Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác giả và các bên sử dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.07 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xuất bản là một trong những hoạt động văn hóa tư tưởng chịu sự quản
lý chặt chẽ của nhà nước, là hoạt động có ý nghĩa truyền bá tri thức, các giá
trị văn hóa tinh thần tới quần chúng nhân dân, đồng thời cũng là một trong
những lĩnh vực sản xuất kinh doanh đặc thù của thời đại mới. Với sự mở
cửa hội nhập sâu sắc của Việt Nam với thế giới, mọi lĩnh vực được nhà nước
quản lý chặt chẽ thông qua hệ thống các văn bản Luật và dưới luật được ban
hành, Xuất bản cũng không ngoại lệ, nhất là trong thời buổi khoa học công
nghệ có những phát triển vượt bậc như hiện nay, cùng với nền kinh tế tri
thức, kinh tế thị trường song song phát triển. Tất cả đưa đến những biến
động và đòi hỏi mới của ngành, trong đó, nổi cộm lên vấn đề bản quyền. Vì
vậy, một hệ thống các văn bản pháp luât, các chế tài được hình thành và
hoàn thiện nhằm kiểm soát và xử lý các vấn đề liên quan tới quyền và nghĩa
vụ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và các bên sử dụng tác phẩm. Tuy
nhiên, không phải cá nhâ, cơ quan đơn vị nào cũng nắm rõ được các uqy
định của pháp luật, cũng như có ý thức tự giác thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình. Chính vì vậy đã dẫn tới những hậu quả khôn lượng cho ngành
xuất bản, mà không ai khác chính tác giả, những người có quyền chủ sở hữu
của tác giả, các bên sử dụng và chính các độc giả là những người trực tiếp
gánh chịu hậu quả ấy.
Do đó, trong khuôn khổ các đề tài tiểu luận cho môn quản lý nhà nước
về xuất bản, chúng em chọn đề tài “ Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở
hữu tác giả và các bên sử dụng” được quy định cụ thể trong Pháp luật Viêt
nam cũng như những thực trạng đang diễn ra trong quá trình thực hiện của
hoạt động xuất bản hiện nay.
1


Phần nội dung đề tài tiểu luận có kết cấu gồm các phần cụ thể như
sau:
Chương 1: Cơ sở pháp lí


1. Tác giả và quyền tác giả trong tư pháp quốc tế
2. Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và bên sử dụng
đối với tác phẩm trong pháp luật Việt Nam
2.1. Tác giả và chủ sở hữu tác phẩm
2.2. Hợp đồng sử dụng tác phẩm
2.3. Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm trong hợp
đồng sử dụng tác phẩm
2.4. Quyềnvà nghĩa vụ của bên sử dụng đối với tác phẩm trong hợp
đồng sử dụng tác phẩm
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở
hữu tác giả và bên sử dụng đối với tác phẩm trong hoạt động xuất bản
hiện nay
1. Tích cực
2. Hạn chế
3. Nguyên nhân của thực trạng
4. Một số kiến nghị, giải pháp

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở pháp lý

2


1.Tác giả và quyền tác giả trong tư pháp Quốc tế.
Vào cuối thế kỉ 15, máy in ra đời tạo điều kiện thuận lợi cho những
người có nhu cầu sử dụng tác phẩm có thể sao chép dễ dàng và sao chép
đucợ rất nhiều bản. Những đối với những tác giả bị sao chép đó, máy in
chưa mang lại lợi ích gì đáng kể mà thậm chí còn gây ra thiệt hại cho họ. Từ
đây, quyền tác giả đã bắt đầu đucợ quan tâm,quyền tác giả đã được luật hóa
đầu tiên trong đạo luật của Anh năm 1709.

Khái niệm quyền tác giả đối với tac phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học được tiếp cận dưới 2 góc độ : chủ quan và khách quan.
Về phương diện chủ quan, quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể với tư
cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học,
nghệ thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi
quyền của mình bị xâm phạm.
Về phương diện khách quan, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm
pháp luật nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả, của chủ sở hữu quyền tác
giả, xác định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng
các tác phẩm văn hoch, nghệ thuật, khoa học, quy định trình tự thực hiện và
bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.
Bên cạnh đó, khái niệm tác giả cũng được quy định trực tiếp tại
Khoản 2, Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ.
Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp đucợ các chủ thể
có thẩm quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lí nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, xác lập quyền của chủ thể đối với đối tượng và
quyền tác giả tương ứng bảo vệ quyền đó chống lại bất cứ sự vi phạm nào.

3


2. Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và bên sử dụng
đối với tác phẩm trong pháp luật Việt Nam
Công ước berne có hiệu lực ở Việt Nam từ 26/10/2004, từ đó trở về
trước chỉ có Bộ luật dân sự 1995 điều chỉnh về vấn đề bảo hộ quyền tác giả.
Đây là các quy định về bảo hộ quyền tác giả nói chung, trong đó bao gồm cả
quyền tác giả có yếu tố nước ngoài. Cụ thể với các quy định như sau:
2.1.Tác giả và chủ sở hữu tác phẩm
Điều 745. Tác giả
1- Tác giả là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác

phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2- Những người sau đây cũng được công nhận là tác giả:
a) Người dịch tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác
giả tác phẩm dịch đó;
b) Người phóng tác từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác
phẩm từ loại hình này sang loại hình khác là tác giả của tác phẩm phóng
tác, cải biên, chuyển thể đó;
c) Người biên soạn, chú giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác
thành tác phẩm có tính sáng tạo là tác giả của tác phẩm biên soạn, chú giải,
tuyển chọn đó.
Điều 746. Chủ sở hữu tác phẩm
1- Chủ sở hữu tác phẩm bao gồm:
a) Tác giả là chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do mình
sáng tạo, trừ trường hợp tác
phẩm sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng;

4


b) Các đồng tác giả là chủ sở hữu chung tác phẩm do họ cùng sáng
tạo, trừ trường hợp tác phẩm sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp
đồng;
c) Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả là chủ sở hữu toàn bộ
hoặc một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo theo nhiệm vụ mà cơ quan
hoặc tổ chức giao;
d) Cá nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả là
chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo theo hợp
đồng;
đ) Người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của
tác giả là chủ sở hữu tác phẩm được thừa kế trong trường hợp tác giả đồng

thời là chủ sở hữu tác phẩm đó;
e) Cá nhân hoặc tổ chức được chủ sở hữu tác phẩm quy định tại các
điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này, chuyển giao các quyền của mình đối
với tác phẩm theo hợp đồng là chủ sở hữu quyền được chuyển giao.
2- Tác giả sáng tạo tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp
đồng quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này có các quyền quy định
tại Điều 752 của Bộ luật này.
Bên cạnh đó còn có các bộ luật quy định liên quan tới tác phẩm như:
Các loại hình tác phẩm được bảo hộ; Các đối tượng được bảo hộ theo quy
định riêng của pháp luật; Các tác phẩm không được nhà nước bảo hộ...được
cụ thể trong các điều 747, điều 748; điều 749.
Các quyền của tác giả và quyền của chủ sở hữu tác phẩm được quy
định tại các điều cụ thể như sau:
Điều 750. Quyền của tác giả

5


Quyền của tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài son của tác
giả đối với tác phẩm do mình sáng tạo.
Điều 751. Các quyền của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm
1- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền nhân thân
đối với tác phẩm của mình bao gồm:
a) Đặt tên cho tác phẩm;
b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật
hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng;
c) Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác
phẩm của mình;
d) Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình;
đ) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép

người khác sửa đổi nội dung tác phẩm.
2- Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền tài sản đối
với tác phẩm của mình bao gồm:
a) Được hưởng nhuận bút;
b) Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng;
c) Được hưởng lợi ích vật chất từ việc cho người khác sử dụng tác
phẩm dưới các hình thức sau đây:
- Xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh,
truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh;
- Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể;
- Cho thuê;
d) Nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác wiả, trừ trường
hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ.

6


Điều 752. Các quyền của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác
phẩm
1- Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền
nhân thân đối với tác phẩm mà mình là tác giả bao gồm:
a) Đặt tên cho tác phẩm;
b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật
hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng;
c) Bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, cho phép hoặc không cho phép
người khác sửa đổi nội dung tác phẩm.
2- Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền tài
sản đối với tác phẩm mà mình là tác giả bao gồm:
a) Được hưởng nhuận bút;
b) Được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng;

c) Nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ trường
hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ.
Điều 753. Quyền của chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả
1- Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả có các quyền
nhân thân đối với tác phẩm bao gồm:
a) Công bố, phổ biến hoặc cho người khác công bố, phổ biến tác
phẩm thuộc quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp giữa tác giả và chủ sở
hữu có thoả thuận khác;
b) Cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm thuộc quyền sở
hữu của mình, trừ trường hợp giữa tác giả và chủ sở hữu có thoả thuận
khác.

7


2- Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả được hưởng lợi
ích vật chất từ việc sử dụng tác phẩm dưới các hình thức sau đây:
a) Xuất bản, tái bản, trưng bày, triển lãm, biểu diễn, phát thanh,
truyền hình, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh;
b) Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể;
c) Cho thuê.
Điều 754. Thời điểm phát sinh quyền tác giả
Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới
hình thức nhất định.
Điều 755. Các quyền của đồng tác giả
1- Trong trường hợp nhiều người cùng sáng tạo tác phẩm, thì họ là
đồng tác giả tác phẩm đó. Các đồng tác giả là chủ sở hữu chung đối với tác
phẩm và được hưởng các quyền của tác giả theo quy định tại Điều 751 của
Bộ luật này; nếu tác phẩm được sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp
đồng thì các đồng tác giả được hưởng các quyền của tác giả theo quy định

tại Điều 752 của Bộ luật này.
2- Trong trường hợp tác phẩm do các đồng tác giả sáng tạo gồm các
phần riêng biệt có thể tách ra để sử dụng độc lập, thì mỗi người có quyền sử
dụng riêng biệt phần của mình và được hưởng quyền tác giả đối với phần
đó, nếu các đồng tác giả không có thoả thuận khác.
Điều 756. Các quyền của tác giả đối với tác phẩm sáng tạo theo
nhiệm vụ được giao hoặc theo hợp đồng
1- Trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo theo nhiệm vụ được
giao hoặc theo hợp đồng, thì tác giả được hưởng các quyền quy định tại
Điều 752 của Bộ luật này.

8


2- Người giao nhiệm vụ hoặc người giao kết hợp đồng với tác giả có
các quyền quy định tại Điều 753 của Bộ luật này.
Điều 757. Các quyền của tác giả dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên,
chuyển thể
1- Tác giả các tác phẩm phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể
được hưởng các quyền tác giả đối với tác phẩm đó theo quy định tại Điều
751 hoặc Điều 752 của Bộ luật này, nhưng phải được tác giả hoặc chủ sở
hữu tác phẩm gốc cho phép và phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu
tác phẩm gốc; nếu muốn thay đổi nội dung tác phẩm gốc, thì phải được tác
giả cho phép và phải ghi tên tác giả và tên tác phẩm gốc.
2- Đối với tác phẩm dịch, thì tác giả dịch được hưởng các quyền tác
giả theo quy định tại Điều 751 hoặc Điều 752 của Bộ luật này, trừ quyền đặt
tên cho tác phẩm.
Điều 758. Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, video phát thanh,
truyền hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác
1- Đối với tác phẩm điện ảnh, vi-đi-ô, phát thanh, truyền hình, sân

khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác, thì đạo diễn, biên kịch,
quay phim, người dựng phim, nhạc sĩ, hoạ sĩ được hưởng các quyền quy
định tại Điều 752 của Bộ luật này.
2- Cá nhân, tổ chức sản xuất tác phẩm điện ảnh, vi-đi-ô, phát thanh,
truyền hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác được
hưởng các quyền quy định tại khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 751 của Bộ
luật này.
Điều 759. Quyền yêu cầu được bảo hộ

9


Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khi bị người khác xâm phạm quyền tác
giả, quyền của chủ sở hữu tác phẩm, có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người đó phải chấm
dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại.
Điều 760. Giới hạn quyền tác giả
Cá nhân, tổ chức được sử dụng tác phẩm của người khác đã được
công bố, phổ biến, nếu tác phẩm không bị cấm sao chụp và việc sử dụng đó
không nhằm mục đích kinh doanh và không làm ảnh hưởng đến việc khai
thác bình thường tác phẩm, không xâm hại đến các quyền lợi khác của tác
giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm; cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm không
phải xin phép và không phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác
phẩm, nhưng phải ghi hoặc nhắc tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm.
Điều 761. Các hình thức sử dụng tác phẩm không phải xin phép,
không phải trả thù lao
1- Việc sử dụng tác phẩm quy định tại Điều 760 của Bộ luật này bao
gồm các hình thức sau đây:
a) Sao lại tác phẩm để sử dụng riêng;
b) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai lạc ý của tác giả để bình

luận hoặc minh hoạ trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai lạc ý của tác giả để viết báo,
để dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình,
phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai lạc ý của tác giả để giảng
dạy, kiểm tra kiến thức trong nhà trường;
đ) Sao lại tác phẩm để lưu trữ, dùng trong thư viện;

10


e) Dịch, phổ biến tác phẩm từ tiếng Việt sang tiếng dân tộc thiểu số
Việt Nam và ngược lại;
g) Biểu diễn các tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ
thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động ở nơi
công cộng;
7 / 13Bộ luật Dân Sự - Chương I - Phần 6
h) Ghi âm, ghi hình trực tiếp các buổi biểu diễn với tính chất đưa tin
thời sự hoặc để giảng dạy;
i) Chụp ảnh, truyền hình, giới thiệu hình ảnh của tác phẩm tạo hình,
kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng trưng bày ở nơi công cộng nhằm
giới thiệu hình ảnh của các tác phẩm đó;
k) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi cho người mù.
2- Quyền sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không áp
dụng đối với việc sao lại tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, phần mềm
máy tính.
Điều 762. Đăng ký và nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền tác giả, quyền
sở hữu tác phẩm
1- Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có quyền:
a) Đăng ký tác phẩm thuộc sở hữu của mình tại cơ quan nhà nước có

thẩm quyền;
b) Nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo hộ quyền
của tác giả hoặc quyền của chủ sở hữu tác phẩm khi các quyền đó bị người
khác xâm phạm.

11


2- Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đã đăng ký bảo hộ tác phẩm tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền không có nghĩa vụ phải chứng minh quyền sở
hữu đối với tác phẩm đã đăng ký khi có tranh chấp.
Điều 763. Chuyển giao quyền tác giả
1- Các quyền nhân thân của tác giả không được chuyển giao cho
người khác, trừ các quyền nhân thân của tác giả đồng thời là chủ sở hữu
được quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều
751 của Bộ luật này.
2- Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có quyền chuyển giao một phần
hoặc toàn bộ các quyền tài sản đối với tác phẩm quy định tại khoản 2 Điều
751, khoản 2 Điều 752 hoặc khoản 2 Điều 753 của Bộ luật này cho người
khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Điều 764. Thừa kế quyền tác giả
1- Trong trường hợp tác giả chết, thì người thừa kế của tác giả được
hưởng các quyền sau đây:
a) Các quyền nhân thân được quy định tại điểm c và điểm d khoản 1
Điều 751 của Bộ luật này, trừ trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở
hữu tác phẩm;
b) Các quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm quy định tại khoản
2 Điều 751 hoặc khoản 2 Điều 752 của Bộ luật này. Trong trường hợp
không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được
quyền hưởng di sản, thì các quyền đó thuộc Nhà nước.

2- Trong trường hợp người thừa kế của tác giả chết trước khi hết thời
hạn bảo hộ, thì người thừa kế của người đó được hưởng các quyền của tác
giả quy định tại khoản 1 Điều này cho đến hết thời hạn bảo hộ.

12


3- Người thừa kế của tác giả được hưởng các quyền tài sản quy định
tại khoản 2 Điều 751, khoản 2 Điều 752 của Bộ luật này là chủ sở hữu các
quyền được chuyển giao và có quyền chuyển giao một phần hoặc toàn bộ
các quyền đó cho người khác.
Điều 765. Thừa kế quyền của đồng tác giả
Đối với tác phẩm đồng tác giả mà các đồng tác giả là chủ sở hữu
chung hợp nhất đối với tác phẩm, nếu có đồng tác giả chết mà không có
người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền
hưởng di sản, thì các quyền về tài sản của đồng tác giả đó thuộc Nhà nước.
Điều 766. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định như sau:
1- Các quyền nhân thân của tác giả quy định tại các điểm a, b và đ
khoản 1 Điều 751, khoản 1 Điều 752 của Bộ luật này được bảo hộ vô thời
hạn;
2- Các quyền nhân thân quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều
751 và các quyền tài sản quy định tại khoản 2 Điều 751, khoản 2 Điều 752
của Bộ luật này được bảo hộ trong suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm
tiếp theo năm tác giả chết;
3- Đối với tác phẩm đồng tác giả, thì các quyền nhân thân quy định
tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều 751 và các quyền tài sản quy định tại
khoản 2 Điều 751, khoản 2 Điều 752 của Bộ luật này được bảo hộ trong
suốt cuộc đời các đồng tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm đồng tác giả
cuối cùng chết;

4- Đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm phát thanh, truyền hình, viđi-ô, tác phẩm di cảo, thì các quyền nhân thân quy định tại điểm c và điểm d

13


khoản 1 Điều 751 và quyền tài sản quy định tại khoản 2 Điều 751, khoản 2
Điều 752 của Bộ luật này được bảo hộ trong thời hạn năm mươi năm, kể từ
ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên;
5- Đối với tác phẩm không rõ tác giả hoặc tác phẩm khuyết danh, thì
quyền tác giả thuộc Nhà nước; nếu trong thời hạn năm mươi năm, kể từ
ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên mà xác định được tác giả, thì
quyền tác giả được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này
và thời hạn bảo hộ được tính từ ngày xác định được tác giả.
2.2.Hợp đồng sử dụng tác phẩm
Điều 767. Hợp đồng sử dụng tác phẩm
1- Hợp đồng sử dụng tác phẩm là sự thoả thuận giữa tác giả hoặc
chủ sở hữu tác phẩm về việc chuyển giao tác phẩm thuộc sở hữu của mình
cho cá nhân, tổ chức khác (gọi là bên sử dụng tác phẩm) sử dụng tác phẩm.
2- Hợp đồng sử dụng tác phẩm phải được lập thành văn bản, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 768. Nội dung của hợp đồng sử dụng tác phẩm
Tuỳ theo từng loại hợp đồng sử dụng tác phẩm, các bên thoả thuận
những nội dung chủ yếu sau đây:
1- Hình thức sử dụng tác phẩm;
2- Phạm vi, thời hạn sử dụng tác phẩm;
3- Mức nhuận bút hoặc thù lao và phương thức thanh toán;
4- Trách nhiệm của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng;
5- Các nội dung khác do các bên thoả thuận.
2.3.Quyền và nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm trong hợp đồng
sử dụng tác phẩm


14


Điều 769. Nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
Theo hợp đồng sử dụng tác phẩm, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm
có các nghĩa vụ sau đây:
1- Chuyển giao tác phẩm cho bên sử dụng tác phẩm theo đúng thời
hạn, địa điểm đã thoả thuận; phải bồi thường thiệt hại cho bên sử dụng tác
phẩm do việc chuyển giao tác phẩm không đúng thời hạn, địa điểm gây ra;
2- Không được chuyển giao tác phẩm cho cá nhân, tổ chức khác sử
dụng khi chưa hết hạn hợp đồng, trừ trường hợp được bên sử dụng tác
phẩm cho phép; nếu vi phạm quy định này mà gây thiệt hại cho bên sử dụng
tác phẩm, thì phải chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Điều 770. Quyền của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm
Theo hợp đồng sử dụng tác phẩm, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm
có các quyền sau đây:
1- Yêu cầu bên sử dụng tác phẩm nêu tên hoặc bút danh của tác giả
khi sử dụng tác phẩm;
2- Yêu cầu bên sử dụng tác phẩm trả đủ nhuận bút hoặc thù lao theo
đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận;
3- Được chuyển giao tác phẩm cho nhiều người sử dụng, trừ trường
hợp có thoả thuận khác với bên sử dụng tác phẩm.
2.4. Quyềnvà nghĩa vụ của bên sử dụng đối với tác phẩm trong hợp
đồng sử dụng tác phẩm
Điều 771. Nghĩa vụ của bên sử dụng tác phẩm
Bên sử dụng tác phẩm có các nghĩa vụ sau đây:
1- Sử dụng tác phẩm theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã
thoả thuận;


15


2- Không được chuyển giao tác phẩm cho cá nhân hoặc tổ chức khác
sử dụng, nếu không được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm cho phép;
3- Trả đủ nhuận bút hoặc thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác
phẩm theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận;
4- Bồi thường thiệt hại cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, nếu vi
phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Điều 772. Quyền của bên sử dụng tác phẩm
Bên sử dụng tác phẩm có các quyền sau đây:
1- Công bố, phổ biến tác phẩm trong thời hạn đã thoả thuận;
2- Sử dụng tác phẩm theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã
thoả thuận;
3- Đơn phương huỷ bỏ hợp đồng và có quyền yêu cầu tác giả hoặc
chủ sở hữu tác phẩm phải bồi thường thiệt hại, nếu tác giả hoặc chủ sở hữu
tác phẩm đã không chuyển giao tác phẩm theo đúng thời hạn, địa điểm đã
thoả thuận;
4- Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và yêu cầu tác giả hoặc
chủ sở hữu tác phẩm bồi thường thiệt hại, nếu tác giả hoặc chủ sở hữu tác
phẩm vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 769 của Bộ luật này.
Sau khi gia nhập công ước Berne, nhà nước ta đã ban hành một loạt
các văn bản luật và dưới luật như Bộ luật dân sự 2005, Luật sở hữu trí tuệ
2005...nhằm đồng bộ hóa tới mức tối đa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền
tác giả của nước ta với công ước Berne. Theo đó:
-Về tiêu chuẩn bảo hộ: Điều 737 BLDS 2005 quy định Nhà nước bảo
hộ các tác phẩm thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bất kì phương tiện nào,
không phân biệt nội dung, giá trị, không phụ thuộc vào bất kì thủ tục nào.

16



-Về thời điểm phát sinh quyền tác giả: Tại điều 739 BLDS 2005 và
điều 6 LSHTT 2005, quyền tác giả sẽ phát sinh ngay sau khi tác phẩm được
định hình dưới một hình thức nhất định không lệ thuộc vào bất kì một thủ
tục hình thức nào. Thủ tục đăng kí là quyền của tác giả và người sở hữu tác
phẩm.
-Giới hạn quyền tác giả: Tại điều 25 LSHTT sử đổi, bổ sung 2009 đã
khẳng định quyền tác giả là bất khả xâm phạm, mặt khác các tác phẩm là tài
sản của nhân loại cần có những điều kiện vừa thuận lợi cho người sử dụng
lại vừa bảo vệ được lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm để
công chúng có cơ hội tiếp ận với tri thức của thời đại.
-Thực thi quyền tác giả: Có thể áp dụng 3 loại thủ tục là dân sự, hành
chính và hình sự.
- Công bố tác phẩm: Khoản 9, điều 4 BLDS sửa đổi bổ sung năm
2009 coi việc công bố tác phẩm đồng nghĩa với việc phát hành có sự đồng ý
của tác giả.
Luật xuất bản của ta (năm 2004) dành hẳn một điều (Điều 19) quy
định Quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản: "Việc xuất bản tác phẩm, tái
bản xuất bản phẩm chỉ được thực hiện sau khi có hợp đồng với tác giả hoặc
chủ sở hữu tác phẩm theo quy định của pháp luật”. Còn Khoản 1, Điều 5
quy định: "Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất
bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả” và Khoản 3,
Điều 6 quy định: “Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá
trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn
chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có
giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”. Đây là lần đầu tiên Luật

17



xuất bản Việt Nam đề cập nhiều điều liên quan đến việc bảo hộ quyền tác
giả.
Trong luật xuất bản 2012 sửa đổi và bổ sung tiếp tục đề cập hoàn
thiện hơn nữa về các vấn đề liên quan tới tác giả và quyền tác giả, như trong
điều 5 về đảm bảo quyền phổ biến tác phẩm , bảo hộ quyền tác giả và quyền
liên quan có quy đinh: 1. Nhà nước đảm bảo quyền phổ biến tác phẩm dưới
hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan; 3. KHông một cơ quan tổ chuwcxs nào được lợi dụng
quyền phổ biến tác phẩm làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều 21 quy định về quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản như sau:
Việc xuất bản tác phẩm, tài liệu và tái bản xuất bản phẩm chỉ đucợ thực hiện
khi có văn bản chấp thuận của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm theo quy định
của pháp luật.
Ngoài ra, trong hệ thống pháp luật còn có các văn bảo dưới luật khác
quy định về việc xử lý các vi phạm trong hoạt động xuất bản , trong đó có
các vi phạm về quyền tác giả, chủ sở hữu tác giả,...như Nghị định số
47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm
hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.

Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của tác
giả, chủ sở hữu tác giả và bên sử dụng đối với tác phẩm trong
hoạt động xuất bản hiện nay
1.Tích cực

18


Tháng 10/2004, Việt Nam gia nhập công ước Berne về bảo hộ quyền

tác giả về văn học và nghệ thuật. Trong vòng chưa đầy 3 năm từ khi gia
nhập công ước Berne, Việt Nam đã lần lượt tham gia hầu hết các điều ước
quốc tế về quyền tác giả như: Công ước Gieneva, Công ước Rome, Hiệp
định TRIPs...Đây là cơ hội để Việt Nam vận dụng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật của mình về quyền tác giả sao cho phù hợp với đòi hỏi của thực
tiễn.
Hệ thống tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả được thành lập, góp
phần tạo thêm niềm tin cho các tác giả tập chung cống hiến.
Trong các năm qua, số lượng giấy chứng nhận đăng lý quyền tác giả
tăng rất nhanh. Ngoài giấy chứng nhận quyền tác giả được cấp cho các tác
giả Việt Nam còn có giấy chứng nhận quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.
Điều này cho thấy, pháp luật đã tạo niềm tin, điều kiện để các tác giả yên
tâm bảo hộ “đứa con tinh thần” của mình. Thúc đấy quá trình lao động sáng
tác, cống hiến cho công chúng nhân loại những giá trị văn hóa tinh thần giá
trị.
Đối với các đơn vị xuất bản, các nhà sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực xuất bản, pháp luật đã tạo ra hành lang pháp lý, là cơ sở để sản xuất
kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, điều hướng sản xuất kinh doanh và
thực hiện các nghĩa vụ cũng như các quyền lợi của mình, từ đó tận dụng các
cơ hội mà pháp luật đem lại, phát triển kinh doanh đối với đơn vị nói riêng
và toàn ngành xuất bản nói chung.
2. Hạn chế
Xâm phạm quyền tác giả sẽ triệt tiêu sự sáng tạo và kìm hãm sự phát
triển của ngành xuất bản. Có rất nhiều loại hành vi xâm phạm quyền tác giả
trong lĩnh vực xuất bản và phát hành xuất bản phẩm đang tồn tại khá phổ

19


biến, đó là: xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền

tác giả; sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả; làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả; xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác
phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; sử dụng tác phẩm
mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút,
thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật; nhân bản, sản
xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng
qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép
của chủ sở hữu quyền tác giả; cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp
kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối
với tác phẩm của mình. Trong tất cả các hành vi xâm phạm quyền tác giả
trong lĩnh vực xuất bản thì hành vi in lậu vẫn là phổ biến và nghiêm trọng
nhất. Sách bán chạy thường bị in lậu rất nhanh. Hậu quả là thiệt hại kinh tế
và thiệt hại uy tín cho tác giả và nhà xuất bản. Đây thực sự là nỗi lo thường
trực của các nhà xuất bản Việt Nam.ca
Tình trạng in lậu, lưu hành và kinh doanh sách lậu diễn ra hằng ngày,
phổ biến nhất là truyện tranh thiếu nhi của nước ngoài. Truyện tranh in lậu,
không có bản quyền, thậm chí gắn thêm vào mác của các nhà xuất bản nổi
tiếng, không được kiểm soát về nội dung, bán tràn lan ngoài thị trường.
Những bản sách in lậu này đã gây thiệt hại lớn cho các nhà xuất bản với giá
bán chỉ bằng 50% sách có bản quyền, thậm chí thiệt hại cả về uy tín. Còn có
tình trạng các nhà xuất bản tự giẫm chân lên nhau khi sách của nhà xuất bản
này đã mua bản quyền những nhà xuất bản khác lại in và tung ra thị trường
trước không có bản quyền.

20


Trong sản xuất kinh doanh băng đĩa, hoạt động nhập lậu, in lậu, lưu
hành, khinh doanh băng đĩa lậu thường xuyên diễn ra trên thị trường và tại

khu vực của khẩu, biên giới. Hầu hết các băng đĩa bán trên thị trường là
băng đĩa được sao chép lại không được phép của nhà xuất bản.
Những ấn phẩm được nhà xuất bản cấp giấy phép xuất bản nhưng lại
vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ khi chưa được người sở hữu bản quyền của ấn
phẩm cho phép. Sách vi phạm bản quyền này nguy hại không thua gì sách
lậu khi nó không phải lén lút phát hành mà có thể chính danh, hợp pháp bày
bán tại các nhà sách lớn.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu bản
quyền, gây mất cân đối trong xuất bản, mà tai hại hơn, nó còn làm đình trệ
nhiều giao dịch xuất bản lành mạnh và đe dọa phá hỏng cả thị trường sách
Việt Nam.
theo Luật Sở hữu trí tuệ thì hành động phát hành hay lưu thông ấn
bản vi phạm bản quyền cũng bị xếp chung vào hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Đầu năm 2009, đại diện hãng Disney đã yêu cầu Fahasa phải thu
hồi các ấn phẩm không có bản quyền của Disney đang bày bán trong các nhà
sách trên toàn quốc nếu không muốn đối mặt với các vụ kiện từ trong nước
đến quốc tế. Và đơn vị đã phải thu hồi các bản sách đang bày bán dù các ấn
bản đó về danh nghĩa có giấy phép xuất bản hợp pháp.
Bên cạnh đó là vấn đề in số lượng lớn sách giáo trình của các nhà xuất
bản nước ngoài như: Let’s Go của NXB Oxford, Grammar in Use,
Vocabulary in Use của NXB Cambridge, Market Leader của NXB Pearson,
Mosaic, Interaction của NXB Mc GrawHill, các series truyện đọc của NXB

21


Macmillan, Cengage… mà không phải trả tiền bản quyền, không giấy phép
xuất bản, không mất phí biên tập...
Năm tác phẩm về Trường Sa trong tập sách ảnh Tổ quốc nơi đầu sóng
của NXB Kim Đồng đã bị nhiếp ảnh gia Hoàng Chí Hùng tố vi phạm quyền

tác giả.
Tập sách ảnh Tổ quốc nơi đầu sóng phát hành tháng 1-2013 của NXB
Kim Đồng là tác phẩm phối hợp xuất bản giữa Kim Đồng và nhóm tác giả
mà đại diện là kiến trúc sư Đoàn Bắc. 2.000 bản sách phát hành trong lần
đầu tiên đã được bán hết và sách đang trong kế hoạch tái bản lần thứ nhất.
Tập sách ảnh này dành cho thiếu nhi, dày chưa đến 50 trang, là tác phẩm
tổng hợp lịch sử, địa lý, văn hóa, thiên nhiên, con người và cuộc sống trên
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Phần ảnh của quần đảo Trường Sa
chiếm hơn 100 tấm, trong đó có năm tấm ảnh bị nhiếp ảnh gia Hoàng Chí
Hùng tố vi phạm. Cả năm tấm ảnh này đều từng xuất hiện trong các cuộc
triển lãm về ảnh Trường Sa tại Nhà văn hóa Phụ nữ TP.HCM và Hoàng
thành Thăng Long (Hà Nội) trong các năm 2010, 2012.
Ngay cả trong một môi trường giàu kiến thức và văn hóa như các
trường đại học thì nay lại là nơi thường xuyên và phổ biến xảy ra tình trạng
xâm phạm bản quyền tác giả, với các hành vi cụ thể như:
Thứ nhất, đối với việc sao chép tác phẩm. Thực tế cho thấy khi dịch
vụ in ấn ra đời và phát triển thì nhu cầu sao chép ngày càng cao. Có thể
khẳng định, quyền sao chép tác phẩm là một trong những quyền tài sản cơ
bản và quan trọng nhất của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và quyền này được
bảo hộ theo quy định của pháp luật.

22


Thứ hai, quyền tác giả bị xâm phạm trong trường hợp giảng viên, sinh
viên nghiên cứu khoa học. Điển hình như việc giáo viên hướng dẫn sinh
viên, học viên làm luận văn, nghiên cứu sinh... Sau khi hoàn thành công
trình, giảng viên hướng dẫn lẫn công bố công trình của học viên, sinh viên
của mình làm công trình nghiên cứu khoa học, dùng vào mục đích kinh tế,
mục đích chính trị. Thậm chí, xuất hiện tình trạng cán bộ, giảng viên sử

dụng đề tài, công trình nghiên cứu khoa học để lấy thành tích cho cá nhân
trong quá trình công tác.
Thứ ba, việc lưu giữ giáo trình, tài liệu, công trình nghiên cứu khoa
học trong thư viện trường Đại học. Quy định tại khoản 2 Điều 25 Nghị định
100/2006/NĐ-CP, thư viện chỉ có quyền sao chép không quá một bản nhằm
mục đích nghiên cứu. Ngoài ra thư viện không được sao chép, phân phối bản
sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số. Thực tế còn có một
số thư viện lưu trữ khá nhiều giáo trình, tài liệu cùng lúc để phục vụ cho nhu
cầu của nhà trường. Hiện nay một số thư viện ở các trường Đại học vẫn bán
giáo trình, sách tham khảo dưới dạng “in lậu” mà không có văn bản đồng ý
của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm đó. Như vậy, với việc làm trên, thư
viện đã dùng tác phẩm của người khác với mục đích thương mại làm ảnh
hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ quyền tác giả.
Thứ tư, quyền tác giả bị vi phạm trong hợp đồng cấp kinh phí đói với
công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên và trường đại học. Thực tế
cho thấy nhiều trường đại học ở Việt Nam rất chú trọng đến việc nâng cao
công tác nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên trong đơn vị mình. Để
khuyến khích sự sáng tạo, đáp ứng cơ sở vật chất cho tác giả trong quá trình
thực hiện công trình nghiên cứu khoa học, các trường đại học thường cấp

23


kinh phí cho tác giả trên cơ sở hợp đồng đax thỏa thuận về việc viết giáo
trình, bài giảng… phục vụ cho nhu cầu đào tạo của đơn vị. Tuy nhiên, hiện
nay nhiều tranh chấp lại nảy sinh khi tác giả lại cho dịch, cho xuất bản nơi
khác nên đã xâm phạm quyền của chủ sỡ hữu tác phẩm.
Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, một loại hình xuât bản
phẩm mới ra đời và phát triển đó là các xuất bản phẩm điện tử. Các đơn vị
sản xuất kinh doanh cũng kịp thời bắt nhịp với xu hướng mới. Tuy nhiên,

trong rất nhiều các đơn vị tham gia và tiến hành số hóa sách điện tử lại chỉ
có Alezza là sử dụng mã hóa ebook để chống lại ebook bản quyền phát tán
tràn lan. Còn lại, Alpha, Reader và ngay cả Phương Nam… tung ra ebook
vẫn còn ở dạng file mở. Người dùng dễ dàng tải về mà không cần đóng phí.
Trên các trang mạng, diễn đàn, ebook lậu nhan nhản, người dùng chỉ
cần vài thao tác nhỏ không mất đồng nào mà vẫn có đầy máy để đọc thì việc
ebook bản quyền bị hờ hững là điều dễ hiểu.
Có thể nói, ebook bản quyền hơn hẳn ebook lậu về cả nội dung về
hình thức. Ebook bản quyền cho phép người dùng được trải nghiệm những
cảm giác như đọc sách thật, như âm thanh sột soạt của tiếng giở trang, hiệu
ứng ánh sáng, màu sắc. Nội dung đã được kiểm duyệt. Lại dễ dàng thích ứng
trên bất kỳ loại công nghệ số nào từ máy tính bảng, máy tính, máy tính xách
tay, máy đọc sách và cả điện thoại thông minh. Giảm rào cản về chi phí và
địa lý, giá cả lại quá rẻ, chỉ từ 1.000-5.000 đồng/đầu ebook.Đồng thời, cách
chi trả hết sức đơn giản thông qua thẻ cào điện thoại. Đây là những thuận lợi
để ebook bản quyền được người dùng trọng dụng, bay xa trong tương lai.
Các trang web ebook lậu khá nhiều và không “e ngại” một đơn vị xuất
bản nhà nước hay tư nhân nào. Các đơn vị xuất bản: Trẻ, Kim Đồng, Nhã

24


Nam, Bách Việt, Chibooks, Đông A... đều có sách bị vi phạm bản quyền,
người ta tung lên trên hàng chục trang web và diễn đàn...
Các trang web, diễn đàn này thu hút hàng trăm ngàn thành viên đăng
ký tham dự. Truy cập vào thư viện ebook có thể xem cả trăm ngàn đầu sách
với đủ thể loại, từ sách trong nước đến sách dịch. Việc đọc hay tải xuống
(dowload) ebook hoặc miễn phí hoặc chỉ phải trả một khoản phí rất nhỏ
(thường 2.000 đồng/lượt), do đó số người truy cập ngày càng đông. Vào một
trang web như , thấy quản trị mạng (admin) quảng bá lợi ích của ebook là

tiện lợi, xem nhanh lại có thể chỉnh lại kích cỡ chữ, màu sắc tùy theo ý thích
người xem và hướng dẫn sử dụng chi tiết từng bước cụ thể... Người ta còn
kêu gọi các thành viên, phân công nhau, chia nhỏ sách ra, đánh vi tính đưa
lên, ghi rõ kích cỡ chữ, phông chữ sử dụng... làm sao hoàn thành ebook
nhanh nhất post lên mạng.
Có thể thấy, mặc dù pháp luật đã có những quy định rất cụ thể, rõ ràng
và chi tiết để bảm bảo quyền tác giả và các bên liên quan sử dụng tác phẩm,
nhưng tình trạng hoạt động ngoài luồng kiểm soát của pháp luật vẫn diễn ra,
vì mục tiêu lợi nhuận hoặc thiếu ý thức và kiến thức về pháp luật. Không
hiểu rõ sự nghiêm trọng của những hành vi vi phạm bản quyền.
3. Nguyên nhân của thực trạng
Các yếu tố đảm bảo cho việc thực thi nghiêm chỉnh quyền tác giả tại
Việt Nam gồm: Ý thức chủ thể, hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi đều
thiếu và yếu. Việt Nam đang phải đối mặt với ngổn ngang những thách thức
về quyền tác giả. Trong nhiều yếu tố thể hiện sự ý thức chưa đầy đủ của
những chủ thể sáng tạo ở Việt Nam, người Việt nói chung nặng về hư danh

25


×