Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giáo viên trường Cao đẳng sư phạm Đak Lak

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




Phaïm Vaên Luaät





Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ




Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn, tôi luôn
nhận được sự giúp đỡ tận tình quý báu của các thầy cô giáo, các bạn bè và
đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:
- TS. Lê Thị Minh Hà, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. HCM, Phòng Khoa học
Công nghệ & Sau Đại học, Khoa Tâm lý Giáo dục học, quý thầy cô giáo đã
tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghi
ên cứu và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp.
- Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Cao đẳng Sư phạm
ĐăkLăk đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn.
- Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những bạn bè thân
hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu để hoàn
thành luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn


Phạm Văn L
uật




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BD : Bồi dưỡng
CBQL : Cán bộ quản lý
CĐ : Cao đẳng

CĐSP : Cao đẳng Sư phạm
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
ĐH : Đại học
ĐHSP : Đại học Sư phạm
ĐT : Đào tạo
ĐT – QLNCKH : Đào tạo – Quản lý nghiên cứu khoa học
GIAÙO DUÏC : Giáo dục
GD & ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GV : Giảng viên
NCKH : Nghiên cứu khoa học
NCS : Nghiên cứu sinh
QLGD : Quản lý giáo dục
TCCB : Tổ chức cán bộ
THCS :
Trung học cơ sở
ThS : Thạc sỹ
TS : Tiến sỹ
UBND : Ủy ban Nhân dân

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin và truyền thông, nhân loại đang bước quá độ sang nền kinh tế
tri thức. Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ đang diễn ra trên toàn thế giới làm cho lợi
thế cạnh tranh ngày càng nghiêng về những quốc gia có nguồn lực chất lượng cao,
nhất là đội ngũ tri thức và công nhân lành nghề. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược
phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ và tay nghề cao nhằm tạo ra lợi thế
cạnh tranh là cách làm thông minh để chủ động hội nhập vào xu t
hế sau này.
Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa

(CNH – HĐH), vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực trở thành một vấn đề cấp thiết.
Nghị quyết Trung ương 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu
rõ: “Muốn tiến hành CNH – HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào
tạo (G
D & ĐT), phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững”. Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao – một trong những mục tiêu ưu tiên của chiến lược phát triển giáo dục
(GD) ở nước ta từ năm 2001 đến 2010. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX tiếp tục k
hẳng định: “Phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển GD &
ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH – HĐH đất nước.”. Từ
kinh nghiệm thực tế của các nước phát triển đi trước cho thấy, muốn chấn hưng
quốc gia trước hết phải chấn hưng GD & ĐT, muốn chấn hưng GD & ĐT trước hết
phải chấn hưng các trường sư phạm, muốn c
hấn hưng các trường sư phạm trước hết
phải chấn hưng đội ngũ GV. Do vậy, hiện nay việc bảo đảm đủ số lượng, cơ cấu
hợp lý và nâng cao chất lượng đội ngũ GV các trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP)
trên tất cả các mặt: Tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyê
n môn
nghiệp vụ, năng lực sư phạm… là nhiệm vụ cần thiết và bức xúc của ngành GD &
ĐT nói chung và mỗi trường sư phạm nói riêng.
Trường CĐSP ĐăkLăk, tiền thân là trường CĐSP Buôn Ma Thuột (thành lập
năm 1976). Trong những năm qua, Nhà trường đã có những đóng góp tích cực trong
việc ĐT, BD giáo viên Tiểu học và Trung học cơ sở cho hai tỉnh ĐăkLăk và Đăk
Nông. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý GD và nâng cao chất lượng GD & ĐT
toàn diện, vấn đề quản lý đội ngũ GV của trường đòi hỏi đặc biệt quan tâm. Vì vậy,
việc xây dựng và quản lý được một đội ngũ GV đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu là vấn đề qua
n trọng, then chốt cần được đặt ra và có biện
pháp giải quyết. Hiện nay, việc quản lý đội ngũ GV của ngành sư phạm đã và đang

thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý GD. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu quản lý
đội ngũ GV các trường CĐSP ở các cấp độ khác nhau. Song, thực trạng và những
giải pháp quản lý đội ngũ GV ở trường CĐSP ĐăkLăk chưa có đề tài nào nghiê
n
cứu.
Từ những nhận thức trên chúng tôi định hướng nghiên cứu vấn đề quản lý
đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk. Trên cơ sở xem xét đội ngũ GV về một số khía
cạnh cơ bản, từ đó đưa ra những giải pháp quản lý đội ngũ GV để đáp ứng nhu cầu
đào tạo ngày càng cao mà xã hội đặt ra cho ngành sư phạm
nói chung và trường
CĐSP ĐăkLăk nói riêng. Đó là lý do của đề tài: “Thực trạng và giải pháp quản lý
đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk”.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk, trên cơ sở
đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV của nhà trường, góp
phần đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay ở tỉnh ĐăkLăk.
2.2. Nhiệm vụ đề tài
- Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk hiện nay.
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP
ĐăkLăk.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ GV và hoạt động quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk và

có các giải pháp quản lý một cách khoa học thì chất lượng quản lý đội ngũ GV
trường CĐSP ĐăkLăk sẽ đư
ợc nâng cao, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của
trường trong giai đoạn mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và tổng hợp lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát:
Quan sát hoạt động quản l
ý của CBQL trường CĐSP ĐăkLăk, quan sát việc
dạy và học của GV và sinh viên, quan sát sự phối hợp hoạt động của các phòng,
ban, trung tâm, khoa, tổ bộ môn có liên quan.
- Phương pháp điều tra (an-két):
Điều tra để thu thập ý kiến, làm rõ thực trạng và các giải pháp quản lý đội
ngũ GV thông qua hai loại phiếu hỏi bao gồm: Xin ý kiến của CBQL và đội ngũ
GV tại trường CĐSP ĐăkLăk.
- Phương pháp thống kê toán học:
Dùng để xử lý số liệu nghiê
n cứu.
- Các phương pháp hỗ trợ khác:
Ngoài các phương pháp nêu trên, tác giả còn dùng các phương pháp hỗ trợ
khác để làm sáng tỏ thêm vấn đề nghiên cứu như: phương pháp trò chuyện, phương
pháp lấy ý kiến chuyên gia...
6. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Thực trạng và một số giải pháp quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk.
7. Ý nghĩa của đề tài
7.1. Về mặt lý luận
Xác định cơ sở lý luận của việc quản lý đội ngũ GV của trường CĐSP
ĐăkLăk.

7.2. Về mặt thực tiễn
Đề xuất các giải pháp phù hợp mang tính cấp thiết và khả thi nhằm q
uản lý
hiệu quả đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk, góp phần nâng cao năng lực quản lý
lãnh đạo, chất lượng đội ngũ GV và chất lượng ĐT của trường sư phạm trong giai
đoạn hiện nay.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thực tiễn GD ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đã khẳng định
điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng GD là chất lượng và động lực dạy học
của đội ngũ giáo viên; giáo viên là nhân vật trung tâm của mọi chương trình cải
cách, cải tổ, đổi mới GD. Vì vậy, vấn đề xây dựng và
phát triển đội ngũ giá
o viên
đã sớm được đề cập trong các công trình nghiên cứu lý luận nhằm chỉ đạo thực tiễn
hoạt động GD ở mỗi quốc gia và có tầm ảnh hưởng quốc tế.
Ở Việt Nam, một năm sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký sắc lệnh số 194 ngày 8 tháng 10 năm 1946 về việc
thành lập ngành sư phạm. Sắc lệnh nêu rõ “Ngành học sư phạm có
mục đích đào tạo
những nam nữ giáo viên cho các bậc học cơ bản, Trung học phổ thông, Trung học
chuyên khoa, Thực nghiệp và chuyên nghiệp trong toàn quốc” (Điều 1). Sắc lệnh
cũng khẳng định bắt đầu từ những năm 1950 chỉ tuyển nam nữ giáo viên cho các
bậc học phổ thông và chuyên nghiệp trong những người có bằng sư phạm sơ cấp,
trung cấp hoặc cao cấp (Điều 5). N
hư vậy, ngay từ đầu, sư phạm được xác định là
một ngành học, có nhiệm vụ ĐT giáo viên không chỉ cho GD phổ thông mà cho cả
GD chuyên nghiệp, tất cả các loại giáo viên đều phải qua đào tạo ở các trường sư
phạm.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, suốt 30
năm chiến tranh gian khổ, ngành sư phạm đã không ngừng phát triển, đáp ứng nhu
cầu giáo viên để phát triển sự nghiệp G
D. Ngành sư phạm luôn chiếm tỷ trọng lớn
về số trường, số học sinh trong khối các trường Trung cấp Chuyên nghiệp. CĐ và
ĐH được xem là “máy cái”, là “công nghiệp nặng” của GD. Sau ngày thống nhất
đất nước, ngành sư phạm càng phát triển nhanh chóng. Đến năm 1991, cả nước có
hơn 150 trường và cơ sở đào tạo giáo viên các cấp từ giáo viên Mầm non đến giáo
viên THPT. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới
các trường trong hệ thống GD quốc dân, các trường sư phạm đã được tổ chức lại
một bước. Đến năm 1995 hệ thống sư phạm còn lại 105 cơ sở ĐT giáo viên, trong
đó có 10 ĐHSP, 34 CĐSP, 36 Trung cấp Sư phạm. Đến nay, các trường sư phạm đã
nâng công suất lên 14 vạn chỗ ĐT, hàng năm cho ra trường 5 vạn giáo viên mới.
Bước vào thời kỳ đổi mới GD, hệ thống các trường sư phạm đang tiếp tục
được sắp xếp lại theo hướng hình thành các trung tâm sư phạm đa cấp, đa hệ. Đội
ngũ cán bộ giảng dạy các trường sư phạm
ngày càng trưởng thành cả về số lượng và
trình độ khoa học.
Những tư tưởng chỉ đạo đổi mới công tác ĐT, BD giáo viên, củng cố hệ
thống sư phạm đã được liên tiếp đề ra trong các Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII,
Trung ương 2 khóa VIII, Nghị quyết 14 của Chính phủ về đổi mới cơ bản toà
n diện
GD ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, Chiến
lược phát triển GD 2001 – 2010, Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương về xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD.
Vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng phát triển đội ngũ GV, kết hợp với sự kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiê
n
cứu về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực của các nước có nền giáo
dục phát triển đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học nhằm làm

sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn GD của Việt Nam đặt ra. Những
năm gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về quản lý và phát triển nguồn
nhâ
n lực GD như:
- “Quản lý đội ngũ” của Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc [15];
- “Vấn đề GV, những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của Trần Bá Hoành
[23];
- “Quản lý chất lượng ĐT” của Nguyễn Đức Chính [16];
- “Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu phát triển nguồn lực” của Phan
Văn Kha [22];
- “Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ GV” của Bùi
Văn Q
uân [33];
- “Về nội dung quản lý đội ngũ GV ĐH, CĐ trong thời kỳ đổi mới” của
Dương Đức Báu [13];
- “Thực trạng và một số giải pháp xây dựng đội ngũ GV các trường ĐH, CĐ”
của Phạm Văn Thanh [34];
- “Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐT nguồn nhân lực tại trường
ĐH” của Nguyễn Ánh Hồng [21];
Nhiều đề tài nghiên cứu có tính c
huyên đề đi sâu các vấn đề cụ thể liên quan
đến quản lý xây dựng và phát triển độ ngũ GV như:
- “Các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ GV trường ĐH Giao thông Vận
tải theo hướng chuẩn hóa” của Phạm Văn Toàn [37];
- “Nghiên cứu khoa học của giảng viên ĐH – một yếu tố đảm bảo chất lượng
ĐT” của Nguyễn Ngọc Lan [26];
- “Logic nội dung và các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài về giải pháp quản l
ý
GD” của Nguyễn Phúc Châu [14].
Công tác quản lý đội ngũ GV là vấn đề được các cơ sở giáo dục ĐH đặc biệt

quan tâm. Nhiều tác giả là những nhà quản lý, GV ở các trường ĐH đã có các báo
cáo khoa học xuất sắc, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú về quản lý đội
ngũ GV ở từng cơ sở ĐT đã trình bày tại Hội thảo chuyên đề này tại trường ĐH Cần
Thơ – 2002 như:
- “Đổi mới công tác GV để nâng cao chất lượng ĐT t
rong các trường ĐH,
CĐ” của Lê Đức Ngọc – ĐH Quốc gia Hà Nội.
- “Quản lý GV là quản lý chất lượng ĐT” của Võ Xuân Đàn - Trường ĐH Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh.
- “Các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trường ĐH Vinh” của
Nguyễn Đình Huân – ĐH Vi
nh.
- “Công tác ĐT, BD đội ngũ GV của ĐH Thái Nguyên” của Tô Văn Bình –
ĐH Thái Nguyên.
- “Một số kinh nghiệm về xây dựng, BD và phát triển đội ngũ GV ở trường
CĐSP Hưng Yên” của Trần Văn Cường – CĐSP Hưng Yên.
Ngoài những công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học nêu trên, có nhiều
luận văn ThS được công bố đã đề xuất được những giải pháp khả thi về quản lý, xây
dựng và phát triển đội ngũ GV phù hợp hoàn cảnh thực tế tại các địa bàn cụ thể
như:
- “Một số biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy trường CĐSP Bình
Định” (2002) của Võ Văn Bồng;
- “Một số biện pháp quản lý nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ GV trường
CĐ Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp II” (2005) của Đỗ Thị Cúc;
- “Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ GV ở trường CĐSP Phú Yên”
(2006) của Lê Bạt Sơn;
- “Quản lý hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của GV trường ĐH
Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh” (2007) của Nguyễn Thị Thanh Nga.
Như vậy, công tác quản lý đội ngũ GV h

iện nay là một vấn đề vừa quan
trọng vừa mang tính cấp thiết, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan
quản lý GD, nhiều cơ sở ĐT, nhiều nhà khoa học và đông đảo GV, giáo viên trong
ngành và nhiều người quan tâm đến lĩnh vực GD. Tuy nhiên, các công trình, báo
cáo, bài báo khoa học đó mới chỉ đi sâu vào những góc cạnh và một số nội dung
nhất định của vấn đề. Việc nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghi
ên cứu về vấn đề
này nhằm từng bước nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV của trường CĐSP
ĐăkLăk là vấn đề mới, chưa được tác giả nào đề cập trong các công trình nghiên
cứu đã được công bố.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải có sự quản lý để tổ chức, điều hà
nh, hướng dẫn mọi người, mọi bộ
phận trong tổ chức hoạt động theo kế hoạch và đạt mục tiêu của tổ chức. Hoạt động
quản lý chỉ nảy sinh khi có tổ chức; tổ chức không thể phát triển nếu thiếu hoạt
động quản lý.
Khái niệm quản lý là khái niệm rất chung, tổng quát. Có nhiều quan niệm
khác nhau.
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô (1977), quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật), nó
bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những
chương trình, mục đích hoạt động.
Về phương diện xã hội, có thể nêu khái niệm quản lý một tổ chức là: “Quản
lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
trong một tổ chức nhằm làm c
ho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức.”
Theo định nghĩa trên, quản lý có một số đặc điểm:

- Là một hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác định
- Quản
lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận: Chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tương tác giữa chủ thể và hệ thống. Chủ thể quản
lý là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển, còn đối tượng quản lý
là bộ phận chịu sự quản lý. Mối quan hệ này là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không
đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản l
ý là sự tác động mang tính chủ quan dựa trên quy luật khách quan.
- Quản lý luôn liên quan đến việc trao đổi thông tin. Tất cả mọi hoạt động
quản lý đều dựa trên cơ sở những thông tin thu nhận được và đã chọn lọc xử lý.
- Quản lý có tính thích ứng cao đối với sự biến động môi trường.
Hệ thống quản lý và tác động quản lý có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau:

Chủ thể







Sơ đồ 1.1: Hệ thống quản lý và tác động quản lý
Tác
động
quản lý
Tác
động
phản
hồi

quản lý
Đối tượng
quản lý
Mục tiêu
quản lý
Quản lý có những vai trò cơ bản sau:
- Giúp các thành viên của tổ chức thấy rõ mục tiêu và hướng đi của mình,
từng bước hoàn thành những kế hoạch đặt ra, hoàn thành sứ mệnh của tổ chức và
đạt mục đích của tổ chức.
- Phối hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để tạo sức mạnh của tổ
chức.
- Giúp tổ chức thích nghi được với môi trường luôn biến đổi. Nắm bắt tốt
hơn và tận dụng các cơ hội, giảm bớt các ảnh hưởng tiêu cực và các nguy cơ liên
qua
n đến môi trường, làm cho tổ chức có được những tác động tích cực đến môi
trường, góp phần bảo vệ môi trường.
1.2.2. Chức năng quản lý
Theo giáo trình Khoa học quản lý của trường ĐH Kinh tế Quốc dân: “Chức
năng quản lý là những loại công việc quản l
ý khác nhau, mang tính độc lập tương
đối, được hình thành trong quá trình chuyên môn hóa hoạt động quản lý”.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản gồm: kế hoạch hóa, tổ chức thực hiện, chỉ
đạo, kiểm tra.
1.2.2.1. Kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa là chức năng cơ bản nhất trong số các chức năng quản lý, bao
gồm: xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và những
biện pháp, cách thức chủ yếu để đạt được mục tiêu, mục đích đó.
Nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch:
- Xác định và hình thành mục tiêu đối với tổ chức: xác định mục tiêu là khâ
u

đầu tiên của kế hoạch hóa. Mục tiêu là tiêu đích mà hoạt động của tổ chức hướng
tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ thống phân cấp từ mục tiêu chung của tổ chức
(hay của hệ thống) đến mục tiêu của bộ phận, của cá nhân và tạo thành cả một hệ
thống mạng lưới khi các mục tiêu được phản ánh trong các chương trình phối hợp
chặt chẽ với nhau. Số lượng mục tiêu đư
ợc xác định trên cơ sở bản chất công việc
của tổ chức.
- Xác định và bảo đảm các nguồn lực của tổ chức để đạt mục tiêu đó. Có 3
nguồn lực cơ bản để vận hành tổ chức là nhân lực, vật lực và tài lực. Xác định
những nguồn lực sẽ giúp nhà quản lý chủ động khai thác và đáp ứng kịp thời trong
quá trình hoạt động của tổ chức.
- Lựa chọn và quyết định những hoạt động cần thiết để đạt đư
ợc mục tiêu.
Đó là những giải pháp, biện pháp tiến hành các hoạt động để đưa tổ chức đạt được
mục tiêu đề ra. Sự lựa chọn và quyết định những hoạt động cần thiết liên quan chặt
chẽ đến việc tổ chức nhân sự và sử dụng nguồn lực. Nhà quản lý sẽ chủ động tổ
chức các nguồn lực, tránh đư
ợc những lãng phí không cần thiết.
- Sản phẩm quan trọng của chức năng kế hoạch là kế hoạch. Có ba loại kế
hoạch: kế hoạch chiến lược (giải quyết mục tiêu chiến lược); kế hoạch chiến thuật
(giải quyết mục tiêu chiến thuật); kế hoạch tác nghiệp (giải quyết mục tiêu tác
nghiệp).
1.2.2.2. Tổ chức
Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên
và các bộ phận tr
ong một tổ chức, điều phối các nguồn lực nhằm thực hiện thành
công kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Lê-nin đã nói: “Tổ chức
sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần.”
Nội dung chủ yếu của tổ chức:
- Tổ chức thực hiện trước hết là việc xây dựng cơ cấu tổ chức, xác định vai


trò nhiệm vụ của các bộ phận và cá nhân trong tổ chức nhằm bảo đảm sự phù hợp,
ăn khớp giữa các hoạt động. Mỗi cá nhân có thể làm việc trôi chảy có hiệu quả cao
trong nhóm, làm cho các bộ phận riêng sẽ kết hợp được với nhau thành hệ thống,
hoạt động đồng bộ như một thể thống nhất.
- Giúp nhà quản lý xác định được biên chế và
sắp xếp con người phù hợp với
khối lượng công việc. Tạo điều kiện cho các thành viên tổ chức hoạt động tự giác,
sáng tạo.
Việc ổn định cơ cấu, giao nhiệm vụ, quyền hạn cho các bộ phận luôn đi đôi
với việc xác định khối lượng công việc và kéo theo sự phân phối nguồn lực, thiết
lập bộ máy quản lý và thực hiện chuyên môn hóa cho các bộ phận của tổ chức.
Như vậy, tổ chức thực hiện chính là công việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản
lý của tổ chức (hệ thống) trên cơ sở kế hoạch hóa phát triển. Một cơ cấu tổ chức
đư
ợc coi là hợp lý khi nó tuân thủ nguyên tắc thống nhất trong mục tiêu. Mỗi cá
nhân đều góp phần công sức vào các mục tiêu chung của tổ chức, đạt mục tiêu đó
với mức chi phí tối thiểu cho bộ máy và cho mọi hoạt động.
1.2.2.3. Chỉ đạo
Sau khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ cấu đã được hình thà
nh, nhân sự đã
được tuyển dụng, sắp xếp thì phải có người lãnh đạo dẫn dắt, điều khiển. Đó là quá
trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức; theo sát hoạt động của bộ máy,
điều khiển, hướng dẫn, điều chỉnh công việc hợp lý, nhịp nhàng; động viên, khuyến
khích các thành viên hoàn thành nhiệm vụ nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. N
ó
kết nối, thẩm thấu và đan xen vào hai chức năng trên.
1.2.2.4. Kiểm tra
Kiểm tra là một chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý, liên quan đến
mọi cấp quản lý căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch đã định. Là việc một người hoặc

một nhóm người có trách nhiệm theo dõi, giám sát và tiến hành những hoạt động
uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của tổ chức, làm
cho tổ
chức hoạt động một cách đúng hướng. Theo lý thuyết hệ thống, kiểm tra còn là quá
trình thiết lập mối liên hệ ngược trong quản lý [13, trang 49]. Có thể nói: không có
kiểm tra là không có quản lý, kiểm tra là để quản lý; muốn quản lý tốt thì phải kiểm
tra.
Một chu trình quản lý, cả bốn chức năng trên phải thực hiện liên tiếp, đan
xen vào nhau; phối hợp bổ sung c
ho nhau, tạo sự kết nối từ chu trình này sang chu
trình sau theo hướng phát triển. Trong đó, yếu tố thông tin luôn giữ vai trò xuyên
suốt, không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý.


Kế hoạch



Tổ chức
Kiểm tra
Thôn
g tin




Chỉ đạo
Sơ đồ 1.2: Quan hệ giữa các chức năng quản lý.
1.2.3. Quản lý giáo dục
Quản lý GD là một bộ phận của quản lý xã hội. Nói đến quản lý GD là nói

đến quản lý mọi hoạt động GD trong xã hội; các nhà nghiên cứu GD và quản lý GD
đã đưa ra một số quan niệm về quản lý GD như sau:
M. I. Kôn-đa-cốp định nghĩa: “Quản lý GD là tập hợp những biện pháp tổ
chức cán bộ, GD, kế hoạch hóa, tài chính… nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống GD để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ
thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [3, trang 22].
“Quản lý GD trên nét tổng quát nhất được hiểu theo nghĩa tổng quan là hoạt
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã
hội nhằm đẩy mạnh công tác ĐT thế hệ
trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội hiện nay” [17, trang 12].
Như vậy, có thể hiểu bản chất của quản lý G
D là qúa trình tác động có ý thức
được định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố của hoạt động GD nhằm thực
hiện mục tiêu của GD một cách hiệu quả.
1.2.4. Quản lý trường sư phạm
1.2.4.1. Vị trí, vai trò của trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc
dân
Từ cuối thế kỷ X, khi nước ta thoát khỏi ách thống trị phong kiến phương
Bắc, nền G
D quốc dân đến nay tồn tại gần 10 thế kỷ. trong lịch sử nước nhà GD
từng là một động lực cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, nó đã góp phần ĐT,
BD nhân tài, truyền bá cho nhân dân biết đạo lý làm người, hun đúc lòng yêu nước,
yêu quê hương làng xóm, xây dựng tôn ti trật tự trong xã hội,gia đình…. Theo thang
bậc phong kiến, ông thầy cũng có vị trí cao trong xã hội quân-sư-phụ (vua-thầy-
cha) và từ lâu trong xã hội ta đã hình thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
“Tôn sư trọng đạo”.
Tuy nhiên, việc ĐT nghề Sư phạm qua trường, lớp theo đúng nghĩa không có
trong xã phong kiến Việt Nam, song được nhân dân giúp đỡ, bản thâ
n người thầy đã
tự rèn luyện để trưởng thành trong nghề nghiệp. Muốn trở thành người thầy, tuy

không có trường sư phạm nhưng những nhà nho phải tự rèn luyện mình trong nhân
dân theo thời đó yêu cầu.
Đến thời Pháp thuộc, ngành sư phạm chính thức được ra đời,trái với mong
muốn của thực dân Pháp, nhiều thầy giáo xuất thân từ trường sư phạm của Pháp (ở
Đông Dương hay ở tại Pháp), không chỉ là những giáo viên tài năng, đức độ tron
g
GD mà còn là những chiến sĩ cách mạng, những người cộng sản, trong đó tiêu biểu
là thầy giáo Nguyễn Tất Thành – Người thầy vĩ đại theo đúng nghĩa của GD Việt
Nam thời hiện đại.
Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngành sư phạm nước ta đã
phát triển nhanh chóng, cùng với sự trưởng thành của dân tộc, của nền GD cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Na
m do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện. Đến nay chúng ta đã có một hệ thống trường ĐHSP, hàng
chục trường CĐSP, Trung cấp Sư phạm, Viện Nghiên cứu Khoa học GD, trường
Quản lý GD, CĐ Nhạc – Họa, Thể dục, Mẫu giáo… trên toàn quốc. Hệ thống các
trường sư phạm với đội ngũ cán bộ, GV, giáo viên đông đảo, trong đó c
ó một tỷ lệ
không nhỏ là Giáo sư, Phó Giáo sư, TS và ThS đã đáp ứng kịp thời và hiệu quả
nhiệm vụ ĐT, BD đội ngũ giáo viên các môn học ở các cấp học, từ Mẫu giáo, Tiểu
học, Trung học đến CĐ, ĐH và trên ĐH.
Trong GD & ĐT, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD luôn được xem là
lực lượng cốt cán của sự nghiệp phát triển GD & ĐT, là nhân tố quan trọng nhất
quyết định việc nâ
ng cao chất lượng GD. Do vậy, muốn phát triển GD & ĐT, trước
tiên là phải chăm lo xây dựng đội ngũ GV và hệ thống các trường sư phạm. Việc
ĐT đội ngũ nhà giáo trở thành khâu then chốt của “Quốc sách hàng đầu” trong sự
nghiệp CNH – HĐH đất nước. Điều này khẳng định vai trò cực kì quan trọng của
các trường sư phạm trong hệ thống GD quốc dân.
1.2.4.2. Khái niệm về quản lý trường sư phạm

Theo M. I. Kôn-đa-cốp: “Không đòi hỏi một định nghĩa
hoàn chỉnh chúng ta
hiểu quản lý trường sư phạm (công việc trường sư phạm) là một hệ thống xã hội –
Sư phạm chuyện biệt, hệ thống đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và
hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống trường sư phạm,
nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về mặt xã hội – kinh tế, tổ chức – Sư phạm của
quá trình dạy học và GD thế hệ đang lớn lên” [3, trang 34]
.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “Quản lý trường sư phạm là thực hiện đường
lối của Đảng, trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa trường sư phạm vận hành
theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu ĐT đối với ngành GD”.[2,
trang 26].
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy, quản lý trường sư phạm thực chất là
tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực
nhằm đẩy mạnh hoạt động của trường sư phạm
theo nguyên lý GD và tiến tới mục
tiêu GD mà trọng tâm của nó là đưa hoạt động ĐT tiến lên một trạng thái mới về
chất.
Quản lý trường sư phạm có
2 loại:
- Tác động của chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài trường sư phạm:
Quản lý trường sư phạm là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý
GD cấp trên nhằm hướng dẫn tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, GD
của trường. Quản lý trường sư phạm cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của
các thực thể bên ngoài
trường sư phạm nhưng có liên quan trực tiếp đến trường sư
phạm nhằm định hướng sự phát triển và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện
phương hướng phát triển đó.
- Tác động của những chủ thể bên trong trường sư phạm bao gồm các hoạt
động:

+ Quản lý cán bộ GV, công nhân viên.
+ Quản lý sinh viên.
+ Quản lý quá trình ĐT.
+ Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học.
+ Quản lý tài chính trường học.
+ Quản lý quan hệ giữa trường sư phạm và cộng đồng.
1.2.4.3. Bản chất, đặc trưng của quản lý trường sư phạm
a/ Bản chất của q
uản lý trường sư phạm
Quản lý trường sư phạm là tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham
gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, điều hành, can thiệp) của chủ thể đến tập thể GV –
sinh viên và các cán bộ khác nhằm:
- Tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư, do lực lượng xã hội đóng góp
và do lao động xây dựng vốn tự có.
- Hướng và
o việc đẩy mạnh mọi hoạt động của trường sư phạm mà tiêu điểm
là quá trình ĐT thế hệ trẻ.
- Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch ĐT, đưa trường sư phạm tiến
lên trạng thái mới.
Có nhiều cách xem xét bản chất của quản lý trường sư phạm như: bản chất
Sư phạm, tâm lý, pháp luật, kinh tế, xã hội…. Ở đây chỉ đề cập đến bản chất x
ã hội
– sư phạm của quản lý trường sư phạm.
Quản lý trường sư phạm, về bản chất là quản lý con người. Trường sư phạm
là một tổ chức tập hợp những con người (GV và sinh viên) mà hoạt động của họ đều
nhằm thực hiện mục tiêu ĐT. GV và sinh viên vừa là khách thể, vừa là chủ thể quản
lý. Với tư cách khách thể quản lý, G
V và sinh viên là đối tượng tác động của chủ
thể quản lý. Với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động họ còn là người tham gia chủ
động, tích cực vào hoạt động quản lý và biến toàn bộ hệ thống thành hệ tự quản lý.

Như vậy, quản lý con người chính là quản lý các điều kiện mà trong đó con
người lao động. Nhà quản lý phải ý thức được điều này và coi đó là trách nhiệm của
mình. Mặt khác quản lý trường sư phạm không những giúp cho các thành viên thực
hiện vai trò của mình có hiệu quả, mà còn phải kiểm tra, uốn nắn đánh giá việc thực
hiện vai trò đó.
b/ Đặc trưng của quản lý trường sư phạm
Đặc trưng của quản lý trường sư phạm là sự khác biệt hẳn với mọi loại quản
lý xã hội khác, nó được quy định trước hết bởi bản c
hất của quá trình ĐT, trong đó
sinh viên vừa bị quản lý lại vừa tự quản hoạt động học tập; sản phẩm của sự ĐT của
trường là nhân cách người lao động có văn hóa. Song, đặc trưng của quản lý trường
sư phạm phụ th
uộc nhiều vào đặc điểm lao động sư phạm của GV. Giảng dạy không
thể tách rời GD. Nói rộng hơn, quản lý trường sư phạm phải tạo nên sự thống nhất
giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Mối quan hệ quản lý trong trường sư phạm
cũng rất đặc biệt: Đây là quan hệ liên nhân cách, quản lý cộng đồng và hợp tác theo
tinh t
hần dân chủ – tự quản cao độ. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với GV chỉ có
thể là những tác động có tính dân chủ, được thể chế hóa, nhằm thuyết phục, giúp
đỡ, tạo điều kiện cho GV có thể phát huy được hết năng lực quản lý quá trình giảng
dạy GD của mình và quản lý việc học tập, tự GD của sinh viên.
- Đặc trưng của hoạt động quản lý trường sư phạm:
+ Đề ra kế hoạch
và tổ chức thực hiện
+ Điều hành, kiểm tra, điều chỉnh các hoạt động theo định hướng và bảo đảm
sự phát triển.
+ Xây dựng đội ngũ GV để đảm bảo cho các hoạt động có hiệu quả, đạt mục
tiêu đề ra.
- Đặc trưng về đối tượng của quản lý trường sư phạm:
+ Đội ngũ GV:

lực lượng chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ của trường sư
phạm.
+ Chất lượng GD là hiệu quả hoạt động của đội ngũ GV tác động lên đối
tượng là học sinh, sinh viên.
+ Các tổ chức đoàn thể và hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài
trường sư phạm.
Hoạt động đặc trưng của trường sư phạm là giảng dạy GD; học tập – rèn
luyện. Thực hiện hoạt động đặc trưng này là đội ngũ GV. Tìm hiểu các đặc trưng và
đội ngũ GV để tác động làm cho đội ngũ ngày càng phát triển về chất lượng và số
lượng vừa đủ là một trong những chức năng quản lý cơ bản của hiệu trưởng quản lý

trường sư phạm.
Vì vậy, trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện mục tiêu quản lý trong
từng năm học, trong từng giai đoạn phát triển của trường sư phạm, hiệu trưởng phải
hết sức coi trọng việc quản lý và phát huy tiềm năng của đội ngũ GV.
1.2.
5. Quản lý đội ngũ giảng viên
1.2.5.1. Đội ngũ giảng viên trường CĐSP
Tại khoản 3 điều 70, Luật GD 2005, có ghi: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ
sở giáo dục đại học gọi là giảng viên.”.
Như vậy, đội ngũ những người làm nhiệm vụ giảng dạy và Q
LGD ở trường
CĐSP được coi là đội ngũ GV trường CĐSP.
Theo Quyết định 538/TCCP-TC ngày 18/12/1995 của Ban Tổ chức Cán bộ
Chính phủ về việc thay đổi tên gọi các ngạch công chức giảng dạy và tiêu chuẩn
nghiệp vụ các ngạch trong trường ĐH, CĐ, thì những người giảng dạy tại các
trường ĐH, CĐ được xếp ở 3 ngạch: GV, GV chính và GV cao cấp với các quy
định cụ thể về tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch GV. Thực tế hiện na
y, ở các

trường ĐH, CĐ ngoài lực lượng GV trong biên chế còn có các GV hợp đồng giảng
dạy, GV thỉnh giảng.
1.2.5.2. Vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên trong trường
CĐSP
a/ Vai trò của đội ngũ giảng viên trường sư phạm
Đội ngũ GV là lực lượng chủ yếu, giá trị cơ bản cũng như vốn quý nhất của
trường ĐH và CĐ, với tri thức tài nghệ và ki
nh nghiệm, sự hiểu biết sâu sắc về bản
chất quá trình ĐT, là nhân vật trung tâm trong trường sư phạm quyết định chất
lượng và hiệu quả GD & ĐT, góp phần hình thành mô hình nhân cách nhà chuyên
môn có trình độ cao theo mục tiêu ĐT bằng giảng dạy, giáo dục và tổ chức cuộc
sống cho sinh viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại đã từng căn dặn: Không có người
thầy giáo thì không có GD, cán bộ giảng dạy ở các trường ĐHSP, CĐSP… là thầy
của những người thầy…
nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình trước
hết: “Thầy phải xứng đáng là thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải
ai cũng làm thầy được.” [28, tr 304].
Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu ca dao
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” đã nói lên tấm
lòng đó. Suy rộng ra câu ca dao còn có ý nghĩa: muốn cho sự nghiệp GD quốc gia
phát triển thì Nhà nước và xã hội phải quan tâm đến đội ngũ thầy gi
áo.
Để xứng đáng với nhiệm vụ và vai trò vẻ vang. Đội ngũ GV cần có 3 phẩm
chất chủ yếu: tâm hồn, kiến thức và phương pháp sư phạm.
+ Tâm hồn của người thầy được xây dựng trên cơ sở lòng yêu thương vô
hạn, lòng quý mến và tôn trọng con người. Chính lòng yêu quý đó là cội nguồn của
mọi tình cảm tốt đẹp, là khởi thủy của đạo đức. Đối với GV, lòng yêu thương co
n
người trước hết cần thể hiện ở lòng yêu thương sinh viên và đồng nghiệp. Lòng yêu

thương phải gắn liền với sự tôn trọng con người mới sâu rễ bền gốc. Nó đòi hỏi GV
phải không ngừng tự rèn luyện, tự cải tạo như Bác Hồ đã từng dạy: “Chúng ta cần
phải chính tâm, tu thân…” và “… muốn cải tạo xã hội thì phải cải tạo mình”
[28, tr 305]
.
+ Kiến thức của GV bao gồm nhiều mặt. Trước hết là kiến thức vững vàng,
sâu rộng về chuyên môn trong đó kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết thực tế và
kinh nghiệm, giữa nhận thức và thực hành. Nhưng chỉ giỏi về chuyên môn chưa đủ,
còn cần những kiến t
hức rộng rãi về xã hội về con người và về các ngành khoa học
khác. Vinh dự của GV là thông qua dạy chữ để dạy người. Kiến thức của GV không
phong phú thì tác dụng dạy người bị hạn chế.
Để có được kiến thức sâu rộng. Bác Hồ đã từng dùng lời dạy của Khổng Tử
để nhắc nhở “… học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
- Phương pháp sư phạm của GV đóng vai trò quan trọng. Phương pháp
không tốt làm hiệu quả giảng dạy kém đi nhiều. Phương pháp sư phạm bao gồm
nhiều vấn đề mà trước hết và quan trọng nhất là cách khơi dạy ở s
inh viên say mê
học tập, khát khao hướng về cái thiện, là làm cho sinh viên hứng thú trong việc tìm
tòi, khám phá cái mới, cái đẹp. Biết vươn tới chỗ phát triển tài năng, phát huy được
sức mạnh nội tâm của con người.
Về phương pháp của thầy giáo, Bác Hồ đã căn dặn: “Các thầy cô phải tìm
cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh… thầy
dạy tốt, trò học tốt, đó là nhiệm vụ vẻ vang của thầy cô gi
áo. ” [28, tr 306].
Có thể nói, cũng như trong tất cả các trường sư phạm ở các bậc học, đội ngũ
GV trường sư phạm là lực lượng trực tiếp thực hiện công tác GD ĐT và xây dựng
trường sư phạm, là nguồn lực – một trong ba nguồn lực quan trọng, có vai trò quyết
định cho sự vận hành và bảo đảm chất lượng GD & ĐT theo mục tiêu đã xác định.
b/ Tầm qua

n trọng của đội ngũ giảng viên trường sư phạm
Nói về tầm quan trọng của đội ngũ GV và cán bộ quản lý giáo dục GS.TSKH
Vũ Ngọc Hải và PGS.TS Đặng Quốc Bảo đã khẳng định: “Sứ mệnh của đội ngũ GV
và CBQL giáo dục có ý nghĩa cao cả đặc biệt. Họ là một bộ phận lao động tinh hoa
của đất nước. Lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất
nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững”. “Sản phẩm của họ khác với
các loại hì
nh lao động khác ở chỗ: sản phẩm này tích hợp các nhân tố tinh thần và
vật chất, đó là nhân cách văn hóa – sức lao động.”. Thành quả lao động của họ vừa
tác động vào hình thái ý thức xã hội (giá trị văn tinh thần của
dân tộc, tình đoàn kết
đồng thuận của đất nước),vừa hình thành sức lao động kỹ thuật, thúc đẩy sự năng
động của đời sống thị trường”.
Trong bối cảnh GD đi vào thế kỷ XXI, TS RaJa Roy Singh, nhà GD nổi
tiếng của Ấn Độ – Chuyên gia GD nhiều năm ở UNESCO khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương có một số lời bình khá ấn tượng: “GV giữ vai trò quyết định trong quá
trình GD và đặc biệt trong việc định hướng lại GD. Những công nghệ thành đạt, nói
chính xác là những công nghệ thông tin sử dụng trình độ nghề nghiệp và phong
cách của những GV giỏi nhất. Trong quá trình dạy học GV không chỉ là người
truyền thụ những tri thức rời rạc mà còn giúp người học thường xuyên gắn với cơ
cấu lớn hơn. GV cũng đồng thời là người hướng dẫn, người cố vấn, người mẫu mực
của người học. Do đó, GV không phải là người chuyên về một ngành hẹp m
à là
người cán bộ tri thức, người học suốt đời. Trong công cuộc hoàn thiện quá trình dạy
học, người dạy, người học là những người bạn cùng làm việc, cùng nhau tìm hiểu
khám phá.’’
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam rất quan tâm xây dựng đội
ngũ nhà giáo và CBQL GD. Trong thời kỳ đổi mới GD đã liên tiếp có các chỉ thị về
lĩnh vực quan trọng này.
Ban Bí thư TW có Chỉ thị số 40 về xây dựng đội ngũ n

hà giáo và CBQL GD.
Từ chỉ thị này, ngày 11/112005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 09 phê duyệt
đề án “Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD giai đoạn
2005 – 2010.”.
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD theo hướng chuẩn hóa, nâng cao
chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình
độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp GD
trong công cuộc đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.”.
Trong các nhiệm vụ nêu ra đã lưu ý việc:
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo,c
án bộ quản lý GD. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò, trách nhiệm của nhà giáo và nhiệm vụ xây
dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý GD có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp, làm trụ cột thực hiện các
mục tiêu nâng cao dân trí, ĐT nhân lực, BD nhân tài.”.
Ngày 4 tháng 4 năm 2007, Ban cán sự Đảng bộ Bộ GD & ĐT ra Nghị quyết
08/NQ – BCSĐ về phát triển ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2007
đến 2015. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp chính là phát triển đội ngũ GV
và CBQL GD có nêu: “Xây dựng đội ngũ GV và CBQL GD các trường sư phạm
trong cả nước đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất và năng lực vững
vàng, đáp ứng yêu cầu đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học ở trường
sư phạm, c
hú trọng bám sát yêu cầu chất lượng về nghiệp vụ sư phạm cho GV các
trường ĐH, CĐSP.”.
Ngày nay, Đảng ta đã coi: GD là quốc sách hàng đầu và coi GV là nhân tố
quyết định chất lượng GD và được xã hội tôn vinh.
Ở các trường sư phạm GV có nhiệm vụ chủ yếu sau:

Giảng dạy và GD sinh viên – những người thầy giáo tương lai theo đúng
mục tiêu, nội dung, c
hương trình và quy chế của trường sư phạm, thực hiện các quy
định của pháp luật. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm. Tham gia nghiên cứu khoa học, tu dưỡng để trở thành người
thầy giáo mô phạm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đang chuyển mạnh sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Nền kinh tế này đòi hỏi ở c
on người những
phẩm chất và năng lực mới khác về chất so với đòi hỏi của nền kinh tế tập trung bao
cấp trước đây. Do đó, mô hình nhân cách mà GD & ĐT phải hình thành và phát
triển ở người học cần được thay đổi. Từ đó, kéo theo thay đổi nội dung, chương
trình và phương pháp GD & ĐT.
Chất lượng ĐT đội ngũ thầy giáo quyết định sự thà
nh bại của những đổi mới
đó. Muốn CNH – HĐH đất nước, chúng ta cần phát triển GD & ĐT mà trước hết
phải có đội ngũ thầy giáo giỏi. Muốn có đội ngũ giáo viên giỏi tất yếu phải có đội
ngũ GV giỏi các trường sư phạm. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ GV ở
trường sư phạm là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyê
n và cấp bách của các trường sư
phạm.

×