Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

du lịch và vấn đề hội nhập quốc tế về du lịch tại việt nam tiểu luận cao học quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.53 KB, 21 trang )

A.
1.

MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Hợp tác quốc tế có tác động rất lớn đến sự phát triển của quốc gia và tình
hình chính trị thế giới. Hợp tác là biện pháp tốt nhất để duy trì hòa bình, ổn
định, an ninh của Thế Giới. Hợp tác giúp tránh hoặc giải quyết hòa bình các
xung đột, mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể quan hệ quốc tế. Hợp tác tạo
ra môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn bộ
nhân loại. Hợp tác quốc tế, trước hết là hợp tác kinh tế giúp các nước phát
triển nền kinh tế của mình, tạo ra sự thịnh vượng chung toàn nhân loại. Hợp
tác trong các lĩnh vực khác giúp các nước củng cố lòng tin lẫn nhau, tăng
cường sự hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa nhân dân các nước… Việt Nam là
nước đang phát triển, xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước nên
hợp tác quốc tế trở thành vấn đề quan trọng để Việt Nam thực hiện lợi ích
quốc gia trong quan hệ quốc tế và học hỏi vận dụng những kinh nghiệm của
quốc tế để phát triển quốc gia mình. Cùng với đó là vấn đề về hợp tác quốc tế
về du lịch của Việt Nam, Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá Du lịch đã trở
thành một nhu cầu không thể thiếu được- một hiện tượng phổ biến trong xã
hội. Du lịch Việt Nam đang có những bước triển biến rõ rệt, lượng khách Du
lịch trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng. Ngành đãđóng góp rất lớn
vào nền kinh tể nước ta và góp phần không nhỏ vào việc thực hiện CNHHĐH đất nước, cải thiện đời sống của nhân dân. Thu nhập từ các hoạt động
kinh doanh Du lịch ngày càng cao đãđưa Du lịch trở thành một ngành “công
nghiệp không khói” đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
Mặc dù vậy nhưng ngành Du lịch ở nước ta vẫn còn đơn giản, lạc hậu,
chưa thực sựđược chú trọng khai thác hết tiềm năng. Chúng ta phải có một cơ
sở pháp lý rõ ràng, chi tiết để Nhà nước có thể quản lý chặt chẽ hơn và như


vậy các công ty du lịch hoạt động nghiêm túc, hiệu quả hơn giúp cho khách
du lịch thuận tiện, thoải mái và an toàn khi đi du lịch ở Việt Nam.
1


Ngoài ra để phát triển ngành Du lịch cần phải hội nhập với thế giới. Đối
với nước ta một nước đang phát triển thì hội nhập là con đường tốt nhất để rút
ngắn tụt hậu so với các nước khác và cóđiều kiện phát huy tốt hơn những lợi
thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Vấn đềđặt
ra với Việt Nam không phải là có hội nhập hay không mà là hội nhập như thế
nào ? tiến trình và cách thức đểáp dụng tốt nhất. Thực tế cho thấy không có
một quốc gia nào có thể tự lực xây dựng một nền kinh tế nội địa có hiệu quả
mà không cần đến bên ngoài. Vì vậy hội nhập trong giai đoạn hiện nay là rất
cần thiết vàđược bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt Nam luôn làđiểm đến an toàn, tin tưởng của du khách quốc tế, vì
vậy chúng ta phải xây dựng và bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm
thúc đẩy ngành du lịch phát triển và hội nhập với thế giới, giúp bạn bè thếgiới
đến với Việt Nam nhiều hơn, thông qua đó mở rộng các mối quan hệ hợp tác
kinh doanh, tận dụng các điều kiện bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước
nói chung và ngành Du lịch nói riêng.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu cơ sở pháp lý về Du lịch và vấn
đề hội nhập quốc tế về Du lịch tại Việt Nam cóý nghĩa rất quan trọng, qua đó
có thể khắc phục được những điểm yếu hiện nay và nắm vững cơ sở nhằm
phát triển du lịch Việt Nam lên tầm cao mới.
2. tình hình nghiên cứu
Đối với đề tài hợp tác quốc tế và hợp tác quốc tế về du lịch của Việt Nam
là một đề tác khá mới và mang tính cấp thiết hiện nay. Vậy nên đã được rất
nhiều các nhà khoa học, tác giả với rất nhieèu công trình nghiên cứu ở lĩnh
vực, phạm vi và quy mô khác nhau.
Do giới hạn của một đề tài tiểu luận nên tác giả chỉ đi vào tìm hiểu, đánh

giá thực trạng công tác cải cách trong vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hợp tác Quốc tế và hợp tác quốc tế về du
lịch của Việt Nam hiện nay.
- Nhằm đánh giá những cơ sở pháp lý về du lịch của Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để thực hiện có hiệu quả vấn đề hợp
tác quốc tế về du lịch của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch của Việt Nam
hiện nay
Phạm vi nghiên cứu: du lịch Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu, phân tích, đánh giá
để giải quyết vấn đề hợp tác quốc tế và cụ thể là hợp tác quốc tế về du lịch
của Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần kết luận và nội dung gồm 3
chương
-

Chương 1: Cơ sở lý luận về hợp tác quốc tế
Chương 2: Du lịch tầm quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân
Chương 3: Cơ sở pháp lý của du lịch tại Việt Nam và hợp tác quốc tế về du
lịch ở Việt Nam.


B. NỘI DUNG
3


Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
1.1.

Khái niệm hợp tác quốc tế

Hợp tác quốc tế là việc phối hợp hoạt động giữa hai hay nhiều chủ thể
quan hệ quốc tế nhằm thực hiện các lợi ích nhất định.
Hợp tác quốc tế được thể hiện qua các hành vi, ứng xử, hoạt động có tác
động qua lại giữa các quốc gia hoặc chủ thể khác của quan hệ quốc tế, qua
việc xây dựng các thiết chế, các quy tắc ứng xử, các luật lệ, thủ tục để phối
hợp chính sách ở các mức độ khách nhau, qua các cuộc đàm phán trên mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội… được biểuh
iện tập trung ở sự hội nhập quốc tế, qua các việc xây dựng, tham gia các cơ
chế xử lí quốc tế trên từng lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực, qua việc xử lý cụ thể
các vấn đề quốc tế như chống khủng bố, chống tội phạm xuyên quốc gia, bảo
vệ môi trường, chống bệnh dịch…
Hợp tác thường diễn ra trên cơ sở tự nguyện của các bên và có thể diễn
ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều quy mô, nhiều mục tiêu và biện pháp khác nhau.
Có hợp tác song phương, đa phương, hợp tác khu vực, hợp tác toàn cầu, hợp
tác liên chính phủ hoặc hợp tác phi chính phủ. Tuy nhiên cũng có hợp tác
mang tính chế tài, hoặc cũng có những hợp tác chỉ mang tính diễn đàn.
Hợp tác quốc tế trước hết là vì lợi ích của các bên tham gia trực tiếp quá
trình hợp tác. Hợp tác có khi vì lợi ích chung của tất cả hoặc của nhiều nước,
song cũng có sự hợp tác vì lợi ích của một nhóm nước và gây thiệt hại đến
nước khác. Do vậy cần xem xét cụ thể tính chất, mục đích của hợp tác cũng
như khả năng khai thác sự hợp tác phục vụ lợi ích quốc gia.

1.2. Cơ sở của hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế được tiến hành trên hai cơ sở chung nhất:
-

Thứ nhất là qua việc xác định, quan điểm của các bên tham gia sự hợp tác.
Các bên tham gia hợp tác khi nhận thấy sự hợp tác đem lại lợi ích cho mình.
Đây là động lực lớn nhất để các bên tham gia quá trình hợp tác quốc tế.

4


-

Thứ hai là hợp tác đòi hỏi sự nhân nhượng lẫn nhau, điều hòa lợi ích để các
bên cùng có lợi. trong quá trình hợp tác các bên không thể tối đa hóa lợi ích
của mình mà cần phải tính đến lợi ích của các quốc gia khác. Hợp tác thể hiện
sự nhân nhượng, sự giải quyết hòa bình các mâu thuẫn, các xung đột..
1.3. vai trò của hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế có tác động rất lớn đến sự phát triển của quốc gia và tình
hình chính trị thế giới. có thể nêu ra một số vai trò của hợp tác quốc tế:
1.3.1. Đối với quốc tế
- Hợp tác là biện pháp tốt nhất để duy trì hòa bình, ổn định, an ninh của
Thế Giới. Hợp tác giúp tránh hoặc giải quyết hòa bình các xung đột, mâu
thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể quan hệ quốc tế. Hợp tác tạo ra môi trường
hòa bình, ổn định cho sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn bộ nhân loại.
Hợp tác quốc tế, trước hết là hợp tác kinh tế giúp các nước phát triển nền kinh
tế của mình, tạo ra sự thịnh vượng chung toàn nhân loại.
- Hợp tác quốc tế trước hết là hợp tác kinh tế, giúp các nước phát triển
nền kinh tế của mình, tạo ra sự thịnh vượng chung toàn nhân loại. Hợp tác
trong các lĩnh vực khác giúp các nước củng cố lòng tin lẫn nhau tăng cường

sự hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa nhân dân các nước.
1.3.2. Đối với quốc gia
- Hợp tác là công cụ thực hiện lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Hợp tác để điều hòa lợi ích và duy trì, phát triển những lợi ích chung giữa các
quốc gia.
- Hợp tác quốc tế là biện pháp tốt nhất để liên kết, tập hợp lực lượng,
thêm bạn bớt thù, để đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ, tiến
bộ xã hội.
- Hợp tác tạo điều kiện cho sự hiểu biết, giao lưu giữa các nước khác,
giúp tìm hiểu và học hỏi vận dụng những kinh nghiệm của quốc tế để phát
triển quốc gia mình.

5


1.4. Các hình thức cơ bản của hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế rất đa dạng và phong phú. Xét về mặt số lượng các chủ
thể tham gia, hợp tác quốc tế có thể có các hình thức: hợp tác song phương,
hợp tác đa phương, hợp tác toàn cầu.
1.4.1. Hợp tác song phương: khi có hai chủ thể tham gia.
Hình thức hợp tác song phương quan trọng nhất là quan hệ giữa hai quốc
gia. Đây là hình thức hợp pháp phổ biến nhất trong quan hệ quốc tế nói chung
và có thể được triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sỗng xã hội và giữa
các đối tác thuộc cơ cấu nhà nước của hai bên.
Bên cạnh hình thức hợp tác song phương giữa hai quốc gia, luôn phát
triển hình thức hợp tác giữa các chính đảng, các tổ chức chính trị xã hội và
các tổ chức nhân dân giữa hai nước. Các hình thức hợp tác này có tác dụng
tăng cường, thúc đẩy hợp tác nhà nước, nhiều khi chúng vượt trước quan hệ
nhà nước.
1.4.2. Hợp tác đa phương : khi có nhiều chủ thể tham gia

Hình thức hợp tác đa phương thường được biểu hiện thông qua các tổ
chức quốc tế, các diễn đàn và hội nghị quốc tế.
Hợp tác đa phương có thể là giữa các quốc gia, các chính đảng hoặc các
tổ chức chính trị xã hội, có thể ở cấp độ khu vực, liên khu vực…
Các hình thức hợp tác này được thể hiện qua sự hoạt động của các tổ
chức đa phương như nhóm G8,G7, Tổ chức các nước nói tiếng Pháp, tiếng
Anh, Liên minh Châu Âu, Khối quân sự Bắc đại tây dương, tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á…
1.4.3. Hợp tác toàn cầu
Khi tất cả hoặc hầu hết các chủ thể quan hệ quốc tế tham gia trong cộng
đồng thế giới trong việc giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu mà không
một quốc gia hay nhóm quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết nổi, cần có sự
phối hợp của tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới. Đó là những vấn đề như
bảo vệ hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, hạn chế bùng nổ dân số…
6


Các quốc gia đang thực hiện hợp tác toàn cầu trong các tổ chức toàn cầu
như Liên Hợp Quốc, tổ chức thương mại thế giới, quỹ tiền tệ, quốc tế, ngân
hàng thế giới…
Việt Nam luôn coi trọng hòa bình, hợp tác và phát triển giữa các quốc
gia và nhân dân thế giới
Chương 2: DU LỊCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DU LỊCH
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã
hội và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp
sống sinh hoạt xã hội hiện đại. Có nước coi du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều

chỉnh các cân thanh toán quốc tế, có nước coi du lịch như một ngành kinh tế
mũi nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. ở Việt Nam, ngay từ những năm
1960 ngành du lịch đã đánh dấu nhận thức của Đảng và nhà nước về triển
vọng kinh tế này.
Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước trong
khu vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.

2.2.

Khái niệm về Du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, Du lịch đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, Du lịch đã
trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát
triển, trong đó có Việt Nam. Tuy vậy cho đến nay, nhận thức về nội dung du
lịch vẫn chưa thống nhất. Bởi hoàn cảnh khác nhau, dưới góc độ nghiên cứu
khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một
chuyên gia đã nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì
có bấy nhiêu định nghĩa”.
7


Trong giáo trình thống kê du lịch , Nguyễn Cao Cường và Tô Đông Hải
chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục vụ
nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơicó hoặc không kết hợp với các hoạt
động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Còn theo nhà định lý học Michaud lại cho rằng: du lịch là tập trung những
hoạt động sản xuất và tiêu thụ, phục vụ cho việc đi lại và ngủ ít nhất một đêm

người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khỏe, hội họp…
Như vậy, dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có một cách nhìn nhận khác
nhau về khái niệm du lịch. Chính vì vậy, trong pháp lệnh Du lịch của tổng cục
du lịch Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: Du lịch là hoạt động của con người
ngoài nơi cư chú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
2.3.

Tầm quan trọng của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân
Du lịch có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nền kinh tế đất nước
thông qua việc tiêu dùng của du khách. Và để hiểu rõ vai trò của du lịch trong
quá trình tái sản xuất xã hội trước hết, ta quan tâm tới việc tiêu dùng của Du
lịch, đó là nhu câug tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức học hỏi…
Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng Du lịch và tiêu
dùng các hàng hóa khác việc tiêu dùng sản phẩm Du lịch xảy ra cùng một lúc,
cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện quá trình tiêu thụ sản
phẩm, người đưa hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy
sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so sánh giá của sản phẩm
Du lịch kia một cách tùy tiện được.
Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch thể hiện thông qua tác động qua
lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác
động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến các lĩnh vực
khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân thu
chi của khu vực và của đất nước. du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất
8


nước mà họ Du lịch, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến, ngược lại
phần thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người du lịch

nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo động
hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hóa. Cán cân thu chi được thực hiện giữa
các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân khinh
tế của Đất nước, song có tác dụng điều hòa nguồn vốn từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng
sâu vùng xa.
Việt Nam, với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nền
kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh
nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước tăng trưởng
với mức độ cao, mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả
trong nước ổn định.
Du lịch quốc tế còn là phương tiện truyền thông và quảng cáo không mất
tiền cho nước ta.
Chương 3:CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA DU LỊCH TẠI VIỆT NAM VÀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ DU LỊCH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Cơ sở pháp lý của du lịch tại Việt Nam
3.1.1. Vài nét về tình hình pháp luật về Du lịch trước năm 2005
Ngành Du lịch Việt Nam ra đời năm 1960 trên cơ sở nghị định 26/CP
của Chính Phủ. Những năm đầu tiên với mục đích phục vụ chủ yếu cho khách
nội địa đó là những công dân có thành tích chiến đấu, học tập, lao động được
đi nghỉ mát, điều dưỡng.
Đến ngày 12/9/1969, ngành DU LỊCh giao cho bộ công an và văn phòng
thủ tướng trực tiếp quản lý.
Do tính chất, nhiệm vụ của Đất nước mà du lịch chưa có điều kiện để
phát triển.
9


Năm 1978, BTN Quốc hội ban hành nghị định 282/NQQ QHK6 thành

lập Tổng cục Du lịch trên cơ sở một vụ của bộ Nội vụ thuộc hội đồng bộ
trưởng. sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá
trình phát triển của Nha nước.
Chính sự thay đổi về mặt tổ chức đã mở rộng thẩm quyền và chức năng
của cơ quan quản lý du lịch. Giai đoạn này, bộ máy tổ chức và quản lý của
Tổng cục Du lịch dần được hoàn thiện, ngày 23/1/1979 Hội đồng bộ trưởng ra
nghị định 32/CP quy định chức năng và nhiệm vụ ngành du lịch, Năm 1981
ban hình nghị định 137/CP quy định phương hướng phát triển của ngành.
Cũng năm 1981 Du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức Du
lịch thế giới (WTO).
Năm 1986 một sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra, đánh dấu sự khởi
đầu cho một giai đoạnmới của Đất nước. Đó là đường lối đổi mới nền kinh tế
do Đại hội Đảng toàn quốc lần 6 đề ra. Với chính sách mở cửa: Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước, du lịch Việt Nam thực sự có đieèu kiện khởi
sắc. Tuy nhiên, phải 4 năm sau , tức là năm 1990 chúng ta mới thấy được
những bước chuyển mình của du lịch Việt Nam.
Trong thời kì này cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, ngành du lịch
Việt Nam đã từng bước khắc phục khó khăn đề ra phấn đấu thực hiện các chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức của ngành, từ chỗ ngành du lịch được
giao cho Văn Hóa – Thông tin – Thể thao và Du lịch quản lý Nhà nước. theo
quyết định số 244/QĐ – HĐNN của Hội đồng nhà nước ngày 31/3/1990 cho
đến tháng 12/1991 Chính phủ quyết định chuyển sang chức năng quản lý nhà
nước đói với ngành du lịch sang bộ thương mại và du lịch. Tới ngày
26/10/1992 Chính phủ có nghị định 05 CP về việc thành lập tổng cục du lịch.
Ngày 27/12/1992 Chính phủ có nghị định số 20/CP và ngày 7/8/1995 Chính
phủ có nghị định 53/CP quy định , chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức

10



bộ máy của tổng cục du lịch. Bắt đầu từ đây du lịch Việt Nam bước sang
những trang mới.
Được sự quan tâm của ĐẢng và chính phủ, với chính sách mở cửa của
Nhà nước, sự phối hợp hỗ chợ của các cấp ngành, đoàn thể và sự cố gắng nỗ
lực của cán bộ công nhân viên toàn ngành.
Khgi nói đến cơ sở pháp lý về du lịch, không thể không để cập đến một
sự kiện quan trọng làm cơ sở thay đổi bộ mặt du lịch Việt Nam. Đó là tháng 2
năm 1999, UBTV Quốc hội đã ban hành pháp lệnh du lịch – lần đầu tiên ở
Việt Nam Du lịch được điều chỉnh bằng những nguyên tắc, quy phạm pháp
luậttrong một văn bản thống nhất có hiệu lực cao.
Với 9 chương 56 điều, Pháp lệnh Du lịch đã từng bước đi vào sống,
hướng và điều chế các quan hệ Việt Nam theo đường lối đổi mới của Đảng.
3.1.2. Luật du lịch – cở sở pháp lý cơ bản của du lịch Việt Nam
Luật Du lịch gồm 11 chương 88 điều bao gồm quy định về nội dung và
những nguyên tắc cơ bản của du lịch Việt Nam là cơ sở pháp lý cơ bản của
du lịch Việt Nam. Qua nghiên cứu có một số điểm nổi bật sau:
3.1.2.1. quá trình xây dựng luật:
Trên cơ sở đề xuất của chính phủ, ngyà 16/12/2002, Quốc hội đã thông
qua nghi quyết số 12/2002/QH11 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
của Quốc hội nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (2002-2007) và năm 2005, trong đó
luật du lịch được đưa vào trong chương trình xây dựng luật của quốc hội năm
2005. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết
định số 35/2003/QĐ-TT phân công cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp soạn
thảo các dự án luật, pháp lệnh của chính phủnhiệm kì quốc hội khóa XI
(2002-2007) và năm 2003. Theo quyết định này tổng cục du lịch được giao
chủ trì xây đựngự án luật Du lịch.
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, tổng cục Du lịch đã thành lập ban
soạn thảo và tổ biên tập luật du lịch với sự tham gia của đại diện các cơ quan:
Bộ Công An, Bộ nông nghiệp, bộ giao thông vaạn tải… Tổng cục du lịch đã

11


tiến hành tổng kết 5 năm tình hình thi hành pháp lệnh du lịch, tổ chức tập hợp
các tài liệu liên quan…
Ngày 11/1/2005, Tổng cục du lịch đã trình chính phủ dự án luật du lịch.
Trong phiên họp thường kì tháng 1/2005, Chính phủ đã thảo luận và thông qua
các nội dung cơ bản của Luật du lịch. Ngày 23/2/2005, Ủy ban thường vụ quốc
hội đã họp và cho ý kiến về dự án luật này. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ủy
ban thường vụ quốc hội , ủy ban kinh tế - ngan sách , các ủy ban khác của
Quốc hội, chính phủ đã hoàn thiện dự án luật và chính thức trình lên quốc hội.
Tại phiên họp toàn thể ngày 26/5/2005, quốc hội đã thảo luận và cho ý
kiến về dự thảo luật. tiếp thu ý kiến của các đại biểu quốc hội, ủy ban thường
vụ quốc hội đã chỉnh sửa dự thảo luật và ngày 14/6/2005, quốc hội đã thông
qua toàn văn luật du lịch.
3.1.2.2. những nội dung cơ bản của luật du lịch
Luật du lịch đã xác định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của
luật du lịch. Đó là điều 1 và điều 2 quy định chính sách, nguyên tắc phát triển
du lịch theo hướng bền vững, theo quy hoạch, bảo đảm hài hòa giữa kinh tế,
xã hội và môi trường; bảo tồn, tôn tạo…phát huy giá trị của tài nguyên du
lịch.
-

Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh ,
an toàn cho khách du lịch, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

-

kinh doanh du lịch.

Bảo đảm sự tham, gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong

-

phát triển du lịch.
Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình

-

ảnh đất nước, con người Việt nam
Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu hút
ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
Tại điều 6 quy định các chính sách phát triển quan trọng, trong đó nêu rõ:
Nhà nước có cơ chế , chính sách hoạt động mọi nguồn lực, tăng đầu tư phát
12


triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đát nước; đồng
thời có chính sách khuyến khích, ưu đi về đất đai, tài chính, tín dụng, đối với tổ
chức, cá nhân đầu tư trong một số lĩnh vực như bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du
lịch tại nơi có tiềm năng ở vùng sâu, vùng xa… Về vấn đề qurn lý nhà nước,
luật quy định nội dung quản lý nhà nước về du lịch và trách nhiệm quản lý nhà
nước về du lịch, trong đó cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các Bộ, cơ
quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình theo sự phân công
của chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nướcvề du
lịch.
3.2. Hợp tác quốc tế về du lịch của Việt Nam
3.2.1. Tham gia các tổ chức – Hội nghị về du lịch.
Thực hiện hợp tác đa phương đa chiều. Đó là việc thành lập lên các tổ
chức quốc tế ở khu vực và trên Thế giới để giúp đỡ nhau cùng phát triển. Các

tổ chức như Liên Hợp Quốc (UN) với mục đích duy trì nền hòa bình, an ninh
trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc dựa trên
nguyên tắc bình đẳng, tự chủ, hợp tác trên mọi lĩnh vực. ở Châu Âu có cộng
đồng kinh tế Châu Âu EEC, với các quy định riêng về đồng tiền, chiến lược
đường lối phát triển chung của các nước trong khối và các nước trong khối
giúp đỡ nhau cùng phát triển. ở Đông Nam Á có tổ chức ASEAN, bao gồm
11 nước thành viên trong khu vực Đông Nam Á, nhằm liên kết hợp tác để
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước trong khu vực. với mục đích
giúp đỡ phát triển du lịch trên phạm vi toàn thế giới, tổ chức du lịch Thế giới
WTO được thành lập 2/1975. Ở Đông Nam Á để phục vụ cho sự phát triển du
lịch, năm 1971 ASEAN thành lập hiệp hội Du lịch của các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN – TA) và một loạt các tổ chức quốc tế được thành lập như tổ
chức các nước xuất khẩu dầu mỏ ÒEC, tổ chức APEC…
Mặt khác việc kí kết các hiệp định song phương giữa các nước với nhau
cũng tăng cường. Các hiệp định được kí kết giữa Việt Nam với các bên đối tác
như kí Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam – Lào…
13


Các hình thức tiến hành quá trình hội nhập rất đa dạng, dưới nhiều
phương thức khác nhau và cái gì cũng có tính hai mặt của nó, hội nhập một
mặt tạo ra những cơ hội, thuận lợi đồng thời với nó là những khó khăn và
thách thức. Mỗi nước căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội nước mình để tìm ra
hướng hội nhập đúng đắn, làm kim chỉ nam cho mọi hành động nhằm đưa đất
nước tiến lên, nhằm phát huy thế mạnh, cơ hội đồng thời tìm mọi cách khắc
phục và hạn chế những khó khăn thách thức, đặt ra để xây dựng thành công
đất nước. Việt Nam với tình hình đất nước vẫn còn nhiều khó khăn muốn
hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp thì cần
phải có nỗ lực nhiều hơn nữa, một trong những đường lối, chiến lược của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là thực hiện hội thập. Đất nước

thực hiện đường lối đổi mới năm 1986, nhưng tiến trình hội nhập kinh tế mới
thực sự được tiến vào đầu những năm 90 của thế kỷ 20.
Trong xu thế chung hòa nhịp với hội nhập các ngành kinh tế, du lịch Việt
Nam được Đảng và nhà nước ta xác định là ngành kinh tế sẽ trở thành mũi
nhọn. Thực hiện phát triển ngành du lịch theo hướng hội nhập khu vực và thế
giới, Du lịch Việt Nam đã có những thành công đáng tự hào, bên cạnh đó
cũng còn tồn tại và xuất hiện những thách thức.
3.2.2. Kí kết các điều ước quốc tế đa phương và song phương giữa Việt
Nam và các nước về Du lịch.
Ngành du lịch Việt Nam chủ trương đẩy mạnh hợp tác với bên ngoài, tạo
sự liên tiếp cũng như điều kiện hội nhập với khu vực và trên thế giới.
Hợp tác, kí kết đa phương được đẩy mạnh và chủ trương hơn những
năm trước đây. Du lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện
quốc tế với vị thế mới, cao hơn. Tại diễn đàn du lịch ASEAN- AFT 2001, ở
Brunây, Du lịch Việt Nam tranh thủ tuyên truyền quảng bá chương trình hành
động quốc gia về Du lịch, đồng thời đưa ra sáng kiến thúc đẩy hợp tác du lịch
ASEAN + 3 ( ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản ). Tranh thủ sự

14


tài trợ của Hàn Quốc, Du lịch (KOTFA) tháng 5/2011, trong khuôn khổ hợp
tác ASEAN và Hàn Quốc vào Việt Nam Du lịch.
Tiếp đến quá trình hợp tác kí kết du lịch đa phương trong tiểu vùng
đươc tiếp tục đẩy mạnh hơn trong các nội dung hợp tác, kí kết Du lịch tiểu
vùng Mê Kông mở rộng, hợp tác, kí kết phát triển khu vực hành lang Đông –
Tây, bước đầu chuẩn bị cho hợp tác kí kết Du lịch Việt Nam -

Lào-


Campuchia, xây dựng nội dung dự thảo chương trình hành động hợp tác sông
Mê Kông- Sông Hồng.
Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu thực sự tham gia hợp tác du lịch
APEC lần 18 và diễn đàn Du lịch APEC lần thứ 2. Tổng cục Du lịch đã chuẩn
bị phương án cam kết lĩnh vực Du lịch, phục vụ Việt Nam đàm phán ra nhập
tổ chức thương mại thế giới.
Thực hiện chủ trương phát triển Du lịch gắn với Lễ hội và sự kiện
ngành Du lịch đã chuẩn bị phối hợp với các ban, ngành và địa phương liên
quan đăng cai tổ chức các sự kiện quốc tế. Tháng 5/2011 đã đăng cai tổ chức
thành công phiên họp lần 4 nhóm công tác hợp tác dịch vụ ASEAN tại Hà
Nội, tổ chức các chuyến khảo sát, hoạt động PATA trung ương của ESCAP…
Bên cạnh hợp tác, kí kết đa phương, hợp tác kí kết song phương cũng
được tăng cường, mang lại kết quả và hiệu quả thiết thực. Hiệp định hợp tác
Du lịch Việt Nam - Ấn Độ đã được kí kết, đưa số hiệp định Du lịch song
phương lên 16. Mối quan hệ hợp tác Du lịch Việt Nam – Lào được đẩy lên
tầm cao mới, thể hiện chương trình hợp tác 2001- 2002.
Để thu hút khách Du lịch Trung Quốc, 6 tháng đầu năm các thủ tục cần
thiết thực hiện nội dung ghi nhớ đã kí kết đưa công dân Trung Quốc vào Du
lịch Việt Nam bằng hộ chiếu đã từng được hoàn tất và Chính phủ thức được
triển khai từ ngày 10 -6 – 2001, tăng cường khai thác Du lịch từ thị trường
trọng điểm khách Trung Quốc, Singapre để tài trợ, để triển khai thực hiện các
khóa đào tạo cho cán bộ Du lịch Việt Nam, hợp tác phát triển nguồn nhân lực
Du lịch Việt Nam- Singapore.
15


Hợp tác với các nước khác chưa ký hiệp định cũng được chú ý đẩy
mạnh. Việc tổ chức đón đoàn lữ hành báo chí Bỉ, đón và làm việc với đoàn
Du lịch CuBa, cùng với Gớt tại Hà Nội tổ chức hội thảo “đặc điểm thị trường
Du lịch Đức và biện pháp thu hút khách Đức vào Việt Nam Du lịch” thu hút

quan tâm, tham dự đại biểu của nhiều doạnh nghiệp trong cả nước, phối hợp
tổ chức cho nhóm chuyên gia JICA Nhật Bản tiếp cận thực tế, đảm bảo tốt
tiến độ dự án, nghiên cứu quy hoạch phát triên Du lịch miền Trung, do chính
phủ Nhật Bản tài trợ trị giá 2 triệu USD
Công tác hợp tác quốc tế trong 6 tháng đầu năm thể hiện rõ tính chất
đa dạng và đa tầng. Các địa phương đã quan tâm và chú ý khai thác hỗ trợ và
hợp tác quốc tế phát huy Du lịch địa phương. Các ngành như ngoại giao,
thương mại, văn hóa, thông tin… đều chú ý hỗ trợ công tác quốc tế về Du
lịch. Một số hãng thông tấn nước ngoài nhất là các phóng viên nước ngoài
thường trú tại Việt Nam được cung cấp thông tin Du lịch đầy đủ vầ đều đặn
hơn, tuyên truyền nhiều cho Du lịch Việt Nam, góp phần đáp ứng yêu cầu
quảng bá xúc tiến Du lịch trong tình hình mới.
3.3.3 Vấn đề Du lịch trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ta.
Với nền kinh tế thị trường, việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu
vực là một tất yếu khách quan không chỉ đối với lĩnh vực Du lịch mà cả các
lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân. Theo chủ trương của Chính phủ,
cuối năm 2005, Việt Nam sẽ phấn đấu trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Cùng với sự kiện này là việc thực hiện các cam
kết của Cính phủ với các Hiệp định Thương mại song phương, đặc biệt là
Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ
Các doạnh nghiệp sẽ bước vào một thị trường mới rộng lớn hơn và có
những cuộc cạnh tranh khốc liệt hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có nguồn
lực được đào tạo, rèn luyện ngang tầm với thời cuộc và có tầm với dân tộc.
Theo thỏa thuận trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, đến năm 2008,
các hãng lữ hành của Mỹ sẽ được quyền trực tiếp đưa khách vào Việt Nam.
16


Như vậy, trong lĩnh vực Du lịch, khách Du lịch nước ngoài sẽ đi theo các
chương trình Du lịch của các hãnh nước ngoài, sẽ ở và ăn tại các khách sạn,

nhà hàng do người nước ngoài đầu tư và quản lý, sẽ sử dụng những dịch vụ
do người nước ngoài tổ chức. Khi đó, các doanh nghiệp Du lịch và khách sạn
của Việt Nam chỉ còn làm vai trò là đại lý hoặc đại diện cho nước ngoài mà
thôi. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ sử dụng nguồn lao động tại chỗ với
chất lượng cao nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo quyền lợi cho
khách Du lịch. Khái niệm lao động chất lượng cao ở đây có thể hiểu đó là
những người có kỹ năng và kỹ sảo nghề nghiệp, có trình độ ngoại ngữ (ngoại
ngữ theo thị trường của khách đến và theo nghề nghiệp đang làm), có ý thức
đối với công việc, có khả năng giao tiếp tốt và có sức khỏe. Điều này, các cơ
sở đào tạo nguồn nhân lực phục vụ Du lịch phải có kế hoạch và chiến lược
đào tạo cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Bên cạnh việc hội nhập về lĩnh vực Du lịch, thì việc hội nhập trong lĩnh
vực đào tạp cũng tiến hành đồng thời. Các cơ sở đào tạo của nước ngoài không
chỉ quảng bá tuyên truyền để thu hút người đi du học tự túc tạo các nước mà
còn được Nhà nước tạo điều kiện cho mở trương 100% vốn nước ngoài để thu
hút học sinh và sinh viên trong nước. Như vậy, trong tương lai không chỉ có
các trường công lập, dân lập, tư thục mà có cả các trường của nước ngoài đào
tạo về Du lịch và khách sạn được đặt tại Việt Nam. Đây chính là thách thức rất
lớn buộc các cơ sở đào tạo phải nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu
của xã hội cũng như các doanh nghiệp Du lịch. Mặt khác, đây cũng là cơ hội để
các cơ sở đào tạo Du lịch chấn chỉnh đội ngũ giáo viên, năng động, bám sát
thực tiễn hoạt động kinh doanh, gắn kết, hội nhập với các cơ sở đào tạo của
nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, liên kết, hợp tác cùng phát triển.
Hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh hơn năm 2003, để
thể hiện rõ nhất trong việc tăng cường các hoạt động hợp tác song phương và
đa phương, tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và châu lục. Nhờ thế
đã tranh thủ khai thác thêm nguồn nhân lực cho sự phát triển; tích cực tham
17



gia và khai thác những lợi thế và quyền lợi của mình trong việc tham gia các
tổ chức Du lịch quốc tế và khu vực ( Tổ chức Du lịch thế giới WTO, Hiệp hội
Du lịch châu Á – Thái Bình Dương PAT), các diễn đàn Du lịch như Diễn đàn
Du lich ASEAN tại Chilê. Tranh thủ sự giúp đỡ, tư vấn của các tổ chức quốc
tế như Tổ chức Du lịch Thế giới, tổ chức phát triển bền vững Hà Lan (SNV)
trong việc xây dựng dự thảo Luật Du lịch. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
ODA của các nước cho phát triển nguồn nhận lực Du lịch như nguồn vốn do
Luxembourg và Liên minh Châu Âu (EU) tài trợ. Năm 2004, đã có 15 dự án
FDI đầu tư vào Du lịch được cấp phép với số vốn trên 110 triệu USD.
Nhìn lại năm 2004 có thể thấy rằng, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, kịp
thời, phát huy tính sáng tạo chủ động của toàn ngành, Du lịch nước ta đã một
lần nữa lại vượt khó, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tiếp
tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá.

18


KẾT LUẬN
Ngày nay, Du lịch là nhu cầu bức thiết của toàn bộ xã hội và của tất cả
mọi người. Thị trường du lịch quốc tế và nội địa nói chung rất đa dạng và
phong phú. Du lịch là ngành “công nghiệp không khói” và nó đem lại “siêu
lợi nhuận” đồng thời là nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho mỗi quốc gia. Việt Nam
là một quốc gia được thiên nhiên ưu đãi tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên
đẹp vô cùng với những tài sản vô cùng quý giá do ông cha ta, do lịch sử để
lại. Đây là những vốn liếng để chúng ta phát triển và xây dựng ngành Du lịch
phát triển mạnh mẽ, làm giàu cho tổ quốc.
Để khai thác triệt để những điểu kiện thuận lợi đó chúng ta cần phải tiếp
tục hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn để đưa Luật Du lịch vào cuộc sống. Có
như vật công cuộc phát triển ngành Du lịch mới có thế diễn ra nhanh chóng,
suôn sẻ và thuận lợi.

Ngoài ra Luật Du lịch sẽ góp phần quan trọng trong công cuộc hội nhập
với thế giới của ngành Du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung của nước ta.
Xu thế hội nhập trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu và tối quan trọng, bởi
vì s không thể một quốc gia nào có thể tự phát triển mà không cần các quan
hệ với thế giới bên ngoài. Du lịch là ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước ta
xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, tập trung quan tâm phát triển. Bản thân
Du lịch là ngành kinh tế mang nhiều yếu tố quốc tế và hội nhập. Trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế Du lịch Việt Nam trên cơ sở phát
huy tiềm năng vốn có, những thế mạnh tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân
văn, kinh nghiệm và thành tựu kinh tế chính trị xã hội sau 18 năm đất nước
tiến hành đổi mới đã đạt được những thành công đáng kể từng bước nâng cao
vị thế của Du lịch Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Sức mạnh cạnh tranh của Du lịch Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém
và những thách thức đặt ra cho sự phát triển Du lịch trong tiến trình hội nhập
khu vực và quốc tế. Cần vai trò chủ động của các cơ quan Nhà nước có thẩm
19


quyền mở rộng hơn các quy định, pháp chế để tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh Du lịch của Việt Nam cũng cần xác định
rõ chiến lược kinh doanh của mình chủ động tham gia hội nhập quốc tế. Hội
nhập mở ra hướng đi mới cho Du lịch Việt Nam, giúp thực hiện thành công yêu
cầu mà Đại hội IX của Đảng đề ra: “ Phát triển Du lịch thật sự trở thành một
ngành kinh tế, mũi nhọn,… đáp ứng nhu cầu Du lịch trong nước và phát triển
nhanh Du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển Du lịch của khu vực”.

20


MỤC LỤC


21



×