triển
cảu dân tộc Việt Nam. Được khai thác sớm nhất là châu thổ sông Hồng, đã được
gieo trồng lúa nước từ trước đây 4000 năm, và có thể còn xa hơn thế nữa. Châu
thổ này với nền văn hoá sông Hồng, lấy cây lúa nước la loại cây trồng chủ yếu
trong sản xuất nông nghiệp, đã được sức lao động cần cù và bền bỉ của nhiều thế
hệ nông dân Việt Nam qua hàng chục thế kỷ làm cho biến đổi sâu sắc: hệ thống
đê điều dày đặc, dọc theo hai bên bờ của những sông ngòi lớn nhỏ, những sông
tự nhiên, cũng như con sông đào do bàn tay người xây dựng đã làm cho phần
lớn ruộng đất ở châu thổ hầu như thoát khỏi ảnh hưởng thường xuyên của lũ
hàng năm của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, và tiến triển theo những
quy luật đặc thù của đất lúa nước, được sử dụng để trồng lúa nước trong nhiều
13