Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Luận văn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình phát triển ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.44 KB, 39 trang )

LI M UError: Reference source not found
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đờng lối,
chiến lợc phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong
quá trình phát triển kinh tế của một đất nớc. Trong đó, việc xây dựng một cơ
cấu kinh tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ
năm 1990 cơ cấu kinh tế nớc ta đã có sự chuyển dịch theo hớng tích cực phù
hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã
góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới
chỉ là bớc đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay,
nớc ta vẫn là nớc nông nghiệp, dân c sống ở nông thôn và lao động nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt đợc mục tiêu đến năm 2020: "Đa nớc ta
cơ bản trở thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dới 10%,
công nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP". Mà Đại hội
VIII đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải đợc tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp
sát thực.
Với lý do đó, em chọn đề tài: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong
quá trình phát triển ở Việt Nam". Đề tài này đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn
của T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền và sự giúp đỡ của các giảng viên trong Khoa
khoa học quản lý. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến Khoa
khoa học quản lý, đặc biệt là T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em hoàn thành đề tài này.
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận đợc ý kiến đóng góp của các thầy, cô trong Khoa để bài
viết sau đợc hoàn chỉnh hơn.


Chơng 1


Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch
cơ cấu ngành trong nền kinh tế

1.1 Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế .

1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1.1 Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tơng quan tỷ lệ
biểu hiện mối liên hệ giáa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội
chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, thay đổi
mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trng của các nớc đang phát triển. Khi phân
tích cơ cấu ngành của một quốc gia ngời ta phân tích theo 3 nhóm ngành
chính: nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ng nghiệp), công
nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng), dịch vụ (bao gồm các ngành kinh
tế còn lại nh: thơng mại, bu điện, du lịch...).
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những
biểu hiện về mặt lợng (số lợng ngành, tỷ trọng) mà quan trọng hơn là phân
tích đợc mặt chất của cơ cấu: vị trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh
tế, sự tơng tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả năng hớng ngoại, quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành
phần kinh tế...
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát triển", nhất là trong
điều kiện cơ chế thị trờng. Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ
tính quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phơng hớng chuyển dịch cơ cấu
ngành cho thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
1.1.1.2 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có
định hớng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng
với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ
trạng thái này sang trạng thái khác hợp lý và hiệu quả hơn. Đây không phải

đơn thuần là sự thay đổi vị trí, tỷ trọng và quan hệ giữa các ngành mà là sự
biến đổi cả về lợng và chất trong nội bộ cơ cấu.
2


Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có, do
đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc cha phù
hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm
biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hớng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
là chuyển dịch theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là tỷ trọng và
vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hớng tăng nhanh còn tỷ trọng
của ngành nông nghiệp có xu hớng giảm. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy
muốn chuyển từ một nền nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải
trải qua các bớc: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông
nghiệp chiếm 40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch vụ từ 10-30%) sang nền
kinh tế công, nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15-25%, công nghiệp
25-35%, dịch vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát
triển (tỷ trọng ngành nông nghiệp dới 10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ 5060%).
1.1.1.3 Những yếu tố ảnh hởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền
kinh tế.
- Sự phát triển các loại thị trờng trong nớc và thị trờng quốc tế có ảnh hởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Bởi lẽ,
thị trờng là yếu tố hớng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều xuất phát từ quan hệ cung - cầu trên
thị trờng để định hớng chiến lợc kinh doanh của minh. Sự hình thành và biến
đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều
kiện của thị trờng, dẫn tới từng bớc thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nớc. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị
trờng trong nớc (thị trờng hàng hoá dịch vụ, thị trờng vốn, thị trờng lao động,
thị trờng khoa học - công nghệ...) có tác động mạnh đến quá trình hình thành

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nớc là cơ sở hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền váng và có hiệu quả. Việc xác định
các ngành mũi nhọn, các ngành cần u tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác
định lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong và ngoài nớc có khả năng khai
thác) để chuyển hớng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà quốc gia có lợi
thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào
phân công lao động quốc tế, ví dụ nh tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự
nhiên phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp
du lịch, ng nghiệp, nông nghiệp...
Dân số lao động đợc xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế,
sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu
3


kinh tế đợc xem xét trên các mặt sau:
+ Kết cấu dân c và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật
mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là
nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất các ngành kinh tế
quốc dân.
+ Quy mô dân số, kết cấu dân c và thu nhập của họ có ảnh hởng lớn đến
quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trờng. Đó là cơ sở để phát triển các ngành
công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
- Môi trờng thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Môi trờng thể chế là biểu hiện cụ thể của nháng quan điểm, ý
tởng và hành vi của Nhà nớc can thiệp và định hớng sự phát triển tổng thể
cũng nh sự phát triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Vai trò đó đợc
thể thiện:
+ Nhà nớc xây dựng và Quyết định chiến lợc và kế hoạch phát triển kinh

tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nớc.
Đó thực chất là quá trình định hớng phân bố nguồn lực và hớng đầu t theo
ngành.
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nớc khuyến khích hay hạn
chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu t (cả trong và ngoài
nớc) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hớng Nhà nớc đã xác định. Ví
dụ: để khuyến khích công nghiệp ô tô phát triển, trong những năm 1970 nhiều
tổ hợp công nghiệp của Hàn Quốc đợc khuyến khích phát triển chế tạo ô tô và
xuất khẩu ô tô. Các tổ hợp này đợc hởng chế độ miễn thuế đặc biệt và trong trờng hợp doanh nghiệp bị thua lỗ thì Nhà nớc sẽ bù lỗ.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng
sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của
chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo
ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ
công nghệ tiên tiến nh: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển mạnh
mẽ trong tơng lai.
Trên đây, chúng ta vừa xem xét một số khái niệm cơ bản cũng nh các
nhân tố ảnh hởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đó, giúp cho
chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề để từ đó có thể rút ra những kết
luận mang tính giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá
trình phát triển.

4


1.1.2 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý giúp cho việc thu đợc mức tăng sản xuất xã hội lớn
nhất, mới có thể phân bố hợp lý lực lợng sản xuất, phát triển các mối quan hệ
đối ngoại, đa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.
Để làm sáng tỏ kết luận trên, ta có thể phân tích ví dụ sau đây về cơ cấu

ngành sản xuất của hệ thống kinh tế - xã hội cho năm 1976 ở Việt Nam.
Bảng 1: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 1976

ĐV: Triệu
Ngành sản xuất
Công nghiệp (I)
Nông nghiệp (II)
Các ngành sản xuất khác (III)

Giá trị tổng
sản lợng
X1 = 9180
X2 = 7940
X3 = 6310

Chi phí lao động
Lợi nhuận
Giá trị tổng sản lợng

Tiêu dùng sản xuất
I

II

III

Sản lợng
cuối cùng

3850

900
12000

1100
1160
350

1170
250
1160

3060
5630
3600

1940
1290
9180

3550
1780
7940

2200
1530
6310

Năm
1976


Theo tỷ lệ % ta có:
Bảng 2:

I

II

III

Cộng

Giá trị tổng sản lợng

39.18

33.89

26,93

100

Chi phí lao động

25.22

56.16

28,62

100


Tổng số vốn đầu t (trong và ngoài nớc) có thể huy động cho năm sau là
1878 triệu đồng và có thể phân bố cho các ngành với mức tiếp nhận cùng hiệu
quả thu đợc nh sau:

5


Bảng 3:

Công nghiệp

Nông nghiệp

Các ngành khác

25 %- 38%

25 35%

30 42%

Hiệu quả (Mức tăng sản lợng/1
triệu đồng vốn đầu t)

20%

25%

22%


Vợt quá mức, hiệu quả là

15%

22%

20%

Mức % tiếp nhận

Ta xét 2 phơng án phân bố vốn đầu t nh sau:
Bảng 4:

Vốn đầu t

Công nghiệp

Nông nghiệp

Các ngành khác

35%(657,3)

25%(469,5)

40%(751,2)

Hiệu quả


131,46

117,38

165,26

Giá trị tổng sản lợng

9311,46

8057,38

6475,26

Công nghiệp

Nông nghiệp

Các ngành khác

40% (751,2)

20% (375,6)

40% (751,2)

Hiệu quả

112,68


82,63

150,24

Giá trị tổng sản lợng

9292,68

8022,63

6460,24

1878

Bảng 5

Vốn đầu t
1878

Với 2 phơng án phân bổ vốn đầu t trên, ta thu đợc hai phơng án kế hoạch
của năm 1977 nh sau: (Bảng 6 và bảng 7 có hiệu quả khác nhau với cơ cấu
khác nhau - với ký hiệu: Xi (i = I, II, II) là giá trị tổng sản phẩm của ngành i;
CPLĐ: Chi phí lao động; LN : lợi nhuận; GTTSL : giá trị tổng sản lợng.

6


Bảng 6: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phơng án I)

Đơn vị: Triệu đồng

Giá trị
tổng sản l-

I

X1

9311

3905

1116,76 1200,64

X2

8057,38

913

1177,15

259

X3

6475,26

12172

355,17


1191,45

CPLĐ

1967,8

3602,48 2259,87

LN

1308,48 1806,32

GTTSL

9311,46 8057,38 6475,26

Ngành sản xuất

Tiêu dùng sản xuất
II

III

1564,3

Sản lợng
cuối cùng

Năm 1977

Phơng
án 1

Bảng 7: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phơng án II)

Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản
xuất

Giá trị tổng
sản lợng

Tiêu dùng sản xuất
I

X1

9292,6

3897,3

1111,13 1195,14

X2

8022,63

910,70

1172,11


258,41

X3

-

1214,6

1214,6

1188,68

II

III

Sản lợng
cuối cùng

CPLĐ

1963,58 3586,12 2254,62

Năm 1977

LN

1306,54 1797,07 1563,39


Phơng

GTTSL

9292,68 8022,63 6460,24

án 2

Nh vậy, với cùng một mức vốn đầu t nh nhau (2878 triệu) nếu đầu t theo
tỷ lệ khác nhau vào các ngành khác nhau, sẽ dẫn tới kết cấu chi phí lao động
khác nhau và hiệu quả thu đợc mức tăng sản phẩm xã hội khác nhau (Bảng
6,7,8)

7


Phơng án I
Kết cấu vốn
Kết cấu lao động
Mức tăng TSL

Phơng án II

I

II

III

I


II

III

35%

25%

40%

40%

20%

40%

25,13%

46%

28,87%

25,16%

45,95%

28,89%

+ 414,1 triệu đồng


+ 345,28 triệu đồng

Ta thấy phơng án I hơn hẳn phơng án II mặc dù số vốn đầu t nh nhau.
Chính vì vai trò cơ cấu kinh tế trong việc phát triển, cho nên có nhiều tác
giả đã nói rằng: thực chất của chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội là chiến lợc
không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
1.1.3 Lý luận về mối liên hệ giũa chuyển dịch cơ cấu và quá trình phát
triển nền kinh tế.
Quá trình phát triển tăng trởng kinh tế của một quốc gia thờng đợc xem
xét nh là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu ngời. Mặc dù có
nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trởng nhng chỉ tiêu trên
vẫn đợc coi trọng và làm thớc đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu hớng mang
tính quy luật là cùng với sự phát triển của kinh tế là một quá trình thay đổi về
cơ cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tơng đối về mức đóng góp, tốc độ phát
triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên toàn bộ kinh tế.
Một trong những cơ cấu kinh tế đợc quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối
liên hệ với quá trình tăng trởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành. Ngay từ
cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học ngời Đức E.Engle đã phát hiện ra mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.
Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của
họ cho lơng thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông
nghiệp là sản xuất lơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông
nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật E.Engle đợc phát hiện cho sự tiêu dùng lơng thực, thực phẩm
nhng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hớng cho việc nghiên cứu tiêu
dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lơng thực, thực phẩm là các
sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc
cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát

hiện ra xu hớng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu
dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp
tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công nghiệp và
8


dịch vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
Nh vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu hớng
của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong
quá trình phát triển.
1.2 Cơ cấu ngành kinh tế trong các lý thuyết phát triển.

Với t cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đờng phát triển
kinh tế của các nớc chậm phát triển hiện đang tiến hành công nghiệp hoá, các
lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những vấn
đề cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song do bản
thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với những đặc điểm đặc
thù khác nhau. Do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác
nhau nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hoá
của các loại lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy điều này qua
một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau:
1.2.1. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế.
Năm 1960 cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" của nhà kinh tế học
Mỹ Walt-Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng trởng
và phát triển kinh tế của các nớc. Theo W.Rostow, nhìn chung quá trình phát
triển kinh tế của một nớc có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống,
chuẩn bị cất cánh, trởng thành và mức tiêu dùng cao.
* Xã hội truyền thống: Đặc trng cơ bản của giai đoạn này là sản xuất
nông nghiệp giá vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất lao động
thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật cha phát

triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt: sản xuất nông nghiệp
còn mang tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá cha phát triển.
Tuy vậy xã hội truyền thống không hoàn toàn là tĩnh tại, mức sản lợng có
thể là vẫn tăng liên tục, do diện tích canh tác đợc mở rộng, hoặc do áp dụng
những cải tiến trong sản xuất nh: xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, áp dụng
giống cây trồng mới. Song nhìn chung nền kinh tế không có những biến đổi
mạnh. Đặc trng cơ cấu ngành kinh tế là: nông - công nghiệp và công nghiệp
còn rất nhỏ bé, chậm phát triển.
* Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đây đợc coi là thời kỳ quá độ giáa xã
hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần thiết
để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những biểu hiện về khoa học - kỹ thuật
đã bắt đầu đợc áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công nghiệp với
những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất hiện nháng khu vực "đầu
tầu" có tác động lôi kéo nền kinh tế. Bắt đầu phát triển các ngành công nghiệp
9


đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động nh các ngành dệt, may, đồ da, chế biến
nông sản và các hàng tiêu dùng khác... vốn đầu t ít. Giáo dục đợc mở rộng và
có những cải tiến phù hợp để phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát
triển. Nhu cầu đầu t tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra
đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lu hàng hoá trong và ngoài nớc phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin
liên lạc.
Tuy vậy, tính cả các hoạt động này cha vợt qua đợc phạm vi giới hạn của
một nền kinh tế với những đặc trng của phơng thức sản xuất truyền thống,
năng suất thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt động
kinh tế hiện đại đang phát triển.
* Giai đoạn cất cánh: Đây là giai đoạn mà lực cản của xã hội truyền
thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lợng tạo
ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lợng chiếm tỷ trọng lớn

trong xã hội. Trong giai đoạn này khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công
nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp giá vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trởng
cao, đem lại lợi nhuận lớn. Ngoài ra, ở giai đoạn này hầu hết các nớc đã phát
huy các ngành công nghiệp mũi nhọn để chiếm lĩnh đỉnh cao về khoa học công nghệ của lĩnh vực này và tiến hành chuyển giao cho các nớc đi sau. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này đã phát triển đến một trình độ
cao hơn. Ví dụ, nớc Anh tiến hành công nghiệp hoá từ cuối thế kỳ XVII với sự
khởi sắc của ngành công nghiệp dệt và đến nay vẫn là ngành có u thế. Đức,
Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Thuỵ Điển là những nớc tiến hành công nghiệp hoá ở vào
thời kỳ những năm 40-50 của thế kỷ XIX và chiếm giữ thế mạnh là ngành cơ
khí chế tạo. ở trên ta mới xét đến đặc điểm về cơ cấu ngành, ngoài ra ở giai
đoạn này còn một số đặc điểm về mặt kinh tế - xã hội nh: tỷ lệ tiết kiệm và
đầu t tăng từ 5 đến 10% và cao hơn trong thu nhập quốc dân thuần tuý (NNP),
ngoài vốn đầu t huy động trong nớc, vốn đầu t huy động từ nớc ngoài có ý
nghĩa quan trọng.
* Giai đoạn trởng thành: Đặc trng cơ bản của giai đoạn này là : Tỷ lệ
đầu t đã tăng từ 10 đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học - kỹ thuật
đợc ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công
nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp đợc cơ giới hoá, đạt đợc năng
suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế
trong nớc hoà dòng vào thị trờng quốc tế.
* Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Trong giai đoạn này có 2 xu hớng cơ
bản về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu ngời tăng nhanh tới mức phần lớn dân
c có nhu cầu tiêu dùng vợt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở. Thứ hai là cơ cấu
lao động thay đổi theo chiều hớng tăng tỷ lệ dân c đô thị và tăng tỷ lệ lao động

10


có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Về mặt xã hội các chính sách kinh tế
hớng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu dùng lâu bền

và các dịch vụ xã hội của nhóm dân c. Xét về cơ cấu ngành thì tỷ trọng của
ngành dịch vụ đang có xu hớng tăng lên, vợt qua tỷ trọng của ngành công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của
W.Rostow thì hầu hết các nớc đang phát triển đang tiến hành công nghiệp hoá
hiện nay nằm ở khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ phát triển của từng
nớc. Ngoài những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu phải bắt đầu
hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ
nền kinh tế tăng trởng. Đồng thời cùng với sự chuyển tiếp từ giai 2 sang 3 là
sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tầu. Nghĩa là trong chính
sách cơ cấu cần xét đến trật tự u tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm
trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết nhị nguyên:
A.Lewis là nhà kinh tế gốc Jamaica, năm 1955 trong tác phẩm "Lý
thuyết về phát triển kinh tế" ông đa ra cách giải thích hiện đại về mối quan hệ
giáa hai khu vực: Công nghiệp và nông nghiệp. Lewis đã đợc giải thởng Nôbel
về kinh tế năm 1979. Ông xuất phát từ t tởng của Ricardo, lu ý đến mối quan
hệ giáa công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động d thừa ở
nông thôn. Ông đa ra khả năng mở rộng khu vực công nghiệp bằng cách sử
dụng nguồn lao động nông thôn không hạn chế. Mô hình này đã đợc hai nhà
kinh tế học là John Fei và Gustar Rairis áp dụng vào phân tích quá trình tăng
trởng ở các nớc đang phát triển.
Lý thuyết nhị nghuyên cho rằng ở các nền kinh tế có 2 khu vực kinh tế
song song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp và khu vực kinh tế hiện đại (công nghiệp ) du nhập từ bên ngoài. Khu
vực truyền thống có đặc điểm là trí trệ năng suất lao động thấp và d thừa lao
động. Ngoài ra, trong sản xuất nông nghiệp có hiện tợng lợi nhuận giảm dần.
Theo ông, với các mức tăng cho trớc ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục
nhỏ hơn ở đầu ra. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này
sang công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hởng gì tới sản lợng nông
nghiệp. Do có năng suất cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có thể tự tích

luỹ để mở rộng sản xuất một các độc lập mà không phụ thuộc vào những điều
kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đơng nhiên rút ra từ nháng nhận định này là để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của những nớc chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở rộng
khu vực sản xuất công nghệ hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan
tâm tới khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công
nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến
11


nền sản xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế công
nghiệp phát triển. Nh vậy, theo lý thuyết nhị nguyên, trong quá trình phát triển
các nớc chỉ nên chú trọng vào phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp sẽ
chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế.
Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây ra đợc ấn
tợng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế giới
lần thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hởng của lý thuyết này.
Lý thuyết nhị nguyên còn đợc nhiều nhà kinh tế (J.Fei, G.Rainis, Harris,
Todaro...) tiếp tục nghiên cứu và phân tích luận điểm xuất phát của họ là khả
năng phát triển và thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiện đại, khu vực
này có nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật trong đó có nháng loại kỹ thuật có hệ
số sử dụng lao động cao, nên về nguyên tắc có thể thu hút đợc lao động từ khu
vực nông nghiệp truyền thống. Nhng việc di chuyển lao động đợc giả định là
do sự chênh lệch về mức thu nhập của lao động từ 2 khu vực kinh tế trên quyết
định. Có nghĩa là, khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút đợc lao
động từ khu vực nông nghiệp trong trờng hợp khi nó có mức lơng cao hơn so
với khu vực nông nghiệp (ngời lao động sẽ đợc mức lơng cao hơn mức thu
nhập khi họ còn ở nông thôn). Nhng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn
dần cho tới khi nguồn lao động d thừa từ nông nghiệp không còn náa. Đến lúc
đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm

cho sản lợng nông nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hàng nông phẩm tiêu
dùng tăng lên kéo theo mức tăng lơng tơng ứng trong khu vực sản xuất công
nghiệp. Chính sự tăng lơng của khu vực công nghiệp sẽ đặt ra giới hạn về mức
cầu tăng thêm về lao động của bản thân nó. Nh vậy, mặc dù về mặt kỹ thuật,
công nghệ, khu vực công nghiệp hiện đại có thể có khả năng thuế mớn không
hạn chế nhân lực, nhng về mặt thu nhập và độ co dãn cung cầu nhân lực của 2
khu vực thì sức thu nạp lao động từ nông nghiệp của công nghiệp là có giới
hạn.
Một hớng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả
năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp thành thị. Quá
trình chuyển dịch lao động chỉ trôi chảy khi "tổng cung" về lao động từ nông
nghiệp phù hợp với "tổng cầu" ở khu vực công nghệp. Sự di chuyển này không
chỉ phụ thuộc vào mức chênh lệch về thu nhập mà còn phụ thuộc vào "xác
suất" tìm đợc việc làm đối với những ngời lao động nông nghiệp. Khi đa thêm
yếu tố "xác suất tìm đợc việc làm" vào phân tích, ngời ta thấy xuất hiện những
tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giáa 2 khu vực nh sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: Về mặt này, so với
nền công nghiệp ở các nớc phát triển thì khu vực đợc gọi là "công nghiệp hiện
đại" ở các nớc chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có thể

12


tăng cờng khả năng cạnh tranh với các nền công nghiệp nớc ngoài, vừa làm
"đầu tầu" lôi kéo sự tăng trởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công
nghiệp hớng tới những ngành kỹ thuật cao. Nhng những ngành này cần tăng
hàm lợng vốn đầu t hơn là cần tăng hàm lợng lao động vì thế, khu vực "công
nghiệp hiện đại" ở các nớc chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề
d thừa lao động chứ không riêng gì ở khu vực nông nghiệp.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của ngời lao động nông nghiệp khi

chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là ngời lao động
nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị và
thậm chí cha quên với môi trờng lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động
công nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn phải có
đầu t lớn, đến mức ngời ta xem nh một trong những lĩnh vực đầu t quan trọng
nhất đối với 1 nền kinh tế. Với những phân tích trên, ngời ta thấy rằng xác
suất tìm đợc việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với ngời nông dân dời
bỏ ruộng đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 2 lĩnh vực sản
xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ
công nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập
trung vào phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ
ra những giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm thích đáng tới nông
nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phát triển.
1.2.3. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành.
Những ngời ủng hộ quan điểm này nh R.Murkse, P.Rosentein -Rodan...
cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều
ở tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết
với nhau trong chu trình "đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia.
Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung,
cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giáa các ngành nh vậy còn giúp tránh đợc ảnh hởng tiêu cực của nháng biến động của thị trờng thế giới và hạn chế mức độ
phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm ngoại tệ vốn rất khan hiếm và
thiếu hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh nh vậy chính là nền
tảng váng chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nớc thuộc thế giới thứ ba
chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, trong sự phát triển luôn có cạnh tranh giữa các nớc về các sản


13


phẩm, hàng hoá. Do đó, để phát triển đợc các ngành kinh tế nội địa, Nhà nớc
cần có nháng chính sách bảo hộ, cụ thể là:
+ Chính sách bảo hộ mậu dịch: Nhà nớc thực hiện hàng rào thuế quan
cao và chế độ hạn ngạch nhâp khẩu nhằm hạn chế các loại hàng nhập khẩu và
nâng sức cạnh tranh về giá của các mặt hàng nội địa.
+ Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng
hàng hoá nội địa, các Chính phủ thờng duy trì chế độ tỷ giá hối đoái theo hớng nâng cao trị giá đồng tiền bản điạ nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh của
hàng ngoại trên thị trờng nội địa.
Nh vậy, theo lý thuyết này, để phát triển cần xây dựng một nền kinh tế đa
ngành và hạn chế giao lu, trao đổi với bên ngoài, hay nói cách khác đó là nền
kinh tế "tự cung, tự cấp". Với những chính sách trên, hầu hết các quốc gia
đang phát triển theo mô hình này đã đạt đợc mức tăng trởng tơng đối cao
trong giai đoạn đầu. Mặc dù về thực chất, sự tăng trởng này chủ yếu bắt nguồn
từ điểm xuất phát thấp, khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lợng tuyệt đối
cũng đẩy chỉ số tơng đối lên rất cao, song nó cũng tạo ra sự thay đổi về cơ cấu
kinh tế nhất định, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia vốn trớc đây là xứ thuộc địa. Đáng tiếc rằng, tốc độ tăng trởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu hơn. Các nớc
khác nhau tuỳ vào những điều kiện cụ thể của mình mà lần lợt rời bỏ mô hình
trớc những giới hạn không sao vợt qua đợc. Các nhà kinh tế học đã tổng kết
các lý do cơ bản của tình hình này là:
+ Mô hình này tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả (hay ít nhất cũng
là hầu hết) các ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu này không thể đáp ứng đợc
bởi các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về vốn đầu t, khả năng công
nghệ kỹ thuật và quản lý.
+ Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đa nền kinh
tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những
ngợc với xu hớng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại

là khu vực hoá và toàn cầu hoá. Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ thống đã
chỉ ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia do động lực bên trong quốc gia đó
là chính , tuy nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ môi trờng bên ngoài.
Cả hai yếu tố trên đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành
theo hớng công nghiệp hoá gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân
tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia khiến cho ngay cả việc
sửa cháa hậu quả cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở
ngại. Chính vì thế, chỉ sau 1 thời kỳ tăng trởng, các nền kinh tế theo đuổi mô
hình cơ cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiếu năng
(maldevelopment).
14


1.2.4. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay
"các cực tăng trởng".
Ngợc lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối,
khép kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối
(A.hirschman, F.Perrons, G.Destanne deBernis) cho rằng không thể và không
nhất thiết phải bảo đảm tăng trởng bền váng bằng cách duy trì cơ cấu cân đối
liên ngành đối với mọi quốc gia, bởi nháng luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích
đầu t. Trong mối tơng quan giáa các ngành nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu
động lực khuyến khích đầu t nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những
dự án đầu t lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu t sẽ xuất hiện bởi cầu
lớn hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính
những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu t theo kiểu lý thuyết số nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò
"cực tăng trởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế
cần tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong 1 thời điểm nhất
định.

- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá các nớc đang phát triển
rất thiếu vốn, lao động, kỹ thuật, công nghệ và thị trờng nên không đủ điều
kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc
phát triển cơ cấu không cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc. Lý thuyết này là
cơ sở để hình thành lên mô hình công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu. Về mặt
lý thuyết, mô hình này dựa trên nháng xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế dới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và lựa chọn một cơ cấu kinh tế
không cân đối để hình thành các cực tăng trởng dựa trên những lợi thế so sánh
trong quan hệ ngoại thơng. Các tiếp cận cơ cấu kinh tế trong mô hình công
nghiệp hoá này có một số đặc trng là:
+ Quá trình công nghiệp hoá đợc bắt đầu từ việc tập trung khai thác các
thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh
trên thị trờng thế giới. Thông thờng, đối với các nớc chậm phát triển, nháng
thế mạnh khả dĩ là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên khoáng sản và
nông sản. Ví dụ, nh NICs thì hớng sự phát triển vào những ngành công nghiệp
chế biến sử dụng nhiều lao động nh : dệt, may, chế biến thực phẩm, điện tử
dân dụng. Trong khi đó một số nớc khác nh Malaysia và Thái Lan lại khởi đầu
với những sản phẩm nông nghiệp và khai thác khoáng sản.
+ Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu,
tức là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra
nớc ngoài. Cụ thể là:

15


Nhà nớc trực tiếp tác động bằng cách đa ra danh mục các mặt hàng u
tiên, đợc giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loại
hàng hoá phục vụ sản xuất hàng xuát khẩu.
Nhà nớc gián tiếp can thiệp qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tạo lập môi
trờng thuận lợi cho hoạt động sản xuất hớng ra thị trờng thế giới. Ví dụ nh:
đánh tụt giá đồng tiền nội địa cung cấp tín dụng với lãi suất u đãi cho sản xuất

xuất khẩu khuyến khích đầu t ngớc ngoài....
Lúc đầu, lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì nó xây dựng một nền
kinh tế hớng ngoại và phụ thuộc vào bên ngoài (các nền kinh tế khác) mà thờng thì các nớc có nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Nhng về sau do kết quả tăng trởng kinh tế "thần kỳ" của một nhóm nớc thực hiện
chính sách này nh: NICs, Malay sia, Thái Lan... nên xu hớng này đã đợc nhiềù
nớc áp dụng. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học cũng đa ra hai loại vấn đề cần lu
ý khi áp dụng lý thuyết này;
Thứ nhất, một số yếu điểm của chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá hớng ngoại nh sự phụ thuộc quá mức vào biến động của thị trờng thế giới, tiêu
biểu là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua đã làm cho nhiều nớc
bị ảnh hởng nghiêm trọng về tăng trởng kinh tế cũng nh về mặt xã hội.
Thứ hai, không chắc môi trờng kinh tế quốc tế còn thuận lợi cho việc
thực thi chính sách hớng về xuất khẩu vì lợi thế so sánh không tồn tại mãi
mãi.
1.2.5. Lý thuyết phát triển theo mô hình "đàn nhạn bay".
Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa
trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Ngời khởi xớng lý
thuyết này, giáo s Kaname Akamatsu đã đa ra nháng kiến giải về quá trình
"đuổi kịp" các nớc tiên tiến nhất của các nớc kém phát triển hơn. Trong những
ý tởng về sự đuổi kịp này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Xét trên góc độ phát triển của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay
thậm chí từng loại sản phẩm riêng biệt. Quá trình "đuổi kịp" về mặt kinh tế và
kỹ thuật của chúng đợc chia thành 4 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Các nớc kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến
từ các nớc phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt. Tức
là, các nớc kém phát triển đã có sự chuyên môn hoá sản xuất 1 số loại hàng
thủ công đặc biệt để xuất khẩu sang các nớc phát triển.
* Giai đoạn 2: Các nớc chậm phát triển nhập sản phẩm đầu t từ các nớc
công nghiệp để chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trớc đây vẫn phải
nhập. Đây là giai đoạn các nớc kém phát triển bắt đầu tích luỹ t bản (vốn) và

16



phỏng theo (bắt chớc) công nghệ chế tạo từ các nớc công nghiệp phát triển. Vì
thế những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát
triển mạnh trong giai đoạn này. Song những điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô
lại đợc giành u tiên cho các ngành công nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh
tế) cho nháng ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển nh điện
nớc và giao thông vận tải.
* Giai đoạn 3: Là giai đoạn mà sản phẩm công nghiệp thay thế ở giai
đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu t trớc
đây phải nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và sản
xuất ở trong nớc. Nh vậy, về khoảng cách kỹ thuật giáa các nớc đi sau với các
nớc công nghiệp phát triển (trớc hết là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng) không
còn xa cách bao nhiêu.
* Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng
bắt đầu giảm xuống, nhờng chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu t
vốn đã bắt đầu phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã
đạt mức ngang bằng với các nớc công nghiệp phát triển và chuyển giao một số
ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng sang các nớc kém phát triển hơn.
Nh vậy, quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mô hình "đàn nhạn
bay" có nhiều điểm tơng đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành "không
cân đối". Ngoài ra, điều cần lu ý náa là việc "đuổi kịp" các nớc công nghiệp
phát triển diễn ra nhanh hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa
chọn các "cực tăng trởng" trong mỗi giai đoạn nhất định.
Trên đây, đề án đã đa ra một số lý thuyết phát triển và sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế. Về nguyên tắc, phải thừa nhận rằng mỗi mô hình công
nghiệp hoá đều có những khía cạnh hợp lý. Vì thế sẽ là lý tởng nếu tận dụng
đợc tối đa các yếu tố hợp lý của mỗi mô hình để thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thông qua các mô hình có thể rút
ra một số kết luận về sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình phát triển

nh sau:
+ Các lý thuyết phát triển đều quan tâm đến việc xác định các tiền đề cần
thiết của quá trình công nghiệp hoá.
+ Chúng không những chỉ coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong
những chỉ tiêu quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá mà
còn chỉ ra nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công nghiệp, giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP, cũng nh sự phát triển trong nội bộ từng ngành.
Cách xác định nội dung chuyển dich cơ cấu kinh tế nh vậy cho phép một mặt
đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hoá của một số quốc gia, mặt
khác tìm hiểu nháng nguyên nhân quy định tình trạng thoái triển hay không
sao bắt nhịp đợc với quá trình công nghiệp hoá đã xảy ra ở một số nớc trên thế
17


giới.
+ "Kinh tế học của sự phát triển" đã đạt vấn đề cơ cấu vào một trong
những vị trí cơ bản trong lý thuyết của mình để xem xét, đánh giá và phân loại
các dạng thức phát triển và suy thoái ở các nớc thuộc thế giới thứ 3. Việc đề
cao vấn đề cơ cấu đợc xem là một trong những thành công trong lý thuyết phát
triển kinh tế hiện đại, bởi vì nó khắc phục đợc sự phiến diện của việc nhìn
nhận các vấn đề kinh tế của các nớc chậm phát triển chỉ xoay quanh chỉ tiêu
tăng trởng kinh tế.
+ Kinh tế học phát triển cho rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu ngành
của các nớc chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá diễn ra rất đa dạng.
Chính vì vậy, việc công nghiệp hoá bắt đầu từ đâu: công nghiệp, nông nghiệp
hay dịch vụ vẫn là một thách thức lớn đối với các nớc đang phát triển. Để lựa
chọn cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, Chính phủ cần đánh giá đợc các nguồn lực
bên trong, đồng thời kết hợp đợc với các nguồn lực bên ngoài trong điều kiện
quốc tế hoá đời sống kinh tế. Khi nghiên cứu các điều kiện của Việt Nam
nhiều tác giả đã cho rằng Việt Nam nên áp dụng lý thuyết phân kỳ phát triển

của W.Rostow bởi vì nó có nhiều yếu tố phù hợp với nền kinh tế Việt Nam
nh: nền kinh tế nông nghiệp, lực lợng lao động dồi dào... do đó trong quá trình
phát triển cần bắt đầu từ nông nghiệp và hiện đại hoá nông nghiệp nhằm đảm
bảo lơng thực tạo cơ sở cho quá trình phát triển. Sau đó có thể thực hiện chiến
lợc thay thế nhập khẩu để tạo ra một số tiền đề cần thiết, cơ bản, tạo đà cho sự
"cất cánh" và nhanh chóng chuyển sang chiến lợc hớng về xuất khẩu nhằm tận
dụng các lợi thế so sánh.
1.3. Một số kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các nớc trên thế giới.

1.3.1 Nhật bản.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã bắt đầu diễn ra, lao động trong nông
nghiệp bị thu nhỏ dần một phần do tác động của kỹ thuật mới, mặt khác do sự
tính toán hiệu quả sản xuất đã tạo ra một sự di chuyển lao động rất lớn từ nông
nghiệp sang công nghiệp và các lĩnh vực kinh tế khác. Chỉ trong thời gian 30
năm (từ 1950-1979) đã có 9 triệu ngời rút khỏi khu vực nông nghiệp để
chuyển sang các khu vực khác. Nhờ chủ trơng nâng cao tiền lơng thực tế của
nhân dân bằng cách nâng cao năng suất lao động nên trong suốt thập kỷ 50,
tiền lơng thực tế của công nhân nông nghiệp đã tăng bình quân 7%/năm, điều
này đã góp phần làm tăng thêm thu nhập của gia đình nông dân trong suốt
thập kỷ 50, tạo cơ sở cho sự phát triển các giai đoạn sau. Đến những năm 1960
và 1970, tình hình thị trờng lao động ở Nhật Bản trở nên rất căng thẳng. Chính
phủ Nhật Bản đã tận dụng hết khả năng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh
18


tế. Tình hình di chuyển lao động sang các ngành phi nông nghiệp phát triển
quá nhanh đã trở thành mối nguy cho sự phát triển của khu vực nông nghiệp,
nông thôn. Để giải quyết tình trạng đó, Chính phủ Nhật Bản đã đa tiến bộ kỹ
thuật vào nông nghiệp (đầu tiên là máy gặt đập, sau đó là máy cày...) đã giải

phóng sức lao động của nông dân, tạo cơ hội cho họ tìm kiếm việc làm phi
nông nghiệp. Nh vậy, ở đây ta thấy Nhật Bản đã phát triển theo mô hình hai
khu vực của A.Lewis.
- Về tài chính: sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), nền kinh
tế Nhật Bản bắt đầu đi vào phát triển; sự thiếu vốn diễn ra là một thực tế.
Nguồn tài chính của Chính phủ, thậm chí cả của t nhân cũng bị kiệt quệ hoặc
bị tiêu hao do tình trạng lạm phát diễn ra. Tuy vậy, Nhật Bản đã nhận đợc
nguồn viện trợ từ Mỹ cùng với sự thành công của một số chính sách làm cho
tỷ lệ tích luỹ cao và có xu hớng tăng. Thứ nhất, Nhật Bản duy trì mức tiền lơng thấp trong khi năng suất lao động tăng nhanh. Thứ hai, nhờ tính tiết kiệm,
ngời Nhật đã làm tăng khối lợng tiền tiết kiệm cho sản xuất kinh doanh. Chỉ
tính từ năm 1961-1967, thời kỳ phát triển mạnh nhất của công nghiệp Nhật
Bản thì tỷ lệ tiết kiệm trong tổng số thu nhập của ngời dân Nhật là 18,6%,
trong khi đó của Mỹ là 6,2%, Anh là 7,7%, Philippin là 8,7% và Cộng hoà
Liên bang Đức là 13%. Thứ ba, do có chính sách thuế hợp lý đã góp phần
đáng kể vào ổn định và tăng trởng kinh tế. Chính phủ Nhật đã áp dụng chính
sách giảm thuế trong nháng năm đầu đi vào sản xuất, vì vậy tỷ lệ tiết kiệm
trong dân c tăng.
Ngay từ đầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Chính phủ Nhật
Bản đã chủ trơng nhập khẩu các kỹ thuật mới, nhập khẩu các bằng phát minh
sáng chế từ các nớc phát triển.
- Về ngoại thơng: Nhờ có những chiến dịch xuất khẩu ngày càng tăng đã
đẩy nền kinh tế Nhật Bản ra khỏi khủng hoảng và suy thoái. Trong 20 năm
(1965-1985), tỷ trọng nông nghiệp giảm đi 3 lần trong cơ cấu kinh tế của Nhật
Bản (từ 9% năm 1965 còn 3% năm 1985). Một điều đáng quan tâm mới là trong
quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành dịch vụ Nhật
Bản đã dần trở thành một ngành có tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu kinh tế cả nớc.
1.3.2. Hàn Quốc.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc có thể coi là thành
công trong khoảng thập kỷ 60-80 với các kế hoạch 5 năm đã thực hiện (bảng
9). Điểm nổi bật của giai đoạn này là nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt tốc độ tăng

trởng kinh tế rất nhanh, bình quân trong 4 kế hoạch 5 năm là 8,3%. Sau 4 lần
thực hiện kế hoạch 5 năm Hàn Quốc đã đạt đợc một nền kinh tế tự lực (1981).
Đạt đợc sự thành công đó, trớc hết phải nói đến vai trò của Chính phủ trong

19


việc lựa chọn chiến lợc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong giai đoạn phát triển, Hàn Quốc đã theo đuổi lý thuyết thay thế
nhập khẩu, tập trung sức phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công
nghiệp nhẹ cần nhiều lao động và làm hàng xuất khẩu. Nháng năm 1986-1988
đợc xem là những năm thành công nhất của Hàn Quốc, do xuất khẩu bùng nổ
nền tăng trởng hàng năm lên tới 15%. Hàn Quốc trở thành một lực lợng mới,
quan trọng trong nền kinh tế thế giới và là một trong nháng nớc công nghiệp
hoá mới (NICs) hùng mạnh trong thế giới thứ ba. Tuy nhiên, do một số chính
sách về tài chính cha đợc đảm bảo nên Hàn Quốc đã phải trả một giá đắt trong
đợt khủng hoảng tài chính vừa qua.
Bảng 9: Tốc độ tăng trởng kinh tế của Hàn Quốc
qua các kế hoạch 5 năm (%)

Các kế hoạch 5 năm
Lần thứ nhất (62- 66)
Lần thứ hai( 67- 71)
Lần thứ ba (72 - 76)
Lần thứ t (77 -81)

Kế hoạch
7,1
7,0
8,6

9,2

Thực tế
8,5
9,7
10,1
5,5

Nguồn: "Kinh nghiệm Kế hoạch hoá và quản lý ở Hàn Quốc".
NXB Chính trị quốc gia, 1995, trang 11.
Do theo đuổi chính sách thay thế nhập khẩu nên một trong những vấn đề
Chính phủ Hàn Quốc phải đối đầu là chính sách lao động. Sự thay đổi cơ cấu
ngành cũng tạo ra một sự mất cân đối trong thị trờng lao động. Số lao động
tìm kiếm việc làm trong các ngành dịch vụ quá đông, trong khi đó thiếu lao
động trong các ngành nặng nhọc. Về lao động, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của Hàn Quốc đã để lại một gánh nặng cho ngành nông nghiệp. Tỷ lệ
ngời di c từ nông thôn ra thành thị của Hàn Quốc đạt mức cao nhất thế giới,
vào giáa nháng năm 1980 con số này đạt mức trung bình hàng năm là 0,4 triệu
ngời. Trong vòng 5 năm 1995 - 1996 có 1,3 triệu dân c từ nông thôn di c ra
thành thị. Điều đó làm cho lực lợng lao động trong nông nghiệp giảm, trong
khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có xu hớng tăng, tạo lên 1 thị trờng sức lao
động có cạnh tranh. Trớc tình hình đó, Chính phủ đã duy trì chế độ trả lơng
thấp và đã tạo thuận lợi lớn cho sự cạnh tranh kinh tế của Hàn Quốc.
1.3.3. Trung Quốc.
Sự chuyển dịch kinh tế của Trung Quốc một thành tựu điển hình là sự
phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc, sự phát triển
của các Xí nghiệp Hơng Trấn ở Trung Quốc là nhân tố đóng góp chính vào

20



thắng lợi của việc cải tổ nền kinh tế, đem lại sự tăng trởng kéo dài suốt cả thập
kỷ (bảng 10) tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ trong nông
nghiệp và nông thôn Trung Quốc.
Sự phát triển của Xí nghiệp Hơng Trấn dới tác động hỗ trợ của các chính
sách kinh tế của Nhà nớc trong khu vực nông thôn làm đời sống của nhân dân
đợc nâng lên rõ rệt. Trong 10 năm (1979-1989) số hộ nghèo cả nớc đã giảm đi
2 lần. Năm 1989 thu nhập bình quân đầu ngời của nông dân Trung Quốc đạt
tăng 3,1 lần so với năm 1978, bình quân tăng 11,8%/năm. Năm 1978 thu nhập
phi nông nghiệp chỉ chiếm 7% trong thu nhập bình quân đầu ngời của nông
dân, đến năm 1988 con số đó là 27,3%. Trong khu vực nông thôn cơ cấu kinh
tế đã thay đổi một cách cơ bản sau 10 năm. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm
đáng kể và tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp đã
trở thành lực lợng chính của nền kinh tế quốc dân, từ chỗ chỉ chiếm 27,9%
năm 1978, vơn lên chiếm 50% vào năm 1990, đồng thời nông nghiệp năm
1990 còn 45,4% mà năm 1978 là 68,4%. Tốc độ tăng trởng bình quân công
nghiệp thời kỳ 1980-1990 đạt 11,7%, nông nghiệp đạt 5,5%.
Bảng 10: Một số chỉ tiêu của Trung Quốc (1970-1992)

Đơn vị: (%)
Bình quân

1987

1988

1989

1990


1991

1992

71-80

81-90

Tăng trởng GDP

7,9

10,1

10,9

11,3

4,4

3,9

7,5

12,8

Tăng trởng Nông nghiệp

3,0


5,5

4,7

2,5

3,1

7,3

2,4

3,7

Tăng trởng Công nghiệp

9,1

11,7

13,7

14,5

3,8

3,2

12,6


20,4

Nguồn: "chính sách cơ cấu vùng" NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Tuy nhiên quá trình phát triển Xí nghiệp Hơng Trấn đã đẩy Trung Quốc
đến tình trạng thu hẹp diện tích đất canh tác, do phát triển công nghiệp và quá
trình đô thị hoá diễn ra nhanh. Trớc tình hình đó Chính phủ Trung Quốc đã ra
chính sách hạn chế sử dụng đất nông nghiệp nhằm đảm bảo ổn định lơng thực.
Trong quá trình phát triển các nớc đều coi công nghiệp hoá là trọng tâm,
là động lực phát triển của xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra tuỳ
theo đặc thù của mỗi quốc gia nhng với xu thế chung là giảm tỷ trọng của
nông nghiệp, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Chuyển

21


dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo chiều hớng ngày càng nâng cao vị trí, vai trò
chủ đạo và then chốt của ngành công nghiệp dịch vụ trong quá trình phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, không phải mọi sự chuyển dịch cơ cấu đều mang ý nghĩa
tiến bộ, đều dẫn tới sự phát triển kinh tế nh nhau khi áp dụng ở các nớc khác
nhau. Do vậy, Chính phủ của mỗi nớc cần nghiên cứu điều kiện, đặc điểm của
đất nớc mình mà lựa chọn một cơ cấu kinh tế hợp lý.

22


Chơng 2
Thực trạng quá trình chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam

2.1. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế Việt

Nam từ 1986 đến nay.

2.1.1. Giai đoạn 1986-1990.
Việt Nam bớc vào thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 trong bối
cảnh kinh tế - xã hội phức tạp. Bên cạnh những yếu tố thuận lợi còn có nhiều
yếu tố không thuận lợi cả trên tầm vĩ mô (mất cần bằng nghiêm trọng giữa
tổng cung và tổng cầu, lạm phát phi mã và siêu lạm phát, thâm hụt ngân sách
và thâm hụt cán cân thơng mại, nháng sai lầm nghiêm trọng trong chính sách
kinh tế,...) cũng nh ở cấp độ vi mô (trớc hết là sự hoạt động kém hiệu quả của
các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã nông nghiệp), cả yếu tố trong nớc
cũng nh yếu tố quốc tế (trớc hết là sự sụp đổ của Liên Xô và các nớc xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu, vốn là nguồn viện trợ và bạn hàng chủ yếu của Việt
Nam. Kết quả là vào thời điểm đó xảy ra tình trạng khủng hoảng kinh tế sâu
sắc, sản xuất đình đốn, mức sống của đại đa số nhân dân càng bị giảm sút. Từ
sau Đại hội lần thứ IV của Đảng, do có những đổi mới về cơ chế quản lý trong
nông nghiệp, ngành nông nghiệp nớc ta bắt đầu phát triển. Tỷ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu GDP tăng mạnh từ 36,11% (1986) lên 42,07% (1989) và
38,74% (1990) trong khi đó tỷ trọng công nghiệp giảm từ 30,06% (1986)
xuống 23,79% (1990). Cụ thể là:

23


Bảng 11: Tăng trởng và cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1986-1990

I. Tỷ lệ tăng GDP (%)
1. Nông-lâm-ng nghiệp
2. Công nghiệp - xây dựng
3. Dịch vụ
II. Cơ cấu ngành (%)

1. Nông-lâm-ng nghiệp
2. Công nghiệp - xây dựng
3. Dịch vụ

1986
2,33
2,39
10,28
-2,83
100
36,11
30,06
33,38

1987
3,64
-0,52
9,15
5,25
100
40,56
28,36
31,08

1988
5,98
3,94
5,29
9,09
100

46,3
23,96
29,74

1989
4,69
6,77
-2,81
7,61
100
38,74
22,67
38,59

1990
5,1
1,57
2,87
10,81
100
38,74
22,67
38,59

Nguồn: Niên giám thống kê
Qua số liệu trên cho thấy, trong những năm đổi mới giai đoạn 86-90 thì
sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế nớc ta mới diễn ra trong hai khu vực
nông nghiệp và dịch vụ là chính, còn trong công nghiệp sự chuyển dịch này
cha nhiều. Về cơ bản, kinh tế nớc ta vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn này. ở thời kỳ này,

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra theo chiều hớng là tăng tỷ trọng
ngành nông nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng công nghiệp. Đây là chiều hớng
phát triển bất lợi đối với quá trình công nghiệp hoá. Tuy tỷ trọng của ngành có
sự tăng, giảm, song số tuyệt đối của các nhóm ngành trong GDP đều tăng lên.
Do đó làm cho nền kinh tế nớc ta vẫn tiếp tục tăng trởng với con số đáng
khích lệ, năm 1986 tăng 2,33%, đến năm 1990 tăng 5,1%, tốc độ tăng trung
bình là 4,34%. Trong đó, tốc độ tăng trởng GDP của nông nghiệp trong 5 năm
(1986-1990) là 2,83%, công nghiệp là 4,96%, dịch vụ là 6%. Tơng ứng, là tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP tăng từ 36,11% (1986) lên 42,07% (1989) và
38,74 (1990), công nghiệp giảm từ 30,06 (1986) xuống 22,67 (1990), dịch vụ
tăng từ 33,83% (1986) lên 38,59 (1990). Qua số liệu trên, ta thấy ở giai đoạn
1986-1990 nền kinh tế Việt Nam hình thành theo cơ cấu nông - công nghiệp.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển của Walt - Rostow thì Việt Nam đang ở thời
kỳ xã hội truyền thống với đặc trng là nông nghiệp giá vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế.
2.1.2. Giai đoạn 1991 đến nay.
Cải cách kinh tế năm 1986 đã giúp Việt Nam vợt qua khủng hoảng trong
giai đoạn 1986-1990, cải thiện đáng kể tình hình kinh tế - xã hội trong thập
niên 90. Từ năm 1991 đến năm 1996 nền kinh tế đã liên tục tăng trởng với tốc
24


độ cao năm sau cao hơn năm trớc, tỷ lệ tăng bình quân đạt đến 8,5%/năm.
Đến năm 1997 khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế các nớc trong khu vực,
tăng trởng của GDP vẫn con đạt trên con số 8%, nhng đó cũng là năm đầu tiên
đánh dấu sự giảm sút đà tăng trởng trong phần còn lại của thập kỷ 90, năm
1998 là 5,8%, năm 1999 là 4,5%, dự báo năm 2000 đạt khoảng 5,1%. Tuy
nhiên, xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lại phù hợp với quá trình công nghiệp
hoá thể hiện ở việc giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP, tăng đồng thời
tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ. Số liệu ở bảng 12 phần nào thể hiện xu

thế biến đổi tích cực của cơ cấu ngành kinh tế nớc ta giai đoạn 1991-2000.
Bảng 12: Tăng trởng và cơ cấu kinh tế thời kỳ 1991-2000

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
4,5

DB
2000

I. Tỷ lệ tăng GDP (%)

5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,8

5,1

1. Nông-lâm-ng nghiệp

2,17 7,08 3,82 3,92 4,95 4,40 4,32 3,53 5,2

2. Công nghiệp - XD

9,04 14,03 13,13 14,02 13,3 14,46 12,62 8,63 6,5

3. Dịch vụ

8,26 6,98 9,19 10,2 10,03 8,80 7,14 4,93 2,3

II. Cơ cấu ngành (%)

100 100 100 100 100 100 100 100 100 100


1. Nông-lâm-ng nghiệp

40,49 33,94 29,87 28,7 27,18 27,76 25,77 25,75 25,8 22,5

2. Công nghiệp - XD

23,79 27,26 28,9 29,65 28,75 29,73 32,06 32,59 33,5 31,8

3. Dịch vụ

35,72 38,8 41,65 44,07 42,51 42,17 41,66 40,7 40,7 45,7

Nguồn: Niên giám thống kê
Qua bản số liệu ta thấy, tốc độ tăng bình quân của các nhóm ngành kinh
tế cũng kách nhau, tăng trởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp
sau đến dịch vụ, thấp nhất là nông nghiệp tốc độ tăng trởng GDP của nông
nghiệp bình quân giai đoạn (1991-1998) là 4,2%, công nghiệp là 12,4% và
dịch vụ là 8,5%. Tơng ứng với nó là hình thành xu hớng nâng cao tỷ trọng và
tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp.
Năm 1991 tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP là 40,5%, đến năm 1999 giảm
xuống còn 25,8%, bù vào đó là sự gia tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp
và dịch vụ. Năm 1991 tỷ trọng của công nghiệp trong GDP là 23,79%, dịch vụ
là 35,72%, đến năm 1999 tăng lên tơng ứng là 33,5% và 40,7%. Nh vậy xét
trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thì ở giai đoạn này đặc trng cơ cấu kinh tế của
nớc ta là 1 nền kinh tế công - nông nghiệp. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển
của Walt - Rostow thì Việt Nam đang ở giai đoạn chuẩn bị cất cánh. Để mục
tiêu đến năm 2010 Việt Nam trở thành 1 nớc công nghiệp phát triển, thì cơ
cấu kinh tế cần phải chuyển dịch nhằm đạt tới mức tỷ trọng nông nghiệp trong
25



×