Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững làng nghề sản xuất vôi sống tại thôn trại mới, xã văn an, thị xã chí linh, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.08 KB, 90 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề ở nước ta đã được hình thành từ rất lâu. Cùng với sự tồn tại hàng
nghìn năm của nền văn minh lúa nước thì nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các
vùng nông thôn Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban
đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Qua thời gian, các làng nghề từng bước khẳng định vai trò của mình trong việc tạo ra
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, cũng từ đó mà giúp người dân thoát
khỏi cảnh nghèo đói, giảm dần sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn,
đặc biệt là làm giảm áp lực lao động ở nông thôn di cư lên thành phố tìm việc làm
khiến nhiều vấn đề này sinh như nhà ở, môi trường, y tế, tệ nạn xã hội... Sự phát triển
làng nghề còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
giảm nhanh tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và
dịch vụ nông thôn, làm thay đổi bộ mặt ở nông thôn và thúc đẩy quá trình hình thành
kinh tế thị trường. Nhận thấy vai trò của việc phát triển làng nghề là rất to lớn và
không thể phủ nhận, chính vì vậy trong mục tiêu và chương trình phát triển năm 2006
của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có đưa ra: "Triển khai chương trình mỗi
làng một nghề, hỗ trợ tích cực để phát triển các làng nghề, khuyến khích các hộ gia
đình, hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ đa dạng như chế biến nông - lâm sản, gốm sứ, rèn đúc, cơ khí,
may mặc... đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất khẩu". [23]
Với chương trình "mỗi làng một nghề" Nhật Bản đã rất thành công, đem lại
nguồn thu đáng kể cho người dân Nhật Bản. Ở Việt Nam, sau khi có sự chuyển đổi từ
cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
đã có rất nhiều làng nghề được khôi phục và hình thành mới, góp phần cải thiện đời
sống cho người dân. Trong những thời gian gần đây, tốc độ phát triển làng nghề tương
đối cao, hiện nay cả nước đã có trên 2000 làng nghề, sản phẩm của nhiều làng nghề
đã trở lên nổi tiếng, có mặt ở nhiều nơi từ trong nước đến ngoài nước như gốm Bát
Tràng, tranh Đông Hồ, lụa Vạn Phúc, chiếu Nga Sơn... nhưng sự phát triển của các
làng nghề mới chỉ dừng lại ở loại hình kinh tế hộ gia đình với quy mô nhỏ là chủ yếu
1




(97%) nên sức cạnh tranh kém, hạn chế khả năng phát triển theo hướng công nghiệp
hóa. Mặt trái của phát triển các làng nghề còn dẫn tới hậu quả tai hại là môi trường bị
ô nhiễm nghiêm trọng; không gian bị thu hẹp do đất bị chiếm dụng để xây dựng cơ sở
sản xuất, để chứa nguyên vật liệu, chất đốt, chất thải; đất và nước ngầm bị ô nhiễm
nặng... đã góp phần ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng thôn xóm. Tỷ lệ
người mắc bệnh thông thường có nơi xấp xỉ 50%, đặc biệt cao là tỷ lệ các bệnh ung
thư, ngoài da, mắt hột, đường ruột. Không ít địa phương khi làm nghề người ta đã quá
tận dụng sức lao động giá rẻ thay vì phải đầu tư đổi mới công nghệ. Điều này cũng
góp phần tăng thêm hậu quả xấu về ô nhiễm môi trường lao động và môi trường nông
thôn.
Từ những năm của thập niên 90 cho đến nay cuộc sống của người dân thôn
Trại Mới, xã Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương đã có được rất nhiều thay đổi,
trong nhà bắt đầu có của ăn của để, đời sống của người dân cũng bớt khó khăn hơn.
Có được sự thay đổi đó chính là nhờ sự chăm chỉ, sáng tạo của người dân nơi đây, họ
đã tận dụng xỉ than dư thừa của nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, thải ra con sông thuỷ
nông chạy qua cơ sở để sản xuất vôi sống và gạch không nung, phục vụ nguyên vật
liệu cho ngành xây dựng, biến lượng xỉ than dư thừa này trở thành bạc triệu, nuôi
sống gia đình và bắt đầu có tích luỹ. Từ vài nhà ban đầu làm rồi họ bảo nhau, giúp
nhau sản xuất dần dần lan ra cả làng cùng làm, cộng với vị trí địa lý khá thuận lợi cho
việc giao thương, việc sản xuất của người dân cũng khá thuận lợi, sản phẩm làm ra
được các tư thương mang đi bán ở khắp nơi. Việc sản xuất của người dân cũng từ đó
mà ngày càng phát triển, giải quyết việc làm cho người dân trong thôn và các vùng
lân cận, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng nhanh tốc độ phát triển của thôn.
Tuy nhiên, sự phát triển của làng nghề thôn Trại Mới cũng dẫn tới những hậu quả về
kinh tế - xã hội - môi trường...
Để tìm hiểu sâu hơn về những tác động của việc phát triển làng nghề thôn Trại
Mới tới kinh tế - xã hội - môi trường của địa phương, tôi tiến hành thực hiện đề tài
"Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững làng nghề sản

xuất vôi sống tại thôn Trại Mới, xã Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương".

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của
việc sản xuất vôi sống đến kinh tế - xã hội - môi trường của làng nghề. Từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững làng nghề sản xuất vôi sống tại
thôn Trại Mới, xã Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề và phát triển làng nghề;
- Tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất vôi sống, các nhân tố ảnh hưởng và những
cơ hội, thách thức trong quá trình sản xuất và phát triển của làng nghề;
- Tìm hiểu tác động của việc sản xuất và phát triển làng nghề sản xuất vôi sống
ở thôn Trại Mới tới kinh tế - xã hội - môi trường của làng nghề nói riêng và của địa
phương nói chung;
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển bền vững làng nghề sản
xuất vôi sống thôn Trại Mới - Văn An - Chí Linh - Hải Dương.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng tiếp cận của đề tài là những hộ trong thôn đang tham gia sản xuất và
cả những hộ không tham gia sản xuất vôi sống, đồng thời đề tài cũng tiếp cận tới
những người lao động làm thuê cho thôn để nghiên cứu về quá trình hình thành làng
nghề, tình hình sản xuất, những yếu tố ảnh hưởng và tác động của việc sản xuất và
phát triển làng nghề sản xuất vôi sống tới kinh tế - xã hội - môi trường của thôn Trại
Mới, xã Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất vôi sống

của làng nghề, tác động của việc sản xuất vôi sống và sự phát triển của làng nghề tới
kinh tế - xã hội - môi trường của địa phương.
- Phạm vi về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thôn
Trại Mới, xã Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài dự kiến sẽ được tiến hành từ ngày 23/1/2010 đến
ngày 23/5/2010. Số liệu chủ yếu được thu thập qua 3 năm từ 2007 đến 2009.
3


PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Cơ sở lý luận về làng nghề
2.1.1.1 Một số khái niệm
* Làng: là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của
nông thôn các quốc gia ở châu Á. Ở Việt Nam, qua nhiều thế kỷ, làng là đơn vị
tụ cư cổ truyền lâu đời của những người dân sống ở nông thôn và là nhân tố cơ
sở cho hệ thống nhà nước quân chủ. Từ thời Hùng Vương, làng được gọi là chạ.
Đơn vị này có thể coi tương đương với sóc của người Khơme, bản, mường (của
các dân tộc thiểu số phía Bắc), buôn (của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên Trường Sơn). Làng của những người làm nghề chài lưới được gọi là vạn hay vạn
chài. [27]
Làng truyền thống điển hình thời trung và cận đại là một tập hợp những người
có thể có cùng huyết thống, cùng phương kế sinh nhai trên một vùng nhất định. Làng
̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc
lớn nên mới có câu "hương đảng, tiểu triều đình".
* Nghề: là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo, con
người có được những trí thức những kỹ năng để làm ra các sản phẩm vật chất hay tinh
thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Nghề bao gồm nhiều chuyên
môn.
Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng
năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm,

lương thực, công cụ lao động...) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, tranh vẽ,
âm nhạc...) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 200 nghề với hàng chục nghìn chuyên môn.
Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15000 chuyên môn, còn ở nước Mỹ
con số đó lên tới 40000. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy có
ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự
phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội
dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo
4


hướng đa dạng hoá. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị
đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường
(dạy nghề, trung cấp và cao đẳng - đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gồm hàng
nghìn chuyên môn khác nhau.
* Làng nghề:
Làng nghề ở nước ta được hình thành từ rất lâu. Cùng với sự phát triển của nền
văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra
đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những
nghề ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa
vụ chính. Theo thời gian, những nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia
đình khác cũng học làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay
nhiều làng gần nhau.Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ
công đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều
thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp
với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề
chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng gốm, làng làm chiếu, làng làm
lụa, làng làm đồ đồng... [28]
Lâu nay khái niệm làng nghề thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có

nhà nghiên cứu cho rằng "Làng nghề là một thiết chế kinh tế- xã hội ở nông thôn,
được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất
định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa
họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa" (Trần Minh Yến, 2004). Có nhà
nghiêu cứu định nghĩa "Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ
công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng yêu cầu chuyên
môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại
làng quê của mình" (Bùi Văn Vượng, 2002). Cũng có người lại định nghĩa "Làng
nghề (Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, hoặc làng
nghề cổ truyền...) là những làng mà tại đó hầu hết dân cư tập trung vào làm một nghề
5


duy nhất nào đó; nghề của họ làm thường có tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn
thu nhập cho dân làng"... [28]
Thế nhưng, trải qua nhiều bước phát triển, đặc biệt khi khoa học kỹ thuật và
công nghệ cùng với sự phân công lao động đã phát triển ở mức độ cao hơn thì khái
niệm làng nghề cũng được mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các
hộ chuyên làm nghề thủ công. Điều này có thể thấy dưới hai giác độ: Thứ nhất là,
làng nghề không còn bó hẹp trong khuôn khổ công nghệ thủ công, tuy thủ công vẫn là
chính, mà một số công đoạn đã được cơ khí hóa hoặc bán cơ khí hóa. Thứ hai là,
trong các làng nghề, không chỉ có các cơ sở sản xuất hàng thủ công, mà đã có những
cơ sở dịch vụ và ngành nghề phục vụ cho sản xuất, như các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ phân phối hàng hóa, cung ứng đầu vào và đầu ra cho sản phẩm làng nghề.
[10, Tr.15]
Qua các tài liệu thu thập ở trên thì chúng ta có thể hiểu: làng nghề là một hoặc
nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư
tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản
xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Các sản phẩm của làng nghề làm

ra đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, đã trở thành hàng hóa trên thị trường
và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu của người dân trong làng.
2.1.1.2 Tiêu chí xác định làng nghề
Khi xem xét sự phát triển của làng nghề, chúng ta xem xét trên cả ba phưong
diện kinh tế - xã hội - môi trường. Hiện nay có rất nhiều tiêu chí để xác định làng
nghề, Lê Vũ Tiên (2002) đã đưa ra các tiêu chí sau:
- Làng nghề đó phải là những làng quê nông nghiệp phát triển đến một mức độ
nhất định, nhưng do điều kiện ruộng đất có hạn, dân cư ngày càng đông đúc hơn nên
số lao động dư thừa ngày càng nhiều. Nhu cầu giải quyết việc làm để tạo thu nhập cho
người lao động là đòi hỏi cấp bách của làng;
- Làng nghề đó phải có ít nhất một người, một gia đình, một doanh nghiệp hay
một dòng tộc làm nghề đó, sản xuất kinh doanh phát triển nghề đó làm hạt nhân;
- Làng nghề đó phải tìm được nguồn nguyên vật liệu ổn định, đáp ứng được
nhu cầu sản xuất của làng nghề;
6


- Làng nghề phải có sản phẩm đã trở thành hàng hoá, giao lưu đáp ứng được
nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất của làng nghề;
- Làng nghề phải có thị trường tiêu thụ độc lập hoặc thị trường giao lưu qua
các doanh nghiệp thương mại;
- Làng nghề phải có vốn để dự trữ nguyên vật liệu sản xuất và chuẩn bị các
điều kiện cho sản xuất;
- Làng nghề phải có cơ sở hạ tầng, kỹ thuật tối thiểu thuận tiện như đường giao
thông, điện, nước, công cụ sản xuất...;
- Làng nghề phải có nguồn lao động trong làng ổn định và tạo ra công ăn việc
làm cho người lao động ở các địa phương lân cận để đáp ứng nhu cầu lao động khi
cần thiết;
- Làng nghề phải có sự quan tâm hỗ trợ về các mặt hàng của các cấp uỷ Đảng
và chính quyền địa phương. [7]

Theo Thông tư số 116/2006/TT- BNN ngày 18/12/ 2006 của Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn
thì để được coi là một làng nghề thì làng đó phải đạt 03 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề
nông thôn;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước. [13]
Ở nước ta, mỗi tỉnh cũng lại có những tiêu chí xác định làng nghề riêng. Ví dụ
tiêu chí xác định làng nghề của tỉnh Hưng Yên:
- Chấp hành tốt các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương;
- Số lao động sản xuất công nghiệp và TTCN đạt từ 50% trở lên so với tổng số
lao động của làng hoặc số hộ sản xuất công nghiệp và TTCN đạt từ 30% trở lên so với
tổng số hộ của làng.

7


- Giá trị sản xuất và thu nhập từ sản xuất công nghiệp và TTCN chiếm tỷ trọng
từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm;
- Bảo đảm vệ sinh môi trường theo quy định hiện hành. [19]
Tiêu chuẩn công nhận làng nghề của tỉnh Hà Nam:
- Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, các quy định của địa phương;
- Số lao động làm các nghề TTCN của làng nghề đạt trên 50% lao động của
làng (tối thiểu là 50 hộ trở lên);
- Giá trị sản xuất của làng nghề chiếm tỷ trọng trên 70% trở lên so với tổng giá
trị sản xuất của làng. [17]

Tiêu chuẩn công nhận làng nghề của tỉnh hải Dương:
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
các quy định của chính quyền địa phương, có hình thức tổ chức phù hợp; phát triển
ngành nghề gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng làng văn hoá của
địa phương, giữ gìn vệ sinh môi trường.
- Số gia đình hoặc lao động làm nghề công nghiệp và TTCN ở làng đạt từ 25%
trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của làng. Doanh thu từ sản xuất công nghiệp
và TTCN ở làng chiếm tỷ trọng từ 30% trở lên so với tổng doanh thu của làng trong
năm. Thu nhập bình quân một năm của một lao động ở làng nghề sản xuất công
nghiệp và TTCN phải cao hơn thu nhập bình quân của lao động trong xã từ 10% trở
lên.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh phải bảo đảm vệ sinh môi trường chung, nhất
là về hệ thống thoát nước, hệ thống xử lý rác thải và nước thải.
Các tiêu chuẩn trên của làng đạt ổn định từ 3 năm trở lên sẽ được UBND tỉnh
xem xét công nhận làng nghề. [18]
2.1.1.3 Phân loại làng nghề
Sự phát triển đa dạng và phong phú của làng nghề đã hình thành lên rất nhiều
cách phân loại làng nghề khác nhau. Hiện nay, việc phân loại làng nghề thường được
tiến hành theo cách các sau:

8


* Theo lịch sử hình thành (tính chất nghề):
- Làng nghề truyền thống: là những làng nghề có lịch sử phát triển từ lâu đời
với những sản phẩm độc đáo riêng có của mình và còn tồn tại cho đến ngày nay. Sản
phẩm của làng nghề truyền thống rất nổi tiếng được nhiều người biết đến, tiêu thụ ở
các trung tâm kinh tế lớn của đất nước (Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh...) và
cả nước ngoài. Mẫu mã, chủng loại của các sản phẩm trong làng nghề truyền thống
thường được xuất hiện với quá trình hình thành làng nghề và được hoàn thiện qua các

thế hệ. Giá trị của sản phẩm truyền thống không những bao gồm các chi phí vật chất,
chi phí lao động sống mà còn chứa đựng cả những yếu tố tinh thần. Những thiết kế,
hoạ tiết trên các sản phẩm truyền thống thường được phác theo những điển tích cổ
nào đó và thú vui của người chơi là muốn có những bình phẩm và giá trị tinh thần của
sản phẩm. Ngày nay một số sản phẩm cổ được cất giữ trong các viện bảo tàng, một số
trong các nhà thờ của các dòng họ, một số ở các gia đình quyền quý thượng lưu. Tuy
nhiên những sản phẩm phục chế và sản phẩm cổ chỉ có thể phân biệt ở những người
sành chơi hoặc ở các cơ quan khoa học chuyên ngành. Làm việc trong các làng nghề
truyền thống là các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề với nhiều năm kinh nghiệm.
Cùng với sự phát triển chung, trong các làng nghề truyền thống xuất hiện hệ thống
công cụ sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, lao động vẫn sử dụng phần lớn là lao động thủ
công.
- Làng nghề mới hình thành gần đây: là những làng nghề xuất hiện do sự phát
triển lan toả của các làng nghề truyền thống hoặc do du nhập từ các địa phương khác;
do yêu cầu phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống trên cơ sở vận dụng các tiềm
năng sản xuất của địa phương... Là làng nghề mới hình thành, các điều kiện sản xuất
còn thiếu và yếu nên các sản phẩm của làng nghề thường là sản phẩm cấp thấp hoặc ở
các công đoạn thô. Những người thợ mới trong các làng nghề trước đây thường là thợ
làm thuê ở các làng nghề truyền thống. Sau nhờ có kiến thức về một số tay nghề, với
số vốn ít ỏi đã nhen nhóm lên nghề mới ở quê mình. Tuy nhiên, cá biệt có một số làng
nghề mới được hình thành do yêu cầu giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội.
Một điều dễ thấy là các làng nghề phát triển và lan toả rất nhanh nhưng không bền
vững. Tác động cạnh tranh của làng nghề mới đối với làng nghề truyền thống không
9


có ý nghĩa thúc đẩy nghề truyền thống lắm vì quy mô sản xuất sản phẩm cấp thấp của
làng nghề truyền thống hầu như bão hoà. Vì vậy, điều quan trọng là không nên để cho
làng nghề mới phát triển tự phát.
* Theo sản phẩm làm ra:

- Làng nghề sản xuất ra công cụ thủ công và nguyên vật liệu cho ngành công
nghiệp: Công cụ thủ công được tạo ra chủ yếu từ nghề rèn và nghề này có ở hầu hết
các vùng nông thôn, các làng nghề chuyên sản xuất công cụ này có nguy cơ phải thu
hẹp quy mô sản xuất. Các loại nguyên vật liệu như vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vôi,
xi măng...), thép cán, thép thỏi... cũng được thực hiện ở nhiều làng nghề, ngay cả làng
nghề truyền thống.
- Làng nghề sản xuất hàng tiêu dùng dân dụng như hàng đồ đồng (đồ thờ cúng,
ấm, nồi...), hàng đồ mộc (giường, tủ, bàn, ghế...), hàng nhựa tái chế (nhựa thỏi, nhựa
xay, hạt nhựa...). Chất lượng các sản phẩm trong các làng nghề thuộc rất nhiều cấp độ
khác nhau từ cấp thấp dân dụng đến cao cấp mỹ nghệ. Những hàng này tiêu thụ cả
trong nước và ngoài nước.
- Làng nghề chế biến nông lâm thuỷ sản và dược liệu: nguyên liệu của làng
nghề này là sản phẩm của hàng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ - hải sản. Vai trò của
công nghệ chế biến đặc biệt quan trọng và đi liền với công nghệ bảo quản. Sản phẩm
chế biến cũng rất đa dạng, trên thực tế hình thành nên các làng nghề với cơ sở chế
biến là vấn đề tương đối khó khăn. Hiện nay, trong vấn đề chế biến nổi lên vấn đề
nguyên liệu sạch (rau, quả) và các chất phụ phẩm (trước hết là các chất hoá học bị sử
dụng tuỳ tiện trong việc chế biến và bảo quản các sản phẩm). [21]
* Theo số lượng nghề:
- Làng một nghề: là những làng ngoài nghề nông ra chỉ có thêm một nghề thủ
công duy nhất.
- Làng nhiều nghề: là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số hoặc nhiều
nghề khác. [10]

10


2.1.1.4 Vai trò của phát triển làng nghề
* Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên
một bước mới về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm,
cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập của cư dân nông thôn bằng các nguồn lợi
từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông nghiệp. Với mục tiêu như vậy, quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay
trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế
nông thôn. Sự phát triển của các làng nghề đã tạo ra một nền kinh tế đa dạng ở nông
thôn, với sự thay đổi về cơ cấu, phong phú đa dạng về loại hình sản phẩm. Nghĩa là,
khi nghề thủ công xuất hiện thì nền kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông
nghiệp thuần nhất mà bên cạnh đó còn có các ngành thủ công nghiệp, thương mại,
dịch vụ cùng tồn tại và phát triển. Sự phát triển của làng nghề đã mở rộng quy mô sản
xuất và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động. Cho đến nay cơ cấu kinh tế ở nhiều
làng nghề đạt từ 60 - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
[10]
* Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn
Nước ta là một nước sản xuất nông nghiệp là chính, dân số tập trung vào một
vài tháng vụ mùa, còn những lúc nông nhàn thì họ không có việc làm. Những năm
gần đây, phát triển làng nghề đã giải quyết việc làm cho gần 10 triệu lao động, chiếm
29,5% lực lượng lao động nông thôn. Việc phát triển làng nghề không chỉ giải quyết
việc làm cho lao động địa phương mà còn tạo việc làm cho lao động tại các địa
phương khác. Ví dụ các làng nghề ở Bắc Ninh năn 2002 đã thu hút 42000 lao động
thường xuyên và 10000 lao động thời vụ. Làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) ngoài giải
quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã, còn giải quyết thêm việc làm cho
khoảng 5500 đến 6000 lao động của các khu vực lân cận đến làm thuê. [10]
Việc phát triển làng nghề tạo ra một khối lượng lớn hàng hoá mỗi năm nên
việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá là cần thiết và là nhân tố quan trọng để
kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động thủ công
11



chuyên nghiệp và nông nhàn. Người ta đã tính toán rằng, cứ xuất khẩu một triệu USD
hàng thủ công thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 - 4000 lao động,
chủ yếu là lao động tại địa phương và các vùng lân cận. Nếu so sánh với mức thu
nhập của lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động ngành nghề cao hơn khoảng
2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí về lao động và diện tích sử dụng đất thấp hơn
nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Bình quân thu nhập của một lao động chuyên
ngành nghề phi nông nghiệp là 430000 - 450000 đồng/tháng, ở hộ kiêm nghề từ
190000 - 240000 đồng/tháng, trong khi đó ở các hộ thuần nông chỉ khoảng 70000 100000 đồng/tháng [10]. Như vậy, thu nhập ở các làng nghề đã tạo ra sự thay đổi khá
lớn trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và của địa phương.
* Đa dạng hoá kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá
Đa dạng hoá kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng của
công nghiệp hoá nông thôn nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời
sống của người dân nông thôn. Sự phát triển của làng nghề đã phá vỡ thế độc canh
trong các làng thuần nông, mở ra hướng phát triển mới với nhiều nghề trong một làng
nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, sự phát triển của làng nghề đã
đem lại hiểu quả cao trong việc sử dụng hợp lý các nguồn lực ở nông thôn như đất
đai, lao động, nguyên vật liệu, thị trường.
Ở những vùng có nhiều ngành nghề phát triển, thường hình thành nên một
trung tâm giao lưu buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hoá. những trung tâm này ngày
càng được mở rộng và phát triển, tạo nên một sự đổi mới trong nông thôn. Hơn nữa,
nguồn tích luỹ của người dân trong làng nghề cao hơn, có điều kiện để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, nhà ở và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt. Dần dần
ở đây hình thành một cụm dân cư với lối sống đô thị ngày một rõ nét hơn. Nông thôn
đổi thay và từng bước được đô thị hoá qua việc hình thành các thị trấn, thị tứ.
* Cải thiện đời sống của nhân dân và xây dựng nông thôn mới
Ở những vùng có làng nghề phát triển đều thể hiện một sự văn minh, giàu có,
dân trí cao hơn hẳn những vùng mà chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp. Ở các làng
nghề, tỷ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thấp và hầu như không có hộ
đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho
12



người dân ở đây một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất và tinh thần.
Nhà cao tầng của các hộ dân được xây dựng nhiều, tỷ lệ hộ có các loại đồ dùng tiện
nghi đắt tiền chiếm tỷ lệ khá. Làng Tân Lễ (Thái Bình) tỷ lệ hộ khá, giàu chiếm gần
80% tổng số hộ của địa phương. Làng nghề Bát Tràng (Hà Nội) mức thu nhập bình
quân của các hộ thấp cũng đạt tới 10 -20 triệu đồng/năm, của các hộ trung bình là 40
-50 triệu đồng/năm, còn của các hộ cao thì đạt tới hàng trăm triệu đồng/năm.
Cùng với việc tăng thu nhập của người dân, sự phát triển của làng nghề cũng
đã tạo ra một nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho ngân sách địa phương. Nguồn
vốn được các địa phương dùng để cải tạo và xây dựng các hệ thống giao thông, hệ
thống điện, trạm y tế, trường học... Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
cải thiện, sức mua tăng lên, tạo thị trường cho công nghiệp và dịch vụ phát triển.
2.1.1.5 Ý nghĩa về phát triển làng nghề
Trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, Đảng ta đã đặt ra mục
tiêu CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn lên hàng đầu. Điều đó thể hiện rõ nội dung
CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đó là:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp phục vụ CNH.
- Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá vào sản xuất
nông nghiệp.
- Phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ - hải sản với công nghệ ngày càng cao,
gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới
bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các
loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội đồng bộ và hiện đại, xây dựng
nông thôn mới giàu có và văn minh. [15]
Chủ trương phát triển làng nghề được cụ thể hoá hơn ở Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ IX: "Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư

nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
sinh học; đẩy nhanh thuỷ lợi hóa, cơ giới hoá, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng đất
13


hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích;
giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành
đa dạng, chú trọng công nghệ chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề,
chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời
sống nông dân và cư dân ở nông thôn". [15, Tr.92, 279]
Đối với ngành nghề nông thôn, nhiệm vụ của nó đã được nhấn mạnh hơn trong
phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005: "Mở
mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông thôn và vùng
nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, trao đổi nông sản
hàng hoá ở nông thôn..., tăng nhanh việc làm cho khu vực phi nông nghiệp". [15.
Tr179]
Từ đó ta thấy được, phát triển làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng cả về kinh tế
và xã hội.
* Ý nghĩa về kinh tế
Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề đã có ý nghĩa quan trọng
trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, đó là tăng
tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông
nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề
phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Trong phát triển nông nghiệp thì các làng nghề
đã cung cấp tư liệu sản xuất (công cụ sản xuất: cuốc, cày bừa...) và chuyển dịch cơ
cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Ví dụ như khi ngành chế biến phát triển yêu cầu
nguyên liệu từ nông nghiệp phải nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do

vậy, trong nông nghiệp hình thành những khu vực nông nghiệp chuyên môn hoá, tạo
ra năng suất lao động cao hơn và khối lượng sản phẩm hàng hoá cũng phải nhiều hơn.
Mặt khác, có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản
lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền kinh
tế thị trường, người lao động nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi
14


nông nghiệp, khu vực sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, khu vực sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên, hoạt động dịch vụ ở nông thôn cũng được mở
rộng về quy mô, địa bàn hoạt động đã thu hút được nhiều lao động.
Ở nước ta, các làng nghề được phân bố rộng khắp ở các vùng nông thôn, hàng
năm sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hoá khá lớn, đóng góp đáng kể cho nền
kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng, làm tăng tổng giá trị
sản phẩm hàng hoá của cả nước. Ví dụ tỉnh Bắc Ninh, năm 1998 giá trị sản phẩm
hàng hoá của các làng nghề là 210 tỷ đồng, chiếm 3/4 tổng giá trị sản xuất công
nghiệp ngoài quốc doanh. Năm 1998, làng nghề ở Bắc Ninh đã nộp ngân sách nhà
nước là 21,350 tỷ đồng, trong khi các xí nghiệp quốc doanh chỉ thu được 3,4 tỷ đồng.
Năm 2002 đạt khoảng 800 tỷ đồng, chiếm 50% giá trị công nghiệp của địa phương,
đóng góp 62% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. [25]
Giá trị công nghiệp ngành nghề của tỉnh Hải Dương đạt 560 tỷ đồng năm 1998,
637 tỷ đồng năm 2000 và đến năm 2007 là trên 900 tỷ đồng, chiếm 50% giá trị sản
xuất công nghiệp ngoài quốc doanh. Các làng thu hút khoảng 80 nghìn lao động,
chiếm trên 8% số lao động xã hội trong tỉnh; thu nhập bình quân một lao động từ 400
đến 700 nghìn đồng/ tháng có cơ sở thu nhập của người lao động từ 1 triệu cho đến 3
triệu đồng/tháng. [31]
* Ý nghĩa về xã hội
Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống
cho cư dân nông thôn là một vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay. Với 72% dân số
và 48% lao động của cả nước, đất đai canh tác lại bị hạn chế bởi giới hạn của tự

nhiên, đây là một thách đố lớn đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Sự phát triển của làng nghề đã kéo theo sự hình thành và phát triển của các nghề khác,
đã tạo thêm nhiều việc làm nhờ đó thu nhập của họ được tăng cao, đời sống bớt khó
khăn hơn, mặt khác bản tính của người nông dân là tiết kiệm nên họ đã biết chi tiêu
hợp lý và bắt đầu có tích luỹ. Vì vậy, cuộc sống của người dân trong các làng nghề
thường có mức sống cao hơn so với các làng chỉ sản xuất thuần nông.
Khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có trong nông thôn: vốn, lao động.
Một đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và cơ cấu
15


lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của
các hộ gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho hộ tận dụng được vốn nhàn rỗi trong dân
vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là ở
hộ gia đình nên đã tận dụng và thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ nông
nhàn đến lao động trên độ tuổi hay dưới độ tuổi, lực lượng lao động này chiếm một tỷ
lệ rất đáng kể trong tổng số lao động làng nghề.
2.1.2 Cơ sở lý luận về phát triển bền vững
2.1.2.1 Một số khái niệm
Phát triển bền vững là khái niệm khá mới mẻ xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh
nghiệm phát triển của các quốc gia trên hành tinh từ trước đến nay. Nó phản ánh xu
thế của thời đại và định hướng tương lai của loài người. Khái niệm này hiện đang là
mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh
tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với
quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".

Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland
(còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế
giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là
"sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn
hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Nói cách khác,
phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng
và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh
tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm
mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. [29]
Đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về phát triển bền vững. Theo
Herman Daly (World Bank): "Một thế giới bền vững là một thế giới không sử dụng
16


các nguồn nguyên liệu tái tạo như nước, thổ nhưỡng, sinh vật... nhanh hơn sự tái tạo
của chúng. Một xã hội bền vững cũng sử dụng các tài nguyên không tái tạo như nhiên
liệu hoá thạch, khoáng sản... nhanh hơn quá trình tìm ra loại thay thế chúng và không
thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và vô hiệu
hoá chúng". Bumetland cho rằng: "Phát triển bền vững là một loại phát triển lành
mạnh vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại đồng thời không xâm phạm đến lợi ích của
thế hệ tương lai".
Tóm lại: Phát triển bền vững là một sự phát triển lành mạnh trong đó sự phát
triển của cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của các nhân khác, sự phát triển
của cá nhân không làm thiệt hại đến sự phát triển của cộng đồng, sự phát triển của
cộng đồng người này không làm ảnh hưởng thiệt hại đến lợi ích của cộng đồng người
khác và sự phát triển của thế hệ hôm nay không xâm phạm đến lợi ích của thế hệ mai
sau và sự phát triển của loài người không đe doạ sự sống còn hay làm suy giảm điều
kiện sống của các loài sinh vật khác trên hành tinh. [6]
2.1.2.3 Điều kiện về phát triển bền vững
* Vai trò của Nhà nước:

Vai trò của Nhà nước ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng quan trọng đặc biệt, thông qua
các đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội tác động đến môi
trường sống. Do vậy khi đề ra một chủ trương, đường lối, chính sách nào đó cần phải
có sự tính toán, cân nhắc về khía cạnh đảm bảo môi trường được ổn định và cải thiện.
Một quốc gia có nền kinh tế chính trị ổn định, có phương hướng phát triển
đúng đắn, hợp quy luật, thì thường có bộ máy điều hành mọi hoạt động của Nhà nước
mạnh, có năng lực giải quyết mọi vấn đề do đời sống kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường đặt ra một cách thoả đáng và có hiệu quả.
* Xây dựng lối sống và sản xuất thích hợp
Xây dựng một lối sống thích hợp với phát triển bền vững: lối sống tiết kiệm
lành mạnh biết chăm lo cho môi trường sống... Xây dựng một lối sản xuất thích hợp,
tiết kiệm gắn liền với việc không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và đổi
mới tổ chức quản lý kinh tế - cải tiến các hoạt động, phải kết hợp hợp lý, thống nhất,

17


cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
* Kế hoạch hoá và quản lý một cách tổng hợp quá trình phát triển
Mỗi thành tựu của sự phát triển đều phải là sự thừa kế của quá khứ một cách có
chọn lọc và là sự định hướng cho tương lai phát triển sau này. Phát triển bền vững chỉ
có thể đạt được khi mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều phải được quản lý chặt chẽ,
toàn diện, được lập kế hoạch thống nhất và khoa học, đảm bảo kết hợp tốt nhất giữa
môi trường và phát triển.
* Đưa hao tổn tài nguyên và môi trường vào hệ thống hạch toán quốc gia
Nguồn tài nguyên được sử dụng và sinh lợi cho ai thì người đó phải có trách
nhiệm góp phần bù đắp lại sự thiếu hụt, suy giảm trữ lượng và chất lượng nguồn tài
nguyên, môi trường đã khai thác. Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống
hạch toán để xác định đầy đủ mọi chi phí trong các hoạt động phát triển, trong đó có

các chi phí về khai thác, sử dụng các tài nguyên và thành phần môi trường. [6]
2.1.2.2 Mục tiêu về phát triển bền vững ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quát trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX là: "Đưa đất nước ra
khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần
của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước trên
trường quốc tế được nâng cao". Quan điểm phát triển trong Chiến lược trên được
khẳng định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường"; "Phát triển kinh tế - xã hội
gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường
nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất,
sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận
của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ,
18


hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với
cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh
được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho
các thế hệ mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc
sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành
và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa

các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về
quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì
và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hoá dân tộc, không ngừng nâng cao
trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm
soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng
sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
2.1.2.4 Nguyên tắc về phát triển bền vững ở Việt Nam
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực
hiện những nguyên tắc chính sau đây:
Thứ nhất: con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng
đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất
nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất
quán trong mọi giai đoạn phát triển.
Thứ hai: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển
sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ
sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát
triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
19


trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước
thực hiện nguyên tắc "mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đều cùng có lợi".
Thứ ba: bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần
áp dụng rộng rãi nguyên tắc "người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì
phải bồi hoàn". Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo

vệ môi trường; chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi
trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá
phát triển bền vững.
Thứ tư: quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu
của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo
lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để
phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng
những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hoá tốt đẹp
cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại
được, gìn giữ và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân
thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hoà, gần gũi và yêu quý thiên
nhiên.
Thứ năm: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện
đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các
ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản
xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu: phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền,
các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các
cộng đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người
có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ
20


môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng
tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của phụ nữ,
thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết
định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.
Thứ bảy: gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển các quan hệ song
phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc
những tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền
vững. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh.
Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.
Thứ tám: kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. [24]
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1 Tình hình phát triển làng nghề trên thế giới
Trên thế giới sự phát triển của các làng nghề thể hiện ở sự tăng lên cả về quy
mô và số lượng. Đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển, số lượng các làng nghề
tăng lên nhanh chóng như Trung Quốc, sự phát triển của các làng nghề thể hiện qua
các mô hình xí nghiệp hương trấn, ở Ấn Độ các làng nghề phát triển mạnh đã tạo ra
nhiều sản phẩm có chất lượng cao không chỉ phục vụ tiêu dùng trong nước mà còn
xuất khẩu đến nhiều nơi trên thế giới như sản phẩm hàng tơ lụa, đồ trang sức, kim
cương, gốm mỹ nghệ..., đặc biệt hai mặt hàng tơ lụa và đồ trang sức là hai trong 14
mặt hàng mũi nhọn xuất khẩu của ngoại thương Ấn Độ... Sự phát triển làng nghề ở
các nước đã giải quyết việc làm cho phần lớn lao động ở nông thôn, nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống của người dân, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội ở nông thôn.
Ngoài chú ý đến phát triển các làng nghề truyền thống, các nước còn mở rộng các
làng nghề mới. Nhật Bản là nước đi đầu trong việc mở rộng nghề thủ công, là cái nôi
của phong trào mang tên "mỗi làng một sản phẩm", và các nghề này đã tạo cho Nhật
Bản nguồn thu khá cao. Nhật Bản là một trong những nước có nền công nghiệp phát
triển vào loại bậc nhất trên thế giới, Nhật Bản cũng là nước đầu tiên ở châu Á từ một
21


nước nông nghiệp lạc hậu thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước. Thành công
của quá trình này đã giúp cho Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế với nền

kinh tế nông nghiệp và công nghiệp hiện đại thành thị và nông thôn đều rất phát triển.
Bên cạnh những ngành kinh tế hiện đại với khu công nghiệp tập trung quy mô lớn thì
ở các vùng thị trấn, thị tứ, làng xã ở nông thôn, một mạng lưới các cơ sở công nghiệp
vừa và nhỏ đã được xây dựng và đặc biệt các cơ sở công nghiệp gia đình ở nông thôn,
các hộ gia đình làm nghề thủ công được chú trọng phát triển. Đây là cơ sở để hình
thành và phát triển các làng nghề của Nhật Bản, với các nghề thủ công đa dạng và
phong phú. Sự phát triển các làng nghề ở Nhật Bản đã góp phần giải quyết việc làm
cho một bộ phận nông dân lúc nhàn rỗi và các thợ thủ công chuyên nghiệp, làm ra
một khối lượng đáng kể hàng tiêu dùng và một số tư liệu sản xuất: nghề đan lát, dệt
lụa, loại công cụ cầm tay, chế biến lương thực thực phẩm...
Sự phát triển của các làng nghề tuy không phải là rộng khắp ở các vùng nông
thôn Nhật Bản, song lợi ích mà nó đạt được đã có những tác động quan trọng tới sự
phát triển kinh tế, xã hội nông thôn Nhật Bản. Năm 1993, các nghề thủ công và các
làng nghề đã đạt giá trị sản lượng tới 8,1 tỷ USD, đồng thời thu nhập từ các nghề này
cũng được tăng lên.
Sự phát triển của làng nghề ở Nhật Bản đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
thuần nông sang phi nông nghiệp. Số hộ thuần nông giảm từ 50% (1950) xuống còn
12% (1990), số hộ kiêm tăng từ 50% (1950) lên tới 80% (1990). Thu nhập của các hộ
cũng có sự thay đổi mạnh: thu nhập của hộ từ nông nghiệp giảm từ 79% (1950) xuống
còn 16% (1990) và thu nhập của hộ ngoài nông nghiệp tăng từ 29% (1950) đến 84%
(1990) [3]. Như vậy, sự phát triển của làng nghề đã có tác động tích cực tới kinh tế
nông thôn Nhật Bản nói riêng và kinh tế quốc tế nói chung.
Nhật Bản từ một nước tiêu thụ hàng loạt và vứt bỏ hàng loạt các sản phẩm cũng đã
xúc tiến những biện pháp để thực hiện tái chế nhựa với ý tưởng vứt đi là uổng phí, tái
chế là sinh lợi. Bắt đầu từ năm 1990, Nhật Bản đã thay đổi cùng với việc thông qua
một số đạo luật như Luật xúc tiến việc sử dụng những nguồn tài nguyên có thể tái chế
năm 1991, Luật cơ bản về môi trường năm 1993 và Luật xúc tiến việc thu gom, phân

22



Bảng 2.1: Cơ cấu kinh tế và cơ cấu thu nhập của hộ nông dân Nhật Bản từ
1950 - 1990
Đơn vị: %
Loại hộ và loại thu nhập
Tỷ lệ số hộ thuần nông
Tỷ lệ số hộ kiêm
Tỷ lệ thu nhập của hộ từ nông nghiệp
Tỷ lệ thu nhập của hộ từ phi nông nghịêp

1950 1960 1970 1980 1990
50,0 34,0 15,6 13,0 12,0
50,0 66,0 84,4 87,0 80,0
79,0 54,0 33,0 18,0 16,0
29,0 46,0 67,0 82,0 84,0

Nguồn: Nguyễn Điền, "công nghiệp hoá nông thôn Nhật Bản" [2]
loại và tái chế bao bì vào năm 1995. Thêm vào đó Luật về việc thải rác và vệ sinh
công cộng được tu chỉnh vào năm 1991 và được tu chỉnh lại vào năm 1997. Những
biện pháp này đã góp phần phát triển hệ thống tái chế vật dụng và rác thải của Nhật
Bản. Họ đã tìm ra trong đống phế thải những nguyên liệu quý giá có thể tái chế sử
dụng làm sợi polyeste và nhựa tổng hợp để chế tạo ra nhiều hàng hoá phong phú như
từ nhựa chế tạo thành thảm, làm túi xách, thú nhồi bông, mũ thể thao, khăn trải bàn,
bút bi...[22]. Đến đầu những năm 2000, Bộ Kinh tế - Thương mại - Công nghiệp Nhật
Bản (METI), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Tổ chức Xúc tiến ngoại
thương Nhật Bản (JETRO) phối hợp triển khai một kế hoạch chung về phát triển
phong trào “Mỗi làng Một sản phẩm”. Ba cơ quan này cũng là đầu mối tăng cường
hợp tác và quảng bá phong trào này ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát
triển. [30]
2.2.2 Tình hình phát triển làng nghề ở Việt Nam

2.2.2.1 Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986)
Các làng nghề ở nước ta đã phát triển rất đa dạng và phong phú. Hầu hết các
làng nghề được gắn với tên làng, tên xã ở nông thôn Việt Nam như gốm Bát Tràng,
tranh Đông Hồ, chiếu Nga Sơn, lụa Vạn Phúc... Với hàng trăm mặt hàng thủ công đặc
sắc của Việt Nam đã thể hiện rõ sự tài năng, trí thông minh sáng tạo trong kỹ thuật
truyền thống của ông cha ta. Nổi trội hơn cả là ngành dệt và sản xuất gốm sứ, phát
triển mạnh mẽ nhất ở các tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương...
Lúc này các làng nghề có xu thế phát triển theo hướng tách khỏi nông nghiệp để
chuyên làm các nghề thủ công và thu hút số người tham gia từ 80 - 90%, chỉ còn 10 %
dân số trong các làng tham gia làm ruộng [4]. Các hàng thủ công mỹ nghệ đã được
xuất khẩu ra nước ngoài, ở Đông Âu và Liên Xô cũ, điều này đã thúc đẩy các làng
23


nghề phát triển ngày một mạnh mẽ và rộng khắp ở miền Bắc. Quy mô trung bình của
các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc có hàng trăm xã viên, có nơi lên tới
hàng nghìn người, nhiều hợp tác xã được tập thể hoá hoàn toàn và phát triển thành xí
nghiệp quốc doanh địa phương. Năm 1975, toàn miền Bắc có 4000 đơn vị sản xuất
thủ công nghiệp tập trung với hơn 800000 lao động, giá trị sản lượng tiểu thủ công
nghiệp toàn quốc năm 1979 đạt 27080,9 triệu đồng (giá cố định năm 1970), chiếm
31,4% sản lượng công nghiệp toàn quốc. [5]
2.2.2.2 Thời kỳ từ năm 1986 cho đến nay
* Giai đoạn từ 1986 - 1992: Đây là giai đoạn quan trọng của làng nghề. Giai
đoạn này được đánh dấu bằng bước ngoặt chuyển đổi từ cơ chế quản lý bao cấp sang
cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách đổi mới quản lý
trong nông nghiệp và chính sách phát triển các thành phần kinh tế đã có tác động trực
tiếp và mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và làng
nghề nói riêng.
Trong giai đoạn này nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển, trong mỗi làng nghề quy mô sản xuất được mở rộng, đầu tư về vốn, kỹ thuật

được tăng cường. Đặc biệt đã hình thành nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, sản lượng
sản phẩm ngày càng lớn, giá trị kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, thu hút một số
lượng lớn lao động chuyên và không chuyên nghiệp vào quá trình sản xuất và dịch vụ
sản xuất... Trong giai đoạn này một số làng nghề điển hình có tốc độ khôi phục và
phát triển khá nhanh như gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), gốm sứ Đồng Nai, chạm khảm
điêu khắc ở Hà Tây...
Các sản phẩm truyền thống của các làng nghề Việt Nam đã có thị trường tiêu
thụ tương đối ổn định ở Đông Âu, Liên Xô cũ. Chính sự ổn định này đã cho phép các
làng nghề duy trì được sự phát triển và thu hoạch được những nguồn thu đáng kể từ
các sản phẩm xuất khẩu. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt
giá trị cao trên 46 triệu rúp. Ở nhiều địa phương việc phát triển làng nghề đã thu hút
và giải quyết việc làm cho nhiều lao động, đồng thời làm tăng nhanh sản phẩm phục
vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Làng nghề Đồng Xâm (Thái Bình), chỉ riêng hợp tác
xã Việt Hồng năm 1987 giá trị tổng sản lượng đã đạt hơn 7 tỷ đồng, gấp 10 lần so với
24


năm 1981. Tỉnh Hà Tây, trong những năm 1988 - 1990 các làng nghề truyền thống đã
đưa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh lên mức 8,6 - 12,6 triệu rúp/năm. Tuy nhiên sự phát
triển trên không duy trì được lâu do bị ảnh hưởng trực tiếp của những biến động về
chính trị - xã hội trên thế giới. Sự sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô
cũ vào đầu những năm 90 đã làm cho thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu chủ yếu gần
như không còn nữa. Trước những khó khăn lớn, sản xuất ở nhiều làng nghề bị đình
trệ, sa sút thậm chí bế tắc. Thu nhập và đời sống của người làm nghề giảm rất nhanh
do việc làm ít hoặc không có việc làm. Lực lượng lao động tại các làng nghề bị giảm
mạnh.
Giai đoạn 1993 đến nay: Khi thị trường Đông Âu và Liên Xô cũ không còn,
sản xuất ở các làng nghề truyền thống thực sự lâm vào tình trạng khủng hoảng. Số
người lao động không có việc làm tăng lên rất nhanh, nhiều người quay lại với sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tình trạng này kéo dài không lâu. Một hướng đi mới cho

sự phát triển của làng nghề dần được xác lập do bước đầu đã tìm kiếm được thị trường
các nước trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... là thị trường
tiêu thụ tương đối lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ.
Nghị quyết TW V của Đảng (tháng 6/1993) về tiếp tục đổi mới nông nghiệp
nông thôn, với trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đã mở ra thời kỳ
mới để khôi phục các ngành nghề truyền thống. Nhiều địa phương có làng nghề
truyền thống đã chủ động tìm kiếm thị trường mới, tổ chức sản xuất và khôi phục lại
các ngành nghề truyền thống. Từ năm 1993 trở lại đây, đã có khá nhiều ngành nghề
và làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Ví dụ như làng nghề chạm
bạc Đồng Xâm (Thái Bình), làng nghề thêu Quất Động (Hà Tây)... Cũng trong thời
gian này, trước nhu cầu đòi hỏi của thị trường và giải quyết việc làm trong nông thôn,
nhiều làng nghề mới xuất hiện. Các làng nghề mới này có thể làm nghề của làng nghề
truyền thống, như làng nghề gốm Xuân Quan được hình thành và phát triển từ sự du
nhập nghề gốm Bát Tràng, nhưng cũng có nhiều làng làm nghề mới bằng các công
nghệ cổ truyền hoặc hiện đại như làng nghề Đồng Kỵ trước đây chuyên sản xuất pháo
nay chuyển hoàn toàn sang sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ...[1]

25


×