Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Luận văn nghiên cứu mô hình chaebol hàn quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.28 KB, 46 trang )

Mục lục
Phần I. Hàn Quốc
I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1. Đất nước - con người
1.2.Chính trị
1.3.Kinh tế
II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc
2.1.Khái niệm
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol
2.3. Đặc điểm Chaebol
III. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc
3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quyết định
3.2.Vị trí độc quyền trong nước
3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của Chaebol
IV. Đánh giá hoạt động của mô hình Chaebol từ sau khủng hoảng năm 1997
4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ
4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh
4.1.2.Về cơ cấu vốn
4.1.3.Về quản lý công ty
4.2.Những tồn tại chủ yếu
4.2.1.Trên phương diện vĩ mô
4.2.2.Trên phương diện vi mô
4.3.Tình hình hiện nay
4.3.1.Nguy cơ tan rã
4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi
4.3.3.Chaebol thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác

1


Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty
theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol
1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công
của cải tổ
1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách
1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã
hội đối với công cuộc cải tổ
1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách
1.1.5.Tiếp tục tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho khu vực tổng công ty
1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công
ty Việt Nam
1.2.1.Tổng quan về các tổng công ty Việt Nam hiện nay
1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam
II.Sự phù hợp của mô hình Chaebol vào Việt Nam

2


Từ viết tắt



WTO : Tổ chức thương mại thế giới



NICs: Các nước công nghiệp mới




OECD: Hợp tác kinh tế và phát triển



IMF: Quỹ tiền tệ thế giới



CEO: Lãnh đạo cấp cao



GDP: Tổng sản phẩm quốc dân



PPP: Sức mua tương đương



AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN



ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc



FTC: Uỷ ban thương mại Hàn Quốc


3


Lời mởđầu

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt
Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước m ới quan
trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghi ệp
trong nước là rất rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức.
Tham gia sân chơi chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực không
ngừng, phải tự hoàn thiện mình chứ không thể trông chờ vào s ự b ảo h ộ, giúp
đỡ từ phía nhà nước. Một thành phần kinh tế giữ vai trò quan tr ọng về phía
các doanh nghiệp là các tổng công ty lớn, mà hiện nay đa phần là tổng công
ty nhà nước. Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, các doanh nghi ệp
này muốn phát triển thành tập đoàn kinh tế lớn mạnh thì phải học hỏi kinh
nghiệm của các nước đi trước để cải cách có hiệu quả.
Hàn Quốc là một nước láng giềng xa của Việt Nam trong khu vực Châu
Á nhưng những bài học về cải tổ mô hình tập đoàn gia đình của họ - các
Chaebol thì không hề xa lạ với thực trạng tổng công ty của ta. Hàn Quốc hiện
là một trong 30 nước OECD với thu nhập bình quân đầu ng ười cao ( h ơn
16.000 USD) và tốc độ tăng trưởng khá ổn định ( 3 - 4%/ n ăm). Đạt được
thành tựu ấy phải kể đến vai trò rất lớn của các Chaebol và một chính phủ rất
năng động. Sự kết hợp chặt chẽ hai yếu tố: doanh nghiệp và chính phủ m à
chính phủ vẫn giữ vai trò kiểm soát là biện pháp tỏ ra khá hữu hiệu để đưa
nền kinh tế Hàn Quốc đi lên. Nhìn vào thành công của Hàn Quốc và ngẫm
lại thực trạng của mình là một điều cần thiết. Để làm được những k ỳ tích m à
Hàn Quốc đã làm được, chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam còn
phải học hỏi nhiều những kinh nghiệm của người đi trước. Thi ết ngh ĩ, để tìm
ra lối đi cho các tổng công ty với mong ước phát tri ển th ành t ập đo àn l ớn

mạnh thì việc nên làm là nghiên cứu mô hình Chaebol H àn Quốc, tìm ra
những ưu điểm và nét tương đồng để vận dụng linh hoạt và tránh những nhược
điểm mà họ đã mắc phải.
Nhận thấy tính cấn thiết của vấn đề, chúng em đã nghiên cứu đề t ài "
Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho các Tập
đoàn kinh tế Việt Nam" nhằm hiểu rõ hơn về các Chaebol H àn Qu ốc v à t ổng
công ty nước ta trong xu hướng toàn cầu hoá.

4


I.Giới thiệu về Hàn Quốc
1.1.Đất nước - con người
Sau hơn bốn thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, H àn Quốc
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc và được cả thế gi ới biết đến nh ư
" Kỳ tích trên sông Hàn". Hơn 48 triệu người dân Hàn Qu ốc hoàn toàn có
quyền tự hào về những gì đất nước mình làm
được, từ một quốc gia nông nghiệp nghèo vươn
lên một tầm cao mới với vị thế một trong b ốn
con hổ Châu Á và một trong 24 nước OECD.
Hàn Quốc tên chính thức là Đại Hàn Dân
Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên - trải dài
1000km từ Bắc tới Nam ở phần Đông Bắc lục
địa Châu Á. Phía bắc Hàn Quốc giáp với cộng
hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, phía đông
giáp với biển Đông (biển Nhật Bản), phía nam và đông nam giáp v ới eo bi ển
Triều Tiên - ngăn cách Hàn Quốc với Nhật Bản, và phía tây giáp v ới Ho àng
Hải. Thủ đô Seoul là thành phố lớn nhất tập trung nhiều dân c ư, đồng th ời l à
trung tâm kinh tế của cả nước.
Diện tích 99.382km2, trong đó có vô số đảo nhỏ ngoài khơi phía Nam

và phía tây. Đảo lớn nhất trong số này là đảo Cheju (1845 km2). Nổi tiếng với
nhiều dòng sông và ngọn núi kỳ vĩ, người Hàn thường ví đất n ước mình nh ư
một tấm gấm thêu đẹp đẽ. Đỉnh cao nhất của Hàn Quốc là Halla-san, cao
1950 mét nằm trên đảo Cheju. Thủ đô Seoul là trái tim của H àn Qu ốc có con
sông Hangang dài 494km chạy qua, được coi là con đường sinh m ệnh giúp
cho sự phát triển của đất nước.
Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, còn mùa đông lạnh và
khô hanh. Nhiệt độ bình quân khoảng từ 6 độ C đến 16 độ C. Mùa thù l à
khoảng thời gian dễ chịu nhất trong năm vì nhiệt độ mát m ẻ v à b ầu tr ời luôn
trong xanh.
Dân số Hàn Quốc theo số liệu tháng 6 năm 2006 là 48.846.823 người.

5


Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số đã giảm xuống đáng k ể. Năm 2005
tỷ lệ này là là 0,44% so với 3% của những năm 1960. Ước tính đến năm 2020
tỷ lệ gia tăng dân số sẽ giảm xuống chỉ còn 0,01%. Tỷ l ệ t ử vong tr ẻ s ơ sinh
và của phụ sản giảm mạnh. Tuổi thọ trung bình của ng ười dân H àn Qu ốc
được cải thiện đáng kể. Năm 1960 tuổi thọ nam giới là 51, nữ gi ới l à 54. Đến
năm 2000, tuổi thọ trung bình nam giới là 74,4 và của nữ giới l à 81,2.Tuy
nhiên tháp dân số của Hàn Quốc có xu hướng hình chuông vì t ỷ l ệ sinh th ấp
và tuổi thọ trung bình kéo dài. Xu hướng này giống với các nước phát triển.
Phần lớn người dân Hàn Quốc đều có tín ngưỡng tôn giáo. Trong s ố
51% những người theo tôn giáo thì 49% theo đạo Phật, 49% theo Kitô giáo,
1% là tín đồ đạo Khổng, còn lại là tôn giáo khác. Các giá trị đạo Khổng ngày
nay vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày của người dân xứ H àn,
người con trai cả đảm nhận trách nhiệm trụ cột trong gia đình. Thêm v ào đó
tâm lý trọng nam cũng vẫn khá phổ biến ở Hàn Quốc.
Trong thành phần dân cư Hàn Quốc thì người Triều Tiên chiếm đại đa

số. Dân tộc thiểu số duy nhất là bộ phận nhỏ người Hoa.
Nhờ kinh tế phát triển nên chể độ ăn uống và chăm sóc y tế đều được
cải thiện. Trong những năm gần đây, ngân sách dành cho Bộ Y Tế và Phúc
lợi đã tăng lên. Năm 2005, ngân sách Chính phủ dành cho Bộ Y Tế lên tới
8906 tỷ won ( tương đương 9,2 tỷ USD). Tỷ lệ chi cho y t ế trong chi tiêu to àn
hộ gia đình cũng tăng theo. Năm 2003 chi tiêu cho y t ế bình quân đầu ng ười
là 840.133 won, tăng gần 10 lần so với chi năm 1985 chỉ là 85.000 won.
1.2.Chính Trị
Dù ngày nay là một nước cộng hoà nhưng suốt chiều dài lịch s ử, H àn
Quốc đã trải qua nhiều năm tháng dưới chế độ độc tài hay phi dân chủ. Chỉ
mãi đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nguyên tắc dân chủ m ới b ắt
đầu được tôn trọng. Người đứng đầu nước là tổng thống do dân trực tiếp bầu
ra năm năm một lần và chỉ được giữ một nhiệm kỳ duy nhất. Tổng thống là
người hoạch định chính sách và người làm luật chủ yếu. Tổng thống hiện nay
của Hàn Quốc là ông Roh Moo-hyun ( Lỗ Vũ Huyền).
1.3.Kinh tế
Nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế thị tr ường trong đó nhà
nước đóng một vai quan trọng.
Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội của H àn Quốc chỉ
đứng ngang với với các nước nghèo ở Châu Phi và Châu Á thì hiện nay, t ổng
sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới. Năm 2005 GDP

6


danh nghĩa của Hàn Quốc ước đạt khoảng 789 tỷ USD, GDP tính theo s ức
mua tương đương (PPP) ước đạt khoảng 1.097 tỷ USD. Thu nhập bình quân
đầu người tính theo GDP danh nghĩa và theo sức mua tương đương lần lượt l à
16.270 USD và 22.620 USD(xếp thứ 33 và 34 thế giới).
Có rất nhiều yếu tố đã tạo nên sự phú cường của H àn Qu ốc trong đó có

ba yếu tố chính là xuất cảng ngày càng nhiều, mức tiêu th ụ tăng cao v à đầu
tư tăng trong lĩnh vực gia cư. Từ thập niên 1960, chính ph ủ H àn Qu ốc đã có
sự nâng đỡ các tập đoàn kinh tế trong nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
thành phần này đáp ứng chỉ tiêu sản xuất do chính phủ đề ra. Vì vậy,n ền
kinh tế Hàn Quốc chịu sự chi phối của các tập đoàn kinh tế này hay còn được
gọi là các Chaebol.
Năm 1997,nền kinh tế Hàn Quốc bị tác động nghiêm tr ọng của cuộc
khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Trong đó phần lớn hậu quả được cho là do
tập đoàn chaebol đã không uyển chuyển trong việc thực thi các đường l ối
kinh tế. Để tháo gỡ khó khăn,chính phủ đã phải ch ấp nhận vay kh ẩn cấp c ủa
Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF) 57 tỷ USD với những điều kiện ngặt nghèo, tíên
hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng nền kinh tế thị tr ường dân ch ủ, phá b ỏ
quyền lực của các tài phiệt, coi trọng các công ty vừa và nh ỏ, gi ảm s ự can
thiệp của nhà nước, chống câu kết chính trị- kinh doanh, m ặt khác, đã áp
dụng chính sách thắt lưng buộc bụng, huy động quốc dân quyên góp tiền
vàng ủng hộ chính phủ. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong vi ệc kh ắc
phục khủng hoảng trong thời gian 3 năm(1998-2000), trả xong nợ của IMF.
Dự trự ngoại tệ đã đạt 133 tỷ USD(tháng 7/2003).
Bảng 1: Tốc độ tăng GDP qua các thời kỳ (%)
Thời kỳ

198019851990199520001984
1989
1994
1999
2005
Tốc độ tăng 6,51
6,39
7,77
5,18

4,6
GDP
Năm 2005, mức tăng trưởng GDP của Hàn Quốc là 3,9% với tổng s ố
801,2 tỷ USD, mức thu nhập bình quân theo đầu người là 20.400 USD/năm.
Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đóng góp 3,7% GDP, công nghiệp là 40,1% và
dịch vụ là 56,3%. Riêng lĩnh vực công nghiệp, t ốc độ tăng tr ưởng l à 7,3%
trong năm 2005.

7


10

.

8

Trung tâm6 Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia
II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc
T?c đ? tăngGDP
4
2.1.Khái2 niệm :
Chaebol0 (hay Jaebol) là tên của các tổ hợp công nghiệp có quy mô l ớn
19801985199019952000thuộc sở hữu của 1984
gia đình
nhóm 1999
gia đình
1989hoặc1994
2005ở H àn Qu ốc. Đây l à m ột hình
thức khối kinh tế tư nhân của Hàn Quốc. Tiếng Hàn Quốc có nghĩa là “khối

kinh doanh” hoặc tơ rớt (như tơ rớt dầu), thường được dùng với nghĩa “ đại
doanh nghiệp” (tiếng Anh là “big business”).
Các đại doanh nghiệp kiểu “gia đình trị” này đóng vai trò then chốt
trong nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 1960, một số đã trở thành những
tên tuổi nổi tiếng thế giới như Samsung, Hyundai và LG … Mỗi Chaebol bao
gồm từ 40-50 công ty không có liên quan với nhau về m ặt kinh t ế k ỹ thu ật
nhưng thuộc sở hữu của một gia đinh, dòng họ. Về k ết cấu, các Chaebol H àn
Quốc là các khối kinh tế tư nhân, trong đó các thành viên của m ột gia đình
đóng vai trò chủ đạo. Một nghiên cứu của Shin(1985) cho thấy: 26% ch ủ t ịch
của các công ty nòng cốt là các nhà sáng lập, 19% l à con cái c ủa h ọ, 21% l à
tuyển dụng từ nội bộ công tyvà 35% là số tuyển dụng từ bên nngoài.M ặc dù,
hơn 50% CEO không phải là thành viên của gia đình nhưng những vị trí quản
lý trọng yếuở tất cả các công ty đều do người sáng lập nắm giữ. Về nguồn gốc
truyền thống, chúng vẫn là các doanh nghiệp kiểu gia đình phong kiến di thực
lại và phát triển lên dưới chế độ TBCN. Các dòng h ọ sáng l ập ban đầu l à
những tộc trưởng tạo dựng công ty, do đó cơ cấu tổ chức của nó mang hình
thức tập đoàn đẳng cấp.Tuy vậy, nếu xét theo phương thức tác nghiệp, thì m ỗi
Chaebol đều có phương thức quản lý kinh doanh riêng. Ví dụ như Chaebol
Hyundai với phương thức kinh doanh tự thân, tức là dựa chủ yếu vào ngu ồn
lực của bản thân tập đoàn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Còn Chaebol
Daewoo thì theo phương thức liên doanh liên k ết v ới các Công ty n ước ngo ài
thông qua cung cấp các giấy phép kỹ thuật và các hiệp định hợp tác k ỹ thu ật,
nên kết cấu sở hữu kiểu Daewoo mang tính đa nguyên, từ đó mà ảnh hưởng
8


đến địa vị quản lý và lợi ích phân chia trong tập đoàn.
Bảng 2: Danh sách các Chaebol được xếp vào danh m ục 500 công ty l ớn
nhất thế giới năm 1996
Tổng lao

Tổng thu
Lợi
Tổng tài
động sử
Chaebol
nhập(triệu nhuận(triệu
sản(triệu
dụng(người
USD)
USD)
USD)
)
Daewoo
65.160,2
468,3
73091,6
186.314
Sunkyong
44.031,0
313,0
30.170,0
33.299
Samsung
34.286,5
64,7
11.211,8
11.904
Hyundai
27.278,5
7,7

1693,1
707
Samsung
24.710,3
135,3
25.937,1
37.5
Electronics
Samsung
17.530,0
52,2
33.941,1
9.853
Life
Insurrance
LG
17.311,1
26.9
1644,8
3.836
Internationa
l
LG
14.765,5
36,5
16.662,1
65.284
Electronics
Hyundai
14.491,2

65,8
10.131,1
47.174
Motor
(Nguồn: theoUNSTAD,1998)
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol
Giữa thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc là nền kinh t ế nh ỏ v à d ựa
vào nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, vào năm1961, các chính sách của
Tổng thống Park Chung Hee đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá mau lẹ
thông qua hoạt động kinh doanh quy mô lớn. Chính sách công nghiệp hoá
của chính phủ đề ra theo hướng đầu tư mới, nghĩa là chaebol được bảo đảm
vay vốn từ khu vực ngân hàng. Nhờ đó, chaebol đã đóng vai trò chủ đạo trong
việc phát triển các ngành công nghiệp, thị trường mới và sản xuất hàng xuất
khẩu, góp phần quan trọng đưa Hàn Quốc trở thành một trong những con hổ
Đông Á.
Mặc dù chương trình công nghiệp hoá chủ đạo của Hàn Quốc m ới bắt
đầu từ đầu những năm 1960 nhưng sự phân biệt đẳng cấp trong các doanh
nghiệp đã xuất hiện trong nền kinh tế- chính trị từ những năm 1950. Trong
suốt thời kỳ là thuộc địa của Nhật hiếm có người dân Hàn Quốc nào sở h ữu
hoặc điều hành doanh nghiệp quy mô lớn. Sau khi quân Nhật rút khỏi H àn
Quốc năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc chiếm được tài sản t ừ các c ơ
9


sở sản xuất của Nhật, một số trong đó đã phát triển thành Chaebol v ào nh ững
năm 1990.
Khi quân đội lên nắm chính phủ năm 1961, các lãnh đạo quân đội
thông báo rằng họ sẽ nhổ tận gốc nạn tham nhũng từng gây r ắc r ối cho chính
quyền Rhee và loại bỏ những bất công trong xã hội. Nhiều nhà tư bản công
nghiệp lãnh đạo đã bị bắt và buộc tội tham nhũng song chính phủ m ới nhận

thấy cần phải có sự giúp đỡ từ phía các nhà doanh nghiệp để ho àn th ành các
kế hoạch đầy tham vọng về việc hiện đại hoá nền kinh tế của chính ph ủ.
Chính phủ đã đi đến một sự thoả hiệp mà theo đó các lãnh đạo doanh nghiệp
bị buộc tội phải nộp tiền phạt cho chính phủ. Kể từ đó, sự hợp tác giữa các
lãnh đạo doanh nghiệp và các quan chức chính phủ ngày càng chặt chẽ trong
quá trình hiện đại hoá nền kinh tế.
Sự hợp tác giữa Chaebol và chính phủ đóng vai trò thiết y ếu đối v ới s ự
tăng trưởng kinh tế về sau. Do áp lực từ yêu cầu cấp bách đưa n ền kinh t ế t ừ
công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng sang công nghiệp nặng và hoá
chất, công nghiệp sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, các chính khách v à
các nhà lập kế hoạch của chính phủ đã dựa vào ý kiến và s ự hợp tác v ới lãnh
đạo các Chaebol. Chính phủ cung cấp kế hoạch chi tiết về vi ệc phát tri ển
công nghiệp còn Chaebol thực hiện các kế hoạch đó. Tuy nhiên, quá trình
công nghiệp hoá do Chaebol dẫn đầu vô hình chung đã thúc đẩy tập trung
độc quyền vốn và các hoạt động kinh tế sinh lợi vào tay của m ột s ố h ữu h ạn
các tập đoàn kinh tế. Park đã sử dụng Chaebol như một phương tiện tăng
trưởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, đi ngược lại chính sách c ủa Rhee l à
dựa vào nhập khẩu, trên cơ sở đó cũng thiết lập hạn ngạch.
Chaebol có thể phát triển được là nhờ hai nhân tố: các khoản vay vốn
nước ngoài và các đặc ân. Tiếp cận khoa học công nghệ n ước ngo ài cũng
đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của Chaebol trong su ốt th ập niên
80. Với chiêu bài “Chủ nghĩa tư bản dẫn đường”, chính phủ ch ọn ra các công
ty đảm nhận dự án và quỹ dẫn vốn từ các khoản vay nước ngoài. Chính phủ
đảm bảo sự đền đáp mà một công ty nên làm đối với các ch ủ n ợ n ước ngo ài
của mình. Các khoản vốn vay bổ sung luôn sẵn sàng được huy động từ các
ngân hàng trong nước. Vào nửa cuối thập niên 80, Chaebol đã chi phối ng ành
công nghiệp và đặc biệt thịnh hành trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh
và công nghiệp nặng.
Sự phát triển mạnh mẽ của Chaebol bắt đầu từ đầu những năm 1960,
gắn liền với việc mở rộng xuất khẩu của Hàn Quốc. Tính đa dạng hoá c ủa


10


sản phẩm là nhân tố quyết định sự phát triển của Chaebol, các yếu t ố nh ư đổi
mới, sẵn sàng phát triển dòng sản phẩm mới giữ vai trò then chốt. Trong
những năm 1950-1960, Chaebol tập trung vào hàng dệt may; đến giữa thập
niên 70- 80, công nghiệp nặng, hoá chất và quốc phòng chiếm ưu thế, sang
thập niên 90, sự phát triển thực sự diễn ra trong công nghiệp điện t ử và công
nghiệp kỹ thuật cao. Chaebol cũng là nguyên nhân của sự thay đổi từ thâm
hụt thương mại năm 1985 thành thặng dư thương m ại năm 1986. Tuy nhiên,
cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ hơn 14 tỷ USD n ăm 1988 xu ống còn 5
tỷ USD năm 1989.Cuối thập niên 80, Chaebol đã độc lập và vững mạnh về tài
chính nên không cần sự hỗ trợ và bảo đảm tín dụng của chính phủ n ữa. Đến
thập niên 1990, Hàn Quốc là một trong các NICs lớn m ạnh nhất, tự hào về
mức sống có thể so sánh với các nước công nghiệp.
Tổng thống Kim Young-sam đã bắt đầu thử thách Chaebol nhưng cho
đến cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 thì nh ững h ạn ch ế c ủa h ệ
thống này mới bộc lộ rõ nét. Trong số 30 Chaebol lớn nhất thì 11 đã sụp đổ từ
giữa tháng 7 năm 1997 đến tháng 6 năm 1999. Chaebol được đầu t ư ch ủ y ếu
trong lĩnh vực sản xuất hướng tới xuất khẩu, bỏ qua thị trường trong nước và
đặt nền kinh tế trước mọi sự suy sụp của thị tr ường n ước ngoài. Trong quá
trình cạnh tranh lẫn nhau, các Chaebol đã tạo ra công suất vượt quá khả năng
chống chịu của mình: vào thời kỳ tiền khủng hoảng Hàn Quốc với số dân xếp
thứ 26 trên thế giới đã có 7 nhà máy sản xuất ô tô lớn.
Nhiều Chaebol đã mắc nợ chồng chất do rót vốn mở rộng hoạt động của
mình, không chỉ các ngân hàng công nghiệp nhà nước m à cả các ngân h àng
độc lập và các chi nhánh cung cấp dịch vụ tài chính thuộc sở hữu của các
ngân hàng đó. Hậu quả của khủng hoảng khi các Chaebol không tr ả được n ợ
làm cho các ngân hàng không thể thu lại nợ và xoá sổ nợ xấu mà không bị

phá sản. Thí dụ điển hình nhất là sự sụp đổ của tập đo àn Daewoo gi ữa n ăm
1999 với khoản nợ chưa thanh toán là 80 tỷ USD. Vào thời điểm đó, đây là vụ
phá sản doanh nghiệp lớn nhất trong lịch sử. Các cuộc đi ều tra c ũng cho th ấy
nạn tham nhũng lộng hành trong các Chaebol, đặc biệt là hối lộ và k ế toán
không trung thực.
2.3.Đặc để
i m
Mặc dù kinh doanh theo những phương thức khác nhau, nhưng các
Chaebol vẫn có các đặc trưng chủ yếu sau:
-Các Công ty thành viên của Chaebol hoạt động kinh doanh chuyên
ngành hoặc đa ngành (chủ yếu là đa ngành)

11


Mọi quyết định quan trọng của Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp
cao nhất, tức chủ tịch và mọi nhân viên bắt buộc phải tuân th ủ. Tuy nhiên các
quan chức ở các cấp làm việc cũng góp phần quan trọng trong quá trình đi
đến quyết định cuối cùng
Chaebol là các thực thể độc lập và có quyền lực cao trong nền kinh tế,
chính trị, song đôi khi chaebol cũng hợp tác với chính phủ trong các l ĩnh v ực
quy hoạch và đổi mới. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc khuyến khích
cạnh tranh giữa các chaebol trong một số lĩnh vực nhất định để tránh tình
trạng độc quyền tuyệt đối. Vai trò của đại doanh nghiệp đã mở rộng tới vũ đài
chính trị. Năm 1988 một thành viên của một tập đo àn gia đinh ki ểu chaebol,
Chong Mong-jun, Chủ tịch các cơ sở công nghiệp nặng Hyundai, đã thành
công trong việc chạy đua vào Quốc hội. Các nhà lãnh đạo doanh nghi ệp khác
cũng được chọn làm thành viên Quốc hội thông qua hệ thống bầu cử theo tỉ lệ.
Hyundai thậm chí đã góp phần tốt đẹp hoá quan hệ giữa Bắc Triều Tiên và
Hàn Quốc từ năm 2000.

-Về cơ cấu nhân sự trong Chaebol: phân cấp, phân tầng chặt chẽ, rõ rệt
theo kiểu hình tháp. Kiểu tổ chức này nhằm thúc đẩy, khuyến khích các
thành viên trong Chaebol luôn phấn đấu đạt kết quả cao trong vị trí của mình
và phấn đấu đạt địa vị nhất định trong cơ cấu đó, song cũng có hạn chế của
một thể chế quản lý truyền thống kiểu “kim tự tháp”.Cơ cấu các Chaebol Hàn
Quốc đều chịu sự chi phối của gia đình sáng lập và hậu duệ. M ức độ chi phối
tương đối chặt chẽ và chiếm vị trí quan trọng trong tập đoàn. Qua đó chúng ta
thấy trong các Chaebol phương thức quản lý theo quan hệ gia đình và đẳng
cấp cao. Mối quan hệ chặt chẽ và đẳng cấp này đã đưa Chaebol tr ở th ành m ột
“nền cộng hoà” riêng, chi phối và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia.
-Về sở hữu, các Chaebol duy trì theo chế độ sở hữu “huyết thống”, t ức
là thường do các cá nhân sáng lập ra nó kiểm soát và tuân th ủ theo truy ền
thống cha truyền con nối. Các thành viên trong gia đình theo thứ t ự (th ường
là con trai cả của gia đình thay cha nắm quyền kiểm soát và quản lý tài s ản
để kế tục sự nghiệp của cha ông để lại). Theo “Uỷ ban buôn bán công bằng
Hàn Quốc” thì phần sở hữu của các gia đình trong 30 Chaebol l ớn nh ất t ăng
từ 43,8% (1995) lên 44,1 % (1996).
Cơ cấu sở hữu của các Chaebol Hàn Quốc được phân thành 3 loại:
+ Loại thứ nhất: Cơ cấu sở hữu trực tiếp (mô hình của Han Jin Group)
Chủ sở hữu (Công ty
mẹ)

12


Các chi nhánh (Công ty chi
nhánh)

13



+ Loại thứ hai: Cơ cấu Công ty cổ phần (mô hình của Daewoo Group)
Chủ sở hữu
(Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Chi nhánh hay công ty
chi nhánh
+ Loại thứ ba : Cơ cấu sở hữu hỗn hợp (mô hình của Samsung Group)
Chủ sở hữu
(Công ty mẹ)
Công ty cổ phần
Các tổ chức trung gian
Chi nhánh hay công ty
chi nhánh
-Về cơ cấu quyền lực trong chính quyền cũng như trong kinh doanh, các
TNC hoàn toàn nhất quán với các giáo lý của Khổng Tử v à các giá tr ị truy ền
thống Hàn Quốc. Vì vậy, mô hình này dường như chỉ thực hiện được trong
một nền chuyên chế độc tài. Tất cả mọi người dân và xã hội đã ch ấp nhận nó
như một tập quán và truyền thống kinh doanh.
-Về cơ chế điều hành, trong mỗi Chaebol đều có một cơ quan điều
hành riêng, cho dù tên gọi khác nhau, các cơ quan này đều có chức năng giúp
chủ tịch tập đoàn phối hợp hoạt động của các công ty chi nhánh, điều hành
nhân sự, tài chính, đầu tư nghiên cứu và triển khai (R&D). B ằng các ho ạt
động cụ thể, các cơ quan điều hành góp phần nâng cao tính hi ệu qu ả của t ập
đoàn nói chung, các công ty chi nhánh nói riêng. Do quan hệ đẳng cấp, chủ
tịch Chaebol có vai trò chi phối các thành viên khác của hội đồng. Nhìn
chung, chủ tịch Chaebol mang tính độc đoán, gia trưởng, đó là đặc thù nổi bật
nhất trong các tổ chức kinh doanh Hàn Quốc
III. Ưu nhược điểm và tác đ ộng của Chaebol tới nền kinh tế Hàn
Quốc

Sau hơn 30 năm tiến hành công nghiệp hoá, kinh t ế H àn Qu ốc phát
triển nhanh chóng. Hàn Quốc từ một trong những nước nghèo nhất thế giới đã
trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ 11 thế giới.
Trong sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc thì đóng góp của Chaebol l à
vô cùng to lớn. Hiện nay, Hàn Quốc có khoảng hơn 200 Chaebol được coi l à
14


đầu tàu kéo nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng GDP cao chưa từng th ấy.
Một số mặt hàng của Hàn Quốc có khả năng cạnh tranh cao trên thị tr ường
quốc tế. Chính các Chaebol đã tạo nên sự thần kỳ trong xuất khẩu của nước
này với tốc độ tăng 1000 lần trong vong 30 năm qua ( t ừ 100 tri ệu USD n ăm
1965 lên 100 tỷ USD năm 1995). Năm 1994, bốn Chaebol l ớn nhất H àn Qu ốc
là Samsung, Hyundai, Daewoo và LG tuy chỉ chiếm 3% số công nhân toàn
quốc nhưng lại chiếm 57% giá trị xuất khẩu của cả nước. Năm 1995, ba m ươi
Chaebol lớn nhất Hàn Quốc nắm giữ 44,9% tổng lượng hàng hoá tiêu th ụ,
41% trong tổng gía trị tăng và 18,5% tổng số lao động. Các Chaebol giữ vị trí
thống trị trên thị trường của nhiều loại sản phẩm và là nơi cung cấp công ăn
việc làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1997, ba m ươi Chaebol l ớn
nhất Hàn Quốc chiếm 2/3 GNP của Hàn Quốc trong đó 10 Chaebol h àng đầu
chiếm 1/2 GNP.
Sự thành công của Chaebol và những đóng góp của nó vào sự phát triển
nền kinh tế Hàn Quốc là không thể chối cãi. Bên cạnh những thành công
trong mô hình thì vẫn tồn tại những nhược điểm.
3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quy ết
định.
Đây là một đặc trưng khác biệt của các Chaebol Hàn Quốc so với các tập
đoàn kinh tế ở một số nước khác như Đức, Nhật Bản, Mỹ. Ở phận lớn các
Chaebol Hàn Quốc, quyền sở hữu và quyền quản lý không được chia s ẻ gi ữa
các cổ đông mà tập trung trong tay người sáng lập hoặc các th ành viên trong

gia đình họ. Chế độ gia quyết định là chế độ tập trung hoá cao độ. Quyền
quyết định cao nhất thuộc chủ sở hữu hay người sáng lập. Các cổ đông thiểu
số bên ngoài thường không có quyền tham gia hoặc cử đại diện của mình
tham gia vào việc gia quyết định. Các nhà quản lý chuyên nghiệp được thuê
từ bên ngoài có rất ít quyền lực và những quyền lực này không được b ảo v ệ
về mặt pháp lý. Các quyết định khác, đặc biệt là nh ững quyết định liên quan
đến chi phí được thực hiện thông qua thủ tục thảo luận và tư vấn với những
người quản lý ở các cấp dưới và người lao động. Quá trình này về cơ b ản
giống như chế độ ringgi ở các công ty Nhật Bản nhưng nó có khác bi ệt so v ới
các công ty Nhật Bản ở tính hình thức cao. Việc phê chu ẩn quy ết định được
xem như là công cụ thể hiện quyền lực và sự kiểm soát nhi ều h ơn l à s ự tham
gia của những người quản lý cấp dưới. Do ảnh hưởng của đạo Kh ổng, ch ế độ
gia trưởng và lòng trung thành mà trong hệ thống ra quyết định của Chaebol
không có sự chống đối của nhà quản lý cấp dưới. Các quyết định thường đạt

15


được sự nhất trí cao.
Sự tập trung hoá quyền lực cho phép các nhà quản lý cấp cao ở các
Chaebol có thể ra quyết định một cách nhanh chóng, giảm thiểu các chi phí
và phân bổ nguồn lực giữa các công ty chi nhánh đạt được hi ệu qu ả h ơn. Tuy
nhiên nó cũng tạo ra mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa cổ đông nắm quyền
kiểm soát và các cổ đông nhỏ khác. Ví dụ: cổ đông nắm quyền kiểm soát
đều muốn đa dạng hoá kinh doanh, tái đầu tư lợi nhuận vào các l ĩnh v ực kinh
doanh cơ bản, trong khi các cổ đông nhỏ lại muốn đa dạng hoá thông qua th ị
trường vốn. Nhiều cổ đông lớn và các chủ tịch tập đoàn sử dụng tài sản của
tập đoàn vào mục đích riêng như mục đích chính trị làm ảnh hưởng đến l ợi
ích của các cổ đông nhỏ. Các cổ đông nhỏ cũng phải gánh chịu khoản chi
phí bất hợp lý này.

3.2. Vị trí độc quyền trong nước
Chính phủ không ngừng bảo trợ cho các Chaebol vì tính hữu dụng của
chúng trong quá trình công nghiệp hoá. Các Chaebol được hưởng quyền ưu
đãi đặc biệt trong huy động vốn. Các công ty thuộc Chaebol được vay v ốn v ới
mức lãi suất thấp hơn nhiều so với các công ty không thuộc Chaebol và các
công ty vừa và nhỏ. Ví dụ: Năm 1970 lãi suất vay v ốn v ới các công ty thu ộc
Chaebol là 7,2 % trong khi mức lãi suất trên thị tr ường l à 35,2%. Kho ảng
50% tổng các khoản cho vay của ngân hàng nằm dưới sự kiểm soát của chính
phủ là ưu tiên giành cho các Chaebol lớn. Với m ức lãi suất vay v ốn th ấp h ơn
so với các công ty không thuộc Chaebol, các công ty thu ộc Chaebol có l ợi th ế
không công bằng về chi phí, từ đó có thể đưa ra mức giá cạnh tranh m à các
công ty khác không thể theo đuổi. Chính phủ cũng thực hiện bi ện b ảo v ệ s ản
phẩm của các Chaebol bằng kiểm soát hàng nhập khẩu. S ự thành công của
các Chaebol trong các thập kỷ 70, 80, 90 chính l à do chính sách t ạo ra v ị trí
độc quyền cho các Chaebol của chính phủ với mục đích giảm thiểu r ủi ro
bằng việc giảm cạnh tranh trong nước đối với các Chaebol.
Nhờ lợi nhuận độc quyền nên các Chaebol có thể tích luỹ vốn một
cách nhanh chóng với mức độ cao. Do đó, nguồn lực của các Chaebol ngày
càng lớn. Nhưng điều này cũng làm giảm sức cạnh tranh của th ị tr ường trong
nước khi chính phủ chỉ chú trọng bảo hộ cho các Chaebol l ớn. Thêm v ào đó,
việc vay vốn với lãi suất thấp làm cho các Chaebol vay v ốn tr àn lan v à ph ụ
thuộc vào chính phủ về mặt tài chính. Nếu chính phủ cắt giảm các khoản
cho vay hoặc giảm việc bảo hộ về vốn thì các Chaebol sẽ khó có khả năng
thanh toán các khoản nợ và thậm chí là không thể tr ả được n ợ Chaebol d ễ b ị

16


tổn thương nếu có một sự biến động kinh tế hoặc chính tr ị.Chaebol Dawoo l à
một ví dụ tiêu biểu. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 thì

đến năm 1999 hãng này nợ 80 tỷ USD, và người bị cáo buộc đã gây ra s ự s ụp
đổ này là chủ tịch tập đoàn Kim Woo Chung vì khai khống tài sản thêm 30 tỷ
USD và vay nợ trái phép 10 nghìn tỷ won ( 10 tỷ USD) từ nhiều ngân hàng.
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao đã trở thành hiện tượng ph ổ bi ến đối v ới
các Chaebol Hàn Quốc. Các công ty được tự do vay ngắn hạn từ nước ngoài
và từ các tổ chức tài chính khác. Đến cuối tháng 11 năm 1997, tổng nợ nước
ngoài của Hàn Quốc lên tới 156,9 tỷ USD. Khoảng hơn 70% t ổng s ố n ợ n ước
ngoài là của các tổ chức tài chính. Vào thời điểm trước khủng hoảng m ột s ố
Chaebol lớn đã có tổng số nợ vượt quá 1000% vốn tự có của chúng. Tỷ lệ nợ
trên tổng tài sản trung bình của 30 Chaebol hàng đầu H àn Qu ốc v ào th ời
điểm cuối năm 1997 là 518,9%. Tỷ lệ mức nợ này không chỉ lớn về quy mô
mà còn trong quan hệ so sánh với tổng giá trị tài s ản của m ỗi t ập đo àn v à
trong quan hệ so sánh với tổng GDP của nền kinh tế.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ của các tập đoàn Hàn Quốc trong m ối quan hệ so
sánh với GDP
Đơn vị tính: 1000 tỷ won

17


Nguồn: Hahm (1998)
Màu xanh biểu thị số
Màu đỏ là GDP
Biểu đồ trên cho thấy tỉ lệ nợ của các Chaebol của Hàn Quốc so với GDP
đạt mức thấp nhất thời kỳ 1987-1988 và có xu hướng tăng dần.
Dươí đây là Biểu đồ 2 thể hiện tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của 10 Chaebol
hàng đầu Hàn Quốc
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của 10 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc năm 1997
(%)
Chú thích:


18


Nguồn Kim Joon Kyung, 1998
Để giảm sự phụ thuộc về vốn vào chính phủ, các Chaebol lớn đã thực
hiện đa dạng hoá vào các ngành như tài chính phi ngân hàng, thương m ại là
những ngành không phải là lĩnh vực công nghiệp trọng điểm trong quá trình
công nghiệp hoá. Ởthời để
i m đầu năm 1980, mỗi Chaebol trong số 10 Chaebol
lớn nhất đều sở hữu ít nhất một công ty trong lĩnh vực tài chính ngân h àng.
Đầu năm 1994, mỗi Chaebol đã có trung bình 4 công ty ho ạt động trong l ĩnh
vực này với số vốn ngày càng tăng. Chaebol LG đầu những năm 70 chỉ có một
công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhưng đến năm 1994 con số này l à
13 trong đó có 5 công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng.
Sam Sung cũng là một Chaebol đã đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Nếu năm
1980, Sam Sung đã đầu tư 22% tổng số tài sản của mình nh ưng đến n ăm
19


1988 con số này là 44,9%. Đến năm 2002, 30 Chaebol hàng đầu đã sở hữu 18
trong số 30 công ty bảo hiểm và 13 trong số 38 ngân hàng th ương m ại. Nhi ều
Chaebol đã đạt được mức độ tăng trưởng cao nhờ đầu tư vào lĩnh vực tài chính
phi ngân hàng, nhờ đó sức mạnh kinh tế của chúng ngày càng lớn. Do vậy,
các Chaebol có thể gây áp lực đối với chính phủ cả trên ph ương di ện kinh t ế
lẫn chính trị.
3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của các Chaebol
Khuynh hướng đa dạng hoá của các Chaebol xuất hiện khi chính sách
công nghiệp hoá chú trọng vào công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất
của tổng thống Park Chung Hee được thực hiện. Để khuyến khích các

Chaebol tham gia đầu tư vào hai ngành này, chính phủ đã đưa ra những ưu
đãi đặc biệt về thuế và tài chính: các công ty được vay vốn thông qua ngân
hàng nhà nước với lãi suất thấp, nếu công ty không có khả năng thanh toán
thì chính phủ sẽ can thiệp để công ty tiếp tục hoạt động. Chính nh ững đi ều
kiện thuận lợi này khiến các Chaebol chạy theo việc đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh, tham gia vào những ngành trọng điểm được chính phủ bảo trợ.
Samsung là ví dụ tiêu biểu, nổi tiếng trong ngành công nghiệp nhẹ với tổng
số vốn đầu tư vào ngành này chiếm 66% tổng giá trị tài sản nhưng đầu những
năm 70 Samsung đã đầu tư vào ngành công nghiệp nặng. Đến năm 1984, giá
trị đầu tư vào ngành này chiếm 33% tổng tài sản trong khi đầu tư vào ngành
công nghiệp nhẹ chỉ còn 17% ( Koo và Kim, 1992).
Đa dạng hoá một mặt tạo nên công ăn việc làm cho hàng triệu người
lao động. Đến năm 2006, số lượng nhân viên của Samsung lên đến 138.000
người. Việc mở rộng quy mô các công ty có thể làm giảm chi phí giao dịch
vì giao dịch giữa các công ty trong cùng Chaebol thấp hơn là giao dịch trên
thị trường. Chi phí giao dịch thấp sẽ tiết kiệm được chi phí kinh doanh.
Nhưng bên cạnh đó việc đa dạng hoá nhằm theo đu ổi mục đích m ở
rộng quy mô đã khiến các Chaebol chỉ chú trọng mở rộng quy mô và m ở r ộng
thị trường mới chứ không chú trọng đầu tư nâng cao năng suất. Để xâm nhập thị
trường hàng tiêu dùng quốc tế mà vốn không có lợi thế về kỹ thuật và công nghệ
cao, các Chaebol đa dạng hoá vào những ngành có thể khai thác những lợi thế
về nguồn lao động và mức thuế thấp để cạnh tranh bằng mức giá thấp chứ không
đầu tư lớn vào nghiên cứu kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm. ỞĐông Nam
Á vàẤn Độ, công ty LG hiện đang có mặt trong ng ành công nghi ệp hoá d ầu, l ọc
dầu và phát triển địa ốc cùng lúc với các ngành nghề truyền thống của h ọ v ề

20


điện tử và các loại máy thu hình, sản phẩm nghe nhin, đi ện gia dụng, máy

tính và thiết bị văn phòng tự động. Gần đây, LG đã bỏ ra 351 triệu USD để
mua lại 58% cổ phần của công ty sản xuất máy tính truyền hình Zenith
Electronics. Trên thị trường được bảo hộ ở quê hương, LG vẫn thương hi ệu s ố
một về máy truyền hình, tủ lạnh và máy giặt nhưng trên thị trường qu ốc tế
các giòng sản phẩm mở rộng của họ đang nằm trong tình trạng bất lợi nặng
nề.

21


IV.Đánh giá hoạt động của mô hình Cheabol từ sau khủng ho ảng
1997
Trong số những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng kinh t ế H àn
Quốc năm 1997, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng là do tỷ lệ nợ trên tổng
tài sản quá cao và các kết quả hoạt động kinh doanh không lành m ạnh của
nhiều công ty lớn. Điều này đòi hỏi phải thực hiện tái cơ cấu Chaebol. Dưới
sự giám sát chặt chẽ của IMF, chương trình cải tổ nền kinh tế bước đầu đã
đạt được những thành tựu đáng kể.
4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ
Công cuộc cải tổ một số Chaebol đã đạt được những thành tựu nhất định,
thể hiện ở những khía cạnh sau:
4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh
Vài năm đầu tiên sau khi công cuộc cải tổ được bắt đầu, số lượng các chi
nhánh bình quân của các Chaebol đã giảm 22,9%. Năm 2000 Daewoo ch ỉ
còn lại hai chi nhánh so với năm 1999 có 34 chi nhánh, còn Hyundai đã giảm
chi nhánh của mình từ 62 xuống còn 35.
4.1.2.Về cơ cấu vốn
Nhờ thay đổi đáng kể của môi trường kinh tế vĩ mô từ sau khủng hoảng,
tác động hỗ trợ của Chính Phủ cũng như những cố gắng của các t ập đo àn.
Chương trình tái cơ cấu nợ đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Đến

cuối năm 2000 tỷ lệ nợ của 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc gi ảm xu ống còn
171%. Tuy nhiên theo kết quả khảo sát của Uỷ ban Tư vấn tài chính (FSS)
thực hiện tháng 6 năm 2001 thì tỷ lệ nợ trên tổng tài s ản trung bình c ủa b ốn
Chaebol lớn nhất năm 2001 vẫn còn rất cao là 327%. Mức chi tài chính của
các công ty không giảm và mức doanh thu thì tăng không đáng kể. Nguyên
nhân chủ yếu của sự tăng doanh thu là do chính sách giảm lãi suất vay vốn
của chính phủ và sự cho phép sa thải lao động dư thừa ở các doanh nghiệp
khiến chi phí sản xuất giảm. Và để giảm tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, các
Chaebol đã tăng cường phát hành phiếu nợ và tăng cường đầu t ư chéo gi ữa
các công ty thành viên của Chaebol hơn là giảm tổng nợ.
4.1.3.Về quản lý công ty
Trong khu vực quản lý công ty nói chung và đối với các Chaebol nói
riêng, quan điểm " quy mô lớn để không bị phá sản" đã được chấm dứt. Chiến
lược kinh doanh của các Chaebol tập trung hơn vào các mục tiêu khả năng
sinh lợi hơn là thị phần. Các cổ đông là tổ ch ức kinh doanh bao g ồm ngân
hàng và các thể chế tài chính đã bắt đầu thực hiện quyền bầu cử của mình.

22


Do số lượng các tổ chức đầu tư ngày càng tăng nên vai trò c ủa h ọ trong qu ản
lý cũng được tăng lên đáng kể. Các nguyên tắc kế toán và tính minh b ạch ở
các Chaebol cũng được cải tiển một bước.
4.2. Những tồn tại chủ yếu
Tuy đạt được những thành công rực rỡ nhưng mô hình cheabol cũng
không tránh khỏi những khuyết điểm và yếu kém trong cơ chế quản lý.Chính
những khuyết điểm và yếu kém này đã khiến cho các cheabol-được coi l à
những đại gia thống trị nền kinh tế phải lao đao và có nguy cơ bị tiêu diệt khi
mà cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 diễn ra và có tác động đến
phần lớn các nước trong khu vực.

4.2.1.Trên phương diện vĩ mô
-Sự bảo trợ của Chính phủ đối với các tập đoàn trong những hoàn cảnh
nhất định là cần thiết nhưng sự bảo trợ quá mức sẽ làm yếu đi sức cạnh tranh
của các tập đoàn. Thêm vào đó việc quy định giới hạn trần đầu tư vào các
kinh doanh mới và tỷ lệ nợ trên tổng tài sản như nhau (200%) đối v ới các
Chaebol bất kể chúng hoạt động ở lĩnh vực nào và khả năng tài chính của
công ty như thế nào là không cần thiết. Mỗi công ty có đặc đi ểm riêng v ề
hoạt động kinh doanh và năng lực quản lý của mình nên không thể có m ột cơ
cấu vốn tối ưu duy nhất cho tất cả các công ty. Yêu cầu này có thể làm hạn
chế khả năng đầu tư của các Chaebol nhằm khai thác cơ hội kinh doanh ở
những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn.
-Sự phân biệt chính sách đối với các Chaebol theo quy mô của chúng
tạo nên sự không công bằng. Những yêu cầu đầu tư đối với các Chaebol có
quy mô lớn có thể làm các Chaebol khác đứng ở thứ hạng thấp h ơn không
muốn trở thành một trong số 50 Chaebol hàng đầu vì để giảm thiểu những
điều khoản ngăn cấm mà chính phủ áp dụng đối với 50 Chaebol hàng đầu.
-Cải tổ khu vực công ty chậm chạp trong đó bao gồm cả các công ty
thuộc Chaebol. Mặc dù Hàn Quốc thực hiện cải tổ công ty với tiến triển nhanh
hơn so với một số quốc gia khác do một số nguyên nhân như quyết tâm c ải t ổ
cao, nhưng nhìn chung, công cuộc cải tổ khu vực công ty nói chung và các
Chaebol nói riêng tiến triển một cách chậm chạp. Có nhiều nguyên nhân d ẫn
đến tình trạng này như yếu kém về nghiệp vụ ngân hàng trong việc đánh giá
các khoản nợ, những phản ứng của giới Chaebol, hệ th ống giám sát vi ệc th ực
thi Luật phá sản...
-Mối quan hệ giữa chính phủ - ngân hàng - Chaebol về cơ bản v ẫn

23


chưa thay đổi. Trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, khi mới ra đời và quy mô

còn nhỏ, Chaebol phụ thuộc vào chính phủ và buộc phải tuân th ủ nh ững yêu
cầu của chính phủ. Khi đã lớn mạnh, các Chaebol buộc chính ph ủ ban h ành
các chính sách có lợi cho họ. Khi công cuộc cải tổ được bắt đầu thực hiện,
các Chaebol đã tỏ thái độ chống đối các chính sách của Chính phủ. Họ chỉ
thực hiện những chính sách có lợi cho họ như sa thải lao động, còn nh ững
chính sách khác họ thường không thực hiện. Khi các Chaebol phản ứng về
những quy định đầu tư, chính phủ đã đáp ứng lại yêu cầu của họ, thực hiện hạ
thấp giới hạn trần đầu tư. Thông qua các ngân hàng của mình, chính ph ủ
bơm tiền từ ngân sách nhà nước cho các ngân hàng và các tổ ch ức t ài chính
yếu kém nhằm làm sạch bảng cân đối tài sản của các ngân hàng này nh ư đã
làm trước đây. Nếu chính phủ không chấm dứt những hỗ trợ này thì các
Chaebol sẽ vẫn tiếp tục vay nợ nhiều hơn nữa, và người gánh chịu h ậu qu ả
không ai khác lại là người dân. Cuối năm 2003, khi hầu hết các công ty kinh
doanh thẻ tín dụng có nguy cơ bị phá sản thì chính phủ đã khuyến khích
các ngân hàng lớn tham gia cứu giúp các hãng phân phối thẻ tín d ụng nh ằm
không gây phản ứng dây chuyền cho nền kinh tế đang lâm vào tình tr ạng
khủng hoảng. Cho đến nay vẫn chưa có những thay đổi cần thiết trong m ối
quan hệ giữa chính phủ, ngân hàng và các Chaebol. Chính phủ vẫn tiếp tục
ép buộc các ngân hàng bằng các mệnh lệnh của mình. Mối quan h ệ c ủa các
ngân hàng và Chaebol vẫn chịu sự kiểm soát của chính phủ.
Biểu đồ 3: Lượng tiền chính phủ bơm vào các ngân hàng và các tổ chức
tài chính thời kỳ 1998- 2002
Đơn vị tính: Nghìn tỷ Won

24


Nguồn: Báo The Korea Time.
4.2.2.Trên phương diện vi mô
Trên phương diện vi mô, chương trình cải tổ mặc dù có nh ững k ết qu ả

khởi đầu khả quan nhưng cũng đã tỏ ra không có hiệu quả. Ngoài nhiệm vụ
giảm tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, các nhiệm vụ khác như cải tiến quản lý tập
đoàn cũng chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
-Cung cách quản lý của các Chaebol không có mấy thay đổi. Các giám
đốc điều hành là những người được thuê từ bên ngoài thường nắm rất ít cổ
phần nên mục tiêu của họ rất khác so với mục tiêu của các cổ đông. Họ
thường chỉ chú trọng đến những lợi ích không phải bằng tiền như sự tín
nhiệm, chức vụ. Họ có khuynh hướng ưu tiên cho những thành công của công
ty trong ngắn hạn để chứng tỏ khả năng của mình, trong khi đó quy ền l ợi c ủa
25


×