Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Luật hình sự là một trong những công cụ hiệu quả nhất giúp nhà nước quản lý nhà nước, quản lý xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.45 KB, 7 trang )

Lời mở đầu
Luật hình sự là một trong những công cụ hiệu quả nhất giúp nhà nước quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, giúp xã hội nằm trong vòng “trật tự”. Và nhắc tới luật
hình sự là nhắc tới tội phạm và hình phạt. Vậy cơ sở nào để xác định tội danh?
Xác định có đồng phạm khi nào? Mức hình phạt đối với các trường hợp ra sao?
Những câu hỏi đó sẽ được giải quyết trong bài tập sau:
“ Nguyễn Thi Lan cùng một số người bạn là A, B và C (nam giới) tập trung ăn
nhậu tại một lán nhỏ dựng bên bờ ao. Sau vài giờ trò chuyện và uống hết 3 lít
rượu đế thì Lan đã choáng váng say, buồn nôn nên choạng vạng đi ra ngoài.
Thấy Lan bước liêu xiêu A cũng loạng choạng đi theo dìu Lan cho khỏi ngã. Sau
khi nôn xong, hai người lại dìu nhau đến một cái lán khác cách đó vài chục mét
để Lan nằm nghỉ. Tại đây, Lan say rượu không biết trời đất gì nữa, còn A cũng
trong tình trạng chếnh choáng nên nổi dục vọng và giao cấu với Lan. Sau đó A
nằm ngủ bên cạnh Lan. Khi B và C lảo đảo đi ngang qua thấy Lan trong tư thế
không mảnh vải trên người nên đã thay nhau giao cấu với Lan (cả A và Lan đều
quá say nên không biết việc làm của B và C). Vụ án sau đó được phát hiện.
Hãy xác định tội phạm cho hành vi của A, B và C? Nêu căn cứ pháp lý?
Trường hợp cố ý phạm tội của A, B, C có phải là đồng phạm không? Tại sao?
Việc phạm tội tình trạng say do dùng rượu của A, B, C có được coi là tình tiết
tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS không?
Giả thiết rằng Lan đang có thai ở tháng thứ 2 thì A, B và C có phải chịu TNHS
về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ có thai” qui định tại điểm h
khoản 1 Điều 48 BLHS không? Tại sao?
Với kiến thức về lĩnh vực này còn hạn chế nên bài làm của chúng em không thể
tránh khỏi những sai sót, kính mong các thầy cô góp ý để bài làm này đầy đủ và
hoàn thiện hơn. Chúng em chân thành cảm ơn.
Giải quyết vấn đề
a. Xác định tội danh cho hành vi của A, B và C? Nêu căn cứ pháp lý?
Theo quy định tại Điều 111 BLHS 1999 thì hành vi của A, B, C cấu thành tội
hiếp dâm. Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn


nhân trái ý muốn của họ.
Theo quy định Điều 111 BLHS 1999, tội hiếp dâm có những căn cứ pháp lý sau:
- Khách thể của tội phạm: là quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự. Cụ
thể là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của phụ nữ.
- Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với người phụ nữ,
trái ý muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh đè bẹp sự phản
kháng của nạn nhân như xô ngã, vật, giữ…), đe dọa dùng vũ lực (uy hiếp về mặt
tinh thần: dọa giết, dọa gây thương tích), lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân( lợi dụng khi nạn nhân ốm, bị bại liệt…) hoặc dùng thủ đoạn
khác(có thể là lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng không có khả năng
biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm thần, bị say rượu, hoặc có thể tình trạng trên do
người phạm tội tự mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu…)
Cấu thành tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn
nhân. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực … để giao cấu
nhưng chưa giao cấu được với nạn nhân vì lý do khách quan thì người này vẫn
phạm tội hiếp dâm nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi giao cấu của
người phạm tội phải trái ý muốn của nạn nhân, nghĩa là người phụ nữ không
chấp nhận sự giao cấu. Trường hợp hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của
người phụ nữ vì họ đang trong tình trạng không biểu lộ ý chí được coi cũng là
“hành vi giao cấu trái ý muốn”
+ Tội hiếp dâm có cấu thành hình thức. Do vậy hậu quả cũng như mối quan hệ
nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành này. Nó chỉ có ý nghĩa
trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và từ đó
có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Công cụ, phương tiện, địa điểm…
phạm tội giúp việc quyết định hình phạt được chính xác hơn.
+ Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 14 tuổi trở
lên (nếu phạm tội ở khoản 2, khoản 3, khoản 4 điều 111) hoặc 16 tuổi trở lên
(nếu phạm tội ở khoản 1) có thể trở thành chủ thể của tội này. Tuy nhiên chủ thể
của tội hiếp dâm là chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội này chỉ có

thể là nam giới. Nữ giới có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai
trò là người xúi giục, người giúp sức hoặc người thực hành.
Như vậy chủ thể của tội hiếp dâm là nam giới có năng lực TNHS và đủ 14 tuổi
trở lên hoặc đủ 16 tuổi trở lên.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm
tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn
mong muốn thực hiện hành vi đó bằng mọi thủ đoạn (dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân…). Động cơ và
mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
Như vậy cả A, B và C đều phạm tội hiếp dâm. Chúng đều thực hiện hành vi giao
cấu với Chị Lan ngoài ý muốn của chị bằng thủ đoạn là lợi dụng lúc chị Lan say
rượu không biết gì, không biểu lộ được ý chí đúng đắn của mình để thực hiện
hành vi giao cấu. Cả ba đều là nam giới có năng lực TNHS, đều mong muốn
thực hiện hành vi giao cấu. Bởi vậy việc định cho A, B, C tội hiếp dâm là có cơ
sở.
b. Trường hợp cố ý phạm tội của A, B và C có đồng phạm không? Tại
sao?
Theo quy định tại Điều 20_ BLHS 1999 thì “đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Để trở thành đồng phạm thì
những người phạm tội thỏa mãn những dấu hiệu sau:
Về khách quan: + Có từ hai người trở lên và những người này phải có đủ các
điều kiện của tội phạm: năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS. Riêng dấu hiệu chủ
thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người thực hành.
+ Những người này phải cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Nghĩa là họ phải
tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau:
Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm: tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP.
Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm: xúi giục người khác thực hiện
hành vi mô tả trong CTTP.
Hành vi giúp sức: giúp người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP.

Hành vi thực hiện tội phạm: Là thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP.
Nếu không có một trong những hành vi nêu trên thì không thể coi là cùng thực
hiện tội phạm và như vậy cũng không có đồng phạm. Thực tế cho thấy, người
đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với
nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng cũng có thể tham
gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Và tổng hợp những hành vi của
họ thỏa mãn một CTTP nhất định.
- Dấu hiệu về mặt chủ quan: Đồng phạm đòi hỏi những người thực hiện tội phạm
đều với lỗi cố ý. Ngoài ra đối với những tội mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc (chương XI) thì đồng phạm cũng đòi hỏi những người phạm tội này phải có
cùng mục đích đó. Những người trong vụ đồng phạm thực hiện tội phạm với lỗi
cố ý có nghĩa là:
+ Về lý trí: Mỗi người trong đồng phạm đều biết hành vi của mình và hành vi
của người khác là nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời họ còn thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ
tham gia thực hiện sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra.
+ Về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc cùng ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Đối với những trường hợp đồng phạm mà dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt
buộc thì ngoài dấu hiệu cùng thực hiện và cùng cố ý thực hiện tội phạm thì
những người tham gia phải có chung mục đích được phản ánh trong CTTP hoặc
biết rõ hoặc tiếp nhận mục đích đó.
Quay trở về bài tập tình huống, ta giả thiết rằng A, B, C thỏa mãn dấu hiệu của
chủ thể của tội phạm. Nhưng trong trường hợp này A, B, C không phải là đồng
phạm vì không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của đồng phạm. Cụ thể:
Về chủ thể: Cả A, B, C đều thỏa mãn dấu hiệu của chủ thể: có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi luật định. Mặc dù ba người thực hiện hành vi giao cấu khi say
nhưng theo Điều 14_BLHS thì người say vẫn phải chịu TNHS.
Dù đáp ứng yêu cầu thứ nhất, trong mặt khách quan nhưng ba người này không
phải cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Họ không có sự liên kết về hành vi

phạm tội. A thực hiện hành vi hiếp dâm trước một cách độc lập sau đó B, C mới
thực hiện. Giữa A, B và C không có sự bàn bạc thỏa thuận hay dàn xếp gì. Như
vậy về mặt chủ quan thì không có sự thống nhất về ý chí cũng như lý trí của A,
B, C.
A không hề biết B, C có hành vi giao cấu với Lan (vì cả Lan và A đều quá say
nên không biết việc làm của B, C).
Như vậy A, B, C không thể là đồng phạm trong vụ án hiếp dâm này được. Về
phía B, C thì đây là đồng phạm vì về khách quan: cả B, C đều thực hiện hành vi
giao cấu với Lan, đều đóng vai trò là người thực hành trong vụ đồng phạm. Về
mặt chủ quan: cả B, C đều biết hành vi của mình và hành vi của người khác là
nguy hiểm nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ở việc
“thấy Lan trong tư thế không mảnh vải trên người” nên B, C “đã thay nhau giao
cấu với Lan”. Như vậy B, C là đồng phạm trong vụ hiếp dâm này và là đồng
phạm không có thông mưu trước.
c. Việc phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu của A, B, C có được
coi là tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS không?
Theo quy định tại Điều 14_BLHS 1999 “Người phạm tội trong tình trạng say do
dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì vẫn phải chịu TNHS”. A, B, C đã
thực hiện hành vi giao cấu với chị Lan trong khi say( khi năng lực nhận thức và
điều khiển hành vi của họ bị hạn chế) nhưng họ vẫn phải chịu TNHS về tội hiếp
dâm vì chính A, B, C là người có lỗi với tình trạng say của mình. Chính họ đã tự
tước bỏ năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của mình, tự đặt mình
vào tình trạng năng lực TNHS bị hạn chế. Bởi vậy A, B, C phải chịu TNHS là
đúng đắn.
Vấn đề là tình tiết phạm tội trong tình trạng say có được coi là tình tiết tăng nặng
hoặc giảm nhẹ không? Câu trả lời là: Không! Bởi vì:
Tình tiết tăng nặng (giảm nhẹ) TNHS là các tình tiết làm tăng lên( hoặc giảm
xuống) một cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đây
là một trong bốn căn cứ để quyết định hình phạt một cách đúng đắn và chính
xác.

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết giảm đi một cách đáng kể (so với mức
bình thường) mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định tại Điều
46. Theo khoản 1 điều 46 thì có 18 tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra “Tòa án có thể
coi các tình tiết là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án” (K2. Điều
46). Các tình tiết khác theo thực tiễn xét xử có thể là: người phạm tội là thương
binh, con liệt sĩ, người tàn tật. Từ đó ta thấy rằng tình tiết phạm tội khi say rượu
không được quy định trong khoản 1 điều 46, đặc biệt cũng không nằm trong diện
“các tình tiết khác” quy định ở khoản 2. Nên tình tiết này không phải là tình tiết
giảm nhẹ TNHS.
Có 14 tình tiết được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS. Đặc biệt có nguyên
tắc luật định theo đó, chỉ có các tình tiết được quy định tại khoản 1 điều 48 mới
là tình tiết tăng nặng TNHS. Như vậy các tình tiết tăng nặng TNHS là những tình
tiết luật định. Không bất kì ai được tự ý cho rằng các tình tiết khác ngoài 14 tình
tiết nêu tại khoản 1 điều 48 là tình tiết tăng nặng TNHS. Điều này thể hiện tính
pháp chế XHCN của luật hình sự Việt Nam. Trong 14 tình tiết nêu ở khoản 1 thì
cũng không có tình tiết phạm tội trong khi say.
Do vậy tình tiết này không được coi là tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS.
d. Giả thiết rằng Lan đang có thai ở tháng thứ hai thì A, B, C có phải
chịu TNHS về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ có thai” qui
định tại điểm h khoản 1 điều 48 BLHS không? Tại sao?
Để giải quyết vấn đề này trước tiên ta phải hiểu rõ quy định của BLHS ở điểm h
khoản 1 điều 48.
“Phạm tội đối với phụ nữ có thai là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực
tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, và các quyền khác của người
phụ nữ đang có thai.” Theo chính sách hình sự hiện nay, phụ nữ có thai là đối
tượng được ưu tiên đặc biệt khi họ là nạn nhân vì khả năng tự vệ của họ rất hạn
chế cần được sự bảo vệ khi bị xâm hại. Phạm tội đối với người phụ nữ có thai
không phải là tình tiết thuộc ý chí chủ quan của người phạm tội nên không yêu
cầu người phạm tội phải biết người mà mình xâm hại đang có thai.
Qua đây ta cũng phân biệt được hai trường hợp phạm tội đối với phụ nữ “mà

biết là có thai” với trường hợp “phạm tội với phụ nữ có thai”. “Phạm tội với phụ
nữ mà biết là có thai” (Ví dụ: điểm b khoản 1 Điều 93) là trường hợp nạn nhân
là người đang mang thai và bản thân người phạm tội cũng biết điều đó. Còn
“phạm tội đối với phụ nữ có thai” chỉ cần xác định người phụ nữ bị xâm hại
đang có thai thì người có hành vi xâm hại phải chịu TNHS về tình tiết tăng nặng
này dù họ có biết hay không. Như vậy khi áp dụng tình tiết “phạm tội đối với
phụ nữ có thai” cần chú ý: Người phụ nữ đang có thai, bất kể đang ở tháng thứ
mấy. Việc xác định thai phải do giám định viên hoặc bác sĩ chuyên khoa thực
hiện. Mức độ tăng nặng TNHS của tình tiết này phụ thuộc vào thời kì thai nghén
của nạn nhân và sự ảnh hưởng của hành vi phạm tội đối với thai nhi và tình trạng
sức khỏe của người phụ nữ.

×