Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận sự phát triển của thương mại VN và những điều chỉnh trong chính sách thương mại của VN trong quá trình hội nhập kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.89 KB, 35 trang )

Sự phát triển của thơng mại Việt Nam và những điều chỉnh trong chính
sách thơng mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực
Lời nói đầu
Cách day 10 - 15 năm một hoạt động nào đó mang tính chất quốc tế, hay khu
vực diễn ra tại nớc ta đã trở thành sự kiện bất ngờ, lạ lẫm đối với ngời dân Việt Nam
thì ngày nay, qua báo chí, truyền thanh truyền hình hàng ngày chúng ta có thể thấy
các tổ chức quốc tế, khu vực, các hoạt động văn hoá thể thao, chính trị, đặc biệt là
kinh tế diễn ra tại Việt Nam.
Chính trị ngoại giao có sự kiện: Tổng thống Mỹ Biclintơn và gia đình đến Việt
Nam vào tháng 4 - 2001 (bây giờ là cựu tổng thống).
Văn hoá thể thao có: Liên hoan quốc tế tại Việt Nam, thể thao Việt Nam quen
thuộc với các huy chơng vàng, bạc ngang tầm với khu vực quốc tế. năm 2002
Seagame 22 diễn ra tại nớc ta...
Nổi bật nhất là kinh tế: Các Hội nghị khu vực, quốc tế tại Việt Nam, đó là hội
nghị EMM - 3 và ASM - 33, Việt Nam là thành viên của ASEAN, Hiệp định Thơng
mại Việt - Mỹ ký kết...
Đồng thời nhìn ra thế giới ta cũng có thể thấy các quốc gia ngày càng gần
nhau hơn: ta có ASEAN 10 thành viên đầy đủ, các quốc gia Châu Âu hình thành
đồng tiền chung ERO. Trung Quốc gia nhập WTO,... toàn cầu hoá hay hội nhập
quốc tế không còn xa lạ với chúng ta nữa. Và hơn bao giờ hết, bài toán hội nhập
kinh tế quốc tế đã làm đau đầu không chỉ Chính phủ mà đối với mỗi một doanh
nghiệp, mỗi một chủ thể tham gia vào nền kinh tế nớc ta. Chúng ta không thể không
hội nhập kinh tế quốc tế nhng chung ta hội nhập nh thế nào, chúng ta đang có
những thuận lợi và phải khắc phục khó khăn nào để hội nhập kinh tế với khu vực và
quốc tế.
Đảng và Nhà nớc ta đã và đang từng bớc đề ra phù hợp đúng đắn cho vấn đề
hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1997 Luật Đầu t nớc ngoài ra đời cũng thể hiển chủ trơng của Đảng đợc
xác định qua đại hội VIII (1996) "đẩy nhanh quốc tế hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới". Đại hội Đảng (4/2001) vừa qua cũng đã xác định bối cảnh quốc tế trong


giai đoạn 2000 - 2010, đó là "Toàn cầy hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn
các nớc... vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn
1


nhau giữa các nền kinh tế" cũng chính vì vậy Đại hội Đảng IX cũng khẳng định
quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế: "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế".
Nh vậy ta có thể thấy nghiên cứu vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay đã trở thành mối quan tâm chung của tất cả mọi ngời, những ngời mà
trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào nền kinh tế quốc dân.
Là một sinh viên kinh tế tôi không dám đa ra một cách nhìn tổng quát đầy đủ,
sâu sắc về vấn đề chủ nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đây mới chỉ là cách nhìn
còn mang nhiều ý kiến chủ quan, một kiến thức còn nhiều thiếu sót, rất mong đợc
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Hữu Thực đã hớng dẫn, giúp tôi
hoàn thành đề án này.

2


Nội dung
I. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá.
Ngày nay, cụm từ "toàn cầu hoá" không còn xa lạ đối với chúng ta đặc biệt là
giới tri thức trẻ và những ngời quan tâm đến các vấn đề của thế giới. Tuy nhiên có
rất nhiều cách nhìn nhận về toàn cầu hoá. ở nét khái quát nhất, tổ chức OECD (Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế) đã coi toàn cầu hoá là quá trình mở rộng tới
"một hoạt vấn đề cũng mang lại sự đổi thay cho nền chính trị và kinh tế ngày nay

trên quy mô toàn cầu". Đó là các vấn đề: Khả năng có thể tồn tại của hệ thống thơng mại thế giới, nhu cầu ngày càng tăng của sự hội nhập có "chiều sâu" về chính
sách quốc tế và sự giám sát rõ ràng tính độc lập tự chủ trong chính sách kinh tế
quốc gia; sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ; tầm quan trọng của sự đổi
thay trong các hệ thống quản lý các tập đoàn Công ty lớn, hay trong hệ thống tổ
chức công nghệ hoá là cơ sở cho sức cạnh tranh của các nớc, các Công ty; sự đa
dạng hoá ngày càng tăng giữa các nớc phát triển, nạn đói nghèo và nguy cơ một tỷ
lệ lớn dân số trên trái đất bị loại trừ; những vấn đề nghiêm trọng về nạn thất nghiệp
và những khác biệt về tiền lơng về mức thu nhập đang ngày càng tăng lên ở những
nớc phát triển nhất, sự thay đổi của vai trò Chính phủ....
Để có cái nhìn rõ ràng hơn ta có thể hiểu quá trình toàn cầu hoá bao gồm:
Thứ nhất: là sự gia tăng mạnh mẽ, vợt khỏi các đờng biên giới quốc gia tới quy
mô quốc tế, của các luồng giao lu hàng hoá, dịch vụ thơng mại, đầu t, tài chính,
công nghệ, công nghệ nhân lực.
Thứ hai là: sự hình thành và phát triển các thị trờng thống nhất trên phạm vi
toàn cầu và khu vực, cũng nh sự hình thành và phát triển các định chế và các cơ chế
điều tiết quốc tế để quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.
Thực tế không phải bây giớ toàn cầu hoá mới bắt đầu hình thành và phát triển,
mà nó đã có tiền đề từ rất lâu trong lịch sử. Có ngời cho rằng những tiền đề này đã
có từ thời kỳ mở đầu của chủ nghĩa t bản, trên cơ sở quá trình xã hội hoá của lực lợng sản xuất trên qui mô thế giới. Chính vì thế phải khẳng định lại rằng toàn cầu
hoá là một quá trình. Hơn nữa, đây là một xu thế khách quan là quy luật tất yếu
trong sự phát triển của xã hội loài ngời. Khẳng định trên dựa vào những căn cứ, cơ
sở thực tế sau:
1.2. Tất yếu của toàn cầu hoá:
3


Một là, một nền chủ nghĩa toàn cầu đang xuất hiện.
Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp : lần thứ I: từ thế kỷ XVIII,
lần thứ II từ cuối thế kỷ XIX và lần thứ III từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây. Những
tiến bộ về khoa học - kỹ thuật và công nghệ của ba cuộc cách mạng này đã làm

giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên lạc viễn thông
xuống vài trăm lần; đã có tác động cực kỳ quá trình đến toàn bộ quan hệ kinh tế
quốc tế, đã biến các công nghiệp mang tính quốc gia thành công nghiệp toàn cầu.
Lấy công nghiệp may mặc làm ví dụ. Trớc đây với một máy may dù có hiện đại đến
đâu thì sản phẩm cũng chỉ bán trong một địa phơng, một quốc gia hay một khu vực
chi phí vận chuyển liên lạc quá cao đã làm mất hết lợi thế so sánh nếu đa sản phẩm
này đến thị trờng xa xôi. Nhng ngày nay, Công ty NIKE chỉ nắm hai khâu: sáng tạo,
thiết kế và phân phối toàn cầu, còn sản xuất do Công ty các nớc thực hiện cũng đã
làm cho công nghiệp may mặc có tính toàn cầu. Hàng loạt công nghệ sản xuất xe
máy, ô tô, máy tính điện tử máy bay... ngày càng toàn cấu hoá sâu rộng. Tính toàn
cầu ở đây thể hiện ngay từ khâu sản xuất, đó là phân công chuyên môn hoá cho
nhiều nớc, đến khâu phân phối; tiêu thụ trên toàn cầu. Từ việc giảm chi phí và cớc
phí giao thông liên lạc, vận chuyển nhờ vào việc tạo ra đờng sắt, tàu hoả, và tàu
biển chạy bằng hơi nớc, ô tô, máy bay... cho đến những thập niên gần đây một cuộc
giảm cớc phí giao thông liên lạc và viễn thông mới lại diễn ra dựa trên cơ sở điện
toán, số hoá, truyền thông vệ tinh, soi quang học mạng Internet đã khuếch đại mạnh
mẽ lân sóng toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt
là kinh tế.
Nh vậy, nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các tập đoàn
kinh doanh, các quốc gia có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi
toàn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát triển. Đây là cơ sở đầu
tiên của nền kinh tế toàn cầy thống nhất.
Hai là: các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển:
Chính nền công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ đã trở thành cơ sở cho các
quan hệ kinh tế toàn cầu. Trớc hết là quan hệ thơng mại, chi phí vận tải liên lạc
giảm đi thì khả năng buôn bán trao đổi giữa địa phơng quốc gia, khu vực tăng lên.
Cùng với nó quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất diễn ra giữa các quốc
gia, liên tục càng dễ dàng. Các linh kiện của máy bay Boing, ô tô, máy tính... đã
không phải là sản phẩm của một bớc mà của rất nhiều nơi trên thế giới.
Thơng mại toàn cầu, sản xuất chuyên môn hoá toàn cầu đã kéo theo đồng vốn,

4


tiền tệ, dịch vụ... vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, lợng buôn bán tiền tệ
toàn cầu đã vợt xa con số 1500 tỷ USD. Trong đó, ta thấy rằng, thơng mại điện tử
xuất hiện và phát triển với tốc độ chóng mặt.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầy đã ngày
càng xung đột với các thể chế quốc gia, rào cản quốc gia. Các quốc gia các khu vực,
xích lại gần nhau hơn qua các tổ chức liên kết kinh tế. mang bản chất chính trị
nhiều hơn, những thập niên 40, xuất hiện khối liên kết kinh tế giữa Mỹ - Tây Âu Nhật và Hội đồng tơng trợ kinh tế SEV giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Cho
đến nay lại hình thành nên các tổ chức nh APEC, AFTA, NAFTA,... Đặc biệt quá
trình quốc tế hoá về tài chính đẩy mạnh nhanh chóng: hình thành nên Quỹ tiền tệ
Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên nớc kinh tế và tiền tệ Châu Âu gần
11 nớc thành viên với đồng tiền chung là đồng EURO. Cùng với các tổ chức liên kết
kinh tế là sự ra đời các cam kết này đã, đang và sẽ công kích mạnh mẽ vào các bức
tờng thành quốc gia, rào cản quốc gia. Các nớc thành viên của tổ chức thơng mại
thế giới (WTO) cũng đã cam kết một lộ trịnh giảm bỏ hàng rào. Ngay cả đối với
Mỹ, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay gây sức ép thơng mại đối với các nớc có vẻ
nh đã mất hiệu lực, với dấu hiệu là Mỹ đã ký tối huệ quốc (MFN) đối với Trung
Quốc.
Ba là: những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều trở nên bức
xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu. Không có khó khăn gì để có
thể nhận ra các vấn đề nổi cộm hiện nay của kinh tế toàn cầu. Môi trờng ngày càng
bị phá hoại, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; dân số thế giới tăng nhanh
đến mức nảy sinh nguy cơ bùng nổ dân số; đồng vốn toàn cầu vận động tự do không
có sự điều tiết là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc khủng hoàng liên tiếp
Châu Âu, Châu Mỹ, Châu á trong thời gian vừa qua; chiến tranh lạnh chấm dứt,
đồng nghĩa với nó là kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cờng, mở ra thời kỳ hợp tác,
hoà bình, phát triển mới...
Những vấn đề này đã trở thành tất yếu khách quan đẩy đến toàn cầu hoá kinh

tế với những đặc trng chủ yếu: Thứ nhất là, các hàng rào quan thuế và phi thuế quan
đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ theo các cam kết quốc tế đa phơng và toàn cầu, tức
là các biên giới quốc gia về thơng mại đầu t đang tiên vong. Thứ hai là, các Công ty
của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi quốc gia, trên các lĩnh vực cam
kết, không phân biệt đối xử; thực chất là sự xoá bỏ các biên giới về đầu t, dịch vụ và
các lĩnh vực kinh tế khác.
5


Tuy nhiên, đến đây chúng ta lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: làm thế
nào để giải quyết sự trói buộc của hệ thống tiền tệ quốc gia với hàng trăng đồng
tiền khác nhau, trao đổi theo các tỷ giá thả nổi bấp bênh? Làm thế nào để dung hợp
đợc với hệ thống luật pháp các quốc gia thủ cựu? Có cấn đến "một bàn tay hữu hình
toàn cầu" không? Và nh vậy toàn cầu hoá kinh tế không thể tránh khỏi toàn cầu hoá
về chính trị, an ninh, văn hoá, xã hội....?
1.3. Hai mặt của toàn cầu hoá.
Có ngời đã cho rằng: toàn cầu hoá là con dao hai lỡi. Thực tế cũng đã cho thấy
khi diễn ra hội nghị, diễn đàn bàn về vấn đề đẩy mạnh toàn cầu hoá thì bên cạnh sự
ủng hộ của một bộ phận quần chung là thái độ kịch liệt phản đối, biểu tình gay gắt
của không ít ngời lao động khác. Tại sao vậy? Quả thực, toàn cầu hoá không mang
lại cơ hội phát triển cho tất cả quốc gia, tất cả ngời lao động trên thế giới. Toàn cầu
hoá không hẳn là một tơng lai rực sáng không phải là một thiên đờng cho các nền
kinh tế mà toàn cầu hoá là lò lửa, là một quá trình thử thách, đấu tranh sinh tồn.
Mỗi mặt tích cực mà nó mang lại luôn đi với mặt hạn chế nảy sinh từ đó.
Toàn cầu hoá đa ra một thị trờng tiêu thụ mở rộng cho hàng hoá dịch vụ. Thị
trờng không hạn chế một nớc, một khu vực, hay một châu lục nữa mà đã là thị trờng
toàn cầu. Lúc này không ai khác chính bản thân sản phẩm quyết định sự tồn tại của
nó. Mỗi hàng hoá và dịch vụ phải đứng trớc một môi trờng cạnh tranh gay gắt. Nền
kinh tế của các quốc gia riêng lẻ chịu sức ép vô cùng lớn từ bên ngoài. Không nhìn
đâu xa, Việt Nam là một ví dụ phù hợp cho vấn đề này. Quả thực, hàng hoá Việt

Nam ngày nay đã có mặt nhiều nơi trên thế giới và ban đầu đã gây uy tín không
nhỏ thị trờng nớc ngoài ở Việt Nam không chỉ là gạo, cà phê, thuỷ hải sản... mà
còn là sản phẩm may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ... không ít các Công ty TNHH
t nhân Việt Nam có nhiều chi nhánh ở nớc ngoài. Đây là dấu hiệu của khả năng
cạnh tranh lành mạnh của hàng hoá, dịch vụ nớc ta. Bên cạnh đó, thị trờng Việt
Nam đã đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hàng hoá mang nhãn hiệu của các nớc khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam đang phải cạnh tranh với
những u thế của ngời bạn láng giềng "khổng lồ", đó là: giá rẻ, mẫu mã đẹp, phong
phú đa dạng và với cả tâm lý "thích dùng đồ ngoại" của ngời dân nớc ta. Với những
khó khăn đang phải đối mặt liệu các doanh nghiệp Việt Nam có đứng bên bờ "phá
sản" hay không?
Một tác động tích cực của toàn cầu hoá mà không thể không nhắc đến. Có thể
nói đây là lợi ích hiện diện rõ ràng nhất đối với các nớc đang phát triển và chậm
6


phát triển. Đó là dòng chuyển vốn, công nghệ, kỹ thuật, phơng pháp quản lý tiên
tiến từ các nớc phát triển. Cơ hội này mở ra khả năng cho các nớc nhận rút ngắn
khoảng cách về thời gian và tiết kiệm tiền bạc cho giai đoạn từ nghiên cứu cho đến
khi triển khai, ứng dụng. Đây cũng là lợi thế cho các nớc đang phát triển có điều
kiện đi tắt, đơn đầu mọi phơng tiện. Nhng cũng chính dòng chảy vốn, công nghệ,
kinh tế, phơng pháp quản lý tiên tiến này tạo ra một thế lực cạnh tranh đối với các
nền kinh tế quốc gia trì trệ, kém hiệu quả. Trong một giới hạn nào đó, dòng di
chuyển này là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp Nhà nớc vào tình trạng phá sản,
đi kèm là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nảy sinh hàng loạt vấn đề cho xã hội Chính phủ
cần giải quyết.
Một biểu hiện của toàn cầu hoá hiện nay là hình thành các khối liên kết kinh
tế cùng với cam kết, thoả thuận nhằm dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan. Đây là điều
kiện quá trình thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong kinh tế
trong các quan hệ mua bán và giao lu quốc tế. Không những thế các nớc chậm phát
triển đợc hởng u đãi đặc biệt, chế độ tối huệ quốc, đợc cung cấp thông tin tự do mậu

dịch, liên minh thuế quan, đợc bảo đảm các quyền thông qua các tổ chức quám sát,
giám định quốc tế. Chính vì vậy, các nớc chậm phát triển có điều kiện cải thiện
quốc tế hoá không, liệu các chính sách tài chính có bắt kịp yêu cầu của xu thế thời
đại? Các cuộc khủng hoảng Đông Nam á, Brazin, Nga, trong những năm 1997 1998 vẫn còn là những bài học sâu sắc cảnh báo cho các nớc có tình hình tơng tự.
Điểm cuối cùng nh phần tất yếu của xu thế toàn cầu hoá đã trình bày, đó là các
vấn đề mang tính toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết
đơn lẻ. Xu thế toàn cầu hoá tạo nền sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia để cùng
có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống lại sự phân biệt đối xử sự đan xen phụ thộc
lẫn nhau có còn có tác động hai mặt, các nền kinh tế sẽ nhạy cảm hơn với các biến
động quốc tế, nhng đồng thời những rủi ro có tính chất cá biệt cũng đợc phân tán.
Do đó các nớc đang phát triển có thể đạt đợc sự ổn định tơng đối vốn hết sức cần
thiết.
Trong thơng mại và giải quyết tranh chấp dựa trên những định chế kinh tế tài
chính bình đẳng. Đây là điều kiện để các nớc chậm phát triển phát huy tối đa lợi thế
của mình. Tuy nhiên nền kinh tế toàn cầu hoá sẽ phụ thuộc ngày càng nhiều vào các
tổ chức quốc tế và khu vực: các hiệp định đa phơng, Công ty xuyên quốc gia, liên
minh kinh tế, tài chính... mà trong một chừng mực nhất định nằm ngoài tầm kiểm
soát của các Chính phủ. Nh vậy, mặt khác, một mặt trái của nền kinh tế tài chính là
7


sự suy giảm bản sắc dân tộc, chủ quyền kinh tế song lại gia tăng sức ép kinh tế,
chính trị. Sự hạn chế về khả năng kiểm soát của các cổ phần còn biểu hiện ở tình
trạng tội phạm xuyên quốc gia, việc truyền bá nền văn hoá phi nhân bản...
Toàn cầu hoá là con dao hai lỡi, nhng là xu thế tất yếu khách quan mà bất kỳ
nền kinh tế nào cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy việc sử dụng nó nh thế nào
để mang lại hiệu quả cao nhất là cả một nghệ thuật tinh xảo.
2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
2.1. Việt Nam tất yếu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá ngày một phát triển mạnh mẽ, các quốc gia nhập

kinh tế quốc tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau ở mức độ này hay mức độ khác, thì
việc đóng cửa với thế giới là đi ngợc xu thế thời đại và khó tránh khỏi tình trạng lạc
hậu, chậm phát triển. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể phải
trả giá nhất định (nh chúng ta đã xem xét mặt trái của toàn cầu hoá) song đó là yêu
cầu tất yếu hớng tới sự phát triển của mỗi nớc. Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy hoạch chung này.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung căn bản của toàn cầu hoá, nội dung
thứ hai là tự do hoá kinh tế. Nh vậy, nên hiểu toàn cầu hoá là một quá trình quốc tế
kinh tế bao gồm hai quá trình phát triển song song (đã nêu trên tự do hoá kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế) thì toàn cầu hoá có nghĩa là các quan hệ kinh tế không
những đợc tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu mà còn phải tuân theo những cam
kết toàn cầu đa dạng. Do đó Đảng và Nhà nớc ta đã xác định t tởng đúng đắn cho
nền kinh tế nớc ta. Chủ động hội nhập, chỉ có chủ động hội nhập thì nớc ta mới giữ
gìn đợc bản sắc dân tộc trong tốc độ toàn cầu hoá hiện nay. Chỉ có chủ động hội
nhập mới đón bắt đợc những nguy cơ tiềm ẩn và giành lấy những cơ hội quý báo
để phát triển kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu đa dạng, phong phú. Chỉ có chủ
động hội nhập, Đảng và Nhà nớc mới có đợc những quyết định sáng suốt trong quá
trình toàn cầu hoá kinh tế gắn liền với toàn cầu hoá về chính trị, văn hoá, xã hội.
Khi nghiên cứu cuộc khủng hoàn kinh tế Thái Lan năm 1997, các nhà kinh tế
học cho rằng: toàn cầu hoá tự bản thân nó không là nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng mà chính là cái cách thức ngời ta điều hành quá trình của cuộc khủng hoảng
toàn cầu hoá. Tham gia vào một nền kinh tế thế giới rộng lớn hơn có thể là một sự
trợ giúp cho nền kinh tế trong nớc phát triển song chắc chắn rằng: thành công hay
thất bại của các nớc chủ yếu dựa vào công nhân của nớc đó dựa bào các chính sách
và đầu t của Chính phủ. Các nhà kinh tế học cũng đã khẳng định: các nớc mà hiện
8


nay đang vấp phải vô vàn khó khăn trong quá trình hội nhập thì không phải là họ
không biết lợi dụng hiện tợng toàn cầu hoá mà bởi vì họ đã không thể trang bị cho

mình một cách kịp thời những thể chế và những cán bộ điều hành cần thiết để làm
chủ quá trình hội nhập toàn cầu. Lấy Thái Lan làm ví dụ. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự sụp đổ nền kinh tế năm 1997 là do Thái Lan đã không làm chủ đợc
dòng vốn từ nớc ngoài. Từ những năm 1990 Thái Lan đã dỡ bỏ hết mọi hàng rào
kiểm soát ngặt nghèo sự dịch chuyển t bản qua biên giới, do đó dòng chảy t bản đã
ào ạt vào Thái Lan dới hình thức đầu t ngắn hạn, và sau đó lại rút ra hết sức nhanh
chóng gây nên sự rối loạn thị trờng tài chính. Do đó các nhà kinh tế đã đa ra các
biện pháp chủ yếu để cần thiết, tiếp tục một chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, cải
cách thể chế và làm chủ dòng chảy t bản quốc tế. Nh vậy có nghĩa là Thái Lan phải
tham giatt quốc tế một cách ổn định tốc độ vừa phải và thực sự chủ động trong quá
trình hội nhập đó bằng những hành lang thể chế. Bởi vì nếu không chủ động thì sự
tự do hoá sẽ dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, nền kinh tế không tồn tại và phát triển
lâu dài đợc.
Bởi vì Thái Lan cũng là một quốc gia thuộc Châu á, cùng chung những điều
kiện tự nhiên và xã hội với Việt Nam, cũng vấp phải những khó khăn mà nớc ta
đang trải qua. Cho nên nền kinh tế Thái Lan là một bài học đắt giá đối với nớc ta về
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Và cũng từ đó để thấy rằng chủ động hội nhập kinh
tế toàn cầy là con đờng đúng đắn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của nớc ta.
2.2. Nội dung và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với kim chỉ nam nh trên, việc nghiên cứu nội dung và hình thức hội nhập kinh
tế quốc tế không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là nhiệm vụ quan trọng sự phát
triển kinh tế đất nớc.
2.2.1. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) hiện nay có thể là một tổ chức kinh tế toàn
cầu có sức mạnh nhất với các Hiệp nghị có nội dung có tính chất chi phối các kinh
tế quốc tế thể hiện rõ nhất nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các vấn đề
mang tính nguyên tắc đợc rút từ đợc cam kết ông đàm phán (diễn ra từ khi hiệp định
chung về thơng mại và thiếc quan GATT năm 1947 tại Genevơi cho đến nay). Đó
là:
Về thơng mại hàng hoá.

Thứ nhất là, giảm thuế nhập khẩu và bỏ hàng rào phi quan thuế. Thuế nhập
9


khẩu cao và các biện pháp phi quan thuế thực tế là hàng rào ngăn cản quá trình hội
nhập quốc tế của các quốc gia. Các biện pháp phi quan thuế đã phát triển hết sức
tinh vi và đa dạng và không có cách nào định lợng đợc các hàng rào đa dạng này. ở
không ít các nớc, mức thuế nhập khẩu thấp nhng hàng rào phi quan thuế tinh vi đã
không cho hàng hoá nhập vào. Chính vì vậy, ngời ta đã kết luận là phải sớm xoá bỏ
hàng rào này và quy về biện pháp bảo hộ duy nhất là thuế nhập khẩu. Với hàng rào
này, ngời ta có thể định lợng cao thấp, cam kết hạ dần hàng rào và quan trọng là có
thể kiểm soát việc thực hiện cam kết. Mức thuế suất đối với hàng nhập khẩu từ các
nớc công nghiệp sẽ giảm từ 6,3% xuống 3,9%. Đối với mức giảm thuế quan các
thành viên WTO (tức là GATT) cam kết thực hiện tự do hoá thơng mại và dịch vụ,
chống bán phá giá, đảm bảo quyền sở hữu trí tựu...
Thứ hai là công nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các chủ thể và cá
nhân trong và ngoài nớc trên lãnh thổ của mình.
Lấy Mỹ và Việt Nam làm ví dụ. Nguyên tắc này cho phép các Công ty Việt
Nam sang Mỹ kinh doanh xuất nhập khẩu và ngợc lại với tất cả mọi quyền nh Công
ty của nớc sở tại, có nghĩa là sẽ thiết lập một môi trờng kinh doanh bình đẳng ở mọi
quốc gia, tạo ra một thế giới tơng đối thống nhất với các chsủ thể kinh doanh và
quyền hoạt động toàn cầu. Đây là con đờng phát triển bởi áp lực cạnh tranh sẽ tăng
lên, động lực phát triển sẽ tăng cờng. Bởi vì sự xuất hiện của các Công ty nớc ngoài
hùng mạnh vào hoạt động thì buộc các Công ty trong nớc phải vơn mình để tồn taị
và phát triển.
Về thơng mại dịch vụ:
Hiệp định dịch vụ của WTO quy định các nớc mở cửa thị trờng dịch vụ cho
nhau theo 4 phơng thức: (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới từ lãnh thổ của nớc
thành viên này sang lãnh thổ thành viên khác. (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ. (3) hiện
diện thơng mại của Công ty một nớc thành viên lãnh thổ một thành viên khác với

các hình thức lập liên doanh, chi nhánh, Công ty 100% vốn đầu t nớc ngoài. (4)
hiện diện chủ nhân, di chuyển t nhân. WTO cũng đã quy định: khi đàm phán mở
cửa thị trờng dịch vụ, các nớc phát triển theo phơng pháp loại trừ tức là không chấp
nhận dịch vụ nào thì đa ra đàm phán, còn các nớc đang phát triển đợc quyền chỉ đa
ra đàm phán lĩnh vực nào đợc chọn mở cửa.
Về đầu t, WTO cha có đợc một hiệp định chung mà mới chỉ có một số quy
đọnh về đầu t có liên quan đến thơng mại.
WTO cũng đã có những quy định trong các lĩnh vực khác.
10


Hiệp định về bảo vệ quyền sở hữu trì trệ.
Quy định không phân biệt đối xử, nguyên tắc đối xử quốc gia áp dụng cho các
đầu t và dịch vụ tức là không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu hàng sản xuất trong
nớc.
Quy định về việc công bố công khai và minh hạch tất cả các chính sách kinh
tế, thơng mại của các nớc thành viên.
Cho phép các nớc có hành động tự vệ trong trờng hợp cần thiết để bảo vệ cán
cân thanh toán, ngành công nghiệp non trẻ bị bên ngoài tấn công.
Quy định về chế độ u đãi cho các nớc đang phát triển, những nớc có nền kinh
tế chuyển đổi về lộ trình thực hiện cam kết, có thể kéo dài 5 năm.
Các quốc gia muốn tham gia nhập WTO phải đàm phán, nội dung chủ yếu của
đàm phán là lộ trình dài, ngắn thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc nêu trên
chung không thể đàm phán không thực hiện.
2.2.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với sự phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp của các quan hệ kinh tế thì
cũng thể hiện ngày càng nhiều các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. ở đây chỉ
nêu lên ba hình thức cơ bản, chủ yếu hiện nay.
1 - Các hiệp nghị kinh tế thơng mại song phơng.
Đây là hình thức hội nhập quốc tế phổ biến nhất và quan trọng nhất không chỉ

đối với các nớc phát triển mà đối với cả các nớc đang phát triển. Mỹ là nớc có nền
kinh tế phát triển nhất, hội nhập kinh tế quốc tế với vai trò chi phối song chủ yếu
và trớc hết vẫn đa vào các hiệp nghị kinh tế thơng mại hai bên: Mỹ - Nhật, Mỹ Châu Âu.... Nhật Bản hay các nớc NIESS cũng vậy. Các quốc gia này, tay không
tham gia vào các khối kinh tế song các quan hệ hai bên của họ cũng đủ sức tạo ra
cạnh tranh những lợi thế so sánh có lợi cho họ trong cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, các
quốc gia ký hiệp định kinh tế, thơng mại với Mỹ, dù chỉ là quan hệ giữa hai nớc
nhng tổng lợng thị trờng hàng hoá dịch vụ đầu t đã không thua kém bất kỳ một khối
kinh tế nào. Mặc dù vậy các hiệp định kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có những
hạn chế, đó là khi phải đối diện với các vấn đề mang tính toàn cầu, những khối kinh
tế hùng mạnh.
2 - Các khối kinh tế khu vực.
Hiện nay, trên thế giới có thể kể đến hàng chục khối kinh tế khu vực khác
nhau, nhng hoạt động nổi bật hơn cả là: EU (Liên minh Châu Âu) NAFTA (Khối
kinh tế Bắc Mỹ), AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), APEC (Diễn đãn kinh tế
11


Châu á - Thái Bình Dơng).... Tuy nhiên mức độ hợp tác của các khối kinh tế này
khác nhau. Có khi chỉ dừng lại ở mức độ thỏa thuận buôn bán, có khối đã thoả
thuận xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong khối, có khối đã
lập ra liên minh thuế quan, tạo lập ra cả một thị trờng chung cho phép tự do thơng
mại hàng hoá, dịch vụ vốn, lao động. Nấc thang phát triển cao nhất hiện nay của
các khối kinh tế là liên minh kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu hoạt động
từ năm 1992 với các chính sách: tiền tệ, tài chính, thơng mại công nghệ, an ninh
chung, quốc hội, toà án, đồng tiền chung...
Việc ra đời các khối kinh tế có tác động quan trọng, thúc đẩy tự do hoá thơng
mại đầu ra, thúc đẩy quá trình mở cửa thị trờng các quốc gia, tạo lập ra những khu
vực thị trờng rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiên tiến...
3 - Những tổ chức kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất là các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn

cầu hiện có: Tổ chức Thơng mại thế giới (WTO); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), một số tổ chức kinh tế của Liên hiệp quốc: VNDP, G8 (G7
Nga), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế DECD... Hoạt động nổi bật nhất hiện
nay vẫn là WTO, IMF, WB. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc
tế về thơng mại hàng hoá là tơng đối có hiệu lực, còn các lĩnh vực chính sách tiền
tệ, đầu t chu chuyển vốn, bảo vệ, tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động
quốc tế, chống tham nhũng.... vẫn cần có luật lệ toàn cầu hữu hiệu hơn. Ngay cả
hoạt động của IMF và WB cũng chỉ kiểm soát một phần dòng vốn, tiền tệ chính
thức của Nhà nớc, còn việc buôn bán tiền tệ, và dòng vốn t nhân vẫn vận động
ngoài vòng kiểm soát. Do đó việc cải tổ thích hợp những tổ chức này là điều cần
thiết trong thời gian tới.
Thứ hai là các tổ chức kinh doanh toàn cầu: đó là các Công ty xuyên quốc gia
với các con số đáng kể: 60.000 Công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh, nắm
25% sản xuất thế giới, 50% mậu dịch quốc tế, 90% với đầu t trực tiếp, trên 80% bản
quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Các đặc trng mới hiện nay của các Công ty
xuyên quốc gia là: (1) làn sóng sát nhập gia tăng, chứng tỏ sức cạnh tranh toàn cầu
ngày càng mạnh, đòi hỏi vốn, công nghệ mạng lới phân phối ngày càng cao; (2)
các Công ty nhỏ và vừa cũng gia tăng hoạt động xuyên quốc gia, đặc biệt trong
dịch vụ; (3) ở các nớc đang phát triển xuất hiện các Công ty xuyên quốc gia của
mình hoạt động ở nhiều nớc; (4) các Công ty xuyên quốc gia ở các nớc phát triển.
Nếu không có các Công ty xuyên quốc gia thì sự hội nhập chỉ dừng lại hoạt động
12


xuất nhập khẩu, thu hút nớc ngoài vào nớc mình. Do đó có thể dự báo: các Công ty
xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản trong tơng lai.
2.3. Một số lợi ích bớc đầu nớc ta đạt đợc trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Mặc dù vấp phải rất nhiều khó khăn, song nhìn lại những năm qua, tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế vẫn không ngừng đợc mở rộng và bớc đầu đã đa lại những

lợi ích đáng kể, không thể phủ nhận cho đất nớc.
Một là, thông qua các hiệp ớc song phơng và đa phơng, cho đến nay, nớc ta đã
có quan hệ với 165 nớc trên thế giới (tại thời điểm năm 2000 là 154 nớc), kim
ngạch xuất khẩu tăng từ 677,8 núp/USD năm 1986 lên 14,3 tỷ USD năm 2000, năm
2001 tăng 4,5%. Trong cùng thời gian kim ngạch nhập khẩu tăng tơng ứng từ 1,83
tỷ núp/USD lên 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tơng đối lớn vào nửa những năm 80
đến nay cán cân xuất - nhập gần đạt cân bằng, từ cuối những năm 90, nớc ta đã có
những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD nh: dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày
dép, chế biến thuỷ sản...
Cuối năm 2001, hiệp định thơng mại Việt - Mỹ chính thức hiệu lực mở ra cho
hàng hoá dịch vụ Việt Nam một thị trờng rộng mở và đầy thách thức cùng thời gian
này việc Trung Quốc gia nhập WTO, tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trờng với 1,3 tỷ dân. và chắc chắn cơ hội mở rộng thị trờng ra khu vực từng bớc thế
giới vẫn cha dừng ở đó.
Hai là, song song với việc xâm nhập thị trờng quốc tế, Việt Nam đã tăng khả
năng thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài. Kể từ khi có luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam
đợc chính thức ban hành đầu năm 1988 và từng bớc đợc điều chỉnh đến cuối năm
2000 đã có trên 700 Công ty thuộc 62 nớc và vùng lãnh thổ đầu t trực tiếp vào nớc
tă với hơn 3.000 dự án, có tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD trong đó vốn đã thực
hiện 17 tỷ USD.
Mặc dù do khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và sự chậm đổi mới
trong chính sách kinh tế, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc
ngoài vẫn có xu hớng gia tăng những năm gần đây, cụ thể là tỷ trọng của khu vực
này trong GDP tăng lên, 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997; 9,8%
năm 1998; 10% năm 1999; trên 10% năm 2000 và đến hết ngày 30/10/2001 cả nớc
thêm 1,9 tỷ USD vốn đầu t nớc ngoài tăng 200% về vốn so với cùng kỳ năm 2000.
Bên cạnh đó, ngoài thúc đẩy tăng trởng kinh tế, các dự án có vốn đầu t nớc ngoài
tạo ra khoảng 35 việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp.
13



Hiện nay Việt Nam đợc đánh giá là đặc điểm an toàn nhất khu vực Châu á Thái Bình Dơng. Đây có phải là cơ hội cho dòng chảy vốn đầu t nớc ngoài vào
Việt Nam tăng lên?
Ba là, không chỉ các dòng vốn trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ
mới đợc đa vào nớc ta. Trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nớc ngoài
thuộc các ngành bu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giày... các
công nghệ đợc chuyển giao là tơng đối hiện đại. Mặc dù vẫn có những công nghệ
trung bình không còn phù hợp với các nớc Mỹ, Nhật... nhng vẫn có hiệu quả ở nớc
ta trong một số ngành sự khác do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó
cao, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới.
Quả thực thu hút vốn đầu t trực tiếp đồng thời tiếp nhận chuyển giao công
nghệ và sử dụng nó có hiệu quả là con đờng thích hợp với trình độ Việt Nam hiện
nay hơn cả, mặc dù nớc ta vẫn có khả năng nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài vào.
Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện giao lu các nguồn
lực giữa nớc ta và thế giới trong đó nguồn nhân lực trí tuệ và tay nghề cao có tầm
quan trọng đặc biệt trong sự phát triển. Nguồn nhân lực Việt Nam khá dồi dào: song
lại đang có những hạn chế nên đã đa đến tình trạng hiện nay là: thừa nhiều lao động
giản đơn cha đợc đào tạo nhng lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật biết kinh
doanh. Trong tình hình này, thông qua con đờng hội nhập kinh tế quốc tế, mối năm
nớc ta xuất khẩu từ 24 - 25 ngàn lao động đồng thời thực hiện hợp đồng gia công
chế biến xuất khẩu. Do đó đã giảm bớt sức ép về việc làm trong nớc lại vừa học hỏi
những kinh nghiệm về quản lý điều hành công nghệ tiên tiến.
Cả bốn thành quả bớc đầu trong tiến trình chủ động hội nhập nói trên đều là
những nhân tố mới của tăng trởng kinh tế, đồng thời mang lại những lợi ích quan
trọng cho nền kinh tế đất nớc. Chúng lại tiếp tục khẳng định t tởng đúng đắn chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nớc, là nguồn cổ đông cho những bớc
đi tiếp theo trong tiến trình hội nhập, tham gia toàn cầu hoá.
II. ti
n trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam
Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập

kinh tế quốc tế để phát triển đất nớc không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối
với Đảng và Nhà nớc ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và
14


từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nớc những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên ngay từ khi nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài
trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Ngời đã nói: "Chúng
ta hoan nghênh những ngời Pháp muốn đem t bản xứ ta khai thác những nguồn
nguyên liệu cha có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp,
cũng nh Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết
quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Ngời lại viết
"Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những
nguyên tắc dới đây":
1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nớc Việt Nam luôn tôn trọng nền độc
lập của hai nớc đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt
đối giữa các nớc có chủ quyền.
2) Đối với các nớc dân chủ, nớc Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa
và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
Một là nớc Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu t của nhà t bản, nhà
kỹ thuật nớc ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
Hai là, nớc Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đờng xá giao
thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế.
Ba là, nớc Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dới sự lãnh đạo của
Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của n ớc ta
chỉ giới hạn trong Hội đồng tơng trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nớc xã hội chủ nghĩa,
mà chủ yếu là nớc ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết.
Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trờng kỳ thần thánh chống Pháp và

chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức ngời, sức của đểu đợc tập trung tối đa cho
chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại.
Đến khi đất nớc hoàn toàn giải phóng, nớc ta lại tập trung khôi phục nền kinh
tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa
trong Hợp đồng tơng trợ kinh tế (SEV)?
Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc
gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nớc nào đóng
cửa với thế giới là đi ngợc xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế là yêu cầu tất yếu hớng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong
15


khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
sang mô hình kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ
trơng: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc
tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nớc, các tổ chức
quốc tế và t nhân nớc ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn
ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nớc ta thì việc thực hiện chính
sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ
yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nớc chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tơng trợ kinh tế (SEU).
Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trớc thực tế của các nớc
xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trợt dài tới bờ vực của sự
tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phơng
châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trờng chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế rộng rãi ở nớc ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phơng
hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi".

Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và
quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết
hội nghị Trung ơng lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đa ra nguyên tắc hội
nhập kinh tế quốc tế của nớc ta.
Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách
thu hút nguồn lực bên ngoài.
Hai là, tiến hành khẩn trơng, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thơng mại
Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực
AFTA.
Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phơng châm cho
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "... nâng
lên một bớc mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta phải
ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế,
tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội Đảng
16


lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ
và định hớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trờng".
Quán triệt t tởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phơng châm chỉ
đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nớc, Nhà nớc ta lần lợt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến
trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 12 - 1987, Quốc hội nớc ta thông qua Luật đầu t nớc ngoài Việt Nam và
cho đến nay vẫn liên tục đợc bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nớc
và quốc tế từng giai đoạn.
Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ

quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thờng
hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này.
Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999
bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức
AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế,
khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên
minh Châu Âu EU), đồng thời bình thờng hoá quan hệ với Mỹ.
Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với t cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp
tác kinh tế á - Âu (ASEM).
Tháng 11/1998, Hiệp định Thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã đợc ký kết và sau
bao nhiêu nỗ lực, Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 mà không
kèm theo cái gọi là Đạo luật nhân quyền nghị viện và tổng thống Mỹ đa ra. Đây là
bớc tiến thuận lợi trong quá trình gia nhập WTO của nớc ta. Mà trớc đó, cuối năm
1994, Nhà nớc ta đã gửi đơn xin gia nhập vào tổ chức này, hiện đang trong quá
trình đàm phán để đợc kết nạp.
Tháng 9 /2001, tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị Bộ trởng kinh tế các nớc á - Âu
lần thứ 3 (EMM - 3) và Hội nghị Bộ trởng kinh tế ASEAN lần thứ 33 và điều phối
viện Châu á của EMM - 3 và đã hoàn thành một cách tốt đẹp bạn bè đã biết đến một
Việt Nam đang cố gắng bứt lên, một Việt Nam có tiềm năng và nội lực dồi dào,
đón nhận đầu t của các nớc trong khu vực và quốc tế, một Việt Nam sẵn sàng hội
nhập kinh tế quốc tế.
2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay.
17


Cho đến thời điểm hiện nay thì không thể nói rằng Việt Nam mới bắt đầu hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực tế Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hình thức hội
nhập, đặc biệt là ba hình thức cơ bản đã trình bày ở đây chỉ có thể xem nh là một
lát cắt ngang thực trạng quan hệ Việt Nam với các tổ chức các nớc mà có tác động
lớn tới nền kinh tế nớc ta.

2.1. Việt Nam trong lộ trình AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đợc ký hiệp định thành lập năm 1992
giữa các nớc ASEAN nhằm tạo ra bớc ngoặt phát triển kinh tế của các nớc 6 thành
viên. Mục tiêu của AFTA là giảm dẫn thuế quan hầu hết các mặt hàng, trớc hết là
giảm dần hàng công nghiệp chế biến.
Theo sự điều chỉnh đợc cam kết gần đây nhất, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ
các quy định AFTA vào năm 2006, trong khi đối với các thành viên khác, thời hạn
đó là 2003. Ví dụ, đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thờng thì: các loại sản
phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dới 20% vào ngày 01/11/.2001 (nớc
khác là 1998) và sau đó xuống dới 5% vào ngày 01/01/2006 (với các nớc là 2003)
còn các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dới mức 20% sẽ đợc giảm xuống đến
0- 5% vào 1/1/2002 (nớc khác là 2000). Quả thực nớc ta định hớng vợt u đãi khi áp
lực về thời gian đợc nới ra so với các nớc khác đầu năm 1998, ta đã công bố lịch
trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Tiếp đó, luật thuế xuất nhập khẩu
đợc sửa đổi nhằm tạo điều kiện để xây dựng hệ thống thuế nhập khẩu 3 cột (phổ
thông, u đãi chung theo Quy chế trí tuệ quốc - MFN và u đãi đặc biệt) cũng nh các
quy định về thuế chống phá giá và thuế đối kháng, Việt Nam cũng đã cam kết tăng
số dòng thuế sản phẩm có thuế suất dới 5% vào năm 2006.
Nhìn chung cho đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ
trình của CFPT/AFTA. Hết năm 2001 tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA đợc chuẩn bị và bớc đầu đạt đợc những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên cũng có rất
nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm, xử lý đó là: không ít các kết quả đã có chỉ mang
tính thủ tục, tiến bộ giảm thuế suất xuống 5% và dới 5% thực tế vẫn diễn ra chậm.
Mặc dù đến 2006 Việt Nam mới thực hiện đầy đủ AFTA, song sự chậm chạp đó có
nghĩa là việc cắt giảm thuế sẽ dồn vào những năm sau này. Đó là ngay bây giờ
chúng ta phải xét đến tình hình hiện nay. Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đã có hiệu
lực, Trung Quốc đã gia nhập WTO.v.v...
Cũng cần nhìn nhận rằng đối với Việt Nam, trong quan hệ so sánh với các
thành viên ASEAN khác thực hiện đầy đủ AFTA chủ yếu có nghĩa là phải chấp
18



nhạan cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đặc điểm bất lợi hơn. Việt Nam có khoảng
thời gian u đãi hơn nhng nó chỉ có giá trị với điều kiện là có sự nố lực rất lớn trong
việc cải thiện sức cạnh tranh. Quãng thời gian 3 năm quả thực là quá ngắn nếu so
quãng thời gian mà các nớc ASEAN khác đã có để đạt tới sức cạnh tranh hiện tại.
Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa, năm 2006 đã gần kề tình hình
kinh tế trong nớc và khu vực luôn biến đổi. Do đó việc học tập rút kinh nghiệm từ
các thành viên ASEAN là không thể bỏ qua.
2.2. Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ.
Quan hệ Việt - Mỹ là một quan hệ đặc biệt so với các quá trình giữa Việt
Nam và các nớc khác không chỉ bởi vì Mỹ là cờng quốc trên thế giới. Trớc đây
Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh. Mỹ cũng đã từng cấm vận
Việt Nam gây ra một thời kỳ khó khăn vất vả cho cả nớc. Bây giờ Mỹ là một bạn
hàng to lớn, một thị trờng rộng mở và càng đặc biệt khi Hiệp định - Thơng mại Việt
- Mỹ chính thức có hiệu lực từ 10/12/2001.
Đây là Hiệp định đợc đánh giá đồ sộ và có quy mô lớn nhất trong lịch sử đàm
phán Việt Nam. Nó bao gồm các thoả thuận bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế - thơng
mại thế giới WTO. Tính đến ngày đợc ký kết (13/7/2001) Hiệp định đã trải qua 11
vòng đàm phán (vòng 1 bắt đầu vào 9/1996 tại Hà Nội). Nh vậy để thấy rằng Hiệp
định thơng mại Việt - Mỹ có ý nghĩa to lớn nh thế nào đối với nớc ta. Đến nay tuy
thời gian hiệp định có hiệu lực cha dài song có ngời cũng đã nhận thấy sự khác
nhau trong quan hệ hai nớc so với trớc đây. và quan trọng hơn đó là tác động của
Hiệp định đối với kinh tế Việt Nam. Những số liệu sau đây có thể xem là những ví
dụ cụ thể và những tác động đó là:
Đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, xuất
khẩu nớc ta có thể tăng ngày 4% - 5% trong năm 2002, chủ yếu tập trung ngành
dệt, may mặc, dày dép, gốm sữ, sơn mài, chế biến nông sản thực phẩn. Việc cắt
giảm thuế quan song song với việc đợc hởng mức thuế suất thơng mại bình thờng
làm GDP tăng lên 0,23% trong ngắn hạn và 0,26% trong dài hạn. có thể thấy là việc
mở rộng thị trờng xuất khẩu sang Hoa Kỳ làm cho GDP nớc ta tăng một cách bền

vững trong tơng quan dài hạn. tổng tiêu dùng xã hội cùng tăng 0,44% trong khi đó
các ngành công nghiệp bị ảnh hởng lớn, ví dụ, ngành dầu thô giảm 0,34%, ngành
thép giảm 0,29%...
Đối với sổ thu ngân sách Nhà nớc, qua các chỉ số cụ thể của từng ngành, trong
ngắn hạn tăng khoảng 0,05% và 0,11% trong dài hạn. Trong đó chơng trình cắt
19


giảm thuế quan mở rộng xuất khẩu, về lâu dài số thu ngân sách tăng 0,1%. Nếu
phân tích sâu sắc và rộng rài hơn, có khả năng kinh tế Việt Nam thu đợc lợi ích cao
hơn và số thu ngân sách đợc đảm bảo ổn định.
Việc ký kết hiệp định thơng mại Việt - Mỹ là chủ trơng lớn trong đờng lối đổi
mới kinh tế của Đảng và Nhà nớc ta. Hiệp định không nớc đáp ứng đợc lợi ích của
cả hai nớc, mà còn có tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam
và Hoa Kỳ đối với ASEAN, khu vực và thế giới. Chính vì vậy tiếp tục nghiên cứu
ảnh hởng đối với toàn bộ nền kinh tế nớc ta của các chơng trình điều chỉnh chính
sách thơng mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cần đợc u tiên và đầu t
thích đáng.
2.3. Quan hệ kinh tế thơng mại Việt - Trung.
Trung Quốc là ngời bạn láng giềng "khổng lồ" của nớc ta, không chỉ là một đất
nớc rộng lớn với 1,3 tỷ dân mà còn là một cờng quốc về kinh tế. là hai nớc láng
giềng quá trình giao lu buôn bán đã có từ rất lâu và rất sâu sắc.
Thực tệ, ngời tiêu dùng Việt Nam đã quen thuộc với hàng hoá Trung Quốc với
các đặc tính: rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng nhng chất lợng cha cao lắm (thực ra,
đây không phải là do công nghệ kém mà là "chiến thuật" của Trung Quốc). Ngày
10/11/2001, Trung Quốc chính thc là thành viên của WTO. Sự kiện này càng làm
cho nền kinh tế Trung Quốc có cơ hội tăng mạnh tính cạnh tranh đồng thời có tác
động mạnh mẽ đến thị trờng hàng hoá thế giới, trong đó Việt Nam là một trong
những nớc chịu ảnh hởng nhiều nhất, đặc biệt là phải đối mặt với những thách thức
về khả năng giảm kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu t nớc ngoài.

Thách thức về xuất khẩu đối với Việt Nam xuất phát từ khả năng cạnh tranh
của hàng hoá Trung Quốc đợc tăng cờng do đợc hởng những điều kiện thơng mại
bình đẳng và u đãi của WTO. Trớc hết là cơ cấu hàng xuất khẩu hai nớc có tính tơng đồng trùng lặp khá cao nh: dệt may, giày dép, điện tử, linh kiện máy tính, thủ
công mỹ nghệ... mà chi phí lao động và chi phí sản xuất của họ thấp hơn nên sẽ ảnh
hởng đến khả năng tăng xuất khẩu của hàng hoá nớc ta. Việt Nam và Trung Quốc
lại có chung các đối tác lớn nh Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN... Hơn nữa, gia
nhập WTO, khả năng giảm giá của hàng hoá Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra
khi họ từng bớc điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ theo hớng giảm giá so với đô la
Mỹ. Nh vậy, có nghĩa là, trên thị trờng thế giới sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc
sẽ mạnh hơn.
Một thách thức lớn nữa là về thu hút vốn đầu t nớc ngoài (ĐTNN) dù 10 năm
20


qua tỷ lệ thu hút DTNN so với GDP của Việt Nam cao hơn Trung Quốc nhng theo
Ngân hàng Thế giới, thu hút đầu t nớc ngoài của Việt Nam còn thiếu yếu tố bền
vững, hiệu quả và thực chất mới chỉ thể hiện về số lợng. Ngợc lại thu hút đầu t nớc
ngoài của Trung Quốc hớng đợc vào xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián
tiếp. Tuy còn có một số trở ngại: lạm phát cao, nạn quan liêu tham nhũng nhng
Trung Quốc cũng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tạo môi trờng ổn định, thuận lợi
cho các nhà đầu t nớc ngoài nh: thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị,
giảm tiền thuê đất, đơn giản hoá thủ tục đầu t, xúc tiến mạnh mẽ hợp tác song phơng và đa phơng. Trong khi đó Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là tình
trạng thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức
thuyết phục...
Nh vậy có thể thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO đa đến những nguy cơ và
thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc đa ra các giải pháp tính
thuế cũng nh lâu dài là hết sức cấp thiết.
2.4. Việt Nam với Liên minh Châu Âu đã có những bớc khởi đầu từ năm 1975.
Trải qua sự cố gắng, nố lực từ hai phía, đỉnh cao của sự phát triển quan hệ này
đợc đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17/7/1995 khi "Hiệp định

hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu" đợc ký
kết.
ở đây tôi muốn đi sâu vào một số mặt hàng mà Việt Nam hiện đang có lợi thế
trên thị trờng EU và trong cả những năm tới.
Trớc hết là hàng dệt may. Từ 1/1993, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là
một trong hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nớc ta. Hiện nay hàng dệt
may Việt Nam xuất khẩu sang hơn 40 nớc trong đó xuất khẩu sang các nớc EU
chiếm từ 34% đến 38% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may cả nớc.
Thứ hai là hàng thuỷ sản. Theo tổ chức lơng thực và nông nghiệp của Liên
hiệp quốc, đến nay hàng thuỷ sản Việt Nam có mặt trên 49 nớc và khu vực, đặc biệt
Việt Nam tiếp cận ngày càng sâu vào thị trờng Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản cả nớc không ngừng tăng lên từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng bình
quân 17,7%/năm trong đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU là 75,2 triệu USD
năm 1997; 93,4 triệu USD năm 1998 và 105,3 triệu năm 1999. Hiện EU là thị trờng
lớn thứ hai nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam, chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá
hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp.
Mặt hàng thứ ba là giày dép và đồ da. EU hiện là thị trờng nhập khẩu giày dép
21


lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 70% tổng giá trị xuất khẩu giày dép cả nớc.
Việt Nam là một trong năm nớc có số lợng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá
rẻ, chất lợng và mẫu mã chấp nhận đợc. Do kim ngạch xuất khẩu giày dép của nớc
ta vào EU tăng rất nhanh nên EU đã bắt đầu quan tâm đến tăng trởng xuất khẩu
giày dép Việt Nam. EU đã cử đoàn sang làm việc với Hiệp hội Da giày Việt Nam và
khảo sát thực tế tại Việt Nam. Chắc chắn rằng, thời gian tới, với mặt hàng giày da
Việt Nam, EU sẽ có những chính sách phù hợp. Đây là cơ hội quý giá cho kinh tế
Việt Nam nói chung và hàng giày da nói riêng.
Nh vậy, với thị trờng rộng lớn EU, Việt Nam đã có vị thế ở một số mặt hàng.
Đó là nền tảng thuận lợi cho những bớc tiến tham gia và hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam. Vấn đề quan trọng là Việt Nam có nắm lấy đợc cơ hội này hay
không?
2.5. Việt Nam với tổ chức thơng mại thế giới WTO.
Tổ chức thơng mại thế giới đợc coi là tổ chức rộng rãi nhất, cao nhất trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia vào WTO và đợc hởng những
u đãi, quyền lợi mà tổ chức dành cho các thành viên luôn là mục tiêu phấn đấu của
các quốc gia trên thế giới. Mặc dù rằng những quyền lợi đó luôn song sóng với
những cam kết các nớc phải thực hiện. Mà sự bất lợi, hay thách thức luôn nghiêng
về các nớc đang phát triển, hay kém phát triển hơn. Việt Nam cũng là một quốc gia
đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình đàm phán gia nhập
WTO.
Gia nhập WTO, song song với việc mở rộng thị trờng, giảm bớt hàng ràp thuế
quan và phi thuế quan, loại bỏ các hạn chế đầu t ở các nớc công nghiệp phát triển,
Việt Nam cũng phải chấp nhận mở cửa thị trờng, đón nhận sự cạnh tranh gay gắt
của những đối thủ mạnh hơn rất nhiều ngay trên thị trờng nội địa của mình. Thực
chất Việt Nam chủ động trong tiến trình AFTA, trong quan hệ với các nớc, khu vực
trên thế giới nh Mỹ, Trung Quốc, EU... cũng là để rút ngắn vòng đàm phán gia
nhập WTO mà nớc ta đã nộp đơn từ năm 1994.
Việt Nam cũng xác định đợc rằng: WTO chỉ tạo ra cơ hội chứ không phải tự
nó đem lại sự tăng trởng kinh tế. Cho nên xây dựng nền tảng hạ tầng và hệ thống
pháp lý thuận lợi cho đầu t t nhân, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đầu t phát triển
nhân lực đang là phơng châm cho mọi đờng lối kinh tế của Đảng và Nhà nớc. Cho
đến nay, khi Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, cùng với những
bớc tiến vững chắc trong quan hệ với các nớc, khu vực, chúng ta đã tạo những bớc
22


thuận lợi cho tham gia tổ chức Thơng mại thế giới.
3. Những khó khăn của nớc ta trong tiến trình hội nhập
hiện nay.

Qua thực trạng của Việt Nam trong lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu
vực, trong quan hệ kinh tế với các quốc gia, các cộng đồng quốc tế, ta đã nhìn thấy
những hạn chế của nền kinh tế, của hệ thống pháp lý quốc gia gây ra những khó
khăn cho bớc tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Thực ra, những hạn chế đó bắt nguồn từ
hoàn cảnh cụ thể của đất nớc ta hiện nay.
3.1. Trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Việt Nam với hai đặc trng nghèo
nàn và lạc hậu.
Lấy các nớc Châu á và trong khu vực làm mức so sánh thì mặt hàng xuất phát
kinh tế thực tế của nớc ta còn thấp xa. Theo sự sắp xếp của các tổ chức thế giới,
Việt Nam là một trong mời quốc gia nghèo nhất trên thế giới. GDP nớc ta kém xấp
xỉ 30 lần GDP so với GDP của Mỹ. Cần lu ý thêm rằng, vì nghèo và tuy nghèo song
tỷ lệ tiết kiệm nội địa (theo % GDP) của nớc ta rất thấp, chỉ bằng 1/2 đến 2/3 so với
nớc khác, nh Trung Quốc chẳng hạn. Điều này sẽ làm chậm khả năng tăng trởng và
cải tạo cơ cấu kinh tế chỉ dựa trên căn bản nguồn vốn nội địa. Ta cũng dễ dàng nhìn
thấy thực tế quen thuộc là tình trạng thiếu vốn, công nghệ kém lạc hậu của các dự
án, công trình hay các doanh nghiệp, Công ty. Ngoài ra trình độ cơ cấu kinh tế của
ta hiện còn thấp. Phải đến 10 - 15 năm nữa, với nỗ lực thật cao may ra nớc ta mới
đạt đợc mức trung bình hiện tại của các nền kinh tế đang nổi ở Châu á, với trình độ
đó, sự cạnh tranh theo nguyên tắc bình đẳng sẽ đặt Việt Nam vào thế bất lợi hầu
nh là tuyệt đối. Nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ mang tính hiện thực ngày càng cao nếu
chúng ta không có những sự lựa chọn đúng theo hớng đi tắt để đuổi kịp.
3.2. Khó khăn thứ hai bắt nguồn từ đặc trng Việt Nam đang trong quá trình
chuyển sang kinh tế thị trờng.
Chỉ so sánh với các thành viên khác của AFTA thì các nớc đã phát triển thị trờng thành công trớc hàng mấy chục năm. Qua 15 đổi mới, thể chế kinh tế thị trờng
của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó,
hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải "chơi" theo "luật chơi" của thị trờng thực sự
thậm chí ở trình độ cao, gay gắt sâu sắc hơn.
Dờng nh ảnh hởng của nền kinh tế chỉ huy tập trung trớc đây vẫn còn tác
dụng. Là lực lợng chủ đạo trong nền kinh tế song các doanh nghiệp Nhà nớc dờng
nh vẫn trông chờ vào Nhà nớc nh một "cứu cánh" để tồn tại chứ không phải dựa

vào năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình, trên cơ sở nâng cao sức cạnh
23


tranh thực sự. Sức ỳ lớn, tiền trình đổi mới diễn ra chậm, thái độ sẵn sàng hội nhập
cũng nh năng lực cạnh tranh thấp. Khu vực doanh nghiệp t nhân tuy phát triển
nhanh hơn song tiềm lực và sức cạnh tranh còn yếu. Vì vậy hàng hoá Việt Nam phải
đơng đầu với sự xâm nhập ồ ạt, mạnh mẽ của hàng hoá nớc ngoài.
Cũng xuất phát từ một thể chế thị trờng cha hoàn chỉnh đã kéo theo một hệ
thống pháp lý vừa thực hiện vừa sửa đổi, dẫn đến tình trạng chồng chéo giữa các
luật, quyết định, nghị quyết thông t... Một hệ thống hành chính với các thủ tục phức
tạp, rờm rà.
Mời lăm năm đổi mới vẫn cha xoá bỏ đợc nạn quan liêu, tham nhũng hình
thành hệ thống tài chính các doanh nghiệp, Công ty cha trong sạch, hàng năm thất
thoát hàng chục tỷ đồng của Nhà nớc.
Những vấn đề nêu trên đã dẫn đến hàng loạt khó khăn trên tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế về thu hút Đầu t nớc ngoài, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên thị trờng khu vực và thế giới....
Thêm vào đó, cho đến nay vẫn cha có nhận thức đầy đủ cả cơ hội lẫn khó
khăn, thách thức của quá trình hội nhập trong từng cấp, từng ngành, chủ thể kinh tế.
Vì thế, sự u đãi về thời gian những cơ hội đa đến từ các hiệp định, cam kết dễ trở
nên ít có ý nghĩa thực sự. Trách nhiệm về vấn đề này không chỉ của riêng Đảng,
Nhà nớc, các cấp, ngành và bản thân từng doanh nghiệp, từng cá nhân phải tự trang
bị cho mình những hành trang cần thiết, phải tự bắt kịp với xu thế toàn cầu.
3.3. L
m thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế mà vẫn độc lập tự chủ về chính trị, vẫn
giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc?
Đó không phải là vấn đề của riêng Việt Nam ta khi đứng trớc xu thế toàn cầu
hoá, khi đa ra những quyết định hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì hội nhập kinh tế
thế giới đồng nghĩa với việc thực hiện các cam kết, hiệp định mà từ đó mối liên hệ

phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc và chặt chẽ. Trong khi đó, các nớc
t bản, đặc biệt là Mỹ vẫn không ngừng tìm cách cam thiệp vào nội bộ của các quốc
gia, đặc biệt là các nớc đang phát triển hoặc kém phát triển. Quá trình đàm pháp
Hiệp định Thơng mại Việt - Mỹ là một ví dụ. Mỹ đa ra một cái gọi là "Đạo luật
Nhân quyền Việt Nam" buộc Việt Nam ký kết kèm theo hiệp định, trong khi rõ
ràng Hiệp định mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia và Mỹ cũng thừa hiểu rằng Việt
Nam không bao giờ đồng ý với cái đạo luật đó.
Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế sâu sắc sẽ tác động không nhỏ đến giao lu văn
24


hoá, du lịch... giữa các quốc gia, các khu vực. Thực tế một xu thế toàn cầu hoà về
văn hoá đang diễn ra. Văn hoá ở đây bao gồm mọi mặt hoạt động, t tởng trong đời
sống xã hội. Cùng với sự xuất hiện ngày càng tăng nhiều các sản phẩm hàng hoá nớc ngoài, sự có mặt các nhà đầu t nớc ngoài là sự xuất hiện những quan niệm, trào
lu hoàn toàn mới. Một bản sắc văn hoá Việt Nam liệu có đợc giữ vẽng trớc các
"hàng ngoại nhập"?
3.4. Cuối cùng đó là nhân tố bối cảnh quốc tế ngày càng diễn ra phức tạp, khó
lờng.
Sự xuất hiện các tổ chức, cá nhân khủng bố tầm cỡ quốc tế, tình hình chiến sự
diễn ra khắp mọi nơi do sự xung đột giữa các tôn giáo, sắc tộc đang là những vấn
đề đáng lo ngại cho hoà bình và ổn định trên thế giới. Sự kiện ngày 11 - 9 tại Mỹ
cho đến nay vẫn còn là nỗi kinh hoàng ám ảnh không chỉ nhân dân Mỹ mà với cả
nhân dân toàn thế giới.
Bên cạnh đó sự phát triển của khoa học và công nghệ diễn ra không ngừng, tạo
nên những bớc nhảy vọt, đặc biệt là thông tin và công nghệ học làm chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội.
Toàn cầu hoá kinh tế một lần nữa đợc khẳng định là xu thế khách quan, là quá
trình hợp tác gắn liền với đấu tranh phức tạp, đặc biệt là các nớc đang phát triển
(trong đó có Việt Nam) để bảo vệ lợi ích của mình, chống lại áp bức phi lý của các
cờng quốc kinh tế.

4. Những thuận lợi của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Đối mặt với những khó khăn cần giải quyết, không cách nào khác là phải dựa
vào u thế vững chắc mà nớc ta có đợc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đó là:
4.1. Nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trởng khá ổn định.
Trong 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng GDP mỗi năm ổn định ở mức từ 0% 7%. Kinh tế nớc ta vẫn đứng vững trớc các cuộc khủng hoảng khu vực, trên thế
giới. Nhng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997, trong khi các nớc
khác, nh Inđônêxia, cho đến năm 2000 vẫn còn chịu ảnh hởng mạnh mẽ, tốc độ
tăng GDP các năm bị giảm mạnh một cách đáng lo ngại thì Việt Nam vẫn giữ mức
ổn định. Một trong những nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam phát triển vững
chắc, dựa vào nội lực là chính.
Từ sự cố gắng nỗ lực của cả nớc cùng với những chính sách đúng đắn của
Đảng, Nhà nớc, kết quả đáng kích lệ này quả là có ý nghĩa không nhỏ nếu chúng
ta nhìn ra thế giới: nớc Nhật đã qua lâu rồi "giai đoạn thần kỳ" và đang rơi vào tình
25


×