Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận kiến nghị và 1 số giải pháp phát triển du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh CNH hđh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.66 KB, 27 trang )

LI M U
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định Mục tiêu của CNH, HĐH là
xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giầu nớc mạnh xã hội công bằng, văn minh.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thực chất là cuộc cách mạng trong tất cả các
khu vực của sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Bởi vậy thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc đặt ra những yêu cầu mới đối với phát triển du lịch
Việt Nam. Do tính đặc thù của ngành du lịch và sự đa dạng của du lịch văn hoá,
mỗi quốc gia, mỗi vùng muốn thu hút khách phải dựa trên lợi thế về tài nguyên
du lịch. Di sản thiên nhiên và các di sản văn hoá.
Sự phát triển của du lịch có 3 khuynh hớng chủ yếu là:
+ Tổ chức du lịch cho khách nghỉ hè: Khuynh hớng này chú trọng tới cảch
quan khu vực nghỉ: nh có bãi biển đẹp, nhiều hoạt động vui chơi giải trí, khách
sạn sang trọng, đủ tiện nghi,...
+ Khuynh hớng tập trung các trò chơi giải trí trong những công viên hoặc
trong một khu vui chơi và khuynh hớng này có tính chất hớng về tơng lai.
+ Khuynh hớng thứ ba là phát triển du lịch văn hoá. Khuynh hớng này là
yếu tố chính của phát triển du lịch, khuynh hớng này nghiên về truyền thống
nhằm đạt hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, giũ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ đợc môi trờng, giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, nhân phẩm con ngời Việt Nam và tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế
giới. Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá, càng phải làm giàu thêm bản sắc và
truyền thống dân tộc, làm đẹp thêm cảnh quan môi trờng, ngăn chặn không cho
các tiêu cực và tệ nạn xã hội xâm nhập vào các mặt hoạt động. Phát triển du lịch
theo định hớng sản phẩm văn hoá, cảnh quan và môi trờng.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá, bởi vì du lịch văn hoá là một loại hình du
lịch có nhiều u điểm: ít chịu phụ thuộc vào thời tiết, có thể phát triển quanh năm
nguồn thu từ du lịch văn hoá là nguồn thu ổn định, với mức tăng trởng ngày càng


lớn, nó giúp con ngời hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh,... Điều đó rất phù
hợp với xu thế của thời đại ngày nay: xã hội phát triển, nhu cầu mở mang sự hiểu
biết của con ngời ngày càng cao, đi lại du lịch trở thành một nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống. Nhng không phải tất cả các quốc gia đều có thể phát triển du
lịch văn hoá, du lịch văn hoá chỉ phát triển ở những nớc có nền văn hiến lâu đời,
có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh quan làm say đắm lòng ngời. Nếu
1


nh Ai Cập không có Kim Tự Tháp khổng lồ, Hy Lạp không có những đền đầy
nguy nga tráng lệ thì mỗi năm không thể có hàng chục triệu lợt khách đến du
lịch ở nớc này.
Quan trọng hơn, việc khai thác tiềm năng văn hoá truyền thống trong kinh
doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất đợc tiến hành đồng thời với việc bảo vệ
tôn tạo chúng.
Trong thời kỳ đổi mới, với phơng châm: Việt Nam là bạn với tất cả các nớc. Thực hiện chính sách mở cửa chúng ta đã thu hút đợc nguồn đầu t ngày
càng lớn của nhiều nớc. Mặt khác Việt Nam là nớc có nhiều danh lam thắng
cảnh, đặc biệt có nền văn hoá truyền thống: Hơn 4.000 năm văn hiến, với các
công trình mang tính lịch sử, văn hoá, nghệ thuật với nền văn hoá dân gian đậm
đà bản sắc dân tộc,... Việt Nam trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ
riêng đối với khách du lịch văn hoá mà còn đối với nhiều đối tợng khác.

2


chơng I
sự cần thiết để phát triển
du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
I.


Vai trò và vị trí của du lịch văn hoá trong sự phát
triển của du lịch.

1.

Những nét khái quát về du lịch văn hoá, di sản văn hoá và di tích lịch
sử văn hoá.

a. Du lịch văn hoá:
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân tộc
trên thế giới đợc mở rộng, dẫn tới việc giao lu văn hoá, tìm kiếm những kiến thức
về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một nhu cầu cho
nhiều tầng lớp dân c trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn là nghỉ ngơi giải
trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khoẻ khả năng lao động,...) mà còn
là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri thức, làm phong phú đời
sống tinh thần của con ngời. Đó chính là nội hàm của khái niệm du lịch văn hoá.
Có thể hiểu du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là nâng
cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết qua các chuyến du lịch đến
những vùng đất mới tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã
hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phơng đất nớc đến du lịch hoặc là
kết hợp những mục đích khác nữa.
Du lịch văn hoá vừa là phơng tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du lịch.
Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất cũng
nh tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phơng thức hấp dẫn vì nó
giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du lịch văn hoá
thờng để dành cho du khách có trình độ cao trong xã hội.
Du lịch văn hoá đợc xem là tổng thể của du lịch - xem đó là một hiện tợng
văn hoá những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn hoá.
Những động cơ thu hút đến các điểm du lịch là để nghỉ ngơi và giải trí.

Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ngời ta có thể phân chia du lịch văn
hoá ra nhiều loại:
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là
chủ yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tợng
khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chơng trình
3


du lịch dã ngoại đến các làng dân tộc ít ngời thuộc các tỉnh Hoà Bình, Sơn La,
Lai Châu,... để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá của các dân
tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và thờng nghỉ qua đêm tại các
bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất - du
khách thờng kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tim fhiểu văn hoá trong một
chuyến đi. Đối tợng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú, bên cạnh
những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn có những
khách chỉ để chiêm ngỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò hoặc có thể theo trào lu,... Do vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thờng đi đến nhiều điểm du
lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có những điểm du lịch
núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn,... Đối tợng khách là những ngời a
phiêu lu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những ngời trẻ tuổi. Ví
dụ nh các chơng trình leo núi (ở nớc ta đã tổ chức cho khách du lịch leo núi
Phanxipăng), các chơng trình du lịch dã ngoại, các chơng trình du lịch săn bắn.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác mục đích
chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề nghiệp
nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tợng của loại hình này là những
ngời đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các cuộc triển
lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong phú, có chất lợng
cao, qui trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng thanh toán cao nhng
nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể loại du lịch cụ thể của
loại hình du lịch này là du lịch công cụ.

Tuy nhiên, sự phân loại du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là tơng
đối. Vì trong một chơng trình du lịch thờng đợc kết hợp nhiều hoạt động khác
nhau nh: Kết hợp đi du lịch dã ngoại với du lịch theo chuyên đề văn hoá, hoặc du
lịch săn bắn,... trong một chuyến hành trình nhằm tránh gây cho khách cảm giác
nhàm chán.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng vì nó ít chịu sự chi phối của
yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu), nhng nó phụ thuộc vào đặc điểm nhân
khẩu học nh: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn giáo,... của du
khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: so với các loại hình du lịch khác, du lịch văn hoá
mang tính đại chúng. Tuy có chịu ảnh hởng tính thời vụ nhng không phụ thuộc
hoàn toàn, ít chịu ảnh hởng của yếu tố thời tiết khí hậu. (Những đặc điểm này thể
hiện rất rõ ở loại hình du lịch lễ hội) đồng thời mức độ chênh lệch cung cầu của
du lịch văn hoá thờng không lớn).
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi du lịch
văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì đối với họ ít
chịu sự ràng buộc của gia đình, thờng có trình độ học vấn cao, có địa vị xã hội,...
4


+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia vào các chuyến du lịch văn hoá chủ yếu vẫn là
những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách cao tuổi họ thờng có
nhiều thời gian rỗi,... thờng có kinh nghiệm trong việc đi du lịch, họ thích tìm
hiểu về âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính dân tộc,... và
họ quan tâm nhiều đến chất lợng phục vụ. Chủ yếu họ mua các chơng trình tham
quan du lịch văn hoá. Ngợc lại, đối với khách du lịch thanh niên đây là nhóm có
số lợng đông đúc với các đặc trng của thanh niên nh: a khám phá, thích tìm tòi,
muốn thử sức mình, thích đi xa, thích sự tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thờng đi thành nhóm lẻ,... do đó họ có xu hớng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong
dịch vụ du lịch, họ có khả năng thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm trong đi du
lịch, họ thờng quan tâm đến giá cả nhng ít quan tâm đến yêu cầu về chất lợng

dịch vụ. Khách du lịch thanh nhiên thờng tham gia vào các chuyến du lịch dã
ngoại, săn bắn mạo hiểm, tham quan văn hoá,... Đối với những khách trung niên
thờng là những ngời có địa vị xã hội có khả năng thanh toán cao, có sự tự chủ
lớn trong khi đi du lịch. Họ quan tâm nhiều đến chất lợng phục vụ,... họ thờng
kết hợp giữa đi công tác với đi du lịch.
+ Yếu tố trình độ học vấn: Những ngời có trình độ học vấn cao là loại
khách đợc các nhà kinh doanh du lịch quan tâm nhiều vì những nhà học vấn cao
thờng thờng là những ngời có địa vị xã hội cao, thu nhập cao, trình độ văn hoá
cao nên có nhu cầu mở rộng sự hiểu biết tìm hiểu thế giới xung quanh cao hay
có thể nói họ có động cơ văn hoá cao trong nhu cầu đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể đợc coi là khách du lịch thuần tuý vì khách có
thể chỉ đi vì động cơ văn hoá. Tuy nhiên số lợng khách du lịch văn hoá thuần tuý
trong thực tế thờng rất ít mà khách du lịch thờng kết hợp giữa loại hình du lịch
văn hoá với loại hình du lịch khác trong một chuyến hành trình.
b. Định nghĩa di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá đợc coi là một trong những
nguồn tài nguyên du lịch quan trọng. Đây là nguồn lực để phát triển và mở rộng
hoạt động du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung.
Các di sản văn hoá và di tích lịch sử, văn hoá gắn liền với môi trờng xung
quanh,... bảo đảm sự sinh động của quá khứ đã nhào nặn nên chúng và bảo đảm
cho khung cảnh cuộc sống, sự đa dạng của xã hội. Mặt khác nó đã chứng minh
cho những sáng tạo to lớn về văn hoá, tôn giáo và xã hội loài ngời. Việc bảo vệ,
khôi phục và tôn tạo những vết tích hoạt động của loài ngời trong các thời kỳ
lịch sử, những thành tựu văn hoá, nghệ thuật,... không chỉ là nhiệm vụ lớn của
nhân loại trong thời kỳ hiện đại, mà còn giá trị rất lớn với mục đích du lịch.
* Di sản văn hoá bao gồm những công trình từ những nền văn hoá trớc đây
(các biệt thự, lâu đài, bảo tàng, lăng mộ,..) và nghệ thuật (tranh hoạ, âm nhạc,
điêu khắc) và những di sản khác (vũ khí, quần áo, trang phục, đồ dùng) cũng nh
những địa danh nổi tiếng trong lịch sử nh di tích các trận đánh, những cung điện.
5



Trong thế giới cổ xa có 7 kỳ quan vĩ đại do bàn tay con ngời tạo ra nằm tập
trung những nôi của nền văn minh nhân loại. Đây là 7 kỳ quan kỳ diệu đợc khắc
mốc ghi tên vào thế kỷ VI sau công nguyên, nh những chứng tích kinh điển. Cụ
thể là:
1. Kim Tự Tháp Ai Cập
2. Vờn treo Babilon
3. Tợng khổng lồ Hêliôtx trên đảo Roi
4. Lăng mộ vua Môđôn ở Halicacnasơ
5. Đền thờ nữ thần Actêmis ở Êphedơ
6. Tợng thần Dớt ở Olempia
7. Ngọn Hải đăng cao nhất thế giới và th viện đầu tiên của loài ngời
ở Alêc - xandria.
Trong số 7 kỳ quan trên, chỉ có những ngọn tháp khổng lồ ở Ai Cập vẫn giữ
nắng gió sa mạc và là kỳ quan cổ đại duy nhất còn sót lại.
Ngày nay Liên Hiệp quốc đã đa ra công ớc quốc tế về bảo tồn di sản văn
hoá và thiên nhiên. Trên 100 nớc, trong đó vó Việt Nam đã tham gia ký công ớc
này, và trên cơ sở đó thành lập Hội đồng di sản thế giới (WHO). Các di sản của
nhân loại ở các nớc muốn đợc xếp hạng là di sản thế giới phải đáp ứng những
tiêu chuẩn nhất định do WHO đa ra. Đối với các di sản văn hoá có 6 tiểu chuẩn:
1. Là tác phẩm độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con ngời.
2. Có ảnh hởng quan trọng đến sự tập hợp của nghệ thuật kiến trúc, nghệ
thuật sáng tạo không gian trong một thời kỳ nhất định, trong một khung cảnh
văn hoá nhất định.
3. Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã biến mất.
4. Cung cấp một ví dụ hùng hồn cho một thể loại xây dựng hoặc kiến trúc
phản ánh một giai đoạn lịch sử.
5. Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một dạng nhà ở truyền thống nói lên đợc một nền văn hoá đang có nguy cơ bị huỷ hoại trớc những biến động không cỡng lại đợc.
6. Có mối quan hệ trực tiếp với những sự kiện, tới ngỡng đáp ứng đợc

những tiêu chuẩn xác thực về ý tởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng
nh về vị trí.
Đến năm 1994 danh mục di sản thế giới đã ghi đến số 443 trong đó 93 di
sản thiên nhiên và 334 di sản văn hoá. Di sản đợc đánh số đầu tiên là Viện quốc
gia Nahanni của Canada con số cuối cùng 443 là di sản thiên nhiên Vịnh Hạ
Long.

6


Việt Nam có 2 di sản thế giới đó là di sản văn hoá của Huế và di sản thiên
nhiên Vịnh Hạ Long.
Việc một di sản quốc gia đợc công nhận, tôn vinh, là di sản thế giới mang
lại nhiều ý nghĩa. Tầm vóc giá trị của di sản đợc nâng cao, đặt nó trong mối quan
hệ có tính toàn cầu. Các giá trị văn hoá, thẩm mỹ cũng nh các ý nghĩa kinh tế,
chính trị, vợt khỏi phạm vi một nớc. Khả năng thu hút khách du lịch và phát triển
du lịch sẽ to lớn hơn nhiều.
* Di tích lịch sử văn hoá là tài sản văn hoá quý giá của mỗi địa phơng, mỗi
dân tộc, mỗi đất nớc và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác
thực, cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi nớc. ở đó chứa đựng tất cả những
gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng của con ngời,
góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là
bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi đất nớc.
Trên thế giới: những Kim Tự Tháp ở Ai Cập, đến đài Páctênông ở Hy Lạp,
Chùa Tháp dát vàng, dát bạc ở ấn Độ, Mianma, Campuchia (ĂngcoVát) và trong
nớc nh thành Cổ Loa, đền Hùng, cung điện, Lăng Tẩm ở Cố đô Huế,... mãi mãi
là những biểu tợng chói ngời trong kho tàng văn hoá dân tộc và nhân loại. Đợc
gọi chung là Di tích lịch sử - văn hoá vì chúng đợc tạo ra bởi con ngời trong quá
trình lao động sáng tạo lịch sử, hoạt động văn hoá. Văn hoá ở đây bao gồm cả
văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.

Di tích lịch sử - văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan,
trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử do tập thể hoặc cá nhân con ngời
hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để lại (Định nghĩa).
Di tích lịch sử - văn hoá, đợc phân chia thành:
+ Di tích văn hoá khảo cổ: là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị
văn hoá, thuộc về thời kỳ lịch sử xã hội loài ngời cha có văn tự và thời gian nào
đó trong lịch sử cổ đại.
+ Di tích lịch sử: bao gồm di tích ghi dấu về dân tộc học (sự ăn ở sinh hoạt
của các tộc ngời); di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu, có ý
nghĩa quyết định chiều hớng phát triển của đất nớc, của địa phơng; di tích ghi
dấu chiến công chống xâm lợc (Điện Biên Phủ, Đống Đa); di tích ghi dấu những
kỷ niệm; di tích ghi dấu sự vinh quang trong lao động; di tích ghi dấu tội ác của
đế quốc và phong kiến.
+ Di tích văn hoá nghệ thuật: là các di tích gắn với các công trình kiến trúc
có giá trị nên còn gọi là kiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa
đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hoá xã hội,
văn hoá tinh thần (Tháp Epphen, Khải Hoàn Môn ở Pháp, các ngôi đình làng,
văn miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm, toà thánh Tây Ninh,...).
Di sản văn hoá - Di tích lịch sử văn hoá là điều kiện cần thiết cho sự phát
7


triển loại hình du lịch văn hoá ở bất kỳ quốc gia nào, muốn phát triển du lịch.
2.

Mối quan hệ giữa du lịch và di sản văn hoá.

Du lịch và di sản đợc xem là hình thức du lịch phát triển nhanh nhất trong
lịch sử văn hoá. Khái niệm di sản nêu rõ du lịch là dựa vào quá khứ, một điểm
du lịch có lịch sử riêng, những cuộc viếng thăm sẽ đợc đặt tên là du lịch và di

sản.
Trong du lịch di sản còn bao gồm các tài sản đơng đại cũng rất quan trọng:
lối sống của một cộng đồng đợc thừa kế qua di sản vì vậy khách du lịch tới vùng
cực bắc của Canada có nguyện vọng tới thăm nơi c trú của ngời innete (Eskimo)
vì một phần đó là tợng trng của lối sống xa kia, mặt khác đó là di sản văn hoá
của Canada. Thực tế những hoạt động mang tính truyền thống nh săn bắn ngày
nay không còn đợc diễn ra nh cũ nên làm cho nhiều du khách thất vọng; chính vì
vậy từ chỗ họ cảm tình với ngời Innite, thành ra ác cảm đối với quá khứ.
Hoạt động du lịch và di sản có phạm vi rộng lớn hơn so với thực tế trớc đây,
có nhiều trờng hợp có thể gọi là du lịch văn hoá, đó là loại hình du lịch dựa trên
con ngời và phong cách sống của một xã hội.
Cũng cần lu ý thêm rằng, về khía cạnh văn hoá của di sản, còn một yếu tố
khác, đó là: Môi trờng thiên nhiên là khái niệm sử dụng trong du lịch và là
trung tâm điểm của du lịch sinh thái, các loại hình khác của du lịch dựa vào tự
nhiên. Trong phạm vi bài viết này, di sản chỉ đề cập đến yếu tố lịch sử, những gì
liên quan tới phạm vi di sản văn hoá.
3.

Vị trí vai trò của du lịch văn hoá đối với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc.

a. Vị trí của du lịch văn hoá.
Theo thời gian lịch sử thời cổ đại và cận đại phơng Đông là nơi hấp dẫn
khách du lịch vì ở nơi đó có những thâm niên đến đắc cảnh sắc tự nhiên, các
món ăn phơng Đông rất hấp dẫn. Từ thập kỷ 70 trở lại đây, phơng Tây rất hấp
dẫn đến với khách du lịch vì nơi đây có nhiều di tích lịch sử và kỳ quan thế giới
nh Cột Đồng (ấn Độ), vờn treo Babilon,...
Trong giai đoạn hiện nay con ngời có xu hớng xa lánh nhịp sống ồn ào ở
các đô thị, sự ô nhiễm môi trờng, sự huỷ diệt của vùng do hậu quả chiến tranh và
do nạn phá rừng, việc chặt chẽ trong việc đầu t xây dựng tôn tạo các đô thị cổ,

các di tích lịch sử,... chính là một trở ngại đối với vấn đề bảo vệ môi trờng sinh
thái nói chung, ngành du lịch nói riêng. Vì vậy mà con ngời tìm đến du lịch văn
hoá trở về với quá khứ của mình.
Thu nhập từ nguồn du lịch văn hoá là khá ổn định và ngày càng cao vì hiện
nay dòng khách du lịch văn hoá trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
ngày càng tăng.
8


Trong giai đoạn hiện nay mỗi nớc đến tạo thế mạnh cho du lịch, tài nguyên
thiên nhiên, công trình văn hoá, di tích lịch sử tạo nên sản phẩm du lịch độc đáo.
Bởi vì, tác dụng của nó là nguồn khách của các công ty lữ hành, làm dịch vụ bổ
sung để kéo dài thời gian lu lại của khách trong các khách sạn. Vì thế trong quản
lý không thể không coi trọng du lịch văn hoá.
Khi chúng ta nghiên cứu du lịch văn hoá chính là bàn tới bài toán kinh tế:
gây dựng và phát triển văn hoá bằng những thu thập từ du lịch mà thu nhập từ
nguồn du lịch văn hoá là khá ổn định và ngày càng cao. Muốn đầu t cho du lịch
phải đàu t cho văn hoá, bởi vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện
tầm cao và chiều sâu trình độ phát triển của một dân tộc, là khát vọng muôn đời
của nhân loại hớng tới cái chân, thiện mỹ. Văn hoá không nằm ngoài lệ sự phát
triển mà chính là nỗ lực bên trong của sự phát triển, cho nên sự phát triển xã hội
nói chung và sự phát triển du lịch, du lịch văn hoá nói riêng không tách rời khỏi
văn hoá.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ VII BCH TW Đảng khoá VII ngày
25/7/1994 Tổng bí th Đỗ Mời đã nói Ngày nay văn hoá đợc coi là một yếu tố
nội sinh, không phải chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của sự phát triển. Phát
triển kinh tế xã hội phải đặt trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH hiện nay, vấn
đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đờng lối văn hoá của Đảng
ta. Bởi vì nói đến văn hoá là nói đến dân tộc. Nớc Việt Nam ta đã trải qua hàng

ngàn năm sinh tử trong gian truân, vất vả, nhân dân các dân tộc đã sáng tạo,
nâng cao, bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc, đền, chùa, miếu
mạo của các thiên tài kỳ vĩ nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng,
Nguyên Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm,... làm nên diện mạo nền văn hoá, nền văn
hoá Việt Nam. Từ mái nhà rồng đến chiếc khèn HMông hay điệu múa Cà Tu
núi rừng,... đều là di sản văn hoá dân tộc, đó là những tài sản quốc gia, cũng là
một trong những tiềm năng của du lịch ngày nay. Do vậy mà chúng ta cần phải
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc đúng nh trong diễn văn khai mạc
Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá 1900-2000, ông Federigo Mayor, Tổng th ký
UNESCO đã nói: Cần phải giữ gìn cho đợc mọi giá trị văn hoá dân tộc, một
cộng đồng ngời, thậm chí của một cá thể là những điều không thể thay đợc.
Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch nh du lịch
hoài cổ, du lịch tìm cái mới, du lịch tìm hiểu phong tục nhng du lịch kiểu nào, ở
đâu, đến nớc nghèo hay nớc công nghiệp phát triển, du lịch bao giờ cũng gắn
liền với văn hoá, với bản sắc của mỗi quốc gia luôn đầy ắp giá trị. Vì văn hoá là
yếu tố tiềm ẩn hoá thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trớc hết là
hoạt động nhằm đi tìm cái giá trị văn hoá dân tộc văn hoá nhân loại để thởng
thức, khám phá, hởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch không
thể tự mình phát triển đợc nếu không dựa trên một nền tảng văn hoá và ngợc lại,
nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết đợc những thành tựu rực rỡ của nền văn
9


hoá nhân loại, tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự xích lại gần nhau giữa các
nền văn hoá làm cho các dân tộc ngày càng hiểu biết nhau hơn, nhng du lịch
không chỉ dừng lại ở sự thởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên, ngắm nhìn các công
trình văn hoá, tìm heieủ các di tích lịch sử để cảm thụ mà du lịch còn là một hoạt
động khám phá sáng tạo them qui luật của cái đẹp.
Du lịch văn hoá là hai khái niệm khác nhau nhng lại đồng nhất trong mỗi
khát vọng của mỗi con ngời. Lịch sử phát triển du lịch từ xa đến nay đã cho thấy,

nhờ du lịch mà con ngời đã khám phá ra nhiều điều mới mẻ và đã chuyển hoá
khá nhiều giá trị văn hoá thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Nh vậy, du lịch là một
nhu cầu không thể thiếu đợc cùng con ngời trong quá trình hiểu biết để hởng thụ
và sáng tạo. Sự đóng góp cho quá trình tăng trởng kinh tế cho sự phát triển
nguồn thu từ du lịch có nguyên nhân từ nhu cầu này - du lịch phát triển không
tách rời nhu cầu hiểu biết, khám phá, sáng tạo. Theo đặc trng của văn hoá trên cơ
sở biết đánh thức các giá trị văn hoá của dân tộc, biết xem các di sản văn hoá, di
tích lịch sử,... Cái thiên nhiên thứ hai đã đợc nhân hoá qua lao động sáng tạo
của con ngời, là cái vốn quý nhất, là tiềm năng vô giá của du lịch. Sự phát triển
du lịch ở Hà Nội, cũng nh Huế, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng,... là nhờ
vào tiềm năng vô giá đó.
Du lịch rất cần đến văn hoá và văn hoá không thể tách rời khỏi du lịch. Dựa
vào du lịch để giới thiệu về đất nớc, văn hoá, con ngời Việt Nam, hoạt động du
lịch là nơi góp phần nâng cao, đổi mới, mở rộng giao lu văn hoá. Vốn đầu t cho
văn hoá chính là đầu t vào du lịch, đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng, khách sạn,
dịch vụ giải trí. Cơ sở hạ tầng đó đảm bảo các đặc tính môi trờng sinh thái. Các
điểm du lịch có tầm nhìn chung của khu vực đông dân c và có những ấn tợng đặc
biệt, các sắc thái văn hoá thể hiện qua kiến trúc, rồi đến các sắc thái văn hoá thể
hiện qua vui chơi, giải trí, âm nhạc, múa, ăn uống phù hợp với bản sắc từng khu
vực.
b. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá.
Khi nói đến văn hoá du lịch không có nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa duy
nhất của sự phát triển văn hoá. Không nhận thức rõ điều này, thì vô tình sự phát
triển chỉ có thể thành công xét về góc độ kinh tế, còn sẽ thất bại về việc giữ gìn
bản sắc dân tộc, do sự tiếp xúc với du khách từ khắp năm châu đến Việt Nam.
Phát triển du lịch văn hoá là một định hớng đúng trong quá trình CNH, HĐ
đất nớc. Văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch và
du lịch văn hoá. Kinh nghiệm trên thế giới và nớc ta cho thấy cần phải thực hiện
đồng thời và đồng bộ nh: phải tạo ra môi trờng văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà
bản sắc dân tộc, làm sống lại các giá trị văn hoá truyền thống, giữ vững sự ổn

định chính trị và an ninh xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên làm đối tợng tốt, nhằm tạo ra sức hấp dẫn khách thập phơng.
Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và
10


truyền thống dân tộc. Nhng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản, là những giá
trị hữu hình và vô hình. Cái gọi là tài sản vô hình đó chính là sự chuyển hoá các
năng lực tinh thần của con ngời vào hoạt động kinh doanh, đó chính là văn hoá.
Tài sản vô hình trong du lịch bao gồm các yếu tố chính nh: thông tin và khoa học
- kỹ thuật trong du lịch, tổ chức bộ máy và nghệ thuật quản lý du lịch, sự tín
nhiệm của khách hàng đối với công ty và sản phẩm và những đặc sản của mỗi
vùng, mỗi miền. Văn hoá du lịch bền bỉ tích góp, thu nhập, gạn lọc muôn vàn
tinh hoa từ muôn nẻo không ngừng chuyển tải, giao lu, biến đổi và nâng cao để
góp phần vào sự giàu có và cờng thịnh về nền văn hoá, kinh tế - xã hội của dân
tộc - của đất nớc.
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết sức
quan trọng, nó góp phần thúc đẩy cho du lịch vơn lên tạo đà cho du lịch ngày
một phát triển, đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nó có hiệu
quả là càng tăng giá trị văn hoá - văn minh, bản sắc dân tộc thì hiệu quả kinh
doanh du lịch càng cao. Nhận biết đợc vấn đề đó các nhà kinh doanh du lịch, các
nhà quản lý kinh tế phải không ngừng những kiểm tra, ngăn chặn những mặt phi
văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là xây
dựng, tạo ra để hấp dẫn từ bản sắc, thuần - phong - mỹ - tục dân tộc, bảo tồn,
nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc.
II.

Mối quan hệ giữa du lịch văn hoá trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.


Điều kiện để phát triển du lịch văn hoá.

Sự phát triển du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung đòi hỏi phải có
những điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan cần thiết nhất định.

11


Điều kiện phát triển du lịch văn hoá
Điều kiện để phát triển
du lịch văn hoá

Điều kiện chung
(Điều kiện cần)

Điều
kiện
thời
gian
rỗi

Điều kiện đặc trng
(Điều kiện đủ)

Điều
Điều
Điều
Điều
kiện kiện nền kiện

kiện
nguồn kinh tế cơ sở chính trị
khách đất nớc hạ tầng và an
toàn đối
với
khách

Điều
Điều
Điều
kiện tài kiện
kiện về
nguyên sẵn sàng môi tr
du lịch đón tiếp ờng văn
khách
hoá

Tài
Tài
Điều
nguyên nguyên kiện về
du lịch du lịch tổ chức
tự nhiên nhân tạo

Điều
kiện về
mặt kỹ
thuật

Điều

kiện về
kinh tế

Các tài
Các tài
Các tài
Các tài
Các thành
nguyên
nguyên
nguyên
nguyên có
tựu sự kiện
có giá
có giá trị
có giá trị
giá trị nghệ
kinh tế
trị
lịch
sử
kiến
trúc
văn
hoá
thuật
quần
chính
trị nêu
Trong điều kiện cho phép của đề tài nghiên cứu, ở đây ngời viết chỉ xin

chúng
xã hội

điều kiện quan trọng nhất để phát triển du lịch văn hoá.

Kinh doanh du lịch là một loại hình kinh doanh cao cấp không thể tách rời
văn hoá vì xét cho cùng thì du lịch là hoạt động văn hoá. Văn hoá là nhu cầu
thiết yếu trong đời sống xã hội đồng thời nó cũng là nhu cầu đặc trng của con
ngời khi du lịch do vậy văn hoá là yếu tố quyết định tính hấp dẫn của sản phẩm
du lịch vì nó giải quyết nhu cầu về nhận thức và thẩm mỹ. Có nghĩa là đến điểm
du lịch nếu đi phải có cái gì cho ngời ta xem và ngời làm (things for tourists to
see and todo).
Ngoài ra xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa các cộng đồng dân
tộc trên thế giới,... (nh đã trình bày trong phần du lịch văn hoá (phần đầu chơng
I)) cho biết rằng: để đáp ứng những nhu cầu du lịch của con ngời thì một trong
12


những yếu tố quyết định đó là tài nguyên du lịch văn hoá. Muốn đi du lịch văn
hoá nếu không có tài nguyên du lịch văn hoá thì du khách sẽ xem gì? ngắm gì?
Thởng thức những sản phẩm du lịch gì?
Xét về hai khía cạnh: ngời đi du lịch và những nhà kinh doanh du lịch để
phát triển du lịch văn hoá thì yếu tố đó là tài nguyên văn hoá, bởi vì:
* Khách du lịch: với ớc muốn tìm tòi, hiểu biết thêm về những giá trị văn
hoá tinh thần của một dân tộc, một vùng, một địa phơng nào đó và do vậy họ sẽ
đến với du lịch văn hoá. Du lịch văn hoá chỉ có thể phát triển ở một vùng, một
địa phơng, một đất nớc nếu ở đó có tài nguyên văn hoá phong phú, đa dạng, độc
đáo, mang đậm bản sắc dân tộc,... cùng kết hợp với một số yếu tố khác tạo nên
những địa điểm du lịch văn hoá đầy hấp dẫn, cuốn hút. Chính những yếu tố đó
đã đa khách du lịch tìm đến những nơi có tài nguyên văn hoá lôi cuốn và do đó

tài nguyên văn hoá là yếu tố quan trọng nhất đối với lu lợng đi du lịch văn hoá
ngày càng tăng của khách du lịch.
* Nhà kinh doanh:
Mục đích của những nhà kinh doanh du lịch là làm sao thu hút đợc nhiều
khách tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu về các lĩnh vực văn hoá,... để từ đó
có đợc doanh thu cao, lợi nhuận lớn. Muốn đạt đợc mục đích đó để phục vụ
khách du lịch đến thăm quan tìm hiểu thì điều kiện đầu tiên là phải có tài nguyên
du lịch thì mới có thể kinh doanh du lịch đợc. Khi có tài nguyên du lịch thì
khách mới có ớc muốn tham quan và do đó các nhà kinh doanh du lịch mới có
thể thu hút đợc lợi nhuận từ đây, ngành du lịch cũng vì vậy mà phát triển hơn.
Để phát triển du lịch văn hoá thì cũng cần phải có tài nguyên văn hoá, đây
là yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hoá với những đặc điểm kỳ diệu, thú vị, đa
dạng, độc đáo sẽ ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch đến tham quan nhằm
thoả mãn trí tò mò cũng nh phần nào đáp ứng đợc lòng muon muốn hiểu biết sâu
rộng về cái hay, cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phơng, mỗi đất nớc. Tài nguyên
văn hoá bao gồm những tài nguyên có giá trị về văn hoá vật chất qua các di tích
lịch sử, văn hoá, các danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc,... ngoài ra nó
còn thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hoá phi vật chất nguồn tiềm năng du
lịch phong phú, đó là các loại hình nghệ thuật truyền thống: tuồng chèo, múa rối
nớc, dân ca, quan họ, hát xẩm, ca trù hết sức độc đáo, là những nét đặc sắc dân
gian và huyền thoại của các lễ hội. Điển hình nhất là những nét đặc trng về
phong tục tập quán, tâm hồn, cốt cách của con ngời Việt Nam.
Khác với nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá không hề bị can
thiệp nếu chúng ta biết duy trì, tôn tạo, bảo vệ và phát triển dùng để cho chúng bị
suy thoái theo thời gian và không gian, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn
hoá cho phát triển du lịch là một hớng đi đúng hiện nay và trong tơng lai.
Nói tóm lại: ở nhiều nớc ngành du lịch đang là ngành đem lại hiệu quả kinh

13



tế cao nhất. Phát triển du lịch nhất thiết phải quan tâm đến phát triển du lịch văn
hoá, yếu tố quyết định cho sự phát triển du lịch văn hoá chính là nguồn tài
nguyên văn hoá - nguồn tài nguyên vô cùng quí giá, phong phú và đa dạng nếu
đợc bảo quản một cách hợp lý.
2.

Phát triển du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc.

a. Sự phát triển của du lịch văn hoá góp phần làm tăng thu nhập quốc dân
cho địa phơng - đất nớc du lịch thông qua hệ thống thuế trực tiếp và gián tiếp
trong du lịch, có những nớc thu nhập từ do chiếm trên 50% tổng thu nhập bằng
ngoại tệ (Mêhicô, Tây Ban Nha,...) Du lịch phát triển tạo ra hiệu quả số nhân về
thu nhập góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế địa phơng đất nớc du lịch,
đánh thức một số ngành sản xuất thủ công cổ truyền của dân tộc, góp phần giải
quyết số lợng lớn công ăn việc làm cho xã hội mà biểu hiện là khi du lịch phát
triển sẽ tạo ra hiệu quả số nhân về việc làm. Theo kết quả nghiên cứu một số tài
liệu, số nhân về việc làm nữ là 2,63 tức là cứ một việc làm trong du lịch sẽ tạo ra
1,63 việc làm cho các ngành khác. Mặt khác du lịch phát triển sẽ thu hút nguồn
vốn đầu t từ nớc ngoài.
b. Du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung là một trong những lĩnh
vực xuất khẩu có hiệu quả nhất của nền kinh tế, góp phần tăng nguồn thu ngoại
tệ cho đất nớc và đẩy mạnh cán cân thanh toán quốc tế: thông qua việc tiêu dùng
của du khách ngời ta có thể thực hiện xuất khẩu tại chỗ xuất khẩu bằng con
đờng du lịch là xuất khẩu đa số các dịch vụ (dịch vụ lu trú, dịch vụ bổ sung,
trung gian,...) đó là những điều ngoại thơng không thể làm đợc. Hơn nữa, thông
qua du lịch ta có thể thực hiện xuất khẩu những nguyên liệu và hàng hoá vật khó
xuất khẩu qua con đờng ngoại thơng nh hàng ăn uống, hoa quả, hàng lu niệm,...
mà nếu muốn xuất khẩu qua con đờng ngoại thơng đòi hỏi phải đầu t nhiều chi

phí cho đóng gói, bảo quản, vận chuyển. Xuất khẩu qua con đờng du lịch cơ bản
không phải đóng thuế xuất khẩu lại bán với giá gần nh độc quyền bởi yếu tố địa
tô du lịch chứng đựng trong đó. Bởi vậy hiệu quả kinh tế của nó cao và khả
năng thu hồi vốn nhanh.
c. Phát triển du lịch văn hoá góp phần mở rộng và củng cố các mối quan hệ
quốc tế, tăng cờng tình hữu nghị giữa các dân tộc, củng cố nền hoà bình thế giới.
Thông qua sự giao lu văn hoá giữa các vùng các quốc gia tạo sự thúc đẩy nền
văn hoá thế giới phát triển.
d. Du lịch văn hoá phát triển giúp cho các quốc gia giảm bớt sự căng thẳng
của các trung tâm đô thị hoá cho công nghiệp mang lại, giảm bớt sự ô nhiễm môi
trờng trong đô thị.
e. Sự phát triển du lịch văn hoá có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai
thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trờng tự nhiên
xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH.
14


f. Du lịch văn hoá là một loại hình có thể phát triển quanh năm, đó là một
lợi thế lớn cho các nhà kinh doanh du lịch bởi vì họ sẽ tiết kiệm đợc chi phí về
cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo chất lợng phục vụ và chất lợng đội ngũ lao động.
Tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng địa điểm du lịch mà sự phát triển du
lịch nói chung và cụ thể là sự phát triển du lịch văn hoá sẽ tác động tiêu cực đến
đời sống kinh tế của từng vùng - đất nớc du lịch.
3.

Kinh nghiệm chủ yếu ở một số nớc phát triển du lịch văn hoá trong
quá trình CNH, HĐH hiện nay.

Phát triển du lịch không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho đất nớc, làm phong
phú thêm tiềm năng sẵn có của mỗi quốc gia, mở mang ngành nghề thu hút khối

lợng lao động không nhỏ vào dịch vụ này, mà còn góp phần nâng cao dân trí,
giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, lòng yêu quê hơng đất nớc, đồng thời là
phơng tiện trao đổi văn hoá trong mối quan hệ giao lu quốc tế.
Chúng ta sống trong thời đại mà sự bùng nổ về thông tin khoa học, kỹ
thuật làm cho con ngời xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn qua màn ảnh nhỏ. Sự
hiểu biết đó mới là điều kiện cần còn con ngời đến với nhau, chiêm ngỡng những
giá trị tinh hoa của mỗi dân tộc, mỗi đất nớc, hiểu biết nhau. Bởi vậy, du lịch
chính là cầu nối cho mối quan hệ giữa ngời với ngời gắn liền với việc tôn trọng
thiên nhiên, giữ gìn văn hoá dân tộc và tiếp thu văn hoá thế giới.
Phát triển du lịch là thớc đo trình độ văn hoá, trình độ phát triển của xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những đặc trng riêng biệt về tự nhiên lịch sử,
văn hoá, truyền thống,... thu hút khách du lịch và làm thoả mãn nhu cầu của
khách. Ngày nay du lịch văn hoá đang trở thành một nhu cầu lớn của khách với ý
nghĩa quan trọng nh vậy, du lịch văn hoá ngày càng đợc khai thác không ngừng
trong kinh doanh du lịch ở những nớc có tiềm năng và thế mạnh về văn hoá
truyền thống.
Nói đến du lịch văn hoá ở một số nớc ta phải kể đến du lịch văn hoá của
Trung Quốc, một đất nớc ngay cạnh Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam có rất
nhiều điểm giống với văn hoá Trung Quốc. Du lịch văn hoá Trung Quốc đang
ngày càng phát triển. Bởi nó có lợi thế là nớc có bề dày lịch sử nền văn hoá lâu
đời với biết bao nhiêu cảnh đẹp, di tích, kiến trúc độc đáo,... thu hút du khách.
Trung Quốc có nguồn sản phẩm du lịch vô cùng phong phú mà trong đó đặc
biệt là tiềm năng tài nguyên du lịch văn hoá: ngoài 10 thắng cảnh nổi tiếng
Trung Quốc và thế giới nh Vạn Lý Trờng Thành (Bắc Kinh) phong cảnh Quế
Lâm (Quảng Tây), Cố Cung (Bắc Kinh), vờn cây Tô Châu (Giang Tô), Hoàng
Sơn (An Huy), Tam Hiệp (dọc Trờng Giang, trên địa phận 2 tỉnh Tứ Xuyên và Hồ
Bắc), Hàng Châu với Tây Hồ (Chiết Giang), Binh Mã nhà Tần (Thiểm Tây).
Trung Quốc còn có rất nhiều các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh
khác nh vùng Trung Nguyên với các di tích thời Tam Quốc Diễn Nghĩa. Ngay tại


15


Bắc Kinh còn có tới 18 di tích lịch sử và phong cảnh đẹp nổi tiếng nh Thiên Đàn,
Hơng Sơn, Thập Tam Lăng, Sơn Đông có khúc phụ, nơi thờ Khổng Tử. Nếu
muốn biết phần nào về nét đại cơng của thế giới bên ngoài, biết đợc nền văn hoá,
phong tục, tập quán của các nớc trên thế giới chúng ta hãy đến Công viên Thế
giới ở Bắc Kinh (Khai trờng ngày 1/10/1993).
Đây là khu Thế giới thu nhỏ lớn nhất Châu á. Công viên rộng chừng
50ha gồm 106 cảnh quan thu nhỏ theo tỷ lệ của 56 nớc trên thế giới nh Quảng
trờng đỏ Matxcơva trong đó có Toà Thánh Nga, lăng Lênin; các kiến trúc cổ Hy
Lạp; khu nớc Mỹ có thành phố Niu Yook, thần Tự do,... Khu nớc Pháp có Tháp
Epphen, nhà thờ Đức Bà; khu các nớc Châu á có Vạn Lý Trờng Thành, cung
điện ấn Độ, cung điện vàng Thái Lan,... đặc biệt cảnh quan thứ 54 là chùa Một
Cột (Việt Nam) nằm cạnh hồ nớc. Trong khu vực này còn các kiểu nhà lợp tranh
giản dị, mang tính thiên nhiên của vùng nhiệt đối Châu á đó là kiểu nhà của
nhân dân Việt Nam, Thái Lan cùng các nớc vùng Đông Nam á,... ngoài ra du
khách còn đợc thởng thức các món ăn Trung Quốc nổi tiếng tại các nhà hàng, đợc xem văn nghệ tại làng văn hoá các dân tộc.
Với thế mạnh về sản phẩm du lịch ngành du lịch nói chung và du lịch văn
hoá nói riêng ở Trung Quốc đã có những bớc phát triển mạnh và ngày càng phát
triển. Số liệu thống kê cho thấy: năm 1992 là năm du lịch Trung Quốc lần thứ
nhất có hơn 38 triệu du khách, thu nhập trên 3,9 tỷ USD năm 1993 có trên 41
triệu du khách, thu nhập trên 4,6 tỷ USD; năm 1994 có trên 43 triệu du khách,
thu nhập tới 6 tỷ USD. Năm 1995 có trên 44 triệu du khách thu nhập 8 tỷ USD
(tin từ tạp chí du lịch Việt Nam).
Theo một quan chức của ngành du lịch Trung Quốc cho biết thì xu hớng
bùng nổ du lịch trong thời kỳ 1997-2000 vẫn tiếp tục tăng. Để đón đựoc nhiều
khác, Trung Quốc đang thực hiện chiến dịch quảng cáo ra nớc ngoài và đặt mục
tiêu đầy tham vọng cho năm du lịch 1997 - năm du lịch Trung Quốc lần thứ hai
là vợt qua đợc thành tích mà Trung Quốc đã đạt đợc trong năm du lịch lần thứ

nhất.
Đến với du lịch văn hoá Pháp - đất nớc nổi tiếng về nền văn hoá có từ lâu
đời, với phong cách lịch sử, hào hoa phong nhã, nớc Pháp là nớc có số lợng
khách đến tham quan nhiều vào bậc nhất thế giới. Du khách đến với nớc Pháp sẽ
đợc chứng kiến một trong bảy kỳ quan thế giới - Tháp Epphen, đợc chiêm ngỡng
nhà thờ Đức Bà Pari, đợc ngắm cung điện Vecxaio và đợc thởng thức rợu
Sampanh nổi tiếng. Đó là những gì du khách đến với Pháp với mục đích du lịch
văn hoá sẽ đợc tận hởng, đợc tắm mình trong thế giới thần tiên, cảnh đẹp mê
hồn, với rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc độc đáo đa dạng và phong
phú cũng nh tận hởng những hơng vị thơm ngon tinh khiết từ những món ăn,
bình rợu của nớc Pháp, du lịch văn hoá của Pháp ngày một thu hút nhiều du
khách đến tham quan hơn và ngày một đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

16


Đến với đất nớc Singapore một đất nớc nhỏ bé nhng xinh đẹp nằm ở phía
đông nam Châu á, bên cạnh những ngôi nhà chọc trời, Singapore vẫn còn giữ đợc
nhiều di tích, danh lam thắng cảnh cùng với những thành phố xanh, sạch và an
toàn nhất thế giới. Với nguồn tài nguyên du lịch - du lịch văn hoá phong phú nh:
các công trình lịch sử, hệ thống chùa chiền, bảo tàng, với món ăn và phong tục của
các cộng đồng dân tộc Trung Quốc (chiếm 76% dân số), ấn Độ (6,5%), ả Rập,
Malaixia,... tạo cho sản phẩm du lịch của Singapore thêm tính độc đáo. Đến
Singapore du khách không thể không đến tham quan khu du lịch đảo Sentosa, một
đảo chỉ có 6km nhng chứa đầy sự kỳ lạ, du khách sẽ đợc ngắm toàn cảnh thành
phố Singapore trên xe cáp treo ở đây du khách còn đợc tham quan một thế giới thu
nhỏ về Châu á ở Lăng Châu á, với những ngôi nhà, những phong cảnh, di tích
mang đậm nét Châu á. Du khách còn đợc thởng thức những món ăn của các nớc
Châu á,... Hàng năm có khoảng một triệu du khách đến đây. Du khách còn có
thể đi thăm quan bảo tàng Sáp với những tợng danh nhân tại Singapore thăm quan

hòn đảo diệu kỳ là một công viên giải trí trên nớc lớn nhất Châu á. Có 32 trò
giải trí đợc tổ chức trên hòn đảo kỳ diệu này.
Những năm qua du lịch - du lịch văn hoá ở Singapore có tốc độ tăng trởng
mạnh và vững chắc: năm 1992 có 5,98 triệu lợt khách du lịch Quốc tế; năm 1994
có 6,479 triệu lợt khách và Singapore đón 7,15 triệu khách vào năm 1995
(Nguồn từ Tạp chí Travel News).
Nh vậy số lợt khách vào du lịch Singapore ngày càng tăng và Singapore đã
trở thành một trong số ít quốc gia trên thế giới có số lợt khách đến du lịch gấp hơn
2 lần dân số trong nớc (năm 1994 Singapore có số dân là 2,9 triệu ngời).
Đến với Malaixia (diện tích 329,758km2, dân số 19 triệu ngời) một đất nớc
có ngành du lịch phát triển mạnh với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử
- kiến trúc ở khắp nơi nh ở Kuala Lumper - thành phố cổ nhất nớc, Penang,
Jihor,... cùng với các món ăn dân tộc và phong tục tập quán của cộng đồng dân
tộc Malaixia, ở thủ đô Jualalumpur và các vùng phụ cận du khách có thể đi thăm
đền thờ Hồi giáo ISLAM, đài tởng niệm Quốc gia, nhà Quốc hội, viện bảo tàng,
vờn chim, động Bat. Đến Malaixia du khách không nên không đến cao nguyên
đẹp nhất Châu á, nơi đây có nhiều các khu vui chơi giải trí mà khách sẽ đợc
tham quan và đặc biệt du khách sẽ còn đợc đi xem các sòng bạc nổi tiếng tại nơi
này,... Chúng ta còn có thể đến tham quan thành phố cổ theo kiểu Bồ Đào Nha
hơn 500 năm lịch sử là Malaca, vờn bớm Malaca nổi tiếng và những di tích lịch
sử Bồ Đào Nha - Bukit Cina và nhiều công trình kiến trúc văn hoá khác nh hệ
thống chùa chiền, bảo tàng,...
Theo số liệu thống kê, năm 1994 Malaixia đón trên 6,4 triệu khách; năm
1995 có 7 triệu khách du lịch quốc tế, đạt doanh thu 4,4 tỷ USD, thời gian lu trú
của khách đạt 4,7 ngày (năm 1990 chỉ đạt 1 ngày) mức chi tiêu của khách đạt
118,8 USD/ngày (trong khi năm 1990 chỉ có 81 USD/ngày). Malaixia đạt chỉ tiêu
từ nay đến năm 2000 tốc độ tăng trởng khách quốc tế hàng năm đạt 10% để năm
17



2000 đón 12,5 triệu khách quốc tế (tin từ Tạp chí Du lịch Việt Nam).
Các nớc vùng Đông Nam á đã và đang trở thành một thị trờng du lịch sôi
động, hấp dẫn của khu vực và thế giới. Các nớc này, trong khi đang phát triển du
lịch, họ nhất quán chủ trơng bảo tồn văn hoá dân tộc và đa vào kinh doanh du
lịch, phơng châm của họ là kết hợp truyền thống dân tộc và kỹ thuật hiện đại
có lẽ vì vậy mà họ đạt đợc những con số về du lịch đáng khâm phục.
Năm 1992 - năm du lịch Đông Nam á kết thúc thành công với khách du
lịch tăng 9,49%, đạt 21,858 triệu khách du lịch, chiếm 4,6% tổng số khách du
lịch trên toàn thế giới. Thu nhập tăng 15,61% đạt 17,04 tỷ USD. Dự kiến đến
năm 2000, khách du lịch đến Đông Nam á sẽ đạt 39 triệu ngời và đến năm 2010
là 72 triệu (nguồn tổ chức du lịch thế giới WTO).
Ngoài ra ở một số nớc Châu Âu họ đã biết đa ra những nét văn hoá cổ điển
vào quảng cáo du lịch để thu hút khách. Đó là một cách làm kinh tế khá độc đáo,
thú vị và đem lại hiệu quả cao cho ngành du lịch.
Tại Italia, các nhân viên phục vụ trong khách sạn đợc trang phục giống nh các
nhân vật nổi danh trong các tác phẩm hội hoạ ý từ các thế kỷ trớc, một cách thật
độc đáo và hấp dẫn, do những kiệt tác hội hoạ ý đợc nhiều ngời biết đến nên khi
nhìn các nhân vật là du khách nhận ra ngay và có cảm giác rất lý thú, khách sạn
Bốn Mùa ở Milan (ý) với cách trang trí phòng ngủ khách sạn giống nh bức tranh
của Vecellio Tilieu (1490-1576) của Raphael (1483-1520),... tức là những y phục
nữ ý thế kỷ 15,16 đợc các hoạ sỹ tài danh ghi lại,... Tuy vậy cũng vẫn còn có những
tiện nghi hiện đại đặt bên dới các vật dụng cổ điển. Còn ghì thú hơn khi ta sống
giữa thế kỷ 20 mà nh lạc vào khung cảnh thế kỷ 14-15.
Tại Hung, các khách sạn có kiến trúc cổ điển vẫn giữ nguyên nh xa để khai
thác bàn, ghế, khung cảnh giữ nguyên vẻ đẹp thiên nhiên và xa cũ, còn có khách
sạn thì hiện đại tiếp viên cũng ăn mặc thật hiện đại để vừa lòng khách.
Du lịch văn hoá đang có những bớc phát triển mạnh và vững chắc là loại hình
du lịch tiềm năng, ở nhiều nớc trên thế giới. Bởi vì du khách ở nhiều nớc hiện nay
muốn đợc chiêm ngỡng sự tài hoa của nền văn hoá cổ, các phế tích cổ xa,... Khi mà
nền văn minh công nghiệp của con ngời đã lên tới đỉnh cao. Du lịch là kết quả của

nền văn minh công nghiệp và cũng là hậu quan của nền văn minh công nghiệp.

18


Chơng II
kiến nghị và một số giải pháp
Cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam, du lịch văn hoá ngày càng
phát triển. Đây là thể loại du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định đồng
thời nó là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của ngành du lịch
nói riêng và của toàn ngành kinh tế nói chung. Mục tiêu trớc mắt cũng nh lâu dài
Việt Nam phải làm sao khai thác tốt loại hình du lịch văn hoá để nâng cao hiệu
quả kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, do
đó chúng ta cần chú trọng tới việc nghiên cứu, đầu t, khai thác có hiệu quả thể
loại du lịch văn hoá. Muốn đạt đợc mục tiêu này và những vấn đề đặt ra ở trên
quả thật không phải là dễ và vấn đề quan trọng mà các công ty du lịch nói riêng
và ngành du lịch nói chung cần phải có một chiến lợc phát triển du lịch văn hoá.
Theo tôi, cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:
Một là, muốn bảo vệ và phát huy nền văn hoá dân tộc góp phần thúc đẩy sự
phát triển du lịch văn hoá chúng ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
* Tăng cờng công tác quản lý các di sản văn hoá:
Vừa kinh doanh nhng đồng thời vừa góp phần tôn tạo, tu tạo vì nó là thông
điệp giữa các thế hệ. Mặc dù rằng các di sản văn hoá không phải đợc bán dới
dạng hàng hoá là vật chất cụ thể mà nó chỉ đợc bán dới dạng hàng hoá là dịch
vụ. Với du lịch quốc tế đây chính là nguồn hàng xuất khẩu vô hình đồng thời là
nguồn hàng xuất khẩu tại chỗ.
* Về phía Nhà nớc cần xây dựng một hệ thống pháp luật chính sách đồng
bộ hợp lý nhằm bảo vệ các di sản văn hoá: cần có chính sách u tiên và khuyến
khích nhân dân trong công tác bảo vệ, ở đây nên chú trọng đặc biệt tới các nghệ
nhân, nghệ sĩ lão thành hiện đang đợc coi nh những kho tàng sống lu giữ nhiều

tri thức vốn quý về di sản văn hoá tinh thần.
* Khảo sát điều tra để đánh giá thực trạng tình hình di sản văn hoá. Trên cơ
sở đó nghiên cứu phân loại, xác định thứ tự u tiên đối với các loại di sản văn hoá
cần bảo vệ.
* Thành lập và củng cố các trung tâm bảo quản lu trữ t liệu, các ngân hàng
dữ liệu nhằm cho phép khai thác và thông tin một cách dễ dàng, tiện lợi về các
loại hình di sản văn hoá.
* áp dụng các phơng pháp và kỹ thuật tiên tiến vào việc bảo quản và khai
thác văn hoá truyền thống nh: tổ chức các liên hoan văn hoá nghệ thuật truyền
thống một cách thờng xuyên.

19


* Đa nội dung giáo dục và bảo vệ nền văn hoá truyền thống, ý thức về bản
sắc dân tộc vào các chơng trình giảng dạy có tính chất bắt buộc trong các chơng
trình phổ thông và cao học. Tiến hành nâng cấp tu sửa và xây dựng mới hệ thống
bảo tàng để sử dụng và phát huy một cách tối đa chức năng giáo dục của nó
trong đời sống xã hội, đặc biệt là các bảo tàng văn hoá lịch sử và nghệ thuật.
* Nhà nớc cần phải quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép kinh doanh du lịch
văn hoá tránh để các cơ sở kinh doanh du lịch văn hoá tràn lan,... Bộ văn hoá
thông tin cần phải có những điều kiện và phải xem xét kỹ trong việc đa ra xếp
hạng và phong sắc hiệu cho các di tích văn hoá, lịch sử một cách đúng mức để
tăng giá trị nâng giá cho những di sản văn hoá, di tích lịch sử, có ý nghĩa quan
trọng đối với việc phát triển du lịch văn hoá.
Hai là, ban hành luật pháp bảo vệ các di sản văn hoá di tích lịch sử. Việc
bảo vệ các di sản văn hoá, vốn đầu t để tôn tạo nó phải gắn liền lợi ích của c dân
sở tại nơi có các di sản văn hoá.
Ngoài ra còn phải nghiêm trị những kẻ phá hoại bằng luật pháp, ngăn chặn
những mặt phi văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng

hơn là xây dựng, tạo ra độ hấp dẫn từ bản sắc thuần - phong - mỹ - tục.
Ba là, tạo ra sự thống nhất về nhận thức, về lợi ích quốc gia vì sự phát triển
bền vững để có sự phối hợp hành động giữa các ngành bảo tồn, bảo tàng, du lịch,
giao thông, kiến trúc, xây dựng, môi trờng trong việc đầu t và khai thác các di
sản văn hoá.
Ngành du lịch cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ hơn nữa với các ngành
hữu quan: nh Hải quân, Bộ nội vụ, Hàng không, Văn hoá,... để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc khai thác thu hút phục vụ khác nh giải quyết các thủ tục xuất
nhập cảnh, thủ tục cấp giấy phép đầu t vào lĩnh vực du lịch.
Bốn là, bên cạnh việc phục chế, tôn tạo lại các di sản văn hoá đã bị tàn phai
do chiến tranh, hoặc do năm tháng mà ngời ta đã sao nhãng bỏ quên nó nh phủ
Thiên Trờng, khu Lam Kinh với sự kiện Rùa thần Hoàn Kiếm. Đồng thời xây
dựng cảnh quan môi trờng: đây là một trong những yếu tố đợc đánh giá là quan
trọng đối với hoạt động du lịch văn hoá nói riêng và hoạt động du lịch nói chung.
Cho đến nay vấn đề ô nhiễm môi trờng đang trở thành một thử thách và là mối
quan tâm của toàn thế giới. Do vậy việc giữ gìn xanh, sạch, lành mạnh môi trờng
có một ý nghĩa lớn và là điều kiện cần thiết. Một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ
là một vài di tích cổ với những gì thiên nhiên u đãi đều sẽ đợc tăng giá trị rất
nhiều khi nó đợc lu giữ trong môi trờng xã hội tự nhiên trong sạch. Tuy nhiên
vấn đề này đòi hỏi sự tham gia đồng thời của các ngành các cấp và ngành du
lịch, của toàn thể nhân dân. Do vậy cần phải triển khai thờng xuyên phong trào
giữ gìn môi trờng xanh, sạch trong cộng đồng, kêu gọi và khuyến khích ý thức
bảo vệ môi trờng của ngời dân trong cuộc sống hàng ngày cũng nh khi tham gia
vào hoạt động du lịch.
20


Một trong những vấn đề liên quan đến di tích lịch sử, di sản văn hoá là tính
hoài cổ. Khi tới thăm một nền văn hoá du khách thờng liên tởng tới tổ tiên mình.
Kết quả là khách liên tởng một cách rất văn hoá tới lịch sử, không đơn thuần chỉ

là sự viếng thăm. Vì vậy, có thể tạo dựng lại các trận đánh lịch sử, mô phỏng lại
các bữa ăn truyền thống xa xa để khách có cơ hội xem lại quá khứ bằng những
hình ảnh lịch sử.
Bên cạnh đó có thể xây dựng những công viên giải trí. Những khung cảnh
nh vậy rất cần cho du lịch để trong một thời gian ngắn, khách có thể tạm cách
biệt với môi trờng hiện tại.
Năm là, xác định các khu vực với những đặc trng văn hoá riêng để đa dạng
hoá sản phẩm du lịch. Thí dụ các khu vực đồng bằng sông Hồng, ven biển miền
Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Từ cảnh quan môi trờng, khách
sạn là một tổng thể hài hoà mang sắc thái riêng của từng vùng.
Theo chúng tôi sản phẩm du lịch là các di sản văn hoá mang tính đặc trng
của từng vùng và Lâm Đồng với thế mạnh của thành phố sơng mờ, Đà Lạt rất
hấp dẫn du khách, còn có thể xây dựng các làng du lịch của ngời Êđê, Cơhơ
Làng ấy có những nếp nhà rông, có con ngời ăn mặc đúng trang phục của dân
tộc mình. Rồi du khách có thể đợc uống rợu cần, đợc xem lễ hội đâm trâu, nghe
già làng kể khan,... Du khách cũng có thể đi săn, đi câu cá để hiểu thêm phong
tục tập quán của đồng bào. Vùng Tuyên Quang, Cao Bằng Quê hơng cách mạng
dựng nên cộng hoà chúng ta có thể phát triển du lịch văn hoá theo hớng: bên
cạnh việc trở về cội nguồn nghiên cứu lịch sử, còn là dịp thởng ngoạn cảnh đẹp
và thả hồn trong các lễ hội của đồng bào Tày, Nùng, Dao,... Ta có thể hiểu đợc
thế nào là lễ hội lồng tong (lễ hội diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10 âm lịch, Tết của
ngời Tày) với trò chơi ném còn, ta đợc nghe những câu Sli, câu lơn. Hết sức chú
ý tới kiến trúc phù hợp với từng vùng ở Hoà Bình có những khách sạn, mái lợp lá
cọ, xung quanh ríu rít tiếng chim hót, thơm ngát hoa rừng khách Tây, khách ta
đều thích.
Hiện nay ta có loại hình du lịch văn hoá Du lịch miệt vờn cũng thật thú vị
khác xa với đặc điểm của ngời Bắc Bộ. Ngời Nam Bộ sống hoà phóng trung thực,
nếp sinh hoạt ít chú ý vấn đề xây dựng nhà cửa cao rộng. Yêu thích ca cải lơng
và vọng cổ. Tục thờ cúng tổ tiên, lễ hội ở đồng bằng Nam Bộ cũng khác xa với
các vùng khác. Giao thông (nhất là vùng Cà Mau) chủ yếu bằng thuyền bè.

Miền Bắc mình ngoài tiềm năng phát triển chuyên sâu vào loại hình du lịch
văn hoá có thể phát triển du lịch đồng quê mà em nghĩ rằng khó có nơi nào trên
thế giới có đợc nh ở Việt Nam cái sớng thanh tao đợc vắt vẻo trên mình trâu
cùng hơng đồng gió nội trong tiếng sáo điều ngân nga buổi chiều tà. Không ít
ngời lu lạc nơi đất khách quê ngời chỉ thấy đợc cảnh đó trong mơ, trong nỗi buồn
đau của kẻ xa xứ.
Ngời miền Bắc trong tâm t của họ có tâm lý an lạc bằng lòng nghiêng về
21


khéo tay hay làm hơn là Ke về theo mẫu; lành làm gáo vỡ làm muôi; gỗ tốt
đẽo cày, không tốt làm đũa. Chất t duy không theo logic thờng là t duy gần
đúng. Đặc biệt có lẽ khách tham gia du lịch đồng quê này sẽ không ai không
cảm thấy một nhịp sống chậm chạp, lối sản xuất nhỏ nông nghiệp mà tôi thấy
hiện có nơi nào trên thế giới và vùng nào ở Việt Nam lại có tác phong công
nghiệp chậm chạp đến thế này?.
Sáu là, đa dạng hoá sản phẩm du lịch Việt Nam bằng cách tổ chức tốt hơn
lễ hội truyền thống. Hội đền Hùng, hội chùa Hơng hàng năm thu hút hàng vạn
khách du lịch. Đó là những cuộc du lịch văn hoá. Du khách đi hội với nhiều mục
đích khác nhau, nhng tựu trung lại là thởng ngoạn cảnh trí thiên nhiên, nghiên
cứu lịch sử văn hoá. Vì mục đích nh vậy nhiều ngời hết năm này qua năm khác
mà không năm nào bỏ đi hội. Cho nên du khách đến với hội luôn luôn thấy nét
mới, nét mới trong vẻ muôn đời của chân, thiện, mỹ. Cần chấm dứt tình trạng lợi
dụng lễ hội mà hành nghề mê tín dị đoan gây rối trật tự an toàn xã hội. Bằng
cách: Chúng ta có thể tuyên truyền giáo dục cho ngời dân địa phơng không bị
lừa gạt; tăng cờng bảo vệ trật tự an toàn ở các khu du lịch, xử lý kiên quyết
những ngời hành nghề bói toán, lên đồng; tổ chức thật tốt dịch vụ sinh hoạt nghỉ
ngơi dịch vụ văn hoá tại các điểm tổ chức lễ hội.
Bảy là, tuyển chọn, đào tạo đội ngũ hớng dẫn viên du lịch theo đúng nghĩa
của nó là ngời hớng dẫn viên có vốn hiểu biết phong phú về văn hoá, lịch sử. Hớng dẫn viên hơn ai hết là ngời thể hiện rõ nét nhất văn hoá của quê hơng, của

dân tộc mình. Họ phải đợc trang bị kiến thức đầy đủ trong các lĩnh vực mỹ thuật,
sâu khấu, lịch sử, kiến trúc phong tục tập quán, tôn giáo. Hớng dẫn viên du lịch
cần đợc đào tạo theo hớng chuyên môn hoá để có kiến thức sâu rộng, phục vụ
theo các yêu cầu tiêu dùng du lịch của con ngời với các đặc điểm tâm lý xã hội
khác nhau.
Dới góc độ của nhà kinh doanh du lịch, bạn có thể nhận thấy rằng: Nguồn
thu chủ yếu của du lịch văn hoá chỉ là những dịch vụ mà thôi: dịch vụ thuyết
minh, bán hàng lu niệm, mang đậm nét bản sắc quê hơng, dân tộc nơi du khách
đến,.... Một lần nữa chúng ta càng thấy rõ hơn công tác đào tạo hớng dẫn viên
cho ngành du lịch càng trở nên quan trọng, cấp thiết không những thông thạo
ngoại ngữ mà còn phải thông thạo văn hoá, lịch sử của đất nớc mình. Tăng cờng
nâng cao không những về mặt chất lợng cũng nh mặt số lợng hớng dẫn viên du
lịch: Ngời hớng dẫn viên ngoài các yêu cầu phải có nh đã nêu trên còn cần có
phơng pháp giới thiệu phù hợp với trình độ tâm lý, lứa tuổi với các đối tợng du
khách. Ngôn ngữ giao tiếp ứng xử của hớng dẫn viên du lịch sao cho thật thanh
lịch. Lời nói tiềng nói phải kết hợp đợc 6 thanh sắc của ngôn ngữ tiếng Việt với
sự sàng lọc tự nhiên của tiếng nói bốn phơng phải làm sao cho lắng đọng đợc
những gì tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất. Nếu ai đã một lần đợc về thăm quê Bác thì
ắt hẳn không ai có thể quên đợc lời giới thiệu về Bác của cô hớng dẫn viên với
giọng kể mà làm cho không ai không nén đợc xúc động. Đội ngũ cán bộ luôn
22


luôn ở trạng thái chủ động đòi hỏi phải luôn luôn phán đoán đợc những câu hỏi
đặt ra theo tâm lý của khách. Ngời hớng dẫn viên phải tạo đợc hứng thú cho
khách cảm thụ đợc các giá trị với chi phí họ bỏ ra.
Hiện nay khách tham quan du lịch di tích lịch sử, di sản văn hoá từ nớc
ngoài vào Việt Nam trở lại là rất ít, hầu nh là không có khách quay trở lại tham
quan lần thứ hai. Vậy làm thế nào để thu hút khách trở lại? Tham quan du lịch
văn hoá (tham quan) nghiên cứu, tìm hiểu các di tích lịch sử, di sản văn hoá.

Cái khó trong du lịch tham quan tìm hiểu về các di tích lịch sử, di sản văn
hoá là làm thế nào xác định đợc cái gì thừa, cái gì để bán Bởi vì di tích lịch sử,
di sản văn hoá không đợc coi là hàng để bán mặc dầu có bán. Kết tinh trong nó
là toàn bộ giá trị văn hoá - yếu tố bất biến. Vậy điểm quan trọng để cho du
khách hiểu đợc giá trị cũng nh ý nghĩa về lịch sử các di sản đó. Thông thờng du
khách khó có thể chấp nhận hoặc không thể hiểu đợc cách giải thích trìu tợng,
phức tạp tại các di sản văn hoá cho nên một cách diễn đạt đơn giản, xúc tích là
rất cần thiết.
Tám là, Việt Nam là một nớc cha đợc biết nhiều trên thế giới, ngành du lịch
Việt Nam còn non trẻ, mới phát triển vì vậy mà du lịch văn hoá ở nớc ta cha đợc
khách du lịch quốc tế tham gia nhiều. Trớc thực tế đó ngành du lịch Việt Nam
nói chung và các công ty du lịch cần tuyên truyền sâu rộng mạnh mẽ trên thị trờng quốc tế về Việt Nam. Chúng ta phải quảng cáo thật đúng, thật hay về các di
tích lịch sử, văn hoá đó. Quảng cáo trong kinh doanh du lịch văn hoá phải trở
thành hoạt động tất yếu, tuyên truyền quảng cáo cần nhiều phí nhng chúng ta
phải thấy rằng đó là những chi phí cần thiết và chi phí quảng cáo sẽ tỷ lệ với lợi
nhuận thu đợc. Cụ thể các công ty du lịch có thể:
+ Sử dụng các phơng tiện thông tin đại chúng. Phim tài liệu (du lịch quanh
màn ảnh nhỏ).
+ Tổ chức các hội chợ triển lãm, hàng cổ truyền, các cuộc hội thảo nhằm
mục đích tuyên truyền rộng rãi giới thiệu sản phẩm, tìm bạn hàng,...
+ Tiến hành quảng cáo ra nớc ngoài bằng nhiều hình thức.
+ Mặt hàng lu niệm ngoài mục đích làm tăng doanh thu phải triệt để mục
đích quảng cáo.
+ Cần phát hành các tờ gốc, những cuốn sách chỉ dẫn, giới thiệu về Việt
Nam, xây dựng một bản đồ đầy đủ chi tiết về các di sản văn hoá Việt Nam,
những tờ gấp hớng dẫn để phục vụ khách và quảng cáo,... các tài liệu này phải rõ
ràng có tranh ảnh minh hoạ, giúp hiểu đợc những nét chung nhất về địa hình, phơng tiện, lịch sử công trình, các đặc điểm chủ yếu về kiến trúc, vị trí lịch sử của
di tích và danh thắng trong văn hoá dân tộc, các chỉ dẫn phải đợc trình bày sao
cho khách nớc ngoài có thể hiểu đợc các thông tin đa ra phải mới và đầy đủ giúp
cho khách hiểu biết nhiều hơn về văn hoá, lịch sử Việt Nam. Các cuốn sách chỉ

23


dẫn, giới thiệu về Việt Nam. Có thể là một hình thức tặng quà lu niệm cho đoàn
khách sau mỗi chuyến đi.
Chín là, để phát triển du lịch văn hoá thì không một quốc gia nào không
nghỉ đến việc nâng cao dân trí, hiểu biết về vai trò của văn hoá - du lịch của đất
nớc. Muốn phát triển du lịch văn hoá cần tạo ra sự chuyển biến nhận thức sâu sắc
trong quần chúng nhân dân. Do vậy ngành du lịch Việt Nam cần phải tổ chức thờng xuyên các cuộc tìm hiểu về du lịch cho mỗi ngời dân nhận thức đúng về sự
phát triển du lịch, lôi cuốn mọi ngời tham gia vào dòng du lịch góp phần vào sự
phát triển của du lịch văn hoá. Quần chúng có vai trò rất quan trọng trong việc
giữ gìn nâng cao nét đẹp truyền thống dân tộc Việt Nam bảo vệ tu bổ những khu
di tích, danh lam thắng cảnh, đền đài, miếu mạo, lễ hội dân tộc,... Họ là những
ngời sáng tạo và sản xuất ra những mặt hàng thủ công mỹ nghệ, những món quà
lu lại hình ảnh quê hơng Việt Nam trong tâm trí khách du lịch, du khách ngoài
nớc và lực lợng đảm bảo an toàn cho du khách.
Mời là, Việt Nam phải tự mình có cách riêng trong việc kinh doanh du lịch
nói chung, văn hoá nói riêng, nhng con đờng ấy của Việt Nam là gì? Nên phát
triển Việt Nam theo hớng nào? Chúng ta làm theo kiểu du lịch nh các quốc gia
khác: Thái Lan, Malaixia, Nhật Bản, hay Trung Quốc ? Tôi nghĩ rằng chúng ta
không nên dập khuôn làm theo một kiểu dáng du lịch thì bất kỳ một quốc gia
nào vì mỗi quốc gia có những điều kiện và vị trí địa lý, kinh tế, chính trị và nền
tảng văn hoá là rất khác nhau. Việt Nam phải tự mình có cách riêng trong việc
kinh doanh du lịch của mình nói chung và du lịch văn hoá nói riêng. Theo tôi, ở
nớc ta dựa vào đặc điểm di tích văn hoá lịch sử của từng vùng đất nớc mình mà
ta chọn hớng phát triển du lịch văn hoá cho phù hợp. Du lịch văn hoá Việt Nam
có nét hấp dẫn riêng của nó, không giống một quốc gia nào.
Xây dựng biểu tợng du lịch di sản văn hoá riêng biệt, đặc trng cho Việt
Nam trên thị trờng du lịch quốc tế.
Mời một là các nhà kinh doanh du lịch phải biết khơi dậy nhu cầu cảm thụ

các giá trị thẩm mỹ bằng chính cái đẹp của văn hoá truyền thống mang bản sắc
dân tộc, vợt lên những dịch vụ tầm thờng của văn hoá phẩm hiện đại. Ví dụ du
lịch văn hoá đang đợc mở rộng ra ở nhiều doanh nghiệp nh: cơm cung đình ở
khách sản Rex (Sài Gòn), Hơng Giang ở Huế, Nhạc Cung đình cũng đợc nhân
rộng ra ở nhiều khách sạn, đa những làn điệu dân ca câu hò Huế dịu ngọt, êm ái,
lắng đọng mà chẳng nơi nào có đợc, đó tất cả là những nguyên nhân kích thích
nhu cầu của khách đến với những mảnh đất trinh nguyên giàu tính nhân văn của
con ngời Việt Nam, tinh hoa dân tộc Việt Nam.
Mời hai là, Tiếp thu một cách có chọn lọc các giá trị văn hoá. Ngày nay
trong thời đại xu hớng quốc tế hoá sản xuất và ngày càng gia tăng sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đợc thúc đẩy, vấn đề bảo tồn và phát triển nền văn
hoá dân tộc là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Để mất văn hoá dân tộc hay

24


làm cho bản sắc văn hoá dân tộc bị mờ nhạt, bị lai căng pha tạp thì dân tộc
không còn sức sống, thậm chí không còn tồn tại nh một quốc gia nữa.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thời kỳ mở
cửa, giao lu văn hoá quốc tế là lẽ đơng nhiên, không thể bảo vệ văn hoá dân tộc
bằng cách đóng kín cửa mà ngợc lại mở rộng giao lu văn hoá quốc tế để chúng ta
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại bồi dỡng cho bản sắc văn hoá Việt Nam. Tuy
nhiên trong quá trình giao lu văn hoá chúng ta cần nắm vững nguyên tắc: tiếp
thu tinh hoa nhân loại và bảo vệ, phát huy bản sắc dân tộc là hai mặt của một vấn
đề, trong đó cần phải lấy bản sắc văn hoá Việt Nam làm nền tảng làm Bộ lọc
cho sự tiếp thu. Thực hiện tốt nguyên tắc đó mới xây dựng đợc nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại ngày nay.
Mời ba là, Ngành du lịch địa phơng cần phối hợp với các ngành có liên
quan trong việc thực hiện chính sách bảo vệ duy trì, khôi phục ngành nghề
truyền thống đề xuất mở xởng dạy nghề. Đặc biệt nên chăng các ngành cùng

nhau tiến hành lập kế hoạch và bổ trợ vốn mở các lớp, khoá huấn luyện các nghệ
nhân già có kinh nghiệm truyền lại vốn tri thức kinh nghiệm của mình cho lớp
trẻ.
Nhà nớc cần có những biện pháp để khuyến khích các nghề thủ công này
phát triển nh có chính sách u đãi về thuế xuất nhập khẩu, những mặt hàng thủ
công mỹ nghệ hoặc tạo điều kiện thuận lợi khác để mở rộng thị trờng cho mặt
hàng truyền thống. Khuyến khích việc tổ chức liên doanh giữa cơ sở sản xuất
nghề truyền thống với các hãng nớc ngoài để sản xuất và xuất khẩu đồ thủ công
mỹ nghệ.
Ngành du lịch và các công ty du lịch có thể cùng với Nhà nớc hỗ trợ về vốn,
tuyên truyền quảng cáo hỗ trợ về việc bán các sản phẩm này.

25


×