Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

skkn ứng dụng định luật bảo toàn động lượng chế tạo tên lửa nước và động cơ hơi nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.71 KB, 16 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Vật lý học là môn học thực nghiệm và có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của nhân loại. Từ việc tìm ra những quy luật vận động của thế giới tự nhiên, các
nhà vật lý đã tìm ra những định luật, những nguyên lý, những lý thuyết để giải thích và
làm cơ sở để các nhà khoa học áp dụng vào thực tiễn. Có thể nói sự phát triển của Khoa
học kĩ thuật là thành quả của sự phát triển của Vật lý học và tất nhiên theo đó là sự phát
triển về mọi mặt của nhân loại. Từ thế kĩ 17, với sự ra đời của cơ học Newton đã tạo
một tiền đề để nhân loại tiến một bước dài chưa từng có.
Ngày hôm nay chúng ta đã có một cuộc sống vô cùng hiện đại. Sự ứng dụng của cơ
và nhiệt đã cho chúng ta có những phương tiện di chuyển góp phần rút ngắn thời gian
và tăng hiệu quả lao động. Sự ứng dụng điện và quang làm cuộc sống chúng ta ngày
càng tinh vi hơn…. Có thể nói không có góc độ nào của cuộc sống không có mặt của
Vật lý học. Tất cả các định luật và lý thuyết Vật lý đều có một nghĩa sâu sắc đối với
thực tiễn. Một trong những định luật quan trọng đã đưa con người vươn tầm với của
mình ra xa vũ trụ đó là định luật bảo toàn động lượng.
Đối với việc dạy học Vật lý trong nhà trường phổ thông, nhiệm vụ của người giáo
viên không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học Vật lý,
mở ra cho học sinh một thế giới quan, làm cho học sinh thấy được vai trò của Vật lý mà
còn mang đến cho học sinh tình cảm đối với môn học. Gợi lên trong học sinh một ý
thức và sở thích nghiên cứu khoa học Vật lý. Điều đó góp phần làm tăng hiệu quả dạy
học nói chung và dạy – học Vật lý nói riêng. Vì thế ngoài việc dạy và học theo chương
trình sách giáo khoa, người giáo viên cần có những thông tin để học sinh thấy được Vật
lý học phát triển không ngừng và gắn liền với thực tiễn. Bên cạnh đó cần có những buổi
ngoại khoá để tạo sân chơi, tạo điều kiện cho học sinh nghiên cứu, tìm hiểu và thực
hiện ứng dụng Vật lý vào đời sống.
Một chương trình ngoại khoá sẽ thật sự hấp dẫn và hiệu quả nếu chúng ta kết hợp


một sân chơi về kiến thức Vật lý và ứng dụng chế tạo những thí nghiệm, những mô
hình đơn giản mà học sinh có thể làm được. Định luật bảo toàn động lượng là một định
luật được áp dụng rất nhiều trong việc chế tạo những động cơ chuyển động bằng phản
lực. Nó rất gần rủi với thực tế đồng thời học sinh hoàn toàn có thể chế tạo các mô hình
úng dụng của nó. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài “Ứng dụng định luật Bảo toàn động
lượng chế tạo tên lửa nước và động cơ hơi nước”.
II. Mục tiêu và hướng phát triển đề tài
Đề tài chỉ là một sáng kiến rất nhỏ với mong muốn mang lại sân chơi lành mạnh cho
học sinh giúp học sinh giảm bớt căng thẳng sau những ngày học mệt nhọc. Giúp học
sinh có được hứng thú và tình yêu đối với môn học, thấy được ý nghĩa của Vật lý học
đối với đời sống. Qua đó sẽ làm nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung và Vật lý nói
riêng.
Đề tài có thể áp dụng đối với một tập thể lớp nào đó, cũng có thể áp dụng cho một
chương trình ngoại khoá lớn của trường. Hoặc đơn giản hơn là giúp các em học sinh có
điều kiện làm quen, tự mình có thể thiết kế những mô hình đồ chơi về tên lửa nước,
động cơ hơi nước… nhằm thư giản và phát triển óc sáng tạo, kĩ năng, thẫm mĩ và tình
yêu đối với khoa học thực nghiệm.
Đề tài có trình bày khá đầy đủ về lịch sử phát triển tên lửa và các bước thực hiện chế
tạo tên lửa nước và động cơ hơi nước có thể làm tài liệu tham khảo cho tất cả các Giáo
viên và Học sinh yêu thích Vật lý và thực nghiệm.
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

1


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ


Một chương trình ngoại khoá sẽ có rất nhiều nội dung, và cần sự chuẩn bị rất chu
đáo của một tập thể. Vì phạm vi giới hạn của đề tài và quỹ thời không nhiều, đề tài chỉ
xin nêu một phần nhỏ là ứng dụng của Định luật bảo toàn động lượng để thiết kế những
mô hình của chuyển động bằng phản lực mà không đi sâu vào tổ chức một chương trình
ngoại khoá. Có thể trong những đề tài tiếp theo sẽ mở rộng ra làm thế nào để tổ chức
thành công một chương trình ngoại khóa. Đó cũng là hướng phát triển của đề tài.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. Cơ sở đề tài - Định luật bảo toàn động lượng:
Định luật bảo toàn động lượng là một định luật hết sức quan trọng trong chương trình
vật lý phổ thông. Nó mở đầu chương các định luật bảo toàn của sách giáo khoa Vật lý
10. Việc ứng dụng Định luật bảo toàn động lượng vào cuộc sống rất phổ biến. Ta có thể
bắt gặp ở chuyển động của tên lửa, máy bay phản lực, chuyển động của pháo thăng
thiên, chuyển động giật lùi của súng và khẩu đại bác khi bắn, chuyển động của các con
vật ở dưới nước như bạch tuột… và gần gũi hơn là chuyển động của quả bong bóng sau
khi được thổi đầy hơi v.v..
Đề tài nhằm mục tiêu giúp học sinh ứng dụng Định luật bảo toàn động lượng thiết
kế các “động cơ” chuyển động bằng phản lực đơn giản. Nhưng trước hết để học sinh có
thể làm được thì cần hiểu rõ nội dung của định luật Bảo toàn động lượng cũng như
chuyển động bằng phản lực.
1. Hệ cô lập ( hệ kín)
Một hệ vật ( gồm nhiều vật) được gọi là hệ kín nếu chỉ có những lực của các vật trong
hệ tác dụng lẫn nhau ( nội lực) mà không có tác dụng từ các vật bên ngoài hệ ( ngoại lực),
hoặc nếu có thì các lực này phải tự triệt tiêu lẫn nhau.
Ví dụ như xét sự tương tác của 2 viên bi va chạm nhau trên mặt phẳng nằm ngang, nếu
bỏ qua mọi ma sát thì chúng chỉ còn lực xuất hiện khi tương tác, trọng lực và phản lực là
hai ngoại lực đã triệt tiêu. Hệ hai viên bi này có thể xem là kín.
2. Động lượng
Động lượng là một đại lượng vật lý được đo bằng tích của khối lượng và vận tốc của
vật

ur
r
Động lượng là đại lượng vec tơ p  m.v
Có hướng cùng hướng với vec tơ vận tốc, có đơn vị kgm/s trong hệ SI
3. Định luật bảo toàn động lượng
Xét hai viên bi có khối lượng m1 và m2 chuyển động trên mặt phẳng nằm ngang không
uur
uur
ur
uur
ma sát với vận tốc v1 và v2 hướng vào nhau. Gọi v1' và v2 ' là vận tốc của chúng sau
tương tác.
uur
uur
Theo Định luật III Newton thì : F1   F2
ur

uur

Theo định luật II Newton ta suy ra: m1 a1  m2 a2

uur ur
uur uur
'
v v
v ' v
Gọi t là thời gian tương tác ta được : m1 ( 1 1 )  m2 ( 2 2 )
t
t
uur ur

uur uur
'
'
 m1 (v1  v1 )  m2 (v2  v2 )
uur
uur
ur
uur
 m1 v1'  m1 v1  m2 v2 '  m2 v2
uur
uur
uur
ur
 m2 v2  m1 v1  m2 v2 '  m1 v1'
ur uur
 Pt  Ps
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

2


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

Vậy trong một hệ cô lập, tổng động lượng của hệ trước tương tác và tổng động lượng
của hệ sau trương tác không đổi. Tức tổng động lượng của hệ kín được bảo toàn.
4. Xung lượng của lực


r
ur
ur
r
ur ur
v  p

Từ định luật II Newton : F  ma  m
suy ra  p  F .t
t t
ur
ur
r
Trong đó  p  mv '  mv là độ biến thiên động lượng của vật hay hệ vật
ur
Đại lượng F .t gọi là xung lượng của lực.

5. Chuyển động bằng phản lực.
Trong một hệ kín đứng yên, nếu có một phần của vật chuyển động theo một hướng,
phần còn lại chuyển động theo hướng ngước lại, chuyển động theo nguyên tắc đó gọi là
chuyển động bằng phản lực.
Ví dụ xét một khẩu đại bác đang đứng yên rcó khối lượng M, mang viên đạn m. Bắn
viên đạn theo phương nằm ngang với vận tốc v về phía trước.ur Bỏ qua mọi ma sát, hệ
khẩu đại bác và viên đạn trước và sau khi bắn là hệ kín. Gọi V là vận tốc khẩu đại bác.
Theo định luật bảo toàn động lượng ta có:
r
ur
r
0  MV  mv

r
ur
mv
V  
M

Vậy sau khi bắn khẩu đại bác giật lùi trở lại phía sau. Đó là chuyển động bằng phản lực.
Vì thế khẩu đại bác thường được thiết kế rất nặng so với đạn để khi bắn khẩu đại bác ít
bị giật lùi. Cũng giống như khi bắn súng trường, ta thường phải áp bán súng rất chặt
vào bả vai để hạn chế sự giật lùi của súng, làm tăng độ chính xác khi bắn mục tiêu.
6. Động cơ phản lực và tên lửa
Những chiếc máy bay phản lực hiện đại có tốc độ khoảng 900km/h đến hơn 1300km/h.
Động cơ được thiết kế ở phần đầu có máy hút và nén khí. Khi nhiên liệu cháy, hỗn hợp
khí sinh ra bị đẩy về phía sau tạo ra phản lực đẩy máy bay về trước, đồng thời làm quay
tuabin của máy nén. Động cơ tên lửa cũng hoạt động theo cùng nguyên tắc nhưng chỉ
khác động cơ tên lửa không cần đến môi trường khí quyển bên ngoài, tức là động cơ tên
lửa chỉ đốt cháy phần nhiên liệu mang theo và khí phụt ra ngoài gay nên phản lực chứ
không cần hút không khí từ bên ngoài vào.

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

3


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ


II. Lịch sử phát triển tên lửa và chinh phục vũ trụ
Các tên lửa ngày nay thuộc về những bộ sưu tập tài trí của con người có gốc rễ của
chúng trong nền khoa học và công nghệ của quá khứ. Chúng là những sản phẩm phát sinh
tự nhiên qua hàng nghìn năm thí nghiệm và nghiên cứu về tên lửa và sức đẩy tên lửa.
Một trong những dụng cụ đầu tiên sử dụng thành công các nguyên lí cơ bản cho chuyển
động bay của tên lửa là con chim gỗ. Các tác phẩm của Aulus Gellius, một người La Mã,
có kể lại câu chuyện một người Hi Lạp tên là Archytas sinh sống ở thành phố Tarentum,
nay là một phần miền nam Italy. Khoảng chừng năm 400 trước Công nguyên, Archytas đã
khiến các công dân thành Tarentum hoang mang và thích thú bởi việc cho bay một con bồ
câu gỗ. Hơi nước thoát ra đẩy con chim lơ lửng trên những sợi dây. Con bồ câu ấy sử dụng
nguyên lí tác dụng-phản tác dụng, cái không được phát biểu thành một định luật khoa học
mãi cho đến thế kỉ 17.
Khoảng 300 năm sau sự kiện con bồ câu gỗ, một người Hi Lạp khác, Hero xứ Alexandria,
đã phát minh ra một dụng cụ kiểu tên lửa tương tự gọi là aeolipile. Nó cũng sử dụng hơi
nước làm chất khí đẩy. Hero gắn một quả cầu trên một ấm đun nước. Lửa bên dưới ấm biến
nước thành hơi nước, và hơi truyền qua các ống sang quả cầu. Hai ống hình chữ L ở hai
phía đối diện nhau của quả cầu cho phép hơi thoát ra ngoài, và khi làm như vậy, sức đẩy
tác dụng lên quả cầu làm cho nó quay tròn.

Động cơ Hero
Vào thế kỉ thứ nhất sau Công nguyên, người Trung Hoa tường trình họ đã có một dạng đơn
giản của thuốc súng chế tạo từ muối nitrat, sunfua và bụi than. Họ sử dụng thuốc súng chủ
yếu để bắn pháo hoa trong những dịp lễ tết và tín ngưỡng. Để tạo ra những tiếng nổ trong
các kì lễ hội, họ chứa đầy hợp chất trên vào trong các ống tre và quăng chúng vào lửa. Có
lẽ một số ống trong những ống đó đã không nổ và thay vào đó đã bay ra khỏi lửa, được đẩy
tới bởi chất khí và tia lửa tạo ra từ thuốc súng đang cháy.
Người Trung Hoa bắt đầu làm thí nghiệm với các ống chứa thuốc súng. Một lúc nào đó, họ
đã gắn ống tre ấy vào các mũi tên và dùng cung tên phóng chúng đi. Không lâu sau, họ
phát hiện thấy các ống thuốc súng này có thể tự phóng chúng đi bởi sức mạnh tạo ra từ chất
khí đang cháy. Tên lửa thật sự đã ra đời.

Vào năm 1232, Trung Quốc và Mông Cổ đang chiến tranh với nhau. Trong trận chiến KaiKeng, người Trung Quốc đã đánh lùi quân xâm lược Mông Cổ bằng hàng rào phòng ngự
“mũi tên lửa”. Những mũi tên này là một dạng đơn giản của một tên lửa chất đẩy rắn. Một
cái ống, bịt nắp ở một đầu, chứa thuốc súng. Đầu kia để hở và ống được gắn vào một cái
que dài. Khi thuốc súng được châm ngòi, thì sự cháy nhanh của thuốc súng tạo ra lửa, khói,
và khí thoát ra ở đầu hở và tạo ra sức đẩy. Cái que đóng vai trò một hệ thống dẫn đường
đơn giản giữ cho tên lửa nhắm theo một hướng chung khi nó bay trong không khí. Những
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

4


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

tên lửa bay này hiệu quả như thế nào với vai trò là thứ vũ khí phá hủy thì không rõ, nhưng
tác dụng tâm lí của chúng đối với quân Mông Cổ là ghê gớm.

Sau trận đánh Kai-Keng, người Mông Cổ đã sản xuất các tên lửa của riêng họ và có lẽ
chính họ đã truyền bá tên lửa sang châu Âu cùng với bước chân xâm lược của mình. Nhiều
sử sách mô tả các thí nghiệm tên lửa trong suốt thế kỉ 13 đến thế kỉ 15. Ở Anh, một tăng lữ
tên là Roger Bacon đã nghiên cứu những dạng cải tiến của thuốc súng, làm tăng đáng kể
tầm xa của tên lửa. Ở Pháp, Jean Froissart thu được những phi vụ bay chính xác hơn bằng
cách phóng tên lửa qua các ống trụ. Ý tưởng của Froissart là tổ tiên là khẩu bazooka hiện
đại. Joanes de Fontana người Italy thì thiết kế một ngư lôi kiểu tên lửa chạy trên mặt nước
dùng để đốt cháy tàu thuyền của kẻ thù.
Vào thế kỉ 16, các tên lửa bước vào giai đoạn được xem là vũ khí chiến tranh, mặc dù
chúng vẫn được dùng trong trình diễn pháo hoa, và một nhà sản xuất pháo hoa người Đức,

Johan Schmidlap, đã phát minh ra “tên lửa tầng”, một phương tiện nhiều tầng nâng pháo
hoa lên những độ cao lớn hơn. Một tên lửa trời lớn (tầng thứ nhất) mang một tên lửa trời
nhỏ hơn (tầng thứ hai). Khi tên lửa lớn cháy hết, tên lửa nhỏ tiếp tục bay lên cao hơn trước
khi rải tro rực rỡ khắp bầu trời. Ý tưởng của Schmidlap là cơ sở cho mọi tên lửa ngày nay
bay ra vũ trụ bên ngoài.
Trong nửa sau thế kỉ 17, nhà khoa học vĩ đại người Anh, Isaac Newton (1642 – 1727) đã
thiết lập những nền tảng khoa học cho ngành tên lửa học hiện đại. Newton đã tổ chức kiến
thức của ông về chuyển động vật lí thành ba định luật khoa học. Các định luật ấy giải thích
tên lửa hoạt động như thế nào và tại sao chúng có thể hoạt động trong chân không của vũ
trụ bên ngoài.
Các định luật Newton sớm có sự tác động thực tiễn lên thiết kế tên lửa. Khoảng năm 1720,
một giáo sư người Hà Lan, Willem Gravesande, đã chế tạo một mẫu xe hơi đẩy bằng luồng
hơi nước. Các nhà thực nghiệm tên lửa ở Đức và Nga bắt đầu làm việc với các tên lửa có
khối lượng hơn 45 kilogram. Một số trong những tên lửa này mạnh đến mức ngọn lửa thải
thoát ra của chúng khoan thành những cái hố sâu trên mặt đất ngay trước khi chúng phóng
lên.
Vào cuối thế kỉ 18 và bước sang đầu thế kỉ 19, các tên lửa trải qua một giai đoạn phục hồi
ngắn là vũ khí chiến tranh. Thành công của các tên lửa bắn chặn Ấn Độ chống lại quân
Anh vào năm 1792 và một lần nữa vào năm 1799 đã thu hút sự chú ý của một vị chuyên
gia pháo binh, Colonel William Congreve. Congreve bắt đầu thiết kế các tên lửa dùng cho
quân đội Anh.
Tên lửa Congreve thành công vang dội trên chiến trường. Được các con tàu Anh sử dụng
nện vào bến cảng McHenry trong cuộc chiến năm 1812, chúng đã truyền cảm hứng cho
Francis Scott Key viết nên câu “ánh đỏ của tên lửa” trong bài thơ của ông sau này trở thành
bài Cờ nước Mĩ.
Ngay cả với nghiên cứu của Congreve, độ chính xác của các tên lửa vẫn không được cải
thiện nhiều từ những ngày đầu. Bản chất phá hủy của các tên lửa chiến tranh không nằm ở
độ chính xác hay sức mạnh của chúng, mà ở số lượng của chúng. Trong một cuộc vây
chiến tiêu biểu, hàng nghìn tên lửa có thể được bắn về phía quân thù. Trên khắp thế giới,
các nhà nghiên cứu tên lửa đã thử nghiệm nhiều phương pháp nhằm nâng cao độ chính xác.

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

5


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

Một người Anh, William Hale, đã phát triển một kĩ thuật gọi là ổn định hóa chuyển động
quay tròn. Trong phương pháp này, khí thải thoát ra đập vào những cái van nhỏ ở đáy tên
lửa, làm cho nó quay tròn giống hệt như viên đạn trên hành trình bay. Ngày nay, nhiều tên
lửa vẫn còn sử dụng các biến thể của nguyên lí này.
Tên lửa tiếp tục được sử dụng thành công trong các trận chiến trên lục địa châu Âu. Tuy
nhiên, trong một cuộc chiến với nước Phổ, các lữ đoàn tên lửa Áo đã gặp phải đối thủ của
mình với các mẩu pháo binh được thiết kế mới. Đại bác nạp ở khóa nòng với nòng rãnh
xoắn và đầu nổ là thứ vũ khí chiến tranh hiệu quả hơn nhiều so với những tên lửa tốt nhất.
Lại một lần nữa, quân sự đã loại tên lửa học sang cho các công dụng thời bình.
Năm 1898, một giáo viên người Nga, Konstantin Tsiolkovsky (1857-1935), đề xuất ý
tưởng thám hiểm vũ trụ bằng tên lửa. Trong một bài báo cáo ông công bố vào năm 1903,
Tsiolkovsky đề xuất sử dụng các chất đẩy lỏng cho tên lửa để thu được tầm hoạt động lớn
hơn. Tsiolkovsky phát biểu rằng duy chỉ có vận tốc của khí thải thoát ra là hạn chế tốc độ
và tầm bay của một tên lửa. Với những ý tưởng của ông, với sự nghiên cứu thận trọng và
tầm nhìn rộng, Tsiolkovsky được gọi là cha để của ngành du hành vũ trụ hiện đại.
Ngay đầu thế kỉ 20, một người Mĩ, Robert H. Goddard (1882-1945), đã tiến hành các thí
nghiệm thực tiễn về tên lửa học. Ông trở nên bị cuốn hút vào cách thức đạt tới những cao
độ lớn hơn so với những cao độ mà các khí cầu nhẹ hơn không khí có thể đạt tới. Ông cho
xuất bản một cuốn sách mỏng vào năm 1919 mang tựa đề Một phương pháp đạt tới những

cao độ cực lớn. Ngày nay, chúng ta gọi phép phân tích toán học này là tên lửa thăm dò khí
tượng.
Trong tập sách của ông, Goddard đã đi tới một vài kết luận quan trọng về tên lửa học. Từ
những thử nghiệm của mình, ông phát biểu rằng một tên lửa hoạt động trong chân không
có hiệu suất lớn hơn trong không khí. Lúc bấy giờ, đa số mọi người tin tưởng một cách sai
lầm rằng sự có mặt của không khí là cần thiết cho tên lửa đẩy ra phía sau. Biên tập viên tạp
chí New York Times khi đó đã chế giễu Goddard là “thiếu kiến thức đã học ở trường phổ
thông”. Goddard cũng phát biểu rằng các tên lửa nhiều tầng là câu trả lời để đạt tới những
cao độ lớn và vận tốc cần thiết để thoát ra khỏi sức hút hấp dẫn của Trái đất có thể thu
được theo phương pháp này.

Mẫu tên lửa Tsiolkovsky

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

6


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

Những thí nghiệm sớm nhất của Goddard là bắt đầu với các tên lửa chất đẩy rắn. Năm
1915, ông bắt đầu thử những loại nhiên liệu rắn khác nhau và đo vận tốc thải ra của các
chất khí cháy.Trong khi nghiên cứu về các tên lửa chất đẩy rắn, Goddard trở nên bị thuyết
phục là một tên lửa có thể được đẩy tốt hơn bằng nhiên liệu lỏng. Trước đó, chưa ai từng
chế tạo thành công một tên lửa chất đẩy lỏng. Các bể chứa nhiên liệu và oxygen, tuabin và
buồng đốt sẽ là cần thiết. Bất chấp những khó khăn ấy, Goddard đã thu được chuyến bay

thành công đầu tiên với một tên lửa chất đẩy lỏng vào hôm 16 tháng 3 năm 1926. Được cấp
nhiêu liệu bằng oxygen lỏng và xăng, chiếc tên lửa chỉ bay trong 2 phút rưỡi, lên cao 12,5
mét, và tiếp đất cách bệ phóng 56 mét. Theo các tiêu chuẩn ngày nay, chuyến bay ấy chẳng
có gì ấn tượng, nhưng giống như chuyến bay thử nghiệm máy bay có động cơ đẩy đầu tiên
do anh em nhà Wright thực hiện vào năm 1903, tên lửa nhiên liệu xăng của Goddard trở
thành vật báo hiệu cho một kỉ nguyên hoàn toàn mới trong công nghệ bay tên lửa.

Một nhà tiên phong vũ trụ lớn thứ ba, Hermann Oberth (1894-1989) ở nước Đức, cho xuất
bản một quyển sách vào năm 1923 về sự du hành tên lửa vào không gian vũ trụ bên ngoài.
Các tác phẩm của ông thật quan trọng. Vì có chúng, nhiều hội tên lửa nhỏ đã xuất hiện trên
khắp thế giới. Ở Đức, sự thành lập của một hiệp hội kiểu như thế, Verein fur
Raumschiffahrt (Hội Du hành không gian), đã dẫn đến sự phát triển tên lửa V-2, phương
tiện người Đức đã sử dụng để chống lại London vào Thế chiến thứ hai. Năm 1937, các kĩ
sư và nhà khoa học người Đức, trong đó có Oberth, đã tập trung tại Peenemunde, trên vùng
duyên hải biển Baltic. Ở đó, dưới sự chỉ đạo của Wernher von Braun, các kĩ sư và nhà khoa
học đã chế tạo và cho bay chiếc tên lửa tiên tiến nhất lúc bấy giờ.

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

7


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

Tên lửa V-2 (ở Đức gọi là A-4) có kích thước nhỏ so với các tên lửa ngày nay. Nó thu
được sức đẩy lớn nhờ vào việc đốt cháy oxygen lỏng và cồn ở tốc độ khoảng một tấn mỗi 7

giây. Một khi phóng lên, V-2 là thứ vũ khí kinh khủng, có thể phá hủy toàn bộ nhà cửa
trong thành phố.
Thật may cho London và quân Đồng Minh, V-2 xuất hiện quá muộn trong cuộc chiến để
làm thay đổi cục diện của nó. Tuy nhiên, vào cuối cuộc chiến, các nhà khoa học và kĩ sư
tên lửa người Đức đã có kế hoạch triển khai các tên lửa đạn đạo tiên tiến có khả năng vượt
Đại Tây Dương và đáp xuống nước Mĩ. Những tên lửa đạn đạo này có gắn cánh ở những
tầng trên, nhưng sức mang tải trọng rất nhỏ.
Với sự đầu hàng của nước Đức, quân Đồng Minh đã thu giữ được nhiều tên lửa và bộ phận
tên lửa chưa sử dụng. Nhiều nhà khoa học tên lửa người Đức đã đến Mĩ. Những người
khác thì sang Liên Xô. Các nhà khoa học Đức, kể cả Wernher von Braun, đã thật bất ngờ
trước tiến bộ mà Goddard đạt được.
Cả Mĩ và Liên Xô đều nhận ra tiềm năng của tên lửa học là một loại vũ khí quân sự và bắt
đầu cho triển khai nhiều chương trình thực nghiệm đa dạng. Lúc đầu, nước Mĩ bắt đầu một
chương trình với tên lửa âm khí quyển cao độ lớn, một trong những ý tưởng đầu tiên của
Goddard. Sau đó, họ phát triển nhiều tên lửa liên lục địa tầm trung và tầm xa. Những tên
lửa này trở thành xuất phát điểm cho chương trình vũ trụ của nước Mĩ. Các tên lửa đạn đạo
như Redstone, Atlas, và Titan cuối cùng đã phóng đưa các nhà du hành vũ trụ vào không
gian.
Ngày 4 tháng 10 năm 1957, Liên Xô đã làm cả thế giới sửng sốt bởi việc phóng một vệ tinh
nhân tạo bay vòng quanh Trái đất. Gọi tên là Sputnik 1, vệ tinh ấy là bước đi thành công
đầu tiên trong cuộc chạy đua không gian giữa hai siêu cường quốc. Chưa đầy một tháng
sau, Liên Xô tiếp tục phóng một vệ tinh mang một con chó tên là Laika lên quỹ đạo. Laika
sống sót trong không gian trong bảy ngày trước khi được đưa vào trạng thái ngủ vĩnh viễn
trước lúc nguồn cấp oxygen cạn kiệt.
Một vài tháng sau vệ tinh Sputnik đầu tiên, nước Mĩ đã đuổi theo Liên Xô với một vệ tinh
của riêng họ. Quân đội Mĩ phóng Explorer-1 vào hôm 31 tháng 1 năm 1958. Tháng 10 năm
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang


8


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

ấy, Mĩ chính thức tổ chức chương trình không gian của họ bởi việc thành lập Ban quản trị
quốc gia về Hàng không học và Vũ trụ (NASA). NASA trở thành một cơ quan dân sự với
mục tiêu thám hiểm vũ trụ cho mục đích hòa bình vì lợi ích của toàn nhân loại.
Không lâu sau đó, các tên lửa đã đưa nhiều người và máy móc vào không gian. Các nhà du
hành đã bay vòng quanh Trái đất và đặt chân xuống Mặt trăng. Những phi thuyền rô-bôt đã
đi đến những hành tinh khác. Không gian bất ngờ mở ra trước sự khảo sát và khai thác
thương mại. Vệ tinh cho phép các nhà khoa học nghiên cứu toàn bộ thế giới, dự báo thời
tiết và truyền thông tức thời trên khắp địa cầu. Nhu cầu đưa những tải trọng ngày một
nhiều hơn và lớn hơn đã tạo ra nhu cầu phát triển nhiều loại tên lửa mới, đa dạng, và linh
hoạt.
Chương trình khoa học thám hiểm vũ trụ bằng các phi thuyền rô-bôt đã có bước phát triển
vượt bậc. Cả Nga và Mĩ đều bắt đầu các chương trình nghiên cứu Mặt trăng. Việc phát
triển kĩ thuật khảo sát mặt trăng trên phương diện vật lí trở thành một thách thức hàng đầu.
Chỉ trong 9 tháng sau Explorer 1, nước Mĩ đã phóng phi thuyền mặt trăng đầu tiên có
người lái, nhưng động cơ phóng, một tên lửa Atlas gắn với một tầng trên Able, đã hỏng hóc
45 giây sau khi cất lên khi tải trọng đang thoát ra khỏi tên lửa. Người Nga thành công hơn
với Luna 1, con tàu bay qua Mặt trăng vào tháng 1 năm 1959. Cuối năm đó, chương trình
Luna đã thực hiện một chuyến khảo sát toàn Mặt trăng, chụp những bức ảnh đầu tiên của
mặt tối bên kia của nó. Từ 1958 đến 1960, nước Mĩ gửi lên một loạt sứ mệnh, các tàu thám
hiểm Mặt trăng Pioneer, để chụp ảnh và thu thập dữ liệu khoa học về Mặt trăng. Những
con tàu thám hiểm này nói chung không thành công, chủ yếu do các động cơ phóng gặp
thất bại. Chỉ một trong tám phi thuyền này hoàn thành sứ mệnh dự tính của nó đi lên Mặt
trăng, mặc dù một số phi thuyền, bị mắc cạn trên quỹ đạo giữa Trái đất và Mặt trăng, thật

sự mang lại những thông tin quan trọng về số lượng và tầm rộng của các vành đai bức xạ
xung quanh Trái đất. Nước Mĩ dường như bị Liên Xô bỏ xa lại phía sau trong chương trình
không gian.
Với mỗi lần phóng, những chuyến bay vũ trụ có người lái ngày một trở nên gần hơn với
thực tại. Tháng 4 năm 1961, một người Nga tên là Yuri Gagarin đã trở thành người đầu
tiên bay vòng quanh Trái đất. Chưa đầy một tháng sau đó, nước Mĩ đưa người Mĩ đầu tiên,
Alan Shepard, vào vũ trụ. Chuyến bay ấy là một chuyến nửa quỹ đạo đánh võng vào vũ trụ,
sau đó lập tức quay về Trái đất. Tên lửa Redstone không đủ mạnh để đưa tổ hợp Mercury
vào quỹ đạo. Chuyến bay chỉ kéo dài hơn 15 phút một chút và đạt tới độ cao 187 km. Alan
Shepard đã trải qua khoảng 5 phút không trọng lượng khi quay về Trái đất, trong đó ông đã
gặp các lực lớn hơn lực hấp dẫn đến 12 lần. 20 ngày sau đó, mặc dù vẫn đứng sau Liên Xô
về mặt công nghệ, nhưng tổng thống Mĩ John Kennedy đã tuyên bố mục tiêu đưa con
người lên Mặt trăng vào cuối thập kỉ ấy.
Tháng 2 năm 1962, John Glen trở thành người Mĩ đầu tiên bay vòng quanh Trái đất trong
một tổ hợp nhỏ chứa nhiều thiết bị đến mức ông chỉ đủ chỗ để ngồi. Được phóng lên bởi
một tên lửa Atlas mạnh hơn, John Glen ở trên quỹ đạo 4 giờ 55 phút trước khi lao xuống
làm bắn tung tóe nước trên Đại Tây Dương. Chương trình Mercury có tổng cộng 6 lần
phóng: hai chuyến nửa quỹ đạo và bốn chuyến trọn quỹ đạo. Những lần phóng phi thuyền
này đã chứng minh cho khả năng của nước Mĩ đưa con người lên quỹ đạo, cho phép phi
hành đoàn làm việc trong vũ trụ, điều khiển phi thuyền, và thực hiện các quan sát khoa học.
Tiếp sau đó, nước Mĩ bắt đầu mở rộng chương trình không người lái nhắm tới việc củng cố
chương trình có người lái hạ cánh xuống mặt trăng. Ba dự án độc lập đã thu thập thông tin
về những địa điểm hạ cánh và những số liệu khác về bề mặt mặt trăng và môi trường xung
quanh. Trước tiên là chuỗi chương trình Ranger, là nỗ lực đầu tiên của nước Mĩ nhắm tới
chụp ảnh cận cảnh Mặt trăng. Phi thuyền đã chụp hàng nghìn bức ảnh đen trắng của Mặt
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang

9



Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

trăng khi nó hạ độ cao và rồi lao vào bề mặt mặt trăng. Mặc dù loạt chương trình Ranger
mang lại những số liệu rất cụ thể, nhưng những người lập kế hoạch cho sứ mệnh Apollo
sắp tới vẫn muốn có thêm nhiều dữ liệu nữa.
Hai chương trình mặt trăng sau kia được thiết kế để làm việc chung với nhau. Lunar Obiter
cung cấp một bản đồ phạm vi rộng của bề mặt mặt trăng. Surveyor cung cấp những bức
ảnh chụp màu chi tiết của bề mặt mặt trăng cũng như số liệu về các nguyên tố của lớp trầm
tích mặt trăng và một bản đánh giá khả năng của lớp trầm tích chịu đỡ sức nặng của phi
thuyền hạ cánh có người lái. Khi khảo sát cả hai bộ dữ liệu, các nhà lập kế hoạch có thể
nhận ra những địa điểm thích hợp cho việc hạ cánh có người lái. Tuy nhiên, có một vướng
mắc đáng kể, đó là phi thuyền Surveyor quá lớn để phóng lên bằng những tên lửa
Atlas/Agena hiện có, cho nên người ta đã phát triển thêm một tầng năng lượng cao nữa gọi
là Centaur để thay thế Agena đặc biệt trong sứ mệnh này. Tầng trên Centaur sử dụng hiệu
quả các chất đẩy hydrogen và oxygen, làm thay đổi ngoạn mục hiệu suất của nó, nhưng
nhiệt độ siêu lạnh và bản chất dễ nổ mang lại những thách thức kĩ thuật đáng kể. Ngoài ra,
người ta đã chế tạo các bình Centaur bằng thép không gỉ mỏng để tiết kiệm trọng lượng
vốn quý báu. Phải duy trì áp suất vừa phải trong bình để ngăn không cho nó tự co lại. Viêc
chế tạo tên lửa đang định hình lại khả năng thám hiểm Mặt trăng của nước Mĩ.
Gemini là tổ hợp thứ hai có người lái do nước Mĩ phát triển. Nó được thiết kế để mang
theo hai phi hành gia và được phóng lên trên những phương tiện phóng lớn nhất khi ấy –
Titan II. Sự ủy thác của tổng thống Kennedy đã làm thay đổi đáng kể sứ mệnh Gemini từ
mục tiêu chung là mở rộng sự trải nghiệm trong không gian sang chuẩn bị cho một chuyến
hạ cánh có người lái xuống Mặt trăng. Nó đã lát đường cho chương trình Apollo bởi việc
chứng minh sự gặp gỡ và ghép nối cần thiết cho tàu hạ cánh mặt trăng quay trở lại phi
thuyền đang quay xung quanh mặt trăng, thao tác ngoài tàu vũ trụ đang bay (EVA) cần

thiết cho sự thám hiểm bề mặt mặt trăng và bất kì sự sửa chữa khẩn cấp nào, và cuối cùng
là khả năng của con người đảm đương vai trò trong tám ngày hành trình của sứ mệnh mặt
trăng có người lái. Chương trình Gemini đã phóng lên 10 sứ mệnh có người lái vào năm
1965 và 1966, tám chuyến bay gặp gỡ và ghép nối với các tầng không người lái trong quỹ
đạo quanh Trái đất và bảy chuyến thực hiện EVA.
Việc đưa con người lên mặt trăng đòi hỏi những tên lửa phóng lớn hơn những tên lửa sẵn
có. Để đạt được mục tiêu này, nước Mĩ đã phát triển tên lửa phóng Saturn. Capsule Apollo,
hay mô-đun điều khiển, chứa phi hành đoàn ba người. Capsule ấy đưa các nhà du hành vào
quỹ đạo xung quanh Mặt trăng, tại đó hai nhà du hành chuyển sang một mô-đun mặt trăng
và hạ cánh xuống bề mặt mặt trăng. Sau khi hoàn thành sứ mệnh mặt trăng, phần trên của
mô-đun mặt trăng trở lại quỹ đạo ghép nối với capsule Apollo. Các nhà du hành đã di
chuyển ngược về mô-đun điều khiển và một mô-đun phục vụ, với một động cơ, đẩy họ về
phía Trái đất. Sau bốn chuyến bay kiểm tra có người lái, nhà du hành Apollo 11 Neil
Armstrong đã trở thành đã trở thành người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Nước Mĩ trở lại
với bề mặt mặt trăng hơn năm lần trước khi chương trình mặt trăng có người lái kết thúc.
Sau chương trình mặt trăng, chương trình Apollo và tên lửa đẩy Saturn đã phóng Skylab,
trạm không gian đầu tiên của nước Mĩ. Một phiên bản nhỏ hơn của tên lửa Saturn đã đưa
phi hành đoàn người Mĩ lên gặp gỡ trong không gian lần đầu tiên giữa Mĩ và Nga trong sứ
mệnh Apollo-Soyuz.Trong chương trình mặt trăng có người lái này, các tên lửa phóng
không người lái đã đưa nhiều vệ tinh lên nghiên cứu hành tinh của chúng ta, dự báo thời
tiết, và truyền thông tức thời trên khắp thế giới. Ngoài ra, các nhà khoa học đã bắt đầu khảo
sát những hành tinh khác. Mariner 2 đã bay thành công xung quanh Kim tinh vào năm
1962, trở thành tàu thăm dò đầu tiên bay qua một hành tinh khác. Chương trình vũ trụ liên
hành tinh của Mĩ đã mang lại một loạt đợt phóng thành công đến bất ngờ. Chương trình ấy
Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm


GVTH: Trang Sỹ Dũ

đã đến thăm từng hành tinh một, trừ Diêm Vương tinh.
Sau chương trình Apollo, nước Mĩ bắt đầu tập trung vào phát triển một hệ thống phóng có
thể sử dụng lại, tàu con thoi vũ trụ. Các tên lửa đẩy rắn chắc và ba động cơ chính trên tàu
quỹ đạo phóng tàu con thoi lên. Các tên lửa đẩy có thể sử dụng lại được vứt ra hơn 2 phút
bay, khi nhiên liệu của chúng cạn kiệt. Dù được triển khai để làm giảm tốc các bộ đẩy tên
lửa rắn cho hạ cánh an toàn trên Đại Tây Dương, ở đó hai con tàu sẽ vớt chúng lên. Tàu
quỹ đạo và bể nhiên liệu gắn ngoài tiếp tục đi lên. Khi động cơ chính ngừng hoạt động, thì
bể nhiên liệu được vứt ra khỏi tàu quỹ đạo, cuối cùng sẽ phá hủy trong khí quyển. Việc đốt
cháy trong thời gian ngắn hai hệ thống đẩy quỹ đạo của phi thuyền làm thay đổi quỹ đạo để
đạt được quỹ đạo trong ngưỡng 185 – 402 km bên trên bề mặt Trái đất. Tàu quỹ đạo con
thoi có thể mang xấp xỉ 25.000 kg tải trọng vào quỹ đạo nên các thành viên phi hành đoàn
có thể tiến hành các thí nghiệm trong môi trường không trọng lượng. Các bộ đẩy quỹ đạo
đốt cháy để hạ phi thuyền trở lại bầu khí quyển của Trái đất, làm nóng tấm chắn nhiệt bảo
vệ của tàu quỹ đạo lên tới 8160 C. Trên hành trình sau cùng của tàu con thoi, nó đáp xuống
mặt đất y như một chiếc máy bay.
Kể từ những ngày đầu tiên khám phá và thử nghiệm, tên lửa đã tiến hóa từ những dụng cụ
thuốc súng đơn giản thành những cỗ xe khổng lồ có khả năng đi vào không gian bên ngoài,
đưa các nhà du hành vũ trụ lên Mặt trăng, phóng các vệ tinh để khảo sát vũ trụ của chúng
ta, và cho phép chúng ta tiến hành các thí nghiệm khoa học trên tàu con thoi vũ trụ. Không
nghi ngờ gì nữa, chính tên lửa đã mở cánh cửa vũ trụ cho con người khảo sát thế giới.

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 11


Sáng kiến kinh nghiệm


GVTH: Trang Sỹ Dũ

III. Hướng dẫn chế tạo tên lửa nước – Water Rocket:
1. Cấu tạo:
Tên lửa nước được chế tạo từ chai nước pepsi dung tích 1,5l. Nhiên liệu là hổn hợp nước
và không khí. Bệ phóng là khung được ghép từ các ống PVC.
2. Nguyên tắc hoạt động:
Không khí được bơm vào chai chứa nước. Khi áp suất trong chai tăng cao thì nước và
không khí sẽ phụt ra phía sau đẩy tên lửa bay về trước.
3. Các bước thực hiện chế tạo tên lửa nước:
3.1 Chuẩn bị:
Hai chai Pepsi loại 1,5 lít, đường kính miệng ống 21mm, Giấy bìa cứng. 1m25 ống
nước PVC đường kính 21mm: cắt thành 7 đoạn, 6 đoạn dài 15cm, 1 đoạn dài 35cm
- 1 đoạn ống PVC 42mmm dài 5cm
- 4 đầu bịt ống 21mm
- 3 nối ống 21mm chữ T
- 10 sợi dây rút nhựa (lạt nhựa)
- 1 van xe máy (hoặc van xe đạp)
- Keo dán ống PVC
- 1 cuộn keo lụa quấn ống nước.
3.2 Thực hiện:
3.2.1 Làm thân tên lửa:
-

Cắt 1 phần đầu của chai 1 gắn vào chai 2

-

Cắt giấy bìa cứng làm đuôi , 3 cái dán cách đều

1200 ở phần cuối chai

-

Dùng bìa cứng bao nhọn phần đầu và tô màu
theo sở thích sao cho đẹp

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

3.2.2 Bệ phóng
Đây chỉ giới thiệu bệ phóng đơn giản, nhưng cần phải chắc chắn. Không quá cầu kì sẽ
tốn kém.
Lắp các ống theo hình vẽ. Quan trọng nhất là phần tiếp giáp giữa ống bệ phóng và thân
tên lửa ( khoá tên lửa ) và van bơm

3.2.3 Khoá tên lửa
- Dùng 6 sợi dây rút nhựa quấn quanh đoạn ống 35cm
- Cộ cố định 6 sợi dây lại và dùng keo nến để gia cố thêm
- Luồn ống 40cm vào để các khóa ngàm dây rút vào ngạnh ở cổ chai

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 13



Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

3.2.4 Van bơm :
- Dùng 1 van xe máy
- Lấy 1 đầu bịt ống 21mm, dùng mũi dao hơ nóng, để khoét 1 lỗ tròn có đường kính bằng
đường kính van xe.
- Dùng xăm xe (ruột xe) làm gion chống xì hơi. Cắt một mẩu xăm xe hình tròn nhét vừa
vào đầu bịt ống 21mm. Khoét 1 lỗ nhó sỏ vừa van xe. Để phần cao su này giữa van và đầu
bịt. Vặn ốc xiết chặt van với đầu bịt
4. Hoạt động:

Dùng bơm xe đạp bơm khí vào trong chai, chú ý là bơm vừa phải, vì bơm quá nhiều sẽ bị
nổ, bơm ít thì bay không được cao.
Sau khi bơm xong giữ bệ phóng thật chặt và giựt khoá tên lửa một cách dứt khoác để tên
lửa bay lên.
IV: Hướng dẫn chế tạo chiếc tàu chạy bằng hơi nước
1. Cấu tạo: Chiếc tàu làm bằng xốp nhẹ, động cơ hơi nước là một bình nước hình trụ, một
đầu kín 1 đầu có các lỗ nhỏ. Nguồn nhiệt là ngọn đèn cồn
2. Nguyên tắc hoạt động:
Ngọn lửa đèn cồn làm sôi nước và khí phụt ra phía sau đẩy động cơ đi về trước
3. Các bước thực hiện
3.1 Chuẩn bị vật liệu:
- Vài tấm xốp nhỏ, mỏng, loại 2cm
- Một cái hộp cá mồi đã sử dụng
- kẽm
- giấy cứng

- keo 2 mặt
- chậu nước dài 1m ngang 30cm
3.2 Thực hiện
3.2.1: Làm chiếc tàu
- Cắt xốp làm chiếc tàu có hình dạng theo ý thích.Nên làm nhỏ gọn, dài
khoảng 30cm
- Cắt giấy cứng để trang trí xung quanh

3.2.2 Làm động cơ:
- Hộp cá mòi đã sử dụng, rửa sạch , đậy kín 2 đầu. Ở 1 đầu đục các lỗ nhỏ cỡ đầu đũa làm
chỗ thoát khí
- dùng dây kẽm cứng để làm đế giữ hộp cá, cao khoảng 10cm, đặt lên tấm xốp cố định và ở
vị trí chính giữa để giữ thăng bằng

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

3.2.3 Hoạt động:
Đặt chiếc tàu lên chậu nước
Đốt ngọn đèn cồn và cẩn thận đặt phía dưới động cơ, sau chừng 2-3 phút nước sẽ sôi và
hơi nước sẽ thoát ra ngoài đẩy tàu chuyển động.
Chú ý là chậu nước không cần làm sâu và rộng, chiều rộng chỉ cần lớn hơn chiếc tàu
chút ít để chiếc tàu chuyển động được thẳng. Cần làm dài để quan sat chuyển động của
tàu được thú vị.

Có thể gắn 1 cờ đuôi nheo nhỏ phía sau các lỗ khí để khi tàu chạy, cờ sẽ phấp phới theo
dòng khí

V. Thực nghiệm đề tài:
Thực tế thì đã trải qua hai lần thực nghiệm tổ chức ngoại khoá rất thành công. Lần
thứ nhất là chương trình ngoại khoá “Vật lý vui” cho lớp 11A1, 11A2 năm học 2010 2011. Lần thứ hai là ngoại khoá “ Rung chuông vàng Vật lý” dành cho khối 12 năm học
2012 - 2013. Có thể nói những thí nghiệm, những mô hình về tên lửa nước và động cơ
đốt trong thật sự hấp dẫn và thu hút đông đảo học sinh tham gia. Một chương trình
ngoại khoá với rất nhiều nội dung, song việc bắn tên lửa nước và chạy thử nghiệm con
tàu dùng động cơ hơi nước gấy sự chú ý và góp phần làm chương trình ngoại khoá
thành công tốt đẹp. Sự thành công ở đây không chỉ đơn thuần là mang lại một sân chơi
bổ ích giúp học sinh thư giản mà còn là dịp để học sinh khắc sâu thêm kiến thức đã học.
Thể hiện tài năng, sáng tạo của mình. Sự nhiệt tình hưởng ứng của học sinh đã thể hiện
tình yêu của các em đối với môn học, đối với thực nghiệm vật lý.
Một số hình ảnh về hoạt động ngoại khoá được ghi lại trên đĩa CD kèm theo đề tài.

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm

GVTH: Trang Sỹ Dũ

C. KẾT LUẬN
Tuy đề tài không phải một sáng kiến về đổi mới phương pháp trong dạy học Vật lý,
hay một phát hiện mới mẽ trong chuyên môn để áp dụng vào việc dạy học. Đề tài giống
như một bài viết để Học sinh và các Giáo viên tham khảo có thể tự chế tạo một chiếc
tên lửa nước hay một động cơ hơi nước theo sở thích, nhưng qua đó đã góp phần làm

cũng cố kiến thức ở học sinh. Giúp học sinh thấy được ứng dụng thực tiễn của Vật lý
vào đời sống.
Nội dung đề tài có phần sơ lược lịch sử phát triển tên lửa và nghiên cứu vũ trụ để
giúp học sinh và người tham khảo thấy được tầm quan trọng của Vật lý đối với khoa
học và đời sống, thấy được ý nghĩa của các định luật Vật lý và nhất là định luật bảo
toàn động lượng ảnh hưởng đến cuộc sống con người như thế nào. Hy vọng rằng đề tài
sẽ làm tăng tình yêu thích của các em học sinh đối với môn học Vật lý và góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Đề tài có tham khảo một số tư liệu từ nguồn thư viện vật lý và một số trang web trên
mạng Internet để có được nội dung phong phú.
Dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn đề tài vẫn còn một số chỗ chưa được chính xác hoặc
sai sót, mong được sự cảm thông và chân thành cảm ơn.
Tân Phú ngày 15/5/2013
Trang Sĩ Dũ

Trường THPT Đoàn kết. Tân Phú – Đồng Nai

Trang 16



×