Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn ea súp, huyện ea súp, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.37 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp giảm
nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk” tôi xin chân thành
gửi lời cảm ơn đến:
Toàn thể các thầy, cô giáo Trường Đại học Tây Nguyên nói chung, thầy
cô giáo Khoa Kinh tế nói riêng đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến
thức cơ sở lý luận rất quý giá giúp cho tôi nâng cao được nhận thức trong quá
trình thực tập cũng như quá trình nghiên cứu.
Đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn Cn. Nguyễn Đức Quyền đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành
đề tài này.
Tôi xin cảm ơn các bác, cô, chú, anh, chị ở UBND thị trấn Ea Súp và bà
con trong thị trấn đã tận tình giúp đỡ tôi trong việc thu thập số liệu và áp dụng
các kiến thức đã học vào thực tiễn.
Đắk Lắk, tháng 06 năm 2016
Sinh viên
Lê Công Kiệm

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

NGUYÊN NGHĨA


ANQP

An ninh quốc phòng

BHYT

Bảo hiểm y tế

BQ

Bình quân

CNH

Công nghiệp hóa

DTTS

Dân tộc thiểu số

ĐV

Đơn vị tính

ĐVT

Đơn vị tính

GDVH


Gia đình văn hóa

HĐH

Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHHGĐ

Kế hoách hóa gia đình

KHKT

Khoa học kỹ thuật

NHTG

Ngân hàng thế giới

NNNT

Nông nghiệp nông thôn

NTM

Nông thôn mới


PTNN

Phát triển nông thôn

PTSX

Phương tiện sản xuất

QCHQS

Ban chỉ huy quân sự

TB&XH

Thương và binh xã hội

TCTK

Tổng cục thống kê

UBND

Ủy ban nhân dân

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

3



DANH MỤC BẢNG BIỂU

4


PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài
Trong 30 năm qua, từ năm 1986 Việt Nam là một trong những nước
thành công về quá trình phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam từ
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu
người dưới 100 đô la Mỹ đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp,
với thu nhập đầu người 1.200 đô la Mỹ như hiện nay.
Để giảm tỷ lệ nghèo xuống mức thấp nhất, không còn tình trạng tái
nghèo của người dân thì công tác giảm nghèo luôn luôn là mối quan tâm hàng
đầu của nước ta, bởi vì giàu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một quốc
gia. Xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những mục tiêu trọng tâm trong
mối quan tâm của đảng, nhà nước, nhân dân việt nam đặc biệt là xóa đói giảm
nghèo ở khu vực miền núi nông thôn. Trong thực tế, hoạt động giảm nghèo đã
đạt được những tiến bộ đáng kể nhưng còn không ít khó khăn, thách thức cần
vượt qua để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc mà việt nam
đã cam kết. Thị trấn Ea Súp có Tổng diện tích tự nhiên 1.365 ha. Tổng số
nhân khẩu trên địa bàn thị trấn: 12.492 khẩu với 2.833 hộ, dân tộc thiểu số:
668 hộ/3.338 khẩu, chiếm 28,55% số dân trong toàn thị trấn gồm các dân
tộc: Tày, Nùng, Ê Đê, Mường, Chăm,… được phân bố trên 5 tổ dân phố, 10
thôn, 5 buôn. Người dân ở đây sống chủ yếu là nhờ sản xuất nông nghiệp,
cây trồng chủ yếu là cây lúa, ngô,…và các loại cây lương thực, hoa màu.
Các ngành nghề thương mại và dịch vụ chiếm tỷ lệ không đáng kể làm cho

đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao
(UBND thị trấn Ea Súp).
Trong những năm qua thị trấn đã thực hiện nhiều chương trình mục tiêu
xóa đói, giảm nghèo như: vay vốn NH chính sách xã hội cho người nghèo,
các chương trình khuyến nông, hỗ trợ nhà ở cho người nghèo,…Đã đạt được
nhiều kết quả lớn, số hộ nghèo đã giảm qua các năm, tỷ lệ hộ nghèo bình
quân mỗi năm giảm 8% tính đến 2015 toàn thị trấn còn 194 hộ nghèo, chiếm

5


tỷ lệ là 11,96%. Số hộ nghèo đã giảm từ 256 hộ vào năm 2013 xuống còn 194
hộ vào năm 2015; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 24,2% vào năm 2013 xuống còn
11,96% vào năm 2015 (UBND thị trấn Ea Súp). Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như một bộ phận người
nghèo chưa tiếp cận được với dịch vụ y tế, nhất là đối với những truờng hợp
đi làm ăn xa và già yếu không tự đi lại được; tỷ lệ đối tượng cận nghèo tham
gia bảo hiểm y tế chưa cao; mức cho vay còn thấp đã hạn chế phần nào về
quy mô sản xuất của hộ nghèo; công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao
nhận thức về công tác giảm nghèo ở một số địa phương còn hạn chế,
chưa được thường xuyên; một bộ phận hộ nghèo và cận nghèo còn mang tính
ỷ lại, không tự lực vươn lên để thoát nghèo…
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp,
tỉnh Đắk Lắk”
2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá thưc trạng giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh
Đắk Lắk.

- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp,
huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo tại thị trấn
Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.

6


PHẦN HAI: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1

Cơ sở lý luận
1

Một số khái niệm cơ bản

2.1.1.1. Nghèo đói
Thực tế, thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng
khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo bốn khía
cạnh là thời gian, không gian, giới và môi trường (Trần thị Hằng).
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống
dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài, cũng có một số người nghèo khổ
tình thế như những người thất nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái
kinh tế hoặc thiên tai địch họa, tệ nạn thị trấn hội, rủi ro…
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có phần
lớn dân số sinh sống. Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết ở
các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới, nhiều hộ gia đình
nghèo nhất do nữ giới là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ
thì người phụ nữ vẫn khổ hơn nam giới.

Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói, nghèo đều sống ở
những vùng khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và xuống cấp của môi
trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm.
Khi đánh giá nước giàu, nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được
biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người
(GDP). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng chỉ căn cứ vào thu nhập
thì chưa đủ căn cứ để đánh giá, vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này tổ chức hội đồng
phát triển Hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng cuộc sống (PQLI) để
đánh giá, bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau: - Tuổi thọ - Tỷ lệ xoá mù chữ - Tỷ lệ
tử vong của trẻ sơ sinh.
Quan điểm về nghèo hay nhận dạng nghèo của từng quốc gia hay
từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể,
7


tiêu chí chung nhất để xác định nghèo vẫn là mức thu nhập hay mức chi
tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế,
giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp thị trấn hội.
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa
mãn những nhu cầu tối thiểu cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống của cộng đồng trên mọi phương diện (Trần thị Hằng).
+ Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc
điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát
triển kinh tế thị trấn hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
- Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đưa ra:
+ Nghèo tuyệt đối: là việc không thỏa mãn nhu cầu tối thiểu để nhằm
duy trì cuộc sống của con người.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng không đạt tới mức sống tối thiểu tại
mộ thời điểm nào đó.

2.1.1.2. Hộ nghèo
- Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình
chỉ thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện
(Trần thị Hằng).
 Khái niệm về thị trấn nghèo và vùng nghèo:
- Thị trấn nghèo là thị trấn có đặc trưng như sau:
+ Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 40% số hộ của thị trấn.
+ Không có hoặc thiếu rất nhiều những công trình cơ sở hạ tầng như:
Điện sinh hoạt, đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt.
+ Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ người mù chữ cao.
- Khái niệm vùng nghèo: là chỉ địa bàn tương đối rộng có thể là một số
thị trấn liền kề nhau hoặc một vùng dân cư nằm ở vị trí rất khó khăn hiểm trở,
giao thông không thuận lợi (Trần thị Hằng).

8


2.1.1.3. Hộ tái nghèo, hộ thoát nghèo
- Hộ thoát nghèo là hộ nghèo trong năm trước năm báo cáo nhưng
không còn là hộ nghèo trong năm báo cáo theo chuẩn nghèo cho một thời kỳ
nhất định (thường là 1 năm) trong đó có năm báo cáo.
- Hộ tái nghèo là hộ đã thoát nghèo nhưng trong năm báo cáo lại rơi
vào hộ nghèo theo chuẩn nghèo cho một thời kỳ nhất định (thường là một
năm), trong đó có năm báo cáo.
2.1.1.4. Chính sách giảm nghèo
- Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện
nào đó củ chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và
cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát
triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - thị trấn hội - môi trường.

- Chính sách giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế thị
trấn hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo, thực hiện mục tiêu xoá giảm nghèo,
từ đó xây dựng một thị trấn hội giàu đẹp (Trần thị Hằng).
2

Các quan điểm đánh giá nghèo
Sẽ không có chuẩn nghèo nào chung cho tất cả các nước, vì nó phục

thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng từng quốc gia.
- Phương pháp thông dụng để đánh giá mức độ nghèo là xác định mức thu nhập
có thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của con người, sau đó xác
định xem ở trong nước hay vùng có bao nhiêu người có mức thu nhập ở mức
đó. Tuy nhiên phương pháp lượng hóa nhu cầu tối thiểu ở mỗi nước để biểu
hiện đường ranh giới đói nghèo cũng khác nhau.
- Trên thế giới, các nước thường đưa ra những chỉ số thu nhập khác nhau của
mình. Tuy nhiên thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ là một trong
những căn cứ để đo mức độ phát triển chung của một số nước so với các nước
khác. Chỉ số thu nhập có tính chất tương đối và có hạn chế nhất định, không
phải chỉ số trung bình cao về thu nhập quốc dân (GDP) là hết đói nghèo. Thực
tế trên thế giới không thiếu gì những quốc gia tư bản chủ nghĩa có trình độ

9


phát triển cao, phải có thu nhập bình quân đầu người rất cao song cũng chính
ở đó đang diễn ra cảnh đói nghèo và mất công bằng xã hội gay gắt. Cho đến
nay, tiêu chuẩn thu nhập quốc dân bình quân đầu người đang được sử dụng
ngày càng phổ biến để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. XĐGN
là tìm con đường phát triển tốt nhất, là làm tăng lên không ngừng mức sống

và chất lượng cuộc sống của dân cư theo mục tiêu công bằng xã hội. Để phân
tích nước nghèo, nước giàu của quốc gia bằng mức thu nhập bình quân đầu
người trên năm để đánh giá thực trạng giàu- nghèo của các nước ở cấp độ sau:
Nước cực giàu: Từ 20.000- 25000 USD/người/năm.
Nước khá giàu: Từ 10.000- 20.000 USD/người/năm.
Nước trung bình: Từ 2.500- 10.000USD/người/năm.
Nước cực nghèo: Từ 500USD/người/năm.
Ở Việt Nam, Bộ Lao động thương binh và xã hội (LĐ- TB&XH) là cơ
quan thường trực thực hiện XĐGN. Cơ quan này đã đưa ra mức xác định khác
nhau về nghèo đói tùy theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
+ Theo chuẩn nghèo, cận nghèo quy định tại Quyết định số
09/2011/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng chính phủ ban
hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015:
Bảng 2.1 : Tiêu chí phân loại hộ
Mức chuẩn nghèo
Mức chuẩn cận nghèo

Thành thị
<= 500.000đ/ng/tháng
501.000 650.000đ/ng/tháng

Nông thôn
< = 400.000đ/ng/tháng
401.000 –
520.000đ/ng/tháng
(Nguồn: UBND thị trấn)

* Mức chuẩn nghèo
- Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

- Khu vực thành thị: Những nhóm hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
* Mức chuẩn cận nghèo

10


- Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đến 520.000 đồng/người/năm là hộ cận nghèo.
- Khu vực thành thị: Những nhóm hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000 đến 650.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
Với cách đánh giá mức chuẩn nghèo đói theo thu nhập như trên tuy đã
có tiến bộ và định mức thu nhập được quy thành giá trị, dễ so sánh nhưng vẫn
còn một số hạn chế là: Không phản ánh được chỉ tiêu, tổng hợp mức sống của
người nghèo (như tình trạng nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt, y tế, giáo dục và
mức hưởng thụ các dịch vụ cơ bản khác): không phản ánh được mức cân đối
giữa chuẩn mực so với đời sống thực của người nghèo.
Mỗi vùng mỗi địa phương quy định chuẩn nghèo khác nhau tùy thuộc
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương theo thời điểm nhất định. Ở
thị trấn Ea Súp nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung đều lấy chuẩn nghèo theo
quy định chung của bộ LĐ- TB&XH đã quy định.
2.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Theo đánh giá của Liên hợp quốc về nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
(Documents).
Đặc trưng của hộ nghèo:
+ Sử dụng 70% thu nhập chi phí cho ăn uống.
+ Thu nhập bình quân < 15kg gạo/người/tháng.
+ Thiếu ăn 3 tháng trở lên trong năm.
+ Nợ sản lượng khoán triền miên không có khả năng hoàn trả.
+ Phải vay nặng lãi để ăn.

+ Con em không có điều kiện đến trường.
+ Ốm đau không có tiền chạy chữa.
+ Thiếu cơ hội lựa chọn các dịch vụ có chất lượng cao.
Tuỳ thuộc vào điều kiện đáp ứng nhu cầu cuộc sống đối với mỗi cá thể,
mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia trong những giai đoạn lịch sử khác nhau mới
có thể xác định nguyên nhân của nghèo, nhưng tổng hợp chung lại có thể nêu
ra các nguyên nhân cơ bản sau:

11


Nhóm 1. Nguyên nhân chủ quan của nghèo
- Không biết cách sản xuất, đông con, neo đơn, thiếu lao động, ăn tiêu
lãng phí, lười lao động, mắc các bệnh và tệ nạn xã hội. Những nguyên nhân
này là do tự bản thân người nghèo, đặc biệt liên quan chủ yếu đến chủ hộ
hoặc người điều hành quản lý công việc trong hộ gia đình.
Nhóm 2. Nguyên nhân khách quan dẫn đến nghèo
- Do thiếu vốn, thiếu đất canh tác, đất đai cằn cỗi, ít màu mỡ, canh tác
khó khăn. Mặt khác, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, hạn hán, lũ lụt
diễn ra thất thường. Những nơi xa xôi hẻo lánh không có đường giao thông,
không có sự đầu tư kịp thời và cụ thể của Nhà nước về cơ sở vật chất và khoa
học kỹ thuật hoặc có đầu tư nhưng mang tính được đến đâu hay đến đó,
không có đánh giá tổng kết hiệu quả đầu tư nên dẫn đến một bộ phận nhân
dân có thái độ trông chờ, ỷ lại, dẫn đến tình trạng nghèo càng nhiều hơn.
Ngoài ra còn do chính sách đầu tư giữa các vùng – miền không đúng mức đã
dẫn đến sự chênh lệch giàu - nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa miền
xuôi và miền núi, giữa dân tộc này với dân tộc khác.
- Nhìn chung, các nguyên nhân nghèo không tồn tại độc lập, riêng rẽ
mà chúng đan xen lẫn nhau. Vì vậy, nghèo phải được nhìn nhận theo quan
điểm hệ thống. Trợ giúp cho đối tượng nghèo chỉ là giải pháp trước mắt, tạm

thời. Muốn giảm nghèo bền vững cần phải có giải pháp đúng đắn.
Nhóm 3. Các nguyên nhân kết hợp
Do các hộ nghèo thường là đông con, thiếu việc làm, thiếu ruộng đất,
thu nhập thấp, họ muốn đi làm thuê nhưng lại có những băn khoăn: Sợ không
có người thuê, sợ không có bảo hiểm, sợ mang tiếng phải đi làm thuê, sợ
không được trả công thoả đáng.... Hoặc là do trình độ hiểu biết thấp nên
không biết làm ăn, sản xuất không có hiệu quả nhưng lại không thể tham gia
các hoạt động giáo dục đào tạo của cộng đồng để nâng cao trình độ mà luôn
mặc cảm, tự ty,.... Điều này khiến cho người nghèo không thể thoát nghèo
được, nó thể hiện như một cái vòng luẩn quẩn mà người ta còn gọi là “Vòng
luẩn quẩn của sự nghèo đói”.

12


Nhóm 4. Do thị trường không ổn định
Do thị trường không ổn định giá cả các mặt hàng nông sản tăng giá
trượt giá và trượt giá liên tục đầu vào, sản phẩm nông nghiệp chưa có thị
trường tiêu thụ ổn định, bấp bênh và thường không có sức cạnh tranh trên thị
trường dẫn đến họ nhiều thiệt thòi.
Nhóm 5. Những tình huống đột xuất
Đa số dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa bị cô lập
về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch
vụ xã hội nên dẫn đến nghèo với họ và khó có thể giảm nghèo.
Do bệnh thành tích, một số địa phương đã khống chế tỷ lệ nghèo thấp
hơn so với thực tế dẫn đến trong thực tế vẫn còn một bộ phận người nghèo
chưa được tiếp cận được các chính sách, dự án dành cho người nghèo, điều
này gây ra những nhận thức sai lệch về chủ trương của Đảng và chính sách
của Nhà nước.
2.1.4. Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác

giảm nghèo
Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt.
Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:
Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung và nhiệm vụ cần thực hiện để
bảo đảm công bằng xã hội. thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy
sinh đói nghèo không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế,
địa lý mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình.
Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm
nghèo mang tính thường trực.
Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có
xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên, liên tục
và lâu dài thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo cũng là vấn đè liên tục và lâu dài

13


mới giải quyết được.
Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ.
Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu
dài, lại là một công việc cần làm trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và
công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội
là một bước cải thiện đời sống của nhân dân, bởi vì đây không chỉ là việc
thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương
thân” mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện xóa đói giảm nghèo nhưng đây

là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối.
Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư
phát triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển
đến giai đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói
giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có
ảnh hưởng đến việc giả quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu
của đói nghèo nói chung là kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại
do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù, trong điều kiện kinh tế nước ta
hiện nay chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát
triển cũng là phải chấp nhận tình trạng giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói
giảm nghèo không những là công việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và
quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi,
nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng
người khác, cũng như tình trạng “ kẻ ăn không hết, người lần không ra”,
không để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của công đồng.
Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có
nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không mang tính chất cào bằng.
Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước đây
đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển

14


kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên,
nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân
hóa hai cực, làm tăng sự khốn đốn với không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy
trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải tạo mọi điều
kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của
nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục.
Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội.

Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không
dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hôi, không phải việc của riêng ngành
lao động - xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa, mà là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện
thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ Đảng, chính quyền
phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện giải pháp một cách đồng bộ và phải
có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
2
1

Cơ sở thực tiễn
Hoạt động xóa đói giảm nghèo trên thế giới
Đói nghèo là vấn đề đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới, nó trở
thành vấn nạn trên toàn cầu. Trong lịch sử có nhiều nạn đói chết hàng triệu
người dân châu Á, châu Phi. Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra
theo chiều hướng rất đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ
đối với người nghèo đang gia tăng trên quy mô toàn cầu và tốc độ tăng trưởng
kinh tế suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình
trạng nghèo đói, thêm vào con số 130- 155 triệu người năm 2008, khi giá
nhiên liệu và thực phẩm tăng cao.
Ngày 15/5/2012, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra nghiên cứu
năm 2012 về thị trường lao động, nhấm mạnh từ những năm qua, tình trạng
nghèo khổ gia tăng không còn là vấn đề đáng lo ngại ở các nước phát triển.
Từ khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ, tỷ lệ nghèo khổ đã giảm mạnh
ở 75% các nước đang phát triển, nhưng lại đang tăng lên ở 25 nước trong 36
nước phát triển.

15



Đói nghèo đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn định
và phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là một
chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể thống
nhất.Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết giữa các quốc gia lại với nhau,
các quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, sự ổn định và phát
triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định và
phát triển của các quốc gia khác. Nghèo đói đe dọa đến sự sống của loài
người bởi. “Nghèo đói đã trở thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị
đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn
chính trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến tranh
không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà là cả thế giới. Bởi những bất công
và nghèo đói thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ
quốc tế, và nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết một cách thỏa
đáng bằng con đường hòa bình thì tất yếu sẽ xảy ra chiến tranh.
2

Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước trên thế giới
1

Giải quyết đói nghèo ở Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến

việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các
vùng đô thị, xây dựng vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là
tá điền, ruộng đất tập các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế
nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu trung vào sở hữu của giai cấp địa
chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di
dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, Chính phủ không thể
kiểm soát nổi, gây nên tình trạng mất ổn định chính trị -xã hội. Để ổn định
tình hình chính trị - xã hội, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các

chính sách kinh tế - xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều
chỉnh các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn và
một chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội
dung cơ bản:

16


- Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông
dân vay.
- Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
- Thay giống lúa mới có năng suất cao.
- Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành
lập các hợp tác xã sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá,
cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, Chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân
dân có việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân ra các thành
phố lớn để kiếm việc làm. Chính sách này đã được thể hiện thông qua kế
hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh
tế phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn.
Tóm lại: Hàn Quốc đã trở thành 1 nước công nghiệp phát triển nhưng
Chính phủ vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở
khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế
ổn định và bền vững cho nền kinh tế (Documents).
2

Giải quyết đói nghèo ở Đài Loan
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES), nhưng là 1


nước thành công nhất về mô hình kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp
với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn đó là Chính phủ Đài Loan đã áp
dụng thành công một số chính sách về phát triển kinh tế -xã hội như:
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia
đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất
hàng hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn, mở mang thêm những nghành sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp
cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp,
vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% số trang trại sản xuất thuần

17


nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động trong nông
nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các nghành công nghiệp phát triển.
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển
nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn
cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông
nông thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá
nông thôn góp phần cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông
thôn. Chính quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp
ngay ở vùng nông thôn để thu hút những lao đông nhàn rỗi của khu vực nông
nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân nghèo, góp phần cho họ ổn
định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc đối với những
người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của nhân dân nông thôn được
nâng lên đáng kể, cùng với trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống
được cải thiện, Tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 3,2%/năm (1950) xuống còn

1,5%/năm (1985). Hệ thống y tế , chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
cũng được quan tâm đầu tư thích đáng.
Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan còn 1 số nước ASEAN cũng có những
chương trình phát triển kinh tế -xã hội bằng con đường kết hợp giữa những
ngành công nghiệp mũi nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn với mục
đích xoá đói giảm nghèo trong dân chúng nông thôn. Điều đặc trưng quan
trọng của các nước ASEAN là ở chỗ những nước này đều có nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có nghĩa là vào lúc khởi đầu
của quá trình công nghiệp hoá. Tất cả các nước ASEAN (trừ Singapore) đều
phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một trong
những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp, điển hình là những nước như
Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia. Tất cả những nước này phần
lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc hậu, thu
nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà Chính phủ các nước
này trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế -xã hội họ đều rất chú

18


trọng đến các chính sách nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ,
giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần thiết về vốn đầu tư để
tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp. Tuy nhiên khi bước vào
giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, tất cả các nước ASEAN đều nhận
thấy rằng không thể đi lên chỉ bằng con đường nông nghiệp mà phải đầu tư
cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính vì lẽ đó mà các chính sách về phát
triển nông nghiệp nông thôn cũng như các chương trình phát triển khác như
chương trình xoá đói giảm nghèo không được chú trọng như ở giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy khoảng cách về thu nhập của những
người giàu với những người nghèo là rất lớn. Sự phân tầng xã hội là rõ rệt gây
mất ổn định về tình hình chính trị xã hội, từ đó làm mất ổn định trong phát

triển kinh tế .
Sự phồn vinh của Bangkok, Manila được xây dựng trên nghèo khổ của
các vùng nông thôn như ở vùng Đông bắc Thái Lan, ở miền trung đảo Ludon.
Cho đến nay sự bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiếp tục gia tăng,
các thành phố lớn, các khu cônh nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm
1981 Bangkok đóng góp 42% GDP, đến năm 1989 lên tới 48% cho GDP
trong khi đó phần đóng góp cho GDP ở các vùng khác lại giảm xuống như ở
miền bắc và miền nam Thái Lan phần đóng góp đã giảm xuống từ 14,7% năm
1981 xuống còn 10% năm 1989.
Ở Malaysia Chính phủ đã thực hiện chính sách phân phối lại trong nền
kinh tế quốc dân, nhưng việc phân phối lại thì lợi ích vẫn chủ yếu tập trung
cho tầng lớp giàu có, những người nghèo khổ đặc biệt là nông dân hầu như
không được chia sẻ lợi ích đó, khái niệm công bằng ở đây là sự công bằng
giữa tầng lớp giàu có.
Vào năm 1985 ở Malaysia có tới 82.000 hộ gia đình ở khu vực nông
thôn thuộc diện nghèo đói.
Tình trạng nghèo khổ ở Philippines còn tồi tệ hơn, năm 1988 tỷ lệ
nghèo đói ở Philippines lên tới 49,5% dân số trong 3,1 triệu hộ gia đình đói

19


nghèo thì tới 2,2 triệu gia đình (72,8%) sống ở khu vực nông thôn, đời sống
chủ yếu dựa vào nghề nông , còn 843.000 hộ (27,2%) sống ở khu vực phi
nông nghiệp. Điều này cho thấy đa số những người nghèo Philippines sống
tập trung ở khu vực nông thôn.
Tình trạng nghèo khổ ở các nước ASEAN vẫn tiếp tục gia tăng, cùng
với quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này, điều này cho thấy do
sự tăng trưởng kinh tế không theo kịp sự tăng trưởng dân số, mặt khác là do
quá trình chuyển dịch cơ cấu sang những ngành sản xuất công nghệ cao của

một số nước ASEAN hiện nay làm cho nạn thất nghiệp ngày càng trầm trọng
hơn. Để giải quyết tình trạng đói nghèo, Chính phủ các nước ASEAN có rất
nhều cố gắng.
Chính phủ Indonesia trong kế hoạch 5 năm lần năm đã tăng chỉ tiêu cho
các hoạt động tạo ra những việc làm mới cho những người chưa có việc làm,
nhằm tạo thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần tích cực cho công
cuộc xoá đói giảm nghèo cho nhân dân.
Ở Thái Lan, một trong những biện pháp chống nghèo khổ mà nước này
đã áp dụng là phân bố cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng mới về khu vực
nông thôn, nơi có sẵn tài nguyên thiên nhiên nhằm thu hút số lao động dư ở
khu vực nông nghiệp (để khắc phục tình trạng dân lao động di cư vào thành
phố kiếm việc làm) làm tăng thu nhập cho người dân và gia đình họ. Biện pháp
này còn nhằm mục đích đô thị hoá nông thôn, đưa những vùng nông thôn hẻo
lánh xa xôi vào dòng phát triển chung của Đất nước. (Documents).
3

Giải quyết đói nghèo ở Trung Quốc
Ngay từ khi Đại Hội Đảng XII của Đảng cộng sản Trung Quốc năm

1984, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực. Mục
đích của nó là làm thay đổi các quan hệ chính trị, kinh tế ở nông thôn, giảm
nhẹ gánh nặng về tài chính đã đè quá nặng lên những người nghèo khổ ở nông
thôn trong nhiều năm qua, phục hồi ngành sản xuất nông nghiệp.
Năm 1985 Đặng Tiểu Bình đã nói:" Sự nghiệp của chúng ta sẽ không
có ý nghĩa gì nhiều nếu không có sự ổn định ở nông thôn..". Sau khi áp dụng

20


một loạt các chính sách cải cách kinh tế ở khu vực nông thôn, Trung Quốc đã

thu được những thành tựu đáng kể, đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong
thể chế chính trị, thay đổi về căn bản về cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển đổi
phương thức quản lý, thay đổi căn bản phương thức phân phối, phân phối
theo lao động đóng vai trò chính, và Trung Quốc đã thực hiện thành công việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm Trung Quốc thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế
thị trường thì sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội. Do chính
sách mở cửa nền kinh tế, các thành phố lớn thì tập trung các nhà máy sản xuất
công nghiệp, tuy có phát triển một số nhà máy công nghiệp ở một số vùng
nông thôn, song vùng giàu có thì ngày càng giàu có, vùng nghèo đói thì vẫn
nghèo đói nhất là vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục tình trạng nghèo khổ cho
khu vực nông thôn Chính phủ đã đưa ra một loạt các giải pháp cơ bản nhằm
xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có các giải pháp về tập trung phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng định canh, định cư,
khu dân cư mới, chính sách này đã đem lại những thành công đáng kể cho nền
kinh tế -xã hội Trung Quốc trong những năm qua (Documents).
3

Thực trạng giảm nghèo tại Việt Nam
Theo phương pháp và chuẩn nghèo mới của TCTK-NHTG: 20,7% dân số

Việt nam vẫn thuộc diện nghèo vào năm 2010, bao gồm 27% ở khu vực nông
thôn và 6% ở khu vực thành thị, và 8% dân số vẫn thuộc diện cực nghèo. Con số
này cần so với tỷ lệ nghèo chính thức 14,2% vốn được xác định theo các chuẩn
nghèo chính thức áp dụng cho khu vực nông thôn và thành thị của Việt Nam nêu
trong kế hoạch PTKT xã hội giai đoạn 2011 – 2016. Mặc dù phân bố nghèo theo
vùng là tương tự nhau giữa hai cách tiếp cận, các mức nghèo tính theo tổng số
theo phương pháp của TCTK – NHTG cao hơn nhiều.
Việt Nam hiện đứng thứ 11 thế giới về số lượng người nghèo:Số người

nghèo của Việt Nam tính đến năm 2011 là: 14,3 triệu người, chiếm 16,9% dân
số và cũng nằm trong số nước có lượng người nghèo cao nhất khu vực. Lâu

21


nay Việt Nam được xem là một trong những nước thành công nhất về giảm
nghèo, tuy nhiên đó là đo theo chuẩn nghèo cũ, thấp hơn chuẩn quốc tế. Nếu
tính theo chuẩn nghèo mới của Việt Nam (1,61 USD cho khu vực thành thị
và 1,29 USD cho khu vực nông thôn) thì tỷ lệ nghèo trên toàn quốc là
20,7%. Còn nếu so với chuẩn của quốc tế 2 USD Mỹ một ngày (tính theo
PPP) thì có hơn 40% người Việt Nam nằm dưới mức nghèo. Một bản phân
tích của Viện Brookings (một trong những nhóm nghiên cứu hàng đầu của
Mỹ) năm 2011 cho thấy 70,4% người Việt Nam sống dưới mức 5 USD một
ngày.
Bảng 2.2 : Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2010 - 2014
ĐVT: %
Năm
Các vùng
2010

2011

2012

2013

2014

Miền núi Đông Bắc


24,62

21,01

17,39

14,81

11,96

Miền núi Tây Bắc

39,16

33,02

28,55

25,86

22,76

Đồng bằng Sông Hồng

8,30

6,50

4,89


3,63

2,57

Bắc Trung Bộ

22,68

18,28

15,01

12,22

9,26

Duyên hải miền Trung

17,27

18,28

12,20

10,15

8,00

Tây nguyên


22,48

18,62

15,00

10,15

10,22

Đông Nam Bộ

2,11

1,70

1,27

0,95

0,66

ĐB sông Cửu Long

13,48

11,39

9,24


7,41

5,48

Cả nước

14,20

11,76

9,60

7,80

5,97

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn)
2.2.3.1.

Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh

Qua bảng 2.2 cho thấy tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm tử 14,20% năm
2010 xuống 5,97 năm 2014. Cụ thể tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 là 14,20%, giảm

22


2,44% so với năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 9,60% giảm 2,16% so
với năm 2012 Tổng số hộ nghèo trên phạm vi cả nước năm 2014 là 1.442.261

hộ (giảm 375.628 hộ so với năm 2013). Tỷ lệ hộ nghèo năm 2014 là 5,97%,
giảm 1,83% so với năm 2013
2.2.3.2. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều
Các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới
64% số hộ nghèo đói tập trung tại các vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên và Duyên Hải Miền Trung. Tỷ lệ hộ nghèo ở những vùng này cao gấp
từ 1,5 - 2 lần so với cả nước. Đó là những vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo
nàn, điều kiện tự nhiên khó khăn…
2.2.3.3. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững
Nghèo đói ở nước ta phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và
bấp bênh. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện
nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động..) 90% số nghèo đói nước ta sống ở
nông thôn, trình độ tay nghề thấp, ít có khả năng tiếp cận nguồn lực các
nguồn lực trong sản xuất như vốn kỹ thuật, công nghệ… không có điều kiện
tiếp cận với công nghệ thông tin nên rất khó có khả năng chuyển đổi việc làm
sang các nghành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn. Hiện vẫn còn
một tỷ lệ khá lớn hộ gia đình nằm sát cận ngưỡng nghèo nếu gặp rủi ro hay sự
thay đổi chính sách thì nguy cơ tái nghèo của nhóm này rất cao. Mặc dù số
lượng hộ nghèo của các dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ
nghèo của cả nước vẫn tăng lên.

23


PHẦN BA: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1
1

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp huyện Ea Súp,
tỉnh Đắk Lắk

2

Phạm vi nghiên cứu
 Địa điểm: thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đăk Lắk.
 Thời gian nghiên cứu
- Thời gian thu thập số liệu từ năm 2013 đến năm 2015.
- Thời gian nghiên cứu từ ngày10 /3/2016 đến 10/6/2016.
2

Nội dung nghiên cứu

- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp,
tỉnh Đắk Lắk.
- Đánh giá thực trạng giảm nghèo tại thị trấn Ea Súp, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk
Lắk.
- Đánh giá thực trạng đời sống, nghèo đói của người dân tại địa bàn nghiên cứu.
- Tìm hiểu nguyên nhân nghèo và đề xuất một số giải pháp giảm
nghèo trên địa bàn nghiên cứu.
3

Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thị trấn Ea Súp

3.3.1. Điều kiện tự nhiên:
3.3.1.1. Vị trí địa lý
Thị trấn Ea Súp nằm trên trục Tỉnh lộ 1, cách thành phố Buôn Ma
Thuột khoảng 65km về hướng Tây Bắc, vị trí địa lý tiếp giáp với các xã
như sau:

- Phía Bắc giáp với xã Ea Lê và xã Ea Bung
- Phía Đông giáp xã Ea Lê và xã Cư M’Lan
- Phía Nam và phía Tây giáp xã Cư M’Lan

24


B
ảng đồ 3.1: Vị trí thị trấn Ea Súp
Các xã, phường :
1 Thị trấn Ea Súp

2 Xã Cư K'Bang

3 Xã Cư M'Lan

4 Xã Ea Bung

5 Xã Ea Lê

6 Xã Ea Rốk

7 Xã Ia Lốp

8 Xã Ya Tờ Mốt

25



×