Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TỔNG hợp đề THI môn TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.93 KB, 19 trang )

Đề 1: Phân tích đk ra đời và 2 thuộc tính của hàng hóa SLĐ. Tại sao nói hh SLĐ là
chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn chung của tư bản.


Điều kiện ra đời:

Theo C.Mác, SLĐ là tòa bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người,
trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm
cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.
Trong bất cứ xã hội nào, SLĐ cũng là đk cơ bản của sản xuất, nhưng k phải trong
bất kỳ đk nào, SLĐ cũng là hàng hóa. SLĐ chỉ có thể trở thành hàng hóa trong
những đk lịch sử nhất định:
-

Người có SLĐ phải được tự do về thân thể, làm chủ được SLĐ của mình và
có quyền bán SLĐ của mình như một hàng hóa. Điều này có nghĩa là SLĐ
của người nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta thuộc sở hữu của

-

chủ nô, anh ta cũng k có quyền bán SLĐ của mình.
Người có SLĐ phải bị tước đoạt hết mọi TLSX và TLSH, họ trở thành người
“vô sản”, buộc phải bán SLĐ để tồn tại. Điều này có nghĩa là SLĐ của ng
thợ thủ công cũng k phải hàng hóa, vì anh ta vẫn có TLSX để tạo ra sản
phẩm nuôi sống mình, chứ k phải bán SLĐ để sinh tồn.

Sự tồn tại đồng thời của hai đk nói trên tất yếu biến SLĐ thành hàng hóa. Tuy
nhiên, trong các hình thái xã hội trước CNTB chỉ có sản phẩm lao động mới là
hàng hóa. Tức là chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất
định nào đó, khi các hình thái xã hội cũ bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những đk trên
ra đời.




2 thuộc tính hàng hóa SLĐ:
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa SLĐ cũng có 2 thuộc tính :
giá trị và giá trị sử dụng.




Giá trị hàng hóa SLĐ:
Giá trị hàng hóa bằng hao phí LĐXH để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá
trị hàng hóa SLĐ cũng bằng hao phí LĐXH để sản xuất ra SLĐ. SLĐ
chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra
năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng TLSH nhất
định về ăn, mặc, ở, học nghề…ngoài ra phải thỏa mãn nhu cầu gia
đình và con cái anh ta nữa. Có như vậy SLĐ mới đc sản xuất và tái

o

o
o


sản xuất liên tục.
Gía trị hh SLĐ bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Lượng giá trị hàng hóa SLĐ do 3 bộ phận hợp thành:
Gía trị TLSH về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sx SLĐ, duy trì
đs bản thân người CN.
Gía trị TLSH cho gia đình, con cái người CN.
Phí tổn đào tạo người CN.

Gía trị sử dụng hàng hóa SLĐ:
Hàng hóa thông thường sẽ mất dần giá trị và giá trị sử dụng trong quá
trình tiêu dùng. Thế nhưng, SLĐ là 1 loại hàng hóa đặc biệt, nó tạo ra
giá trị thặng dư khi bị tiêu dùng. Trong quá trình lao động, người LĐ
sử dụng SLĐ để sx 1 hàng hóa khác, đó đồng thời cũng là quá trình
tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị hàng hóa SLĐ.
 Gía trị hh SLĐ có tính đb, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là
bản thân nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của nó. Nhờ
đó mà tiền tệ có thể biến thành tư bản.



Lý giải:

Đề 2: Phân tích nguồn gốc của lợi nhuận (so sánh với GTTD) và 5 đặc điểm của tư
bản độc quyền.


Nguồn gốc của lợi nhuận:


Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có
khoảng cách chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giả định là trao đổi
ngang giá) thì nhà tư bản không những bù đắp số TB ứng trước mà còn thu
về một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền này đgl lợi nhuận.
Gía trị hàng hóa W = c + v + m
Chi phí sản xuất k = c + v
 Lợi nhuận thu được: p = W – k = m.
 Nguồn gốc của lợi nhuận chính là giá trị thặng dư. Lợi nhuận chẳng qua
chỉ là 1 hình thái thần bí hóa giá trị thặng dư. GTTD hay lợi nhuận chính

là phần dôi ra của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất, đều có nguồn
gốc từ sức lao động của người công nhân tạo ra trong quá trình sx, bị nhà
tư bản chiếm đoạt.
Đề 3: Phân tích nguồn gốc lợi nhuận TBCN, TBTN, lợi tức cho vay và địa tô.



Lợi nhuận TBCN:
Lợi nhuận TBTN:
Nguồn gốc lợi nhuận của TBTN là một phần lợi nhuận do TBCN nhượng lại
cho TBTN do TBTN đã đảm nhiệm 1 phần trong khâu bán hàng của TBCN.
Mặt khác, khi tham gia lưu thông TBTN phải trả thêm cả chi phí lưu thông,
bao gồm: chi phí lưu thông thuần túy(thuê người bán hàng, thuê địa điểm
bán hàng…) và chi phí lưu thông tiếp tục quá trình sản xuất hàng hóa (đóng
gói, vận tải, bảo quản,…). Chi phí lưu thông thuần túy không tạo ra thêm
GTTD, nhưng chi phí lưu thông tiếp tục vẫn tạo ra thêm GTTD, tức là tạo ra



thêm lợi nhuận cho TBTN.
Lợi tức cho vay:
Nhà TB cho vay chuyển tư bản tiền tệ nhàn rỗi của mình cho nhà TB đi vay
sử dụng. Khi ấy tiền nhàn rỗi (của TB cho vay) biến thành tư bản hoạt động
(của TB đi vay). Trong quá trình vận động, tư bản hoạt động sẽ thu đc lợi
nhuận bình quân. Nhưng vì để có tư bản hđ trước đó anh ta đã phải đi vay,


nên nhà TB đi vay không được hưởng toàn bộ phần lợi nhuận bình quân, mà
phải trích ra một phần để trả cho nhà TB cho vay dưới hình thức là lợi tức.
Như vậy, lợi tức cho vay chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư

bản đi vay phải trả cho TB cho vay, căn cứ vào lượng TB tiền tệ mà trước đó
TB cho vay đã bỏ ra cho TB đi vay sử dụng.
Nguồn gốc của lợi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do CN làm thuê sáng


tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Địa tô:
Giống như các nhà TBCN phải thuê địa điểm sản xuất và vay vốn kinh
doanh, các nhà TBNN cũng phải thuê đất, thuê ruộng của địa chủ để sản
xuất nông nghiệp. Và các nhà TBKD trong NN cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân. Tuy nhiên, vì phải thuê ruộng của địa chủ nên ngoài lợi
nhuận bình quân, nhà TBKD trong NN còn phải thu thêm lợi nhuận siêu
ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài ( do ruộng đất
và độ màu mỡ của nó có tính cố định;và cấu tạo hữu cơ trong NN thường
nhỏ hơn cấu tạo hữu cơ trong CN). Phần lợi nhuận siêu ngạch này được trả
cho địa chủ dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.
Vì vậy, thực chất, địa tô TBCN chính là một hình thức chuyển hóa của giá
trị thặng dư siêu ngạch, có nguồn gốc từ GTTD do người công nhân nông
nghiệp tạo ra trong quá trình lao động sản xuất.

Đề 4: Phân tích và so sánh phạm trù GTTD và lợi nhuận. GTTD được biểu hiện cụ
thể dưới những hình thức nào?


GTTD là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị SLĐ do công nhân



làm thuê tạo ra và bị nhà TB chiếm không.
Giữa GT hh (W=c+v+m) và chi phí SX TBCN(k=c+v) luôn luôn có khoảng

chênh lệch, cho nên sao khi bán hàng theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,


nhà TB không những bù đắp được số TB ứng trước mà còn thu về được 1 số




tiền lời ngang bằng m, đgl lợi nhuận.
Giống nhau: Cả p và m đều có chung nguồn gốc là kq lđ không công của
người CN.
Khác nhau:
• Phạm trù GTTD phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kq


của sự chiếm đoạt lđ k công của CN.
Phạm trù lợi nhuận là 1 hình thức che đậy GTTD. Nó phản ánh sai
lệch bản chất QHSX giữa nhà TB và CN làm thuê, khiến người ta lầm
tưởng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông, do vốn và tài kinh
doanh của nhà TB mà có. Nhưng thực chất lợi nhuận vẫn là do người
CN tạo ra trong quá trình sản xuất, bị sự không nhất trí về lượng giữa
p và m che đậy đi nguồn gốc của nó.

Đề 5: Phân tích mlh giữa 2 thuộc tính của hàng hóa với tính 2 mặt của LĐ. Ý nghĩa
việc nghiên cứu mqh trên.


2 thuộc tính của hàng hóa:
• Giá trị sử dụng: là công cụ hay tính có ích của hh có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. GTSD của hh do thuộc tính tự nhiên, do

vật chất quyết định. Đây là một phạm trù vĩnh viễn. Mỗi hàng hóa có
thể có 1 hay nhiều GTSD nhưng con ng k thể phát hiện ra ngay được
ở cùng 1 thời điểm mà được phát hiện dần dần với sự pt của KHKT.


GTSD của hh chỉ được thể hiện đầy đủ trong quá trình tiêu dùng
Giá trị của hàng hóa: là hao phí LĐXH của người sx kết tinh trong
hàng hóa. GT hh là một phạm trù lịch sử, biểu hiện QHSX XH. GT hh
ẩn giấu bên trong hàng hóa, là cơ sở so sánh những hh có GTSD khác



nhau trong trao đổi mua bán.
Thuộc tính tự nhiên của hh là GTSD, thuộc tính xã hội của hh là GT.
Bất kỳ vật phẩm nào muốn trở thành hàng hóa đều phải có đầy đủ 2


thuộc tình này, nếu thiếu 1 trong 2 thì k thể là hh. Mặt khác, mục đích,
thời gian thực hiện và không gian thực hiện GTSD và GT là khác
nhau.
 2 thuộc tính của hh có mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất vừa


mâu thuẫn với nhau.
Sở dĩ hh có 2 thuộc tính trên là do LĐ của ng sản xuất rah h có tính 2 mặt.
• Lao động cụ thể: là LĐ có ích của người sx hh dưới hình thức cụ thể
của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi LĐCT tạo ra một
loại GTSD nhất định. LĐCT càng nhiều loại càng tạo ra nhiều GTSD
khác nhau. Tuy nhiên LĐCT không phải là nguồn gốc duy nhất của
GTSD. GTSD của hh do 2 nhân tố hợp thành là vật chất và lao động.

LĐCT của con người chỉ có thể thay đổi hình thức tồn tại của vật chất,


làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người.
Lao động trìu tượng: là LĐ của người sx hh nếu coi đó là sự hao phí
trí óc, sức thần kinh, và sức cơ bắp nói chung của con người. k tính
đến hình thức cụ thể của nó. LĐTT tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự
ngang bằng trong trao đổi. Nó là 1 phạm trù lịch sử của sx hh. LĐTT
là yếu tố duy nhất cấu thành GT của hh. GT của mọi hh chỉ là sự kết



tinh của LĐTT.
Ý nghĩa: to lớn về mặt lý luận.
• Tạo lập cơ sở khoa học thực sự cho lý thuyết LĐ SX.
• Giải thích hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, ví dụ như sự vận
động trái ngược khi khối lượng của cải vật chất tăng lên đi liền với


khối lượng giá trị của nó giảm xuống.
2 thuộc tính của hh là 2 mặt đối lập trong 1 hh thống nhất. LĐCT và




LĐTT cũng là 2 mặt đối lập của 1 LĐ thống nhất.
Nhận biết được lao động trìu tượng tạo ra giá trị hh.
Giải thích được nguồn gốc thực sự của GTTD, phân tích được bản
chất TB bất biến và TB khả biến.





Mang lại cơ sở vững chắc cho học thuyết GTTD và các học thuyết sau
này.

Đề 6: Giá trị, giá cả sản xuất và giá cả độc quyền.


Giá trị của hàng hóa: là một trong 2 thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Muốn
tìm hiểu giá trị của hh thì phải đi từ giá trị trao đổi của hàng hóa. Giá trị trao
đổi của hàng hóa là mối quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ mà theo đó những
GTSD khác nhau được đem ra trao đổi. Giá trị của hàng hóa là LĐXH của
người sx kết tinh trong hh. Giá trị trao đổi của hh là hình thái biểu hiện ra



ngoài của giá trị hàng hóa.
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân
thì giá trị hh chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí
sản xuất (k) cộng với lợi nhuận bình quân (p ngang). Đk để giá trị hh chuyển
hóa thành giá cả sản xuất:
- Đại CN cơ khí TBCN phát triển.
- Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sx.
- Quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang
ngành khác.
Trong giai đoạn cạnh tranh tự do của CNTB, khi GTTD chuyển hóa
thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hh chuyển hóa thành giá cả sx, quy



luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả.
Giá cả độc quyền: Khi các tổ chức độc quyền chiếm được một vị trí

nhất định trong nền kinh tế, họ có thể áp đặt giá cả độc quyền: giá cả độc
quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó k có
nghĩa là quy luật giá trị k còn hđ. Thực chất giá cả độc quyền vẫn k thoát ly
và k phủ định cở sở của nó là giá trị hh. Các tổ chức độc quyền thi hành
chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm lấy một phần gtrị và GTTD
của người khác mà thôi. Nếu xem xét trên toàn bộ nền kinh tế TBCN thì


tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Tức là trong giai đoạn CNTBĐQ,quy
luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
Đề 7: Phân tích đk ra đời và ưu thế của phát triển sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này.
Lịch sử ra đời của nền sx xh đã và đang trải qua 2 kiểu tổ chức kinh tế : sản xuất tự
cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
Sản xuất tự cấp tự túc: kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sp lđ nhằm thỏa mãn trực tiếp
nhu cầu ng sx.
Sản xuất hàng hóa: kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sp được sản xuất ra để trao đổi
mua bán trên thị trường.



Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi hội tụ đủ 2 đk:
Có sự phân công lao động:
- Phân công lao động là sự phân chia lđ xh một cách tự phát thành các
-

ngành các nghề khác nhau.

Phân công lđ => chuyên môn hóa lđ => chuyên môn hóa sản xuất => mỗi
ng sx sẽ làm 1 công việc cụ thể, một khâu cụ thể trong quá trình lđ; trong
khi cuộc sống của họ lại cần đến rất nhiều loại sp khác nhau.Để thỏa mãn
nhu cầu đó, đòi hỏi phải có sự trao đổi sản phầm cho nhau.
Như vậy, phân công lđ là cơ sở, tiền đề cho sx hh. Tuy nhiên nó vẫn chưa
đủ đề sx hh ra đời và tồn tại vì trong một số trường hợp TLSX là của
chung nên sp của từng nhóm sx chuyên môn hóa cũng là của chung, chưa
thể mang ra trao đổi mà vẫn bị phân phối trực tiếp bởi các công xã, thị



tộc cho các thành viên.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của ng sx:
Sự tách biệt này xuất phát từ các QHSH khác nhau về TLSX, đã xác định
người sở hưu TLSX cũng là người sở hữu sp lđ. Chính quan hệ sở hữu khác
nhau về TLSX đã làm cho người sx độc lập, đối lập với nhau nhưng vẫn phụ


thuộc vào nhau về sản xuất và tiêu dùng do cùng nằm trong hệ thống phân
công lđ xã hội. Trong đk ấy, người này muốn tiêu dùng sp của người kia
phải thông qua trao đổi mua bán hh.
 SXHH chỉ ra đời khi có đủ 2 đk trên, thiếu 1 trong 2 đk thì k có sxhh và



splđ k mang hình thái hàng hóa.
Ưu thế của sx hh:
Mục đích của sx hh k phải để tm nhu cầu bản thân người sx mà để tm nhu
cầu của thị trường. Nhu cầu ấy k ngừng gia tăng, trở thành động lực mạnh




mẽ thúc đẩy sx pt.
Cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, buộc ng sx phải thường xuyên
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng NSLĐ, nâng cao chất lượng sp,



thúc đẩy LLSX pt mạnh mẽ.
Sự pt sx hh có tc “mở” giúp thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa
phương, các quốc gia => nâng cao đs vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đề 8: Phân tích đặc điểm xuất khẩu TB của CNTB độc quyền. Những biểu hiện
mới của nó trong thời điểm hiện nay. Ý nghĩa việc nghiên cứu vấn đề này.
Lênin đã vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đđ của giai đoạn CNTB tự do cạnh
tranh, còn xuất khẩu tư bản là đđ của CNTB độc quyền.


Xuất khẩu tư bản: là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mđ chiếm đoạt GTTD và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước



nhập khẩu TB.
XKTB trở thành tất yếu vì:
- 1 số ít nước pt đã tích lũy một khối lượng TB lớn và một số “tb thừa”
-

tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn trong nước.
Nhiều nước lạc hậu kinh tế bị cuốn vào sự giao lưu kinh tế nhưng thiếu

TB, giá ruộng đất, tiền thuê nhân công, nguyên liệu rẻ nên tỷ suất lợi



nhuận cao, hấp dẫn đầu tư tư bản.
XKTB được thực hiện dưới 2 hình thức:


-

XKTB hoạt động : đầu tư trực tiếp bằng cách xd xí nghiệp mới hoặc mua
lại xí nghiệp đang hđ ở địa phương, biến nó thành chi nhánh của công ty

-



mẹ ở chính quốc.
XKTB cho vay: đầu tư gián tiếp bằng cách cho chính phủ, thành phố hay

ngân hàng ở nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.
Thực hiện các hình thức XKTB trên, xét về chủ sở hữu tb, có thể phân tích
thành:
- XKTB tư nhân: là hình thức XKTB tư nhân thực hiện, thường đầu tư vào
-

các ngành kinh tế có vòng quay tb ngắn, thu đc lợi nhuận độc quyền cao.
XKTB nhà nước là NN TB độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của
mình đầu tư vào các nước nhập khẩu tư bản hoặc viện trợ có hoàn trả hay





k hoàn trả để thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, quân sự.
Những biểu hiện mới của XKTB trong điều kiện hiện nay:
Đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB- ĐQ: ( 5 đặc điểm)
a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền
là đặc trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc:
+ Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là công ty cổ
phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết
ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
+ Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà
cả các Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với
nhau về kinh tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn
như: Côngxoocxiom.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa
ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm nhiều
công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.
Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh những nhà TB lớn để tập trung


vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho
phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và
lưu thông của ngành đó.
- Vị trí, vai trò: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu
thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả
sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng

hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng
hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.
Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và
quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn


bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa



và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị,
nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại
song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời
đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh
tranh về mức độ và hình thức.
b. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
- Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngân
hàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền
ngân hàng.
- Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của


ngân hàng:
+ Từ chỗ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được
phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã có quyền lực vạn năng chi
phối các hoạt động kinh tế xã hội:

* Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp
vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một
thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan
tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên
TB tài chính.
- Khái niệm: TB tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vàp nhau giữa TB
độc quyên trong ngân hàng và TB độc quyền trong công nghiệp.
- Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó
chính là bọn đầu sỏ tài chính.
* Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham
dự" với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) ->
chi phối công ty con ->chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB
nhất định một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất
c. Xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và
giá trị thặng dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư
bản đó.
- Xuất khẩu tư bản là tất yếu:
+ Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản".
+ Giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại


thiếu vốn và kỹ thuật
+ Thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
- Hình thức xuất khẩu TB:
+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh doanh
thu lợi nhuận,....

+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
- Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt
là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế,
dẫn tới lệ thuộc về chính trị.
d. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền
quốc tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư
TB, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với
nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten,
Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự
cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành
các liên minh độc quyền quốc tế.
e. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm
thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh
tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do
tcác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát triển không đều của
CNTB đó là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc xung đột nóng ở nhiều khu vực
trên thế giới hiện nay...




Như vậy: chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị



ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.

Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu
hiện trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ
thống thuộc địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi
nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.







IV. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
1. Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân vươn lên thành
giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt
Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự
ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư
bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không
quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của


tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh
chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do những
điều kiện sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục
mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc

làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ
cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công
nhân được nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong
không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân
lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình
Phùng, của Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v. đã có tác dụng to lớn đối với
việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan
xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy
đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về
đường lối.
- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hưởng đến phong
trào dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong
trào cách mạng ở nước ta. Chính vào lúc đó, nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc
trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và tìm
thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc ta. Từ đó, Người đã đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng


Việt Nam - con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác
đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân
dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin
và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp
công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

- Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông
dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên
với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều
kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh công nông
vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta.
2. Vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một
cách tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân
dân ủng hộ. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà
Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là "do bản năng tự vệ" của những người
công nhân "không được giáo dục và tổ chức" nhưng đã là "dấu hiệu... của
thời đại" . Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham
gia. Năm 1928-1929 có nhiều cuộc bãi công khác với hàng nghìn người
tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng
Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), AVIA (Hà Nội), Phú
Riềng (Bình Phước). Những cuộc đấu tranh như thế không chỉ giới hạn trong


công nhân mà còn tác động sâu sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến
giai cấp nông dân, các tầng lớp nhân dân lao động, thanh niên, sinh viên làm
cho bọn thống trị thực dân hoảng sợ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào
đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào
công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước phát triển


nhảy vọt về chất.

Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh
đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng
nhóm, từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng,
có tổ chức tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng
đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều đảng
viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng
trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác-Lênin
và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu
tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được Đảng ta
khẳng định rất rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc" . Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn
dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ lịch sử khó khăn, phức tạp nhất.


Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay,
đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao
động trí óc hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên
doanh với nước ngoài, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống
nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã
hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên

minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh hình thành, điều kiện kinh tế - xã hội quy định, giai
cấp công nhân Việt Nam còn có những nhược điểm (như số lượng còn ít,
chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và
tay nghề còn thấp...). Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để khắc phục những nhược
điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá
VII của Đảng ta, một Nghị quyết gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện
đại hoá với vấn đề xây dựng phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương
hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là:
"Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân
phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư
tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo
công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên


làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình" .
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là
trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là
bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò
không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp... "lãnh
đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao
động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức bất công, mọi
người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc" .
Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng phương hướng xây dựng giai

cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng chỉ rõ: "Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số
lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".



×