Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 219 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

LÊ HỒNG MY

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN HỒNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2005


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

LÊ HỒNG MY

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN HỒNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 5. 04. 33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. TRẦN ĐĂNG XUYỀN

HÀ NỘI, 2005


Kính tặng TS. Bạch Văn Hợp. Chúc anh và gia đình sức khỏe Hạnh phúc - thành đạt!



Tác giả luận án
Lê Hồng My



i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu
cũng như các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Hồng My


ii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
0.1. Lý do chọn đề tài............................................................................................. 1
0.2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 3
0.3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 13
0.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 14
0.5. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ........................... 14
0.6. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 14
0.7. Cấu trúc của luận án ...................................................................................... 15

CHƢƠNG 1: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC LỜI VĂN NGHỆ THUẬT CỦA
NGUYÊN HỒNG ................................................................................................................ 16
1.1. Nguyên tắc cụ thể hóa tƣờng tận, tỉ mỉ, chi tiết đối tƣợng phản ánh ............ 16
1.1.1. Từ mục đích viết thể hiện hết trang viết bức tranh hiện thực bề bộn, thể
hiện đến tận cùng vốn sống phong phú của nhà văn…................................................ 16
1.1.2…. Đến lời văn cụ thể hóa tƣờng tận, tỉ mỉ, chi tiết đối tƣợng phản ánh. 20
1. 2. Nguyên tắc bộc lộ trực tiếp những trạng thái cảm xúc mạnh. ...................... 39
1.2.1. Từ một tâm hồn nồng nhiệt, sôi nổi, giàu tình thƣơng, dễ xúc động… . 39
1.2.2… Đến lời văn bộc lộ trực tiếp những cảm xúc mạnh ............................. 43
1.2.2.1. Bộc lộ nỗi xót thƣơng tột độ ........................................................... 43
1.2.2.2. Bộc lộ niềm say mê tin tƣởng mãnh liệt ......................................... 60
CHƢƠNG 2: CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN TRONG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYÊN HỒNG ....................................................................................................... 74
2.1. Lời trần thuật ................................................................................................. 74
2.1.1. Ƣu thế của trần thuật nhân vật hóa ........................................................ 74
2.1.2. Xu hƣớng “xóa nhòa khoảng cách” trong lời trần thuật ........................ 81


iii
2.1.3. Miêu tả cát bụi và ánh sáng, mảng đặc sắc nhất trong lời trần thuật của
Nguyên Hồng ............................................................................................................... 87
2.2. Lời đối thoại của nhân vật........................................................................... 112
2.2.1. Đối thoại phản ánh bản chất xã hội của nhân vật ................................ 113
2.2.2. Đối thoại mang tính chất độc thoại ...................................................... 121
2.3. Lời độc thoại nội tâm ................................................................................... 125
2.3.1. Độc thoại nội tâm xuất hiện ở mức độ cao, đa dạng trong hình thức thể
hiện ............................................................................................................................. 125
2.3.2. Độc thoại nội tâm đồng hiện với trạng thái tâm lý căng thẳng, soi thấu
tình cảnh và tính cách nhân vật .................................................................................. 132
CHƢƠNG 3: NHỮNG PHƢƠNG TIỆN ĐẶC TRƢNG CỦA LỜI VĂN NGHỆ

THUẬT NGUYÊN HỒNG................................................................................................ 146
3.1. Tiếng lóng ................................................................................................... 146
3.2. Từ ngữ tôn giáo (Cơ đốc giáo) .................................................................... 156
3.3. Từ ngữ gắn với các công việc cực khổ, lam lũ, nặng nhọc. ........................ 161
3.4. Từ láy .......................................................................................................... 163
3.5. Thán từ, hô ngữ, từ ngữ biểu thị trạng thái tột cùng của hành động và cảm
xúc .................................................................................................................................. 176
3.6. Câu văn dài, lời văn chồng chất điệp từ, điệp ngữ và các yếu tố liệt kê. .... 179
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 191
DANH MỤC CỒNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .............................................................................................................................. 198
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 199


1

MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
0.1.1. Nguyên Hồng là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện
đại. Ông là một trong số những đại diện xuất sắc của khuynh hƣớng văn học hiện thực tiến bộ
trƣớc Cách mạng tháng Tám và cũng là một trong những ngƣời đầu tiên góp phần xây dựng
nền văn học của thời đại mới. Với gần năm mƣơi năm say mê và khổ công cầm bút, Nguyên
Hồng đã để lại một gia tài văn học khá đồ sộ, trong đó có những tác phẩm giá trị. Suốt cuộc
đời lao động nghệ thuật, ông đã dốc toàn bộ sức lực và tâm huyết để viết về những ngƣời
cùng khổ trong xã hội cũ và dựng lên bức tranh hiện thực hoành tráng về sự nghiệp cách
mạng trọng đại của dân tộc. Ngòi bút Nguyên Hồng cũng góp phần vào không khí sôi động
và sự phát triển liên tục, bề thế của văn học nƣớc nhà trong cuộc hành trình thế kỷ XX. Sự
nghiệp văn học của nhà văn xứng đáng đƣợc nghiên cứu về nhiều phƣơng diện.
0.1.2. Để tạo sức sống cho những đứa con tinh thần máu thịt của mình, Nguyên Hồng
đã "đổ mồ hôi, sôi máu mắt" trên từng trang viết. Ông đặt vào tác phẩm "cả cuộc đời, trái tim

và tâm hồn, tƣ tƣởng, (...), tất cả hơi sức, hy vọng và lòng tin" [78; 104]. Những ai từng quan
tâm tới sáng tác của Nguyên Hồng đều nhận thấy, mặc dù không phải tất cả đều là những
đỉnh cao, những kiệt tác, song văn Nguyên Hồng có sức hấp dẫn riêng. Tuy chƣa tạo đƣợc
những cách tân quan trọng, nhƣng Nguyên Hồng cũng đạt đƣợc thành công đáng ghi nhận
trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Những năm qua, cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng
Nguyên Hồng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Sáng tác
của Nguyên Hồng đã đƣợc soi sáng về tƣ tƣởng nghệ thuật, quá trình sáng tác, thế giới nhân
vật, phong cách nghệ thuật... Song, đúng nhƣ Vƣơng Trí Nhàn nhận xét: "văn của ông lại ít
đƣợc phân tích cặn kẽ". Hiện tƣợng bất


2
cập trên có lý do căn bản từ phía đối tƣợng nghiên cứu. Văn Nguyên Hồng có nhiều thành
công, không ít mảng đặc sắc nhƣng cũng rất bề bộn, xô bồ, khó nắm bắt và giải quyết một
cách thấu đáo. Đây là phƣơng diện phức tạp nhất trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, đòi
hỏi rất nhiều nỗ lực, công phu trong quá trình khảo sát, phân tích và đánh giá. Trong thực tế,
yêu cầu đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Nguyên Hồng đã đƣợc đặt ra: "Ngôn ngữ
Nguyên Hồng có nhiều đặc trƣng phong phú, xứng đáng đƣợc nghiên cứu trong một luận án
riêng" [165; 75], nhƣng chƣa có công trình nào đi sâu vào vấn đề này. Vì thế, luận án Lời văn
nghệ thuật của Nguyên Hồng, trƣớc hết, nhằm đáp ứng một yêu cầu thực tế nghiên cứu đã
đặt ra.
0.1.3. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của ngôn ngữ trong sáng tác văn học, các nhà lý
luận đã nêu phƣơng pháp nghiên cứu tác giả là: "phải chú ý đầy đủ đến những tìm tòi đóng
góp của tác giả về nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ. Nếu không ta có thể biến bài nghiên cứu
một tác giả văn học thành bài nghiên cứu một nhà tƣ tƣởng, một nhà chính trị. Không nghiên
cứu ngôn ngữ là bỏ qua mặt quan trọng của tác giả với tƣ cách là nghệ sĩ của một loại hình
nghệ thuật riêng biệt" [41; 717]. Tuy nhiên, giữa lý thuyết và thực tế vẫn còn khoảng cách
lớn. Cho đến nay, việc nghiên cứu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của các nhà văn, trong đó có
Nguyên Hồng, vẫn còn nhiều khoảng trống. Tập trung vào đề tài Lời văn nghệ thuật của
Nguyên Hồng, luận án cũng nhằm góp phần lấp dần những khoảng trống trên.

0.1.4. Vấn đề lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng đã đƣợc tác giả luận án triển khai
nghiên cứu bƣớc đầu trong đề tài Lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng
(trƣớc Cách mạng tháng Tám), luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Ngữ văn, bảo vệ tháng 1/1996 tại
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. Từ kết quả nghiên cứu đã có, chúng tôi muốn tiếp tục triển
khai nghiên cứu, chiếm lĩnh đối tƣợng một cách toàn diện, sâu sắc hơn.


3
0.2. Lịch sử vấn đề
0.2.1. Giới thuyết lời văn nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, lời văn nghệ thuật là "dạng phát ngôn đƣợc tổ chức
một cách nghệ thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ
nghệ thuật của các tác phẩm văn học" [38; 129, 130]. Quan niệm này về cơ bản thống nhất
với các tài liệu đã cắt nghĩa thuật ngữ lời văn nghệ thuật nhƣ Dẫn luận nghiên cứu văn học
[47], Lý luận văn học [41], Lý luận văn học, vấn đê và suy nghĩ [52].v.v.
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thuật ngữ lời văn nghệ thuật rất gần
nghĩa với các thuật ngữ ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ văn học, lời văn. Đây là
những thuật ngữ có nét nghĩa tƣơng đồng nhƣng không hoàn toàn đồng nhất với nhau nên cần
có sự phân biệt.
Là "hệ thống ngữ âm, những từ và quy tắc kết hợp chúng mà những ngƣời trong cùng
một cộng đồng dùng làm phƣơng tiện để giao tiếp với nhau" [43; 666], ngôn ngữ là chất liệu
của tác phẩm văn học chứ chƣa phải là lời văn nghệ thuật, hình thức của chỉnh thể thẩm mỹ
trọn vẹn. Từ ngôn ngữ đến lời văn nghệ thuật là cả quá trình lao động công phu gian khổ của
nhà văn. Có thể ví ngôn ngữ nhƣ tấm vải còn lời văn nghệ thuật là bộ y phục nhà thiết kế đã
hoàn thành.
Ngôn ngữ nghệ thuật "là một hệ thống các phƣơng thức, phƣơng tiện tạo hình, biểu
hiện, hệ thống các quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ
thuật. Ngƣời ta có thể nói đến ngôn ngữ ba lê, ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh. Cũng có
thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó" [41; 186]. Ngôn ngữ
văn học là thuật ngữ dùng để "chỉ một cách khái quát các hiện tƣợng ngôn ngữ đƣợc dùng

một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nƣớc, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn hóa,
văn học và khoa học" [38; 149]. Nhƣ vậy, các thuật ngữ ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ
văn học có nội hàm rộng hơn thuật ngữ lời văn nghệ thuật.


4
Cũng cần phân biệt hai thuật ngữ lời văn và lời văn nghệ thuật. Theo lí luận văn học
có nhiều dạng lời văn: "lời văn nghệ thuật, lời văn luật pháp, cũng nhƣ lời văn sách vở và ca
hát của nhà thờ trong một số thời đại" [47; 145]. Lời văn nghệ thuật chỉ là một dạng trong đó.
Vì vậy, phải dùng thuật ngữ lời văn nghệ thuật mới khu biệt rõ lời văn trong tác phẩm văn
học. Nếu muốn dùng lời văn thay thế lời văn nghệ thuật theo lối rút gọn thì phải đặt trong
văn cảnh cụ thể.
Trong thực tế sử dụng, sự phân biệt giữa lời văn nghệ thuật với các thuật ngữ ngôn
ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật và lời văn chỉ mang tính chất tƣơng đối. Do
có nét nghĩa trùng nhau nên chúng vẫn thƣờng đƣợc sử dụng thay thế hoặc tƣơng đƣơng.
Song, trong tính khoa học nghiêm ngặt, phân biệt các thuật ngữ như trên giúp người nghiên
cứu lời văn nghệ thuật xác định rổ đối tượng nghiên cứu của mình là ngôn ngữ mang tính
toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm văn học chứ không phải ngôn
ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác hoặc ngôn ngữ với tư cách là đối tượng chuyên biệt
của ngôn ngữ học.
Lời văn nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là "yếu tố đầu tiên trong sự tiếp
xúc của ngƣời đọc đối với tác phẩm" [41; 148], "trực tiếp tạo nên những khái quát nghệ thuật,
góp phần hình thành sắc điệu, tình điệu tác phẩm, thực hiện mục tiêu tối cao của tác phẩm"
[41; 255], là "hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm" [5; 308]. Nhờ lớp
lời văn mà toàn bộ thế giới nghệ thuật đƣợc định hình. Từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy
nhất ấy ngƣời đọc có cơ sở tìm hiểu, khám phá thế giới hình tƣợng và các lớp nội dung ý
nghĩa của văn bản nghệ thuật.
Nghiên cứu Mỹ học, đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
nghệ thuật, Hêghen đã từng khẳng định rằng, trong một tác phẩm nghệ thuật, không có cái gì
lại không có quan hệ cốt tử với nội dung và không biểu hiện nội dung. Trong mối quan hệ đó,

hình thức tác phẩm không phải là chiếc vỏ ngoài thuần tuy mà là phƣơng thức tồn tại và
phƣơng tiện biểu hiện của nội dung.


5
So với các yếu tố hình thức khác, lời văn nghệ thuật đƣợc đánh giá là "yếu tố thứ nhất của
hình thức tác phẩm" [38; 167], "yếu tố mang tính nội dung sâu sắc và trực tiếp nhất" [33;
171]; "cả hình tƣợng nhân vật, bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng,
quan niệm nghệ thuật về thế giới và con ngƣời... chỉ đƣợc nắm bắt nhờ những hình thức của
ngôn từ" [52; 170].
Lời văn nghệ thuật còn là phƣơng tiện biểu hiện trực tiếp và rõ nét phong cách nhà
văn. M.B. Khrapchenko đã từng lƣu ý các nhà Phong cách học cần coi trọng lòi văn nghệ
thuật bởi "ý nghĩa của nó không phải là những cơ sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn
nhƣ là hiện tƣợng của phong cách" [126; 191]. Vì vậy nghiên cứu lời văn nghệ thuật sẽ góp
phần soi sáng tƣ tƣởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật và phong cách nhà văn.
Lời văn nghệ thuật đƣợc xây dựng bằng chất liệu ngôn từ và các yếu tố bộ phận
nhƣng không phải là kết quả sự gắn kết thành phần và phƣơng tiện một cách giản đơn. "Nghệ
thuật cũng nhƣ trong cuộc đời, một chỉnh thể tốt không phải là dấu cộng của mọi yếu tố tốt"
[41; 678]. Từ chất liệu và các yếu tố bộ phận, nhà văn phải dày công kết hợp, sáng tạo mới có
đƣợc lời văn nghệ thuật, hình thức ngôn từ của tác phẩm văn học, mang tính cụ thể, sinh
động, phù hợp với nội dung sáng tác, có giá trị thẩm mỹ cao. Do đó, nghiên cứu lời văn nghệ
thuật cần phát hiện đƣợc lí do nào đã liên kết phát ngôn trở thành lời văn. Ngƣời nghiên cứu
vừa phải đi sâu "cắt lớp" từng bộ phận thành phần, phƣơng tiện của lời văn nghệ thuật, vừa
có nhiệm vụ khám phá mối quan hệ hệ thống của nó. Về cơ bản, cần tập trung vào các
phƣơng diện sau:
Thứ nhất - Nguyên tắc tổ chức lời văn. Lời văn nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc
chức năng. Mỗi yếu tố bộ phận của nó đều góp phần hiện thực hóa tƣ tƣởng nghệ thuật của
nhà văn, bởi "Tƣ tƣởng nghệ thuật không chứa đựng trong bất kỳ trích đoạn dẫu cho gọn ghẽ
nào, mà đƣợc diễn đạt trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật" (I.U.M. Lót-man); "Mỗi tƣ tƣởng
nghệ thuật đƣợc diễn đạt bằng những lời lẽ đặc thù, sẽ đánh mất ý nghĩa, bị mất giá khủng

khiếp khi trơ trọi một


6
mình và thiếu đi sự liên kết mà nó hiện diện ở đó" (L.Tônxtôi). Để tạo nên hình thức ngôn từ
tƣơng ứng với nội dung sáng tác, phản ánh tƣ tƣởng nghệ thuật của mình, nhà văn phải lựa
chọn các yếu tố cần thiết từ "kho" nguyên liệu bề bộn rồi sắp xếp, liên kết lại theo những
nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó quy định cách thức sử dụng phƣơng tiện và sắp
xếp thành phần lời văn nghệ thuật theo ý đồ sáng tạo của nhà văn. Lời văn nghệ thuật của
mỗi tác giả, tác phẩm có thể do một hoặc một số nguyên tắc tổ chức quy định. Ví dụ nhƣ
nguyên tắc giễu nhại trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, các nguyên tắc lột mặt nạ và
nguyên tắc dùng cái tục trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, nguyên tắc
tập Kiều, dẫn Kiều trong bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu. Các nguyên tắc có khi
lộ diện, có khi lại chìm trong mạch ngầm văn bản không dễ nhận ra. Vì vậy, cái khó nhất khi
nghiên cứu lời văn nghệ thuật không phải là thẩm đinh các yếu tố trong cấu trúc của nó, mà là
tìm ra nguyên tắc chi phối sự hiện diện của mỗi yếu tố trong văn bản. Thực tế cho thấy:
"Chiếm lĩnh phƣơng tiện lời văn là một việc, mà hiểu đƣợc lời văn nghệ thuật là một việc
khác. Ngƣời ta có thể hiểu ngôn ngữ tác phẩm mà vẫn không hiểu lời văn của nó nhƣ thƣờng"
[41; 325]. Nếu chỉ chú ý phân tích các phƣơng tiện ngôn ngữ nhà văn đã sử dụng, tập trung
vào từ đắt, câu hay mà chƣa nhận ra nguyên tắc tổ chức chúng, sẽ không tránh khỏi hiện
tƣợng "thấy cây mà không thấy rừng" nhƣ dân gian từng nói. L.Tônxtôi cũng đã từng khẳng
định, cần có những ngƣời "thƣờng xuyên hƣớng dẫn độc giả trong cái mê lộ bất tận của
những mối liên kết, nơi tựu thành bản chất của nghệ thuật và theo những quy luật vốn là nền
tảng của những mối liên kết ấy" [98; 31]. Vì vậy, tìm hiểu nguyên tắc tổ chức lời văn có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu khi nghiên cứu lời văn nghệ thuật.
Thứ hai - Các thành phần của lời văn. Từ điển thuật ngữ văn học đã chỉ rõ "Lời thơ,
lời trần thuật, lời nhân vật, lời thoại trong kịch và các dạng của chúng đều là các bộ phận tạo
thành lời văn nghệ thuật" [38; 130]. Trong đó "thành phần cơ bản của lời văn nghệ thuật là
lời gián tiếp (của ngƣời kể chuyện, ngƣời trần thuật) và lời trực tiếp (của nhân vật)" [38;
130].



7

* Lời gián tiếp "Là toàn bộ lời văn của tác giả, của ngƣời trần thuật, hoặc ngƣời kể
chuyện" [41;335]. Chức năng của nó "giúp cho các sự vật, hiện tƣợng nhƣ ngoại hình, tình
trạng, môi trƣờng, phong cảnh, sự kiện... vốn không biết nói, đƣợc nói lên trong tác phẩm"
[41; 330]. Về tên gọi: "Có ngƣời gọi đây là lời trần thuật, miêu tả, lời tác giả. Các cách gọi ấy
đều chấp nhận đƣợc một cách ƣớc lệ vì tất cả đều do tác giả viết lên" [41; 330]. Trong thực tế
nghiên cứu, lời gián tiếp thƣờng đƣợc gọi là lời trần thuật.
* Lời trực tiếp của nhân vật có thể là lời đối thoại hoặc lời độc thoại. Lời trực tiếp
thực hiện nhiều chức năng: chức năng phản ánh hiện thực ở ngoài nhân vật - chức năng nhƣ
một hành động, sự kiện đối với nhân vật khác - chức năng biểu hiện thế giới bên trong của
nhân vật. Lời độc thoại nội tâm là dạng đặc biệt của lời trực tiếp, đóng vai trò chính trong
việc phản ánh nội tâm nhân vật.
Các thành phần lời văn có tỷ lệ và vai trò khác nhau trong mỗi thể loại và mỗi tác
phẩm văn học. Hiệu quả nghệ thuật của chúng phụ thuộc rất nhiều sở trƣờng và năng lực sáng
tạo của nhà văn.
Thứ ba - Các phƣơng tiện của lời văn nghệ thuật: Khi xây dựng tác phẩm, nhà văn
phải vận dụng toàn bộ các khả năng và phƣơng tiện diễn đạt của ngôn ngữ toàn dân. Các bình
diện ngữ âm (hiệp vần, thanh điệu...), các phƣơng tiện từ vựng (thực từ, hƣ từ...), cú pháp
(câu đơn, câu phức, câu rút gọn, câu đặc biệt...), các phƣơng tiện và biện pháp tu từ (nhân
hóa, so sánh, tƣợng trƣng, liệt kê, trùng điệp...) đều có khả năng kiến tạo lời văn nghệ thuật.
Ở mỗi tác giả, tác phẩm, các phƣơng tiện đó lại đƣợc vận dụng sáng tạo, linh hoạt để tạo nên
hình thức ngôn từ độc đáo, không bao giờ lặp lại.
Những vấn đề cơ bản về lời văn nghệ thuật đã đƣợc giới thuyết là công cụ chính giúp
chúng tôi tiến hành nghiên cứu lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, xác định phƣơng hƣớng
triển khai nội dung của đề tài. Phần lịch sử vấn đề lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng cũng sẽ
tập trung vào các phƣơng diện cơ bản của lời văn nghệ thuật nhƣ đã giới thuyết ở trên.



8
0.2.2. Lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng qua các công trình nghiên cứu
Gần 70 năm qua, từ khi bút danh Nguyên Hồng xuất hiện trên văn đàn, đã có nhiều
bài viết và các công trình nghiên cứu có giá trị về thân thế và sự nghiệp của ông. Nội dung
các tài liệu nghiên cứu hình thành ba nhóm rõ rệt.
Nhóm các bài viết về đặc điểm tính cách của Nguyên Hồng hoặc những kỷ niệm
sâu sắc với nhà văn. Tác giả của nhóm bài viết này là các nhà nghiên cứu phê bình đã trực
tiếp gặp gỡ tiếp xúc với Nguyên Hồng, là đồng nghiệp, bạn bè, học trò và độc giả. Các bài
viết đã khắc họa lên bức chân dung Nguyên Hồng rất chân thực, sinh động và vô cùng xúc
động.
Nhóm các tài liệu có điểm xuyết nhận xét, đánh giá về Nguyên Hồng. Đây là các
công trình nghiên cứu về thành tựu thể loại hoặc thời kỳ văn học. Tác giả có công trình
nghiên cứu thuộc nhóm này là các chuyên gia về lý luận văn học và văn học Việt Nam hiện
đại. Nhận xét về văn chƣơng Nguyên Hồng đƣợc đƣa ra làm rõ các nhận định, đánh giá khái
quát các vấn đề văn học. Những đóng góp của Nguyên Hồng vào thành tựu chung cũng đã
đƣợc ghi nhận.
Nhóm tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về sáng tác của Nguyên Hồng. Gồm những
công trình của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, nghiên cứu sinh, học viên cao học, những
ngƣời trực tiếp giảng dạy và học tập văn chƣơng Nguyên Hồng.
Qua các bài viết và các công trình nghiên cứu đó, những vấn đề về tƣ tƣởng nghệ
thuật, cảm hứng chủ đạo, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng đã đƣợc
phân tích, đánh giá sâu sắc. Vấn đề lời văn nghệ thuật tuy chƣa thành đƣờng hƣớng nghiên
cứu rõ rệt, nhƣng cũng có một số tác giả đã quan tâm tới ở những mức độ khác nhau. Tập
hợp, hệ thống lại, chúng tôi thấy từng phƣơng diện của vấn đề lời văn nghệ thuật Nguyên
Hồng đã đƣợc những ngƣời đi trƣớc đề cập ở mức độ sau:
Thứ nhất - Về nguyên tắc tổ chức lời văn nghệ thuật. Đây vẫn còn là một khoảng
trống chƣa có tài liệu nghiên cứu vào về Nguyên Hồng đề cập tới.



9
Thứ hai - Về các thành phần của lời văn. Một số tác giả đã quan tâm đến lời trần
thuật hoặc lời nội tâm nhân vật nhƣng chủ yếu vẫn nhìn vào từng bộ phận, chƣa chú ý đến
mối tƣơng quan giữa các thành phần trong cấu trúc lời văn. Bộ phận đƣợc quan tâm nhất là
lời trần thuật, hƣớng vào bình giá nghệ thuật miêu tả và sắp đặt chi tiết của Nguyên Hồng.
Năm 1937, khi tiểu thuyết Bỉ vỏ đƣợc giải thƣởng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam
đã nhận xét: "Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía, rung động, có
nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc (...). Ông quan sát khéo, chỉ tả những gì đáng để ý. Những tình
cảm chân thật, những cảm giác đúng" [111; 39]. Sau đó, khi viết lời tựa cho Những ngày thơ
ấu in lần đầu năm 1940, Thạch Lam đã nhận thấy khả năng thể hiện "sự rung động cực điểm"
của ngòi bút Nguyên Hồng.
Cũng khoảng thời gian đó, trong một bài báo giới thiệu về Bỉ vỏ, tác giả Trọng Quy đã
nêu cảm nhận: "thật tác phẩm đã không hổ thẹn với sự đƣợc ban giám khảo chú ý đến", vì
đây là "một thiên phóng sự tả rõ cách sinh hoạt của một hạng ngƣời", "của một cán bút linh
hoạt mới mẻ", "biết làm cho ngƣời khác phải cảm động" [155; 8].
Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã khẳng định sự thành công
của Nguyên Hồng qua những sáng tác khỏi đầu, nhất là Bỉ vỏ: "Truyện thật là hay (...) cách
viết có mạch lạc mà đi đến đoạn kết một cách tự nhiên" [150; 1051] "Những mánh khóe ăn
cắp, những lối lừa lọc, những thủ đoạn gớm ghê, những tiếng lóng đọc lên cũng thấy nhơ
nhớp, Nguyên Hồng đều tả kĩ càng, gọn ghẽ và trơn tru" [150; 1051]. Những ý kiến trên đƣợc
các nhà nghiên cứu sau này cơ bản nhất trí.
Đánh giá về Bỉ vỏ, Trƣơng Chính (Dưới mắt tôi - năm 1939) cho rằng: "Bỉ vỏ là một
cuốn tiểu thuyết tầm thƣờng không đặc sắc. Tác giả còn thiếu nghệ thuật, thiếu kinh nghiệm,
ngòi bút ông non nớt vụng về" [19; 172], "các tình tiết sắp đặt một cách thô sơ" [19; 173]. Ý
kiến đó không thấy có sự hƣởng ứng.
Các tài liệu nghiên cứu tiếp theo đều trân trọng đánh giá của Thạch Lam, Vũ Ngọc
Phan và tiếp tục khẳng định những bƣớc tiến mới của ngòi bút


10

Nguyên Hồng trên hành trình sáng tác, trong số đó có thêm những ý kiến xác đáng về nghệ
thuật miêu tả, trần thuật của nhà văn.
Trong bài viết về Sóng gầm (năm 1962) Nhƣ Phong đánh giá cao "sức tái hiện mạnh
mẽ lạ thƣờng" của tác phẩm [152; 213]. Từ bài viết cho giáo trình lịch sử văn học Việt Nam
của Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội (1962) cho đến những công trình sau này, nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã đƣa ra những kết luận sâu sắc, nhất quán về sự nghiệp sáng tác
của Nguyên Hồng, trong đó có nhiều ý kiến giá tri về phƣơng diện lời văn: "Văn Nguyên
Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng.
Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con ngƣời" [128; 4]; "Nguyễn Tuân có lần
nói ông có sở trƣờng về tả gió, còn tả nắng thì nhất Nguyên Hồng" [128; 4]; "Nguyên Hồng
không có những tác phẩm xuất sắc hoàn chỉnh, nhƣng có những trang viết đáng gọi là xuất
sắc" [128; 4], có "những áng văn kiệt tác" [130; 93].
Giáo sƣ Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu công phu viết cho Tuyển tập Nguyên Hồng
(1983) đã chú ý đến tính linh hoạt, sáng tạo về miêu tả, trần thuật của nhà văn: "Trong một số
truyện để đạt hiệu quả tố cáo cao nhất, ngòi bút nghiêm ngặt của anh không ngần ngại phanh
phui những chi tiết tỉ mỉ, trần trụi đôi khi cứ nhƣ là chấp chới trên bờ của chủ nghĩa tự nhiên.
Lại có truyện tác giả nhƣ giấu mình đi, sử dụng một lối trần thuật khách quan, một ngôn ngữ
trung tính (...) nhƣng cũng có truyện tràn đầy một âm hƣởng trữ tình lãng mạn" [29; 16].
Năm 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung giới thiệu về Nguyên Hồng và các
tác phẩm Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu trong Từ điển văn học. Chúng tôi rất lƣu ý nhận xét của
ông về bút pháp Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu: "một bút pháp chân thực giản dị mà
thắm đƣợm trữ tình" [102; 137]. Nhân 80 năm ngày sinh Nguyên Hồng (5/11/1918 2/5/1998), giáo sƣ Phong Lê có bài viết Người và văn Nguyên Hồng. Ông nhận thấy trong
văn Nguyên Hồng "Niềm yêu ghét đƣợc đẩy đến độ tột cùng" [116;132]. Năm 2001, khi nhìn
lại chặng đƣờng phát triển của tiểu thuyết những năm chống Mỹ trong đó có Cửa biển, nhà
nghiên cứu Nguyễn Văn Long khẳng định chất trữ tình "tuôn chảy ào


11
ạt sôi sục nhƣ muốn tràn bờ" [121; 118] là nét đặc trƣng của ngòi bút Nguyên Hồng so với
những cây bút văn xuôi cùng khuynh hƣớng. Ý kiến trên đã định hƣớng cho ngƣời tiếp nhận

có thể đi sâu khai thác đặc điểm này khi nghiên cứu văn phong Nguyên Hồng. Cũng năm
2001, trong bài viết Nguyên Hồng nhà văn của những khát vọng sống [34], Giáo sƣ Hà Minh
Đức dẫn ra nhiều đoạn văn miêu tả thành công của Nguyên Hồng.
Theo dòng thời gian và độ dày của các công trình nghiên cứu, thế mạnh miêu tả của
Nguyên Hồng dần dần đƣợc khai phá sâu hơn nhƣng những kiến giải, đánh giá về các mặt
khác của lời trần thuật còn sơ lƣợc. Khi nghiên cứu Lời văn nghệ thuật trong sáng tác của
Nguyên Hồng, đề tài hoàn thành năm 1996, chúng tôi cũng đã khám phá một số phƣơng diện
về quan điểm trần thuật, nhịp điệu và giọng điệu trần thuật của Nguyên Hồng trên phạm vi
các tác phẩm trƣớc Cách mạng tháng Tám. Luận văn Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật trong
tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng do Đoàn Thị Thái thực hiện sau đó (năm 2001) đã tập
trung sâu vào nghệ thuật tả và kể trong Bỉ vỏ. Luận án Đặc điểm phong cách nghệ thuật của
Nguyên Hồng của Bạch Văn Hợp phân tích "kiểu tự sự không giấu mình" để soi sáng phong
cách nhà văn.
Các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra nhƣợc điểm trong lời trần thuật của Nguyên Hồng
nhƣ ở Bỉ vỏ "có những tình tiết bố trí giả tạo" [130; 82], ham "miêu tả quá rƣờm rà, chi tiết về
ngoại cảnh" [29; 144], "Nguyên Hồng là tác giả văn xuôi không kìm hãm đƣợc mình" [34;
14], trong khi "lẽ ra ngƣời viết cần kín đáo, ít bộc lộ chính kiến và tình cảm" [34; 14]... Tuy
nhiên, đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu thấu đáo lời trần thuật trong toàn bộ
các sáng tác của nhà văn.
Lời đối thoại và độc thoại của nhân vật đƣợc nghiên cứu muộn (có lẽ do văn Nguyên
Hồng không mạnh về đối thoại. Cũng có lẽ do xu hƣớng nghiên cứu trƣớc đây ít quan tâm
đến khía cạnh này). Ý kiến của giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Đọc Cửa biển nghĩ về
Nguyên Hồng và tiểu thuyết, viết năm 1977 là sự khám phá có ý thức tự giác đầu tiên về lời
nhân vật của Nguyên Hồng: "Những


12
trang mà nhân vật hiện ra trong tâm trạng xúc động mãnh liệt gần nhƣ điên dại, tâm trí muốn
cất lên thành tiếng, độc thoại nội tâm bỗng trở thành đối thoại với những con ngƣời tƣởng
tƣợng bƣớc ra từ kỷ niệm nào" [131; 193]. Nhận xét trên đƣợc những ngƣời tiếp bƣớc triển

khai phân tích, chứng minh cụ thể hơn trong một số công trình sau đó. Luận văn Thạc sĩ Ngữ
văn của Ân Thị Vân Chi (1998) đi sâu nghiên cứu Độc thoại nội tâm trong Cửa biển của
Nguyên Hồng. Luận văn Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên
Hồng của Đoàn Thị Thái (2001) dành một phần nghiên cứu về đối thoại và độc thoại nội tâm
trong Bỉ vỏ. Tuy nhiên, cũng nhƣ lời trần thuật, lời đối thoại và độc thoại trong văn Nguyên
Hồng vẫn cần tới một cái nhìn xuyên suốt, toàn diện và khái quát hơn.
Thứ ba - V ề các phƣơng tiện từ ngữ cú pháp: Trong một thời gian khá dài, những nhận
xét về từ ngữ cú pháp của Nguyên Hồng mới mang tính chất định hƣớng. Dần dần, khi những
vấn đề về tƣ tƣởng nghệ thuật, cảm hứng sáng tác, đề tài, nhân vật đã đƣợc khai thác sâu và
tƣơng đối ổn đinh, ngƣời nghiên cứu có điều kiện chú ý nhiều hơn tới nghệ thuật sử dụng
ngôn từ của nhà văn. Cả ƣu, nhƣợc điểm trong cách dùng từ, đặt câu của Nguyên Hồng đều
đã đƣợc quan tâm tới.
Về nhƣợc điểm, nhà văn Thạch Lam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức... cùng có chung nhận xét về lỗi dùng từ, đặt câu Nguyên Hồng đã
mắc phải nhƣ trong Bỉ vỏ "nhiều câu văn vẫn chƣa gãy gọn" [111; 39], một số tác phẩm khác
còn "lạm dụng thán từ" [127; 24]. Đó là "những thiếu sót đáng tiếc" (Những ý kiến này giúp
chúng tôi ý thức sâu sắc về thái độ khoa học, khách quan, đúng mực khi đƣa ra các nhận định
đánh giá của mình).
Về ƣu điểm, Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại - 1942) khen Nguyên Hồng dùng
tiếng lóng "trơn tru" [150; 1051]. Gần hai mƣơi năm sau (năm 1961) có thêm nhận xét của
M.Tkachev: "Ngôn ngữ cuốn tiểu thuyết sinh động và giàu hình ảnh..." [188; 12]. Khoảng hai
mƣơi năm sau nữa (năm 1982) có đƣợc lời nhận xét cụ thể của Nguyễn Minh Châu: "Những
hình dung từ, những động từ và chủ ngữ không xuất hiện đơn chiếc mà xuất hiện hàng loạt"
[15; 378]. Suy nghĩ Tản mạn về câu văn Nguyên Hồng của tác giả Linh Thi viết năm 1991, đã
đẩy vấn đề tiến


13
thêm một bƣớc. Tác giả hình dung câu văn Nguyên Hồng "nhƣ một đoàn tàu chợ" [170; 97]
và khẳng định "câu văn xuôi trở nên Nguyên Hồng nhất khi nó dài, thậm chí còn "lê thê"

nữa" [170; 97], còn bảng từ vựng của ông "lấp láp cát bụi và khói của phố phƣờng phồn tạp"
[170; 97]. Trần Đăng Khoa trong cuốn Chân dung và đối thoại, khi viết về Lê Lựu, cũng đã
đƣa ra nhận xét đáng lƣu ý về văn Nguyên Hồng: "Nguyên Hồng có thể dùng hàng loạt cụm
từ để diễn tả một ý. Đó là lối văn trùm lợp tầng tầng lớp lớp. Lối văn này đã góp công tạo
dựng lên trong văn chƣơng thế giới một Đostoievski, một Macxim Gorki" [100; 95]. Từ định
hƣớng chung, một số vấn đề về từ ngữ, cú pháp trong sáng tác của Nguyên Hồng nhƣ tiếng
lóng trong Bỉ vỏ [134], từ miêu tả cảm giác mạnh [18], [94], thành ngữ [94]... đã dần dần
đƣợc nghiên cứu sâu hơn với những khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, so sánh cụ thể,
công phu trong các bài báo khoa học, luận văn cao học, luận án tiến sĩ về Nguyên Hồng.
Đáng tiếc là hầu nhƣ chƣa có tác giả nào chú ý tới sự thống nhất giữa các phƣơng tiện ngôn
ngữ với nguyên tắc tổ chức lời văn.
Nghiên cứu lịch sử vấn đề chúng tôi nhận thấy một số phƣơng diện trong lời văn
nghệ thuật của Nguyên Hồng đã đƣợc đề cập tới nhƣng chƣa có công trình nào coi vấn đề này
là đối tƣợng nghiên cứu chính và tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ
thống, mặc dù đây là phƣơng diện hình thức mang tính nội dung quan trọng nhất trong thế
giới nghệ thuật của nhà văn. Song kết quả của ngƣời đi trƣớc đã giúp cho chúng tôi có đƣợc
những gợi mở, số liệu tham khảo, nhận xét, đánh giá đáng tin cậy để triển khai nghiên cứu lời
văn nghệ thuật của Nguyên Hồng theo quan niệm lý thuyết đã trình bày.
0.3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, luận án tập trung vào mục đích khám
phá các nguyên tắc tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn, khám phá mối quan hệ giữa tƣ
tƣởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật, xác định vai trò của lời văn nghệ thuật đối với phong
cách nghệ thuật Nguyên Hồng. Từ phƣơng diện hình thức ngôn từ đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, luận án cũng hƣớng tới mục đích khẳng định một hƣớng tiếp cận có hiệu quả
trong nghiên cứu và thƣởng thức văn học.


14

0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận án sẽ tiến hành nghiên cứu tất cả các phƣơng diện: nguyên tắc tổ chức, thành
phần, phƣơng tiện lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng trên toàn bộ các sáng tác của nhà văn, ở
cả hai chặng đƣờng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám, với tất cả các thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết, hồi kí, bút kí và thơ.

0.5. Đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống lời văn nghệ
thuật của Nguyên Hồng, đồng thời cũng là công trình đầu tiên ở nƣớc ta tập trung nghiên cứu
lời văn nghệ thuật trên phạm vi toàn bộ sáng tác của một tác giả. Những vấn đề lý thuyết về
lời văn nghệ thuật đƣợc luận án tập hợp, hệ thống lại và làm rõ thêm góp phần làm sáng tỏ lý
luận chung về lời văn nghệ thuật. Kết quả nghiên cứu mở ra khả năng tiếp cận và vận dụng
nghiên cứu lời văn nghệ thuật của nhiều tác giả khác. Đây là một hƣớng nghiên cứu có tính
tích cực nhƣng cho đến nay chƣa đƣợc quan tâm thích đáng.
Luận án cũng góp phần vào thành tựu nghiên cứu về Nguyên Hồng, tiếp tục khẳng
định vị trí của nhà văn trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, đánh giá thỏa đáng
những đóng góp của ông đối với sự phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc. Nghiên cứu lời văn
nghệ thuật trong mối quan hệ mật thiết với tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn,
luận án phát hiện và làm sáng tỏ mỗi liên quan có tính quy luật giữa các phƣơng diện khác
nhau của sự nghiệp Nguyên Hồng trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám.
Hiện nay, tác phẩm của Nguyên Hồng đã đƣợc đƣa vào chƣơng trình các cấp học từ
phổ thông đến đại học. Luận án sẽ cung cấp thêm một tài liệu nghiên cứu, học tập thiết thực
về văn chƣơng Nguyên Hồng, giúp học sinh, sinh viên có thêm điều kiện tiếp nhận một cách
khoa học và trân trọng những trang viết tâm huyết của nhà văn.

0.6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản
sau:


15

0.6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành
Vấn đề lời văn nghệ thuật có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học khác nhƣ Lý luận
văn học, Ngôn ngữ học, Thi pháp học, Phong cách học, Tâm lý học... Vì vậy chúng tôi vận
dụng tổng hợp phƣơng pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Chúng sẽ hỗ trợ, bổ sung
cho nhau để soi sáng các khía cạnh của vấn đề.
0.6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả
Muốn chiếm lĩnh đƣợc lời văn nghệ thuật phải đặt đối tƣợng nghiên cứu trong mối
quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Chính vì vậy, chúng tôi đặc biệt coi
trọng và vận dụng triệt để phƣơng pháp nghiên cứu tác giả văn học trong quá trình nghiên
cứu lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng.
0.6.3. Phƣơng pháp hệ thống
Lời văn nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Vì vậy tất cả các vấn đề cụ thể đƣợc triển khai trong luận án đều đƣợc đặt trong
mối quan hệ hệ thống. Chúng tôi sẽ luôn coi trọng phƣơng pháp hệ thống khi tiến hành
nghiên cứu đối tƣợng.
0.6.4. Các phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp
Để việc phân tích, so sánh, đánh giá có căn cứ xác thực, khi cần thiết, chúng tôi tiến
hành khảo sát, thống kê, phân loại các đối tƣợng nghiên cứu. Trên cơ sở các tài liệu đã khảo
sát đƣợc, các phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp sẽ đƣợc sử dụng để tìm ra đặc điểm
và đặc sắc của lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng. Việc so sánh không chỉ tiến hành trong nội
bộ sáng tác của Nguyên Hồng mà còn mở rộng tới sáng tác của một số cây bút văn xuôi hiện
đại khác để soi sáng đối tƣợng nghiên cứu.

0.7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần MỞ ĐẦU, phần KẾT LUẬN, DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN và THƢ MỤC THAM KHẢO, luận án gồm ba chƣơng:
Chương 1: Nguyên tắc tổ chức lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng.
Chương 2: Các thành phần cơ bản trong lòi văn nghệ thuật Nguyên Hồng.
Chương 3: Những phƣơng tiện đặc trung của lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng.



16

CHƢƠNG 1: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYÊN HỒNG
1.1. Nguyên tắc cụ thể hóa tường tận, tỉ mỉ, chi tiết đối tượng phản ánh
1.1.1. Từ mục đích viết thể hiện hết trang viết bức tranh hiện thực bề bộn, thể hiện
đến tận cùng vốn sống phong phú của nhà văn…
Lời văn nghệ thuật có chức năng "tái hiện đời sống, thể hiện sự lý giải, đánh giá, cảm
hứng đối với nó. Do đó, nó thƣờng phải làm cho đối tƣợng ngày một cụ thể hơn, lớn lên, bắt
rễ sâu vào tâm trí ngƣời đọc" [41; 326]. Nhờ cụ thể hóa đối tƣợng phản ánh, lời văn nghệ
thuật đã tạo nên những hình tƣợng văn học đẹp đẽ, hấp dẫn, vừa chân thực, sinh động, vừa có
sức khái quát cao, chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, chắc khó ai quên đƣợc chƣơng truyện kỳ tài miêu tả
sân quần của bà Phó Đoan. Quang cảnh lễ khánh thành sân quần đƣợc mở ra bằng những
hình ảnh thật ấn tƣợng: "Trên rặng lƣới của cái sân quần còn mới nguyên nhƣ một cô gái còn
tân, ngƣời ta thấy một... hai.... ba... bốn cái quần, quần đùi, quần ngủ, quần ra phố, quần ở
nhà, cái nào cũng bằng lụa, hoặc trơn, hoặc thêu đăng ten, những cái có thể khiến những ông
cụ già trông thấy cũng phải lai láng lòng xuân" [154; 381]. Trong bức họa ngôn từ độc đáo
này, Vũ Trọng Phụng đã cụ thể hóa đối tƣợng miêu tả bằng hàng loạt các yếu tố: vị trí, số
lƣợng, chất liệu, chủng loại của... những cái quần. Từng cái, từng cái... phấp phới trên sân,
phơi trần ra trƣớc bàn dân thiên hạ, đập vào mắt các quý ông quý bà danh giá. Mỗi từ ngữ
trong đoạn văn miêu tả đều góp phần làm thành những tấm biểu ngữ trƣng bày tinh thần thể
thao Âu hóa rởm của giới thƣợng lƣu trong xã hội đƣơng thời, đồng thời góp thêm tiếng cƣời
nhọn sắc vào chuỗi cƣời đả kích giòn giã của Số đỏ.


17
Đó chỉ là một trong số muôn vàn đối tƣợng đƣợc cụ thể hóa qua lời văn nghệ thuật.
Nhờ cụ thể hóa, chủ đề của tác phẩm không bị xơ cứng, mỗi tác phẩm văn học trở thành một

sinh thể nghệ thuật sống động. Cụ thể hóa cũng giúp cho nhà văn có đƣợc khả năng vô hạn để
phản ánh hiện thực, ở cả bề rộng và chiều sâu, cả tầm khái quát và trong từng chi tiết nhỏ
nhất. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, cụ thể hóa trong lời văn nghệ thuật là cụ thể hóa có
hướng. Mỗi yếu tố đƣợc chọn lựa đƣa vào lời văn nghệ thuật phải vừa tái hiện sinh động bức
tranh đời sống, vừa hƣớng vào chủ đề tƣ tƣởng và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Vì vậy,
cụ thể hóa có hƣớng luôn đi kèm sự tỉnh lược. Tỉnh lƣợc là lƣợc bớt đi một số phƣơng diện
nào đó của đối tƣợng phản ánh, bỏ qua những chi tiết không cần thiết có thể làm mờ nhạt chủ
đề tƣ tƣởng, tập trung vào những yếu tố phục vụ tốt nhất ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Chẳng
hạn, trong Số đỏ, sau khi giới thiệu đôi lời về việc khởi công xây dựng sân quần của bà Phó
Đoan, ngƣời viết đã cố tình im lặng, bỏ qua quá trình xây dựng sân quần (ngƣời xây, nguyên
vật liệu, giá thành...) đi thẳng vào miêu tả lễ khánh thành sân quần để tạo tình huống trào
phúng bất ngờ, thú vị.
Trong lời văn, hai nguyên tắc cụ thể hóa có hướng và tỉnh lược luôn gắn kết, hỗ trợ,
bổ sung cho nhau. Cụ thể hóa làm cho hình tƣợng nghệ thuật trở nên sống động, hấp dẫn.
Tỉnh lược giúp mạch văn không bị rối, lời văn hàm súc, chủ đề tƣ tƣởng đƣợc khắc sâu. Cụ
thể hóa có hướng và sự tỉnh lƣợc giống nhƣ một biểu thức nghệ thuật, kết quả phụ thuộc vào
mức độ sử dụng, kết hợp giữa cụ thể hóa và sự tỉnh lược. Từ biểu thức nghệ thuật chung, mỗi
nhà văn có sự vận dụng của riêng mình cho phù hợp với năng lực, sở trƣờng, cá tính sáng tạo
và nhiệm vụ nghệ thuật của từng tác phẩm.
Nguyên Hồng cũng đã có một lối đi riêng trên lộ trình chung. Nghiên cứu lời văn
nghệ thuật của ông, chúng tôi nhận thấy cụ thể hóa luôn có xu hướng nổi trội hơn sự tỉnh
lược. Cảnh vật, sự việc, nhân vật thƣờng đƣợc tác giả dừng lại miêu tả, tƣờng thuật kỹ lƣỡng.
Dƣờng nhƣ Nguyên Hồng không


18
đành dứt bút khỏi một đối tƣợng nào đó khi nó mới là đôi nét phác thảo mờ nhạt. Sự tỉnh
lƣợc thƣờng xuất hiện chậm, sau khi nhà văn đã trình bày tới mức bão hòa (có khi tới mức dƣ
thừa) các đặc điểm của đối tƣợng với một lƣợng từ ngữ đáng kể. Cụ thể hóa có hƣớng là
nguyên tắc tổ chức lời văn nghệ thuật nói chung, còn cụ thể hóa đối tƣợng phản ánh tới

mức tối đa là nguyên tắc tổ chức lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, một nguyên tắc thống
nhất xuyên suốt toàn bộ hệ thống lời văn.
Nguyên tắc này rất phù hợp với tƣ tƣởng nhân đạo hƣớng về những ngƣời cùng khổ
và mục đích sáng tác Nguyên Hồng đã xác định từ khi bắt đầu cầm bút. Nguyên Hồng cho
biết mục đích của nhà văn khi viết Bỉ vỏ: "Tôi mƣợn Tám Bính để đƣa ra giữa ánh sáng ban
ngày của trái đất một sự thật trong những sự thật của một hạng ngƣời, một số ngƣời. Tôi
mƣợn Tám Bính để làm cho nhiều ngƣời thấy có một sự thật trong những sự thật nhƣ thế của
xã hội" (Bước đường viết văn). Chọn con đƣờng viết văn để phản ánh sự thật, ngay từ đầu,
Nguyên Hồng đã là một nhà văn hiện thực, sáng tác theo nguyên tắc "Tái hiện thực tế một
cách toàn vẹn, chân thực, lịch sử" của Chủ nghĩa hiện thực. Cũng nhƣ các nhà văn cùng
khuynh hƣớng, Nguyên Hồng tự nguyện gánh vác trách nhiệm "ngƣời thƣ ký trung thành của
thời đại", nỗ lực dùng ngòi bút để phơi bày, phản ánh hiện thực, nhằm làm cho bức tranh đời
sống hiện lên với tất cả sự bề bộn phong phú và trong từng chi tiết cụ thể của nó. Không
những thế, ở Nguyên Hồng, trách nhiệm của nhà văn hiện thực đã có sự gặp gỡ, kết hợp với
tinh thần nhân đạo hƣớng vào những ngƣời cùng khổ lúc nào cũng tha thiết, mãnh liệt trong
ông. Tấm lòng yêu thƣơng tha thiết những ngƣời nghèo khổ trong xã hội cũ nhƣ đám thợ
thuyền, phu phen, những ngƣời phụ nữ góa bụa, những kẻ lƣu manh tội lỗi, đám trẻ mồ côi
lang thang nơi đầu đƣờng xó chợ đã thôi thúc Nguyên Hồng cầm bút. Ông viết về họ bằng
tình cảm da diết, mãnh liệt và thƣờng trực của tâm hồn. Nguyên Hồng có thể không giống
Nguyễn Công Hoan ở khả năng nắm bắt tài tình các tình huống trào phúng để cƣời đời;
không bằng Ngô Tất Tố ở


×